Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 21 tháng 5 năm 2025

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 21 tháng 5 năm 2025

 

Hoàn thiện thể chế thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành nông nghiệp

Trong bối cảnh đổi mới và chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, khoa học và công nghệ đóng vai trò then chốt trong phát triển bền vững ngành nông nghiệp và môi trường. Tuy nhiên, một loạt tồn tại và điểm nghẽn về thể chế, cơ chế tài chính, tổ chức, cũng như tư duy điều hành đang cản trở việc phát huy hiệu quả tiềm năng sẵn có. Thực tế này đòi hỏi ngành nông nghiệp đổi mới, sáng tạo hơn nữa để thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường ký kết thỏa thuận hợp tác phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo với Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam và Tổng hội Xây dựng Việt Nam. Ảnh: Khương Trung

Những điểm nghẽn cần tháo gỡ

Tại Hội nghị triển khai Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị trong ngành nông nghiệp và môi trường vừa được tổ chức, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy nhấn mạnh, dù thời gian qua, ngành nông nghiệp và môi trường đã đạt một số kết quả tích cực như triển khai nông nghiệp công nghệ cao, ứng dụng cảm biến trong giám sát môi trường, xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai và khí tượng, nhưng để đạt được “đột phá phát triển” như yêu cầu của Nghị quyết, vẫn còn rất nhiều việc phải làm.

Nhìn nhận từ thực tế, Tiến sĩ Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, ngành nông nghiệp đang sở hữu một lực lượng hơn 11.400 nhà khoa học, cùng với mạng lưới 21 tổ chức nghiên cứu khoa học và hơn 16.000ha đất. Tuy nhiên, hiệu quả khai thác của ngành vẫn còn rất khiêm tốn. Một phần nguyên nhân đến từ việc thiếu các chính sách trọng dụng cụ thể, mang tính cạnh tranh và khuyến khích đổi mới sáng tạo.

Theo ông Long, một trong những bất cập hiện nay trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ là sự phân bổ nguồn lực thiếu hợp lý. Trong tổng kinh phí dành cho khoa học công nghệ, chi trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu chỉ chiếm khoảng 46%, phần còn lại dồn vào duy trì bộ máy, lương thưởng, hành chính. Điều này đã triệt tiêu phần lớn khả năng tạo ra các sản phẩm nghiên cứu có giá trị thương mại hoặc ứng dụng thực tiễn. Ở cấp địa phương, ngân sách chi cho khoa học công nghệ có thể lên tới 2% tổng chi, nhưng lại thiếu đội ngũ nhân lực thực hiện. Trong khi đó, ở cấp Trung ương, nơi tập trung nhiều nhà khoa học đầu ngành, thì lại thiếu kinh phí để triển khai nghiên cứu.

Phân tích những hạn chế trong nghiên cứu khoa học, Bộ Nông nghiệp và Môi trường chỉ ra rằng, thủ tục hành chính phức tạp, kéo dài là một trong những rào cản lớn tới sự phát triển của lĩnh vực này. Nhiều đề tài, nhiệm vụ khoa học mất tới 5-6 năm từ khi đề xuất đến khi được phê duyệt và triển khai, khiến kết quả nghiên cứu không còn phù hợp thực tế. Điều này làm chậm nhịp chuyển giao công nghệ vào sản xuất và gây lãng phí nguồn lực đầu tư.

Tăng cường liên kết đưa khoa học công nghệ vào thực tiễn

Chia sẻ kết quả nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực chăn nuôi, Tiến sĩ Nguyễn Văn Điệp, Tổng giám đốc Công ty cổ phần AVAC cho biết, dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành chăn nuôi không chỉ ở Việt Nam mà cả nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Không chỉ gây tổn thất lớn về kinh tế, DTLCP còn ảnh hưởng đến nguồn cung thực phẩm và sinh kế của hàng triệu hộ chăn nuôi.

Để ứng phó với thách thức này, Việt Nam đã triển khai nhiều giải pháp phòng ngừa, trong đó có nghiên cứu và phát triển vaccine. AVAC đã nghiên cứu vaccine DTLCP dựa trên 3 yếu tố chính: chủng virus, tế bào và dữ liệu. Vaccine phòng DTLCP do AVAC sản xuất đã được chứng minh hiệu quả trên thực tế. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thử thách đối với vaccine trong quá trình sử dụng trong chăn nuôi. Vaccine AFS mới được cho phép lưu hành dùng cho lợn thịt, cần vaccine cho lợn giống. Ngoài ra, biến chủng mới, chủng tái tổ hợp giữa genotype I và II mà vaccine hiện tại không bảo hộ hiệu quả. Do đó, cần tiếp tục đầu tư nghiên cứu phát triển loại vaccine mới.

Nhiều thiết bị, máy móc hiện đại phục vụ sản xuất nông nghiệp đã được các doanh nghiệp giới thiệu tại Hội nghị triển khai Nghị quyết số 57 trong ngành nông nghiệp và môi trường. Ảnh: Khương Trung

Hiện, AVAC đã xây dựng quy trình sử dụng vaccine cho lợn giống; đã phối hợp với Cục Chăn nuôi thú y xây dựng tiêu chuẩn đánh giá vaccine cho lợn giống. Ông Điệp kiến nghị Cục Chăn nuôi thú y hỗ trợ, triển khai nhanh chóng công tác đánh giá và cấp phép lưu hành vaccine DTLCP cho đối tượng lợn giống. Ông Điệp cũng đề xuất Chính phủ hỗ trợ, giao thêm nhiệm vụ khoa học công nghệ cho doanh nghiệp trong việc phát triển các thế hệ vaccine DTLCP mới hiệu quả hơn, phù hợp hơn với thực tiễn sản xuất.

Bàn về giải pháp triển khai Nghị quyết số 57 trong ngành nông nghiệp, ông Nguyễn Đức Trường, Tổng giám đốc Công ty Đại Thành cho rằng, vấn đề hiện tại mà ngành nông nghiệp đang gặp phải, đó là sự thiếu chính xác trong quá trình vận hành của máy móc nông nghiệp, như: máy cấy không biết đi thẳng hàng, drone không bay được chính xác, máy gặt không tính được năng suất, máy cày không biết độ nông sâu...

Theo ông Trường, nền nông nghiệp thế giới tới năm 2050 sẽ chịu áp lực bởi các vấn đề: nhu cầu lương thực toàn cầu tăng, trong khi nguồn tài nguyên nông nghiệp ngày càng hạn chế; biến đổi khí hậu, dịch bệnh; chiến tranh; đứt gãy chuỗi cung ứng. Để giải quyết những vấn đề này, nông nghiệp chính xác sẽ trở thành xu thế tất yếu không thể đảo ngược, trong đó có sự hỗ trợ từ các công nghệ mới (IoT - internet vạn vật), Big Data (dữ liệu lớn), AI phân tích dữ liệu...

"Mục tiêu của Công ty Đại Thành là nghiên cứu, cung cấp, chuyển giao các sản phẩm công nghệ như drone nông nghiệp, thiết bị dẫn đường không người lái trên máy nông nghiệp trên mặt đất, san phẳng đất vệ tinh... Những thiết bị này đều bắt buộc phải dùng dịch vụ DTALS (Hệ thống vị trí chính xác thời gian thực). Hiệu quả của công nghệ này là giúp điều khiển chính xác máy móc, tối ưu tài nguyên; tăng năng suất từ 15-20%; giúp tiết kiệm 15-25% chi phí đầu vào; giảm thiểu ô nhiễm môi trường..." - Ông Nguyễn Đức Trường nhấn mạnh.

Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy, chuyển đổi số hiện nay không còn là xu hướng mà đã trở thành yêu cầu tất yếu. Trước những thách thức biến đổi khí hậu gay gắt, tài nguyên suy giảm và áp lực tăng trưởng xanh, các mô hình sản xuất truyền thống không còn phù hợp. Do đó, để nâng cao chất lượng, gia tăng giá trị cho sản phẩm, bảo vệ môi trường, thì ngành nông nghiệp và môi trường phải đổi mới tư duy, lấy khoa học công nghệ, chuyển đổi số làm nền tảng phát triển.

Từ thực tiễn nêu trên, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xác định 3 trụ cột chiến lược để đổi mới hoạt động khoa học công nghệ trong thời gian tới. Đó là thể chế hóa các cơ chế đặc thù, tháo gỡ vướng mắc cải cách tổ chức nghiên cứu theo hướng tinh gọn và tự chủ, để phát huy tiềm năng nội lực. Đồng thời, thay đổi cách thức đặt hàng nhiệm vụ khoa học công nghệ gắn với thực tiễn sản xuất. Bên cạnh đó, tập trung phát triển nguồn nhân lực có chuyên môn sâu và đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện.

Bích Nguyên

 

HTX Mỹ Trinh: Đa dạng dịch vụ, mở rộng sản xuất, kinh doanh

Nhờ tập trung phát triển đa dạng các dịch vụ, hoạt động sản xuất, kinh doanh của Hợp tác xã (HTX) Dịch vụ nông nghiệp Mỹ Trinh (xã Hậu Mỹ Trinh, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang) từng bước được mở rộng, thu hút thêm nhiều thành viên tham gia.HTX Mỹ Trinh được thành lập vào năm 1998 với 152 thành viên, hoạt động ban đầu tập trung vào cung cấp nước sinh hoạt nông thôn. Giai đoạn đầu, HTX gặp không ít khó khăn như: Nguồn lực hạn chế, doanh thu không đủ để vận hành bộ máy. Tuy nhiên, đến năm 2015, HTX đã chuyển đổi mô hình hoạt động theo Luật HTX năm 2012.

Ban Lãnh đạo HTX ra mắt tại Đại hội thành viên nhiệm kỳ 2024 - 2029.

Từ sau chuyển đổi, HTX bắt đầu ổn định và mở rộng các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Không chỉ cung cấp nước sinh hoạt, HTX đã phát triển thêm nhiều dịch vụ khác như: Sấy lúa và trữ kho lúa; cung cấp dịch vụ nông nghiệp cho các thành viên; liên kết với doanh nghiệp, công ty để tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, đảm bảo tiêu thụ sản phẩm cho thành viên.

Trong những năm qua, HTX đã nhận được sự quan tâm hỗ trợ từ chính quyền các cấp trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, bao gồm: Lò sấy và kho trữ lúa hiện đại, đảm bảo chất lượng bảo quản nông sản; hệ thống đường vận chuyển thuận tiện, hỗ trợ kết nối từ khu vực sản xuất đến điểm tiêu thụ.

Ngoài ra, HTX cũng đã tự đối ứng gần 2 tỷ đồng để thực hiện các hạng mục quan trọng, nâng cao năng lực vận hành. Việc đầu tư này đã giúp HTX đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thành viên, cải thiện hiệu quả hoạt động tổng thể.

HTX đã phối hợp chặt chẽ với Hội Nông dân xã Hậu Mỹ Trinh trong công tác tuyên truyền về kinh tế tập thể (KTTT). Nhờ sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng ủy và UBND xã, 2 bên đã triển khai các hoạt động tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của nông dân về ý nghĩa và lợi ích của việc tham gia HTX.

Đặc biệt, HTX và Hội Nông dân đã phối hợp thành lập Hội Nghề nghiệp làm vườn với 50 thành viên tham gia. Hội đã giúp các nông dân nâng cao kiến thức về trồng trọt, chăm sóc cây ăn trái, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.

Theo ông Trương Văn Thắm, để hỗ trợ HTX phát triển tốt hơn trong thời gian tới, HTX kiến nghị tỉnh cũng như các sở, ngành liên quan tổ chức các lớp tập huấn cho Hội đồng quản trị HTX về kỹ năng, phương pháp tuyên truyền Luật HTX năm 2023, cũng như các chính sách hỗ trợ KTTT.

Khuyến khích hội viên, nông dân đạt danh hiệu sản xuất, kinh doanh giỏi; đồng thời, tham gia làm thành viên HTX để lan tỏa các mô hình hiệu quả. Đẩy mạnh đầu tư hạ tầng và hỗ trợ tài chính để HTX có thêm nguồn lực mở rộng các dịch vụ và nâng cao chất lượng hoạt động.

Kết quả, số lượng thành viên HTX đã tăng mạnh. Hiện nay, HTX có 845 thành viên, bao gồm: 649 thành viên chính thức, 196 thành viên liên kết không góp vốn. Hiện nay, diện tích sản xuất liên kết hằng năm đạt hơn 200 ha, mang lại giá trị cao hơn cho thành viên. Những bước phát triển này không chỉ cải thiện hiệu quả kinh doanh, mà còn tạo niềm tin cho các thành viên, góp phần nâng cao vị thế của HTX.

Những kết quả đạt được không chỉ giúp HTX phát triển bền vững, mà còn góp phần cùng địa phương xây dựng và giữ vững mục tiêu xã nông thôn mới. Đây là thành tựu chung mà HTX đã nỗ lực đạt được, thể hiện sự đồng lòng trong phát triển KTTT và cộng đồng.

Ông Trương Văn Thắm, Chủ tịch Hội đồng quản trị HTX cho biết, trong giai đoạn 2024 - 2029, HTX đặt ra các mục tiêu phát triển. Đó là tăng cường tuyên truyền, vận động về phát triển KTTT. HTX sẽ tiếp tục phối hợp với Hội Nông dân xã để tuyên truyền, vận động hội viên nông dân tích cực hưởng ứng Luật HTX năm 2023.

Thông qua các phong trào nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi, HTX sẽ giúp nông dân tiếp cận khoa học - kỹ thuật hiện đại, giảm chi phí sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế.

HTX sẽ tập trung phát triển bền vững và theo định hướng thị trường. Cụ thể là định hướng nông dân sản xuất theo nhu cầu của thị trường, tránh tình trạng sản xuất dư thừa. Đồng thời, xây dựng HTX thành nơi đáng tin cậy để nông dân tham gia, tạo mối liên kết bền chặt với các doanh nghiệp và thị trường. Một trong những mục tiêu quan trọng là mở rộng thành viên. HTX đặt mục tiêu đạt 1.000 thành viên vào cuối nhiệm kỳ, củng cố vị thế là một tổ chức hỗ trợ nông dân mạnh mẽ và hiệu quả.

“Trong thời gian tới, HTX sẽ tiếp tục nỗ lực hết mình để xây dựng HTX ngày càng vững mạnh, góp phần phát triển kinh tế tập thể và nâng cao đời sống người dân” - ông Trương Văn Thắm cho biết thêm.

T. ĐẠT

 

Guồng nước - một nét văn hóa miền Tây xứ Thanh

Guồng nước, công cụ lấy nước truyền thống của người dân miền núi, từ lâu đã không chỉ là biểu tượng của sự khéo léo và sáng tạo trong canh tác nông nghiệp, mà giờ còn có tiềm năng lớn để khai thác phục vụ phát triển du lịch sinh thái, văn hóa và cộng đồng.

Video: Guồng nước ở miền Tây xứ Thanh: Vừa phục vụ sản xuất, vừa tạo điểm nhấn du lịch.

Tại các xã của huyện vùng cao Bá Thước (Thanh Hóa), người dân địa phương duy trì và sử dụng các guồng nước truyền thống (còn gọi là “bánh xe nước”), như một công cụ quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Các guồng nước này không chỉ phục vụ tưới tiêu mà còn góp phần tạo nên nét đặc trưng văn hóa của khu vực miền núi phía Tây của xứ Thanh.

Guồng nước được cấu tạo từ các vật liệu tự nhiên có sẵn tại địa phương như tre, luồng, nứa và mây rừng. Thiết kế gồm một bánh xe lớn gắn các ống tre quanh vành, được đặt tại các con suối có dòng chảy mạnh.

Khi nước đẩy bánh xe quay, các ống tre hứng nước từ suối đưa lên máng tre đặt ở vị trí cao hơn, từ đó nước được hệ thống đường ống dẫn vào các ruộng bậc thang.

Chỉ một con suối nhỏ tại thôn Sát, xã Ban Công (Bá Thước), đã có tới hàng chục chiếc “bánh xe nước”, tạo nên một khung cảnh rất nên thơ. Mỗi guồng nước có đường kính từ 3 đến 5 mét, được người dân lắp đặt thủ công và thường xuyên kiểm tra, sửa chữa định kỳ trước mỗi vụ mùa.

Trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, hệ thống guồng nước giúp bà con giải quyết hiệu quả nhu cầu tưới tiêu, đặc biệt tại các thửa ruộng ở vị trí cao, không thể dẫn nước theo phương pháp tự chảy thông thường.

Bà Hà Thị Nhung, người xã Ban Công (Bá Thước), cho biết: “Bánh xe nước” là phương tiện quan trọng để đưa nước lên ruộng. Không có nó, ruộng trên cao dễ bị khô hạn, năng suất thấp".

Bên cạnh vai trò phục vụ sản xuất, guồng nước còn là một trong những điểm nhấn văn hóa, du lịch của địa phương. Nhiều du khách khi đến với vùng cao Thanh Hóa đã bày tỏ sự quan tâm đến những bánh xe nước quay bên dòng suối, trong khung cảnh đặc trưng của các bản làng vùng cao.

Anh Đinh Văn Thới, một khách du lịch từ Hà Nội, nhận xét: "Đây là một nét đẹp rất độc đáo mà ít nơi còn giữ được. Hình ảnh các em nhỏ chơi quanh guồng nước, phụ nữ giặt quần áo... Vừa có giá trị sử dụng thực tế, vừa thể hiện nét văn hóa của người dân vùng cao, làm tôi rất hứng thú".

Dù hiện nay nhiều địa phương đã tiếp cận với các thiết bị bơm nước hiện đại, người dân tại các xã vùng cao vẫn tiếp tục duy trì hình thức dẫn nước truyền thống này, góp phần bảo tồn một nét văn hóa cộng đồng.

Anh Hà Văn Thưởng (42 tuổi), ở Chiềng Lau, xã Ban Công, một người dân có nhiều kinh nghiệm làm guồng nước cho biết: "Từ thời ông bà, cha mẹ chúng tôi đã làm guồng như thế này. Chúng tôi vẫn giữ gìn, truyền dạy cho con cháu cách làm để không bị mai một".

Hiện nay, chính quyền địa phương đã hỗ trợ kỹ thuật sản xuất nông nghiệp cho bà con và lồng ghép hoạt động bảo tồn guồng nước truyền thống vào phát triển du lịch cộng đồng, góp phần tạo sinh kế bền vững cho người dân.

Guồng nước không chỉ là công cụ lao động mà còn là “di sản sống” chứa đựng trầm tích văn hóa, lịch sử và sáng tạo dân gian. Nếu được đầu tư đúng hướng, kết hợp hài hòa giữa bảo tồn và khai thác, guồng nước hoàn toàn có thể trở thành điểm nhấn khác biệt trong bức tranh du lịch miền núi xứ Thanh. Đây là cơ hội lớn để phát triển du lịch xanh, du lịch cộng đồng và nâng cao sinh kế cho người dân bản địa.

Hoàng Đông

 

Phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Hà Nội:Tăng giá trị nông sản, bảo vệ môi trường

Sau gần 5 năm triển khai Quyết định số 885/QĐ-TTg ngày 23-6-2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030, đến nay, trên địa bàn thành phố Hà Nội đã hình thành nhiều mô hình trồng trọt, chăn nuôi theo hướng hữu cơ, mang lại kết quả khả quan.

Tuy nhiên, để xây dựng nền nông nghiệp hữu cơ tương xứng với tiềm năng, đáp ứng xu thế phát triển, thành phố cần triển khai giải pháp đồng bộ về quy mô sản xuất, hoàn thiện hệ thống chứng nhận tiêu chuẩn hữu cơ, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm...

Mô hình trồng rau hữu cơ của Trang trại Hoa Viên (huyện Thạch Thất) mang lại giá trị kinh tế cao. Ảnh Trọng Tùng

Phù hợp xu hướng tiêu dùng xanh

Là một trong những đơn vị sản xuất nông nghiệp hữu cơ được đầu tư bài bản, chủ trang trại Hoa Viên (huyện Thạch Thất) Trương Kim Hoa cho biết, trang trại có hai khu chính trong đó một khu rộng 60ha ở xã Yên Bình và một khu khác rộng 50ha ở xã Yên Trung. Trang trại Hoa Viên canh tác rau theo phương pháp hữu cơ, tuân thủ nghiêm ngặt Bộ tiêu chí “5 không” (không sử dụng thuốc trừ sâu hóa học, không thuốc diệt cỏ, không phân bón hóa học, không giống biến đổi gen, không chất kích thích sinh trưởng). Hoa Viên đã có được chứng nhận đạt tiêu chuẩn hữu cơ của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA). Mỗi ngày, thương hiệu "rau sạch Đại Ngàn" của Hoa Viên cung cấp hàng tấn rau hữu cơ cho các siêu thị, chuỗi cửa hàng thực phẩm sạch trên địa bàn Hà Nội.

Còn theo Giám đốc Hợp tác xã Bưởi sạch và Kinh doanh tổng hợp Phú Cường (huyện Sóc Sơn) Nguyễn Văn Tuấn, với 13,6ha bưởi đạt chứng nhận VietGAP, năng suất trung bình 25-28 tấn/ha, hợp tác xã định hướng thành viên chuyển đổi sang sản xuất hữu cơ. Đơn vị chủ động cung cấp giống, phân bón chuyên dụng cho cây có múi, thuốc bảo vệ thực vật sinh học, đồng thời tổ chức tập huấn kỹ thuật từ khâu trồng, chăm sóc, thu hái đến bảo quản sau thu hoạch. “Thành viên hợp tác xã phải cam kết không sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật ngoài danh mục cho phép. Nhờ tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất hữu cơ, bưởi của hợp tác xã luôn bán được giá cao hơn 10-15% so với bưởi trồng theo phương pháp truyền thống, tăng thu nhập cho người trồng bưởi tại địa phương”, ông Nguyễn Văn Tuấn thông tin.

Trưởng phòng Chất lượng, chế biến và Phát triển thị trường (Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội) Nguyễn Thị Thu Hằng cho biết, sau gần 5 năm thực hiện Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030, diện tích sản xuất cây trồng hữu cơ toàn thành phố được chứng nhận là 192,046ha và số diện tích đang thực hiện chuyển đổi sản xuất theo hướng hữu cơ là 331,4ha. Ngoài ra, Hà Nội còn triển khai 2 vùng sản xuất lúa hữu cơ với diện tích 60ha tại huyện Chương Mỹ; mô hình thâm canh bưởi hữu cơ tại các huyện: Hoài Đức, Sóc Sơn, Đan Phượng… Trong lĩnh vực chăn nuôi, Hà Nội chưa có sản phẩm đạt hữu cơ hoàn chỉnh, hiện đang chuyển đổi khoảng 14.600 con lợn, gà, bò theo hướng chăn nuôi an toàn sinh học, sử dụng thức ăn hữu cơ, tập trung tại các huyện: Gia Lâm, Chương Mỹ, Thanh Oai…

Nâng cao chất lượng, bảo đảm an toàn thực phẩm

Nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn thành phố đã đạt một số kết quả tích cực, song việc triển khai còn gặp không ít khó khăn. Nguồn vốn đầu tư quá lớn, trong khi sản xuất vẫn gặp rủi ro. Nhiều đơn vị tự công bố, quảng cáo sản xuất và kinh doanh sản phẩm hữu cơ, dán tem, nhãn mác hữu cơ, nhưng sản phẩm chưa được chứng nhận. Người sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng chưa hiểu biết đầy đủ về sản xuất hữu cơ, nên còn nhầm lẫn trong quảng bá là sản phẩm hữu cơ, trong khi mới được cấp giấy chứng nhận chuyển đổi sản xuất nông nghiệp hữu cơ…

Để hoàn thành Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030, đặc biệt là hoàn thành các chỉ tiêu đặt ra tại Kế hoạch số 220/KH-UBND ngày 15-8-2022 của thành phố Hà Nội về phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030, Giám đốc Hợp tác xã Tiên Dương (huyện Đông Anh) Phạm Thị Lý cho rằng, các sở, ngành cần tham mưu thành phố có giải pháp đồng bộ, từ mở rộng quy mô sản xuất, hoàn thiện hệ thống chứng nhận đến hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm và ứng dụng khoa học công nghệ. Đồng thời, hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia mô hình nông nghiệp hữu cơ về vốn với lãi suất ưu đãi; thường xuyên tổ chức xúc tiến thương mại, đưa sản phẩm hữu cơ vào các kênh phân phối hiện đại…

Liên quan đến vấn đề này, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội Nguyễn Mạnh Phương cho biết, Hà Nội đang tập trung ứng dụng công nghệ cao để sản xuất nông nghiệp hữu cơ gắn với chuỗi giá trị cho sản phẩm chủ lực, nâng cao chất lượng, bảo đảm an toàn thực phẩm. Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội đề xuất, Bộ Nông nghiệp và Môi trường bổ sung cơ chế, chính sách, tiêu chuẩn quy trình kỹ thuật đối với sản xuất hữu cơ cho từng loại cây trồng, vật nuôi, thủy sản; công bố rõ vật tư được sử dụng trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ để người dân, hợp tác xã, doanh nghiệp chủ động lựa chọn đưa vào sản xuất. Chỉ khi những vấn đề này được quan tâm, đầu tư đúng mức, nông nghiệp hữu cơ mới có thể phát triển bền vững theo hướng xanh, sạch, thân thiện môi trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hiện đại...

Ngọc Quỳnh

 

Ứng dụng công nghệ cao - hướng đi bền vững trong sản xuất nông nghiệp

Những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp của tỉnh Hòa Bình tiếp tục có những bước tiến vững chắc, ổn định. Một trong những yếu tố để có được thành quả đó là việc ứng dụng công nghệ cao (CNC) trong sản xuất. Đến nay, tỉnh Hòa Bình đã phê duyệt 3 vùng nông nghiệp ứng dụng CNC và 11 khu nông nghiệp ứng dụng CNC cho các sản phẩm chủ lực của tỉnh.

Những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp của tỉnh Hòa Bình tiếp tục có những bước tiến vững chắc, ổn định. Một trong những yếu tố để có được thành quả đó là việc ứng dụng công nghệ cao (CNC) trong sản xuất. Đến nay, tỉnh Hòa Bình đã phê duyệt 3 vùng nông nghiệp ứng dụng CNC và 11 khu nông nghiệp ứng dụng CNC cho các sản phẩm chủ lực của tỉnh.

Trung tâm Giống cây trồng, vật nuôi và thủy sản, Sở Nông nghiệp và Môi trường phát triển các giống cây chất lượng theo phương pháp nuôi cấy mô.

Phương pháp nhân giống bằng công nghệ nuôi cấy mô tế bào thực vật là kỹ thuật tiên tiến nhất hiện nay và ngày càng phổ biến với nhiều ưu điểm vượt trội, giúp khắc phục nhanh tình trạng thoái hóa của các giống cây trồng. Phương pháp này cho phép nhân giống vô tính nhằm sản xuất nhanh, đồng loạt các loại giống cây trồng, lưu giữ được hoàn toàn đặc tính của cây gốc, khắc phục nhược điểm của các phương pháp nhân vô tính khác như chiết, ghép, giâm cành. Chính vì vậy, nuôi cấy mô được xem là "chìa khóa” để phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC. Xác định điều đó, Trung tâm Giống cây trồng, vật nuôi và thủy sản, Sở Nông nghiệp và Môi trường đã thành lập phòng nuôi cấy mô, ứng dụng thành công vào sản xuất giống mía tím, mía trắng, một số cây lâm nghiệp (keo lai, bạch đàn), cây dược liệu (đinh lăng) và một số cây trồng có giá trị kinh tế cao như măng tây, lan hồ điệp… Đặc biệt, trung tâm đã phối hợp với các viện nghiên cứu ứng dụng công nghệ nuôi cấy mô ghép đỉnh sinh trưởng tạo cây có múi sạch bệnh, nhân giống trong nhà lưới 3 cấp ngăn chặn các dịch hại nguy hiểm, sản xuất giống phục vụ nhu cầu giống thực hiện đề án tái canh cây có múi tỉnh Hòa Bình.

Đồng chí Nguyễn Văn Hùng, Giám đốc Trung tâm Giống cây trồng, vật vuôi và thủy sản cho biết: Công nghệ nuôi cấy mô là bước phát triển nông nghiệp CNC giúp nông dân chủ động được nguồn giống các loại cây trồng có giá trị kinh tế trên thị trường. Từ đó làm thay đổi và nâng cao nhận thức về mô hình nuôi trồng hiện đại để ngày càng nhân rộng quy mô, hiệu quả kinh tế trong trồng trọt trước sự tác động bất lợi của biến đổi khí hậu.

Cùng với ứng dụng công nghệ nuôi cấy mô, trên địa bàn tỉnh đang triển khai nhiều loại CNC trong sản xuất nông nghiệp. Toàn tỉnh hiện có khoảng 150 cơ sở áp dụng công nghệ thâm canh quản lý tổng hợp, được chứng nhận tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ cho các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, với tổng diện tích khoảng 2,3 nghìn ha trồng trọt, trên 200 nghìn m2 nuôi trồng thủy sản, 1,6 nghìn tấn sản phẩm thịt/năm. Có 120 trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm, trong đó 41 trang trại chăn nuôi quy mô lớn, còn lại là trang trại quy mô vừa; hầu hết các trang trại đều áp dụng hệ thống chuồng kín, máng ăn và nước uống tự động. Trên 50 cơ sở sản xuất nông nghiệp với diện tích gần 1.000 ha cây trồng cạn áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm.

Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoan Phúc Hòa Bình, tiểu khu 6, thị trấn Lương Sơn là một trong những đơn vị đầu tiên tại huyện Lương Sơn ứng dụng CNC để sản xuất nông nghiệp. Trên diện tích 7,3 ha đất, công ty đầu tư hệ thống nhà kính theo công nghệ hiện đại của Mỹ để trồng lan hồ điệp. Toàn bộ giống lan sử dụng phương pháp nuôi cấy mô hiện đại.

Bà Bùi Thị Việt, Giám đốc Công ty Hoan Phúc Hòa Bình cho biết: Ứng dụng công nghệ trồng lan trong nhà kính, toàn bộ ánh sáng, nhiệt độ, nước tưới đều tự động hóa. Điều này cho phép công ty có thể sản xuất những lô hàng hoa lan chất lượng, hàng loạt theo đúng khung thời vụ. Đặc biệt, với sản phẩm nuôi cấy mô, chúng tôi chủ động được nguồn giống lan khỏe, chất lượng và nhiều màu hoa theo ý của mình. Hiện nay, công ty có hơn 50 loại hoa lan với các màu khác nhau.

Để hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi ứng dụng nông nghiệp CNC, ngành Nông nghiệp tỉnh đã hoàn thành và phát hành phần mềm "Quản lý cơ sở dữ liệu sâu bệnh hại”, gồm phần mềm chạy trên nền tảng web và ứng dụng trên thiết bị di động và phần mềm "Quản lý bản đồ chuyên đề, phân tích thích nghi đất sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hòa Bình". Hiện đang triển khai thực hiện cấp và quản lý mã số vùng trồng trên hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu cấp, quản lý mã số vùng trồng quốc gia. Tỉnh đã xây dựng, hỗ trợ 6 dự án nông nghiệp CNC, nông nghiệp sạch (3 dự án về chăn nuôi lợn giống, lợn thương phẩm với tổng diện tích trên 100 ha; 3 dự án về đưa công nghệ sinh học nuôi cấy mô ra đồng ruộng). UBND tỉnh đã phê duyệt triển khai 44 nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp tỉnh, đặt hàng Bộ Khoa học và Công nghệ 6 dự án nông thôn miền núi. Các nhiệm vụ tập trung chủ yếu ứng dụng công nghệ sinh học đối với cây trồng, cây lâm nghiệp, ứng dụng công nghệ invitro trong sản xuất cây giống; ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt, tưới phun mưa trong nhà lưới hay ngoài tự nhiên; áp dụng công nghệ bảo quản, chế biến một số sản phẩm của địa phương như cam, bưởi, cá sông Đà. Đặc biệt, công nghệ trồng trọt, chăn nuôi quy mô công nghiệp được ứng dụng tại các dự án nông thôn miền núi.

Đồng chí Nguyễn Hồng Yến, Giám đốc Chi cục Trồng trọt và bảo vệ thực vật tỉnh cho biết: Để ứng dụng CNC vào sản xuất nông nghiệp một cách đồng bộ và trên diện rộng, tỉnh nên lựa chọn các loại cây trồng, vật nuôi chủ lực của địa phương. Đồng thời, xác định công đoạn nào có thể ứng dụng CNC trên diện rộng phải triển khai trước; tiếp tục nghiên cứu, thử nghiệm đối với những công đoạn chưa ứng dụng được trước khi áp dụng cho diện rộng, nhất là khâu bảo quản, chế biến, hoặc các chế phẩm mới để nâng cao năng suất, chất lượng. Tư duy ứng dụng CNC cũng phải thực hiện theo chuỗi, bởi tỉnh đang hướng tới sản xuất nông nghiệp theo chuỗi. Ngoài hỗ trợ của nhà nước, tỉnh cần kêu gọi nguồn lực từ các doanh nghiệp, bởi chính doanh nghiệp là đầu tàu đóng vai trò quyết định trong việc ứng dụng CNC trong sản xuất.

Đinh Hòa

 

Ngành không lo thất nghiệp, thu nhập có thể đến 30 triệu đồng/tháng

Kết hợp giữa nông nghiệp truyền thống và công nghệ hiện đại, Nông nghiệp Công nghệ cao có thu nhập hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số thời đại mới.

Trong bối cảnh nền nông nghiệp Việt Nam đang từng bước chuyển mình mạnh mẽ, ngành Nông nghiệp công nghệ cao nổi lên như một hướng đi đầy triển vọng – vừa thực tiễn, vừa hiện đại, vừa giải bài toán thiếu hụt nhân lực chất lượng cao.

Trong đào tạo, đây là ngành học được đánh giá cao về tính ứng dụng, cơ hội việc làm rộng mở, thậm chí "hái ra tiền" sau vài năm ra trường.

Kết hợp giữa nông nghiệp truyền thống và công nghệ hiện đại, Nông nghiệp công nghệ cao có thu nhập hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số thời đại mới

Ngành Nông nghiệp công nghệ cao là lĩnh vực đào tạo mới mẻ nhưng mang tính chiến lược, kết hợp giữa khoa học nông nghiệp truyền thống với các thành tựu công nghệ hiện đại như Công nghệ sinh học; Tự động hóa; Trí tuệ nhân tạo (AI); Internet vạn vật (IoT); Cảm biến môi trường; Dữ liệu lớn (Big Data)...

Nhờ sự tích hợp này, sinh viên được trang bị kiến thức và kỹ năng để xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp thông minh, bền vững, hiệu quả, góp phần giải quyết nhiều vấn đề nan giải như thiếu lao động, năng suất thấp, ô nhiễm môi trường, hay sự phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên.

Đây là ngành học liên ngành, liên quan đến kỹ thuật, sinh học, công nghệ, quản trị. Người học được đào tạo để tiếp cận nông nghiệp bằng tư duy hệ thống, thay vì làm theo kinh nghiệm truyền thống. Người học không chỉ hiểu về sinh lý cây trồng – vật nuôi, mà còn được học về canh tác hiện đại, tưới tiêu thông minh, sử dụng tài nguyên tối ưu (đất, nước, phân bón…).

Tốt nghiệp ngành Nông nghiệp công nghệ cao, sinh viên có thể làm việc tại doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; tập đoàn sản xuất giống, phân bón, thức ăn chăn nuôi; công ty xuất khẩu nông sản; trung tâm nghiên cứu giống, viện khoa học nông nghiệp; các tổ chức quốc tế phát triển nông nghiệp... Một số vị trí phổ biến gồm kỹ sư canh tác thông minh; chuyên viên vận hành nông trại công nghệ cao; kỹ thuật viên cảm biến và IoT nông nghiệp; chuyên gia phân tích dữ liệu nông nghiệp; tư vấn viên chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp...

Với những vị trí kỹ sư hoặc chuyên gia tại các doanh nghiệp lớn hoặc tổ chức quốc tế, mức thu nhập trung bình có thể vượt ngưỡng 30 triệu đồng/tháng

Ngoài ra, sinh viên còn có thể khởi nghiệp với mô hình trang trại thông minh, nông nghiệp đô thị, canh tác không đất như thủy canh – khí canh, hoặc sản xuất thực phẩm sạch, hữu cơ phục vụ thị trường cao cấp.

Theo thống kê, sinh viên ngành Nông nghiệp công nghệ cao có mức thu nhập khởi điểm từ 9–12 triệu đồng/tháng. Sau 2–3 năm làm việc và tích lũy kinh nghiệm, thu nhập có thể tăng lên 15–20 triệu đồng/tháng. Với những vị trí kỹ sư hoặc chuyên gia tại các doanh nghiệp lớn hoặc tổ chức quốc tế, mức thu nhập trung bình có thể vượt ngưỡng 30 triệu đồng/tháng.

Ngành học đang cần người, thị trường luôn "khát" nhân lực, trong khi tỉ lệ cạnh tranh chưa cao. Đây chính là cơ hội vàng cho những bạn trẻ yêu thích nông nghiệp, công nghệ và mong muốn tạo ra giá trị thực tiễn, bền vững cho xã hội trong thời đại số.

Tin-ảnh: Hồng Đào

 

Yên Bái: Kinh tế nông nghiệp - bước chuyển mạnh tư duy

Tỉnh Yên Bái đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ trong việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chuyển dịch từ tư duy 'sản xuất nông nghiệp' thuần túy sang 'kinh tế nông nghiệp' toàn diện. Những mô hình sản xuất hiệu quả, cùng với các định hướng, giải pháp đồng bộ đang từng bước khẳng định hướng đi đúng đắn, mang lại hiệu quả kinh tế cao và nâng cao đời sống người dân.

Sản xuất, chế biến măng xuất khẩu tại Công ty TNHH Yamazaki Việt Nam, xã Hưng Khánh, huyện Trấn Yên.

Yên Bái đã xác định và tập trung phát triển các sản phẩm nông nghiệp chủ lực, có lợi thế so sánh, theo hướng hình thành các chuỗi giá trị hoàn chỉnh. Trong đó, mô hình trồng tre măng Bát Độ và quế hữu cơ nổi lên như những điểm sáng, minh chứng cho hiệu quả của việc chuyển đổi. Theo đó, toàn tỉnh hiện có gần 6.000 ha tre măng Bát Độ sản xuất hàng hóa, tập trung chủ yếu ở các huyện: Trấn Yên, Yên Bình, Văn Chấn, Văn Yên, Lục Yên.

Riêng huyện Trấn Yên có hơn 4.200 ha, cho sản lượng măng thương phẩm hàng năm trên 30.000 tấn, mang lại giá trị kinh tế gần 200 tỷ đồng. Sự thành công của ngành hàng này gắn liền với vai trò của các doanh nghiệp trong thu mua, chế biến và tiêu thụ. Công ty TNHH Yamazaki Việt Nam và Công ty cổ phần Yên Thành là những ví dụ điển hình, mỗi năm thu mua hàng ngàn tấn măng tươi, tạo việc làm ổn định cho hàng trăm lao động địa phương.

Sản phẩm măng Bát Độ của Yên Bái, sau khi chế biến, đã chinh phục các thị trường "khó tính” như Nhật Bản và Đài Loan. Còn quế, từ lâu là cây trồng truyền thống, nay đã được nâng tầm giá trị khi Yên Bái đẩy mạnh phát triển theo hướng hữu cơ và xây dựng chuỗi giá trị. Toàn tỉnh có trên 80.000 ha quế, trong đó huyện Văn Yên là vùng trồng quế lớn nhất với trên 55.000 ha. Diện tích quế được cấp chứng nhận hữu cơ theo tiêu chuẩn châu Âu (EU) và Mỹ (USDA) tại Văn Yên đã đạt trên 7.281 ha, mục tiêu đến năm 2025 toàn tỉnh có 20.000 ha quế hữu cơ.

Các doanh nghiệp lớn như: Công ty TNHH Hương Gia Vị Sơn Hà, Công ty TNHH Olam Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng vùng nguyên liệu, liên kết với nông dân và bao tiêu sản phẩm quế hữu cơ với giá cao hơn từ 20-30% so với quế thường. Cây quế Yên Bái được chế biến thành gần 50 loại sản phẩm, trong đó 28 sản phẩm đã được chứng nhận OCOP từ 3 sao trở lên…

Quý I năm 2025, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của tỉnh ước đạt tốc độ tăng trưởng 6,98%, đứng thứ 2 trong 14 tỉnh vùng Trung du và miền núi phía Bắc. Giai đoạn 2021-2024, tốc độ tăng trưởng nông nghiệp bình quân ước đạt 5,22%/năm, duy trì vị trí thứ 2 trong vùng.

Sự chuyển dịch căn bản từ tư duy "sản xuất nông nghiệp" sang "kinh tế nông nghiệp" được nhấn mạnh, tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm, gia tăng giá trị kinh tế thông qua chế biến sâu, xây dựng thương hiệu và liên kết thị trường. Yên Bái đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, tập trung phát triển các vùng sản xuất hàng hóa tập trung cho các sản phẩm chủ lực như quế, tre măng Bát Độ, đồng thời xây dựng và phát triển các dự án sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị, gắn kết nông dân với doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ kịp thời về giống, phân bón cùng với công tác kiểm soát tốt dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi, đảm bảo sự ổn định cho sản xuất. Tỉnh còn khuyến khích phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững, ứng dụng mô hình tiên tiến và đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm OCOP thông qua áp dụng quy trình sản xuất an toàn (VietGAP, hữu cơ), xây dựng chỉ dẫn địa lý. Đặc biệt, chuyển đổi số được đẩy mạnh qua việc triển khai nền tảng truy xuất nguồn gốc thông minh, xây dựng cơ sở dữ liệu ngành và đưa nông sản lên các sàn thương mại điện tử. Qua đó, từng bước mở rộng kênh tiêu thụ hiện đại.

Quá trình chuyển đổi sang kinh tế nông nghiệp tại Yên Bái đã chứng minh hiệu quả rõ rệt trên nhiều phương diện. Rõ ràng nhất là sự nâng cao giá trị gia tăng và hiệu quả sản xuất thông qua việc áp dụng công nghệ cao, quy trình sản xuất an toàn, hữu cơ, giúp các mô hình mới cho năng suất, chất lượng và lợi nhuận vượt trội so với phương thức truyền thống. Đi liền với đó là sự phát triển mạnh mẽ các sản phẩm đặc trưng và xây dựng thương hiệu, điển hình là thành công của Chương trình OCOP với hàng trăm sản phẩm được công nhận, nhiều sản phẩm có chỉ dẫn địa lý và đã thành công thâm nhập các thị trường xuất khẩu "khó tính”.

Ông Phạm Trung Kiên - Phó Chủ tịch UBND huyện Văn Yên khẳng định: "Phát triển các cây trồng chủ lực theo chuỗi giá trị không chỉ giúp nâng cao hiệu quả kinh tế trên cùng đơn vị diện tích mà còn cải thiện rõ rệt thu nhập và đời sống nông dân. Đồng thời quá trình này thúc đẩy hình thành các chuỗi liên kết sản xuất - tiêu thụ ngày càng chặt chẽ, phát huy vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp và hợp tác xã. Cùng với đó, việc thúc đẩy chuyển đổi số trong nông nghiệp cũng mang lại những tín hiệu tích cực, mở ra hướng đi mới trong quản lý sản xuất và tiếp cận thị trường”.

Với quyết tâm của cả hệ thống chính trị và sự đồng lòng của người dân, doanh nghiệp, ngành nông nghiệp tỉnh Yên Bái được kỳ vọng sẽ tiếp tục gặt hái nhiều thành công, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh, xây dựng một nông thôn ngày càng văn minh, giàu đẹp.

Hùng Cường

 

Làm chủ khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp

Sản xuất theo hướng nông nghiệp xanh, không chỉ đem lại năng suất, chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế cao, còn giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, góp phần tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân huyện Mai Sơn.

Nông dân xã Mường Bon, huyện Mai Sơn ứng dụng điều khiển tưới nước tiết kiệm bằng điện thoại thông minh.

HTX Nông nghiệp Tiên Sơn, bản Mai Tiên, xã Mường Bon, có 21 thành viên đã liên kết trồng gần 7 ha rau màu, sản lượng trên 600 tấn/năm. Ông Phạm Văn Đấu, Phó Giám đốc HTX, cho biết: Trồng rau theo quy trình VietGAP, thành viên tuân thủ nghiêm yêu cầu kỹ thuật đối với giống, nguồn nước, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học, phân bón hữu cơ, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo nguyên tắc “4 đúng”, nên sản phẩm đảm bảo đầu ra ổn định, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Thu nhập của các thành viên đạt 300-400 triệu đồng/năm.

Cây na là cây chủ lực của huyện Mai Sơn với 890 ha, trong đó, gần 335 ha sản xuất theo công nghệ cao, tập trung ở các xã: Cò Nòi, Nà Bó, Mường Bon và thị trấn Hát Lót, sản lượng khoảng trên 12.000 tấn quả/năm, phục vụ thị trường trong nước, xuất khẩu.

Tại xã Cò Nòi, diện tích trồng na lớn nhất huyện với 762 ha, trong đó, gần 300 ha trồng theo hướng hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao, năng suất đạt 20 tấn quả/ha. Ông Nguyễn Anh Thu, Chủ tịch UBND xã Cò Nòi, cho biết: Xã tập trung tuyên truyền, vận động người dân thay đổi tập quán canh tác, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, khuyến khích phát triển các mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ. Phối hợp với cơ quan chuyên môn, rà soát diện tích đất, quy hoạch, hình thành các vùng trồng quy mô lớn, chất lượng cao.

Nông dân xã Cò Nòi, huyện Mai Sơn thực hiện kỹ thuật bao quả na.

Trước xu hướng thị trường, nhu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm nông sản sạch, huyện Mai Sơn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, xây dựng vùng tập trung chuyên canh, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thực hành nông nghiệp tốt, tạo sản phẩm an toàn. Nông dân huyện Mai Sơn còn thay đổi phương thức canh tác đối với cây cà phê theo hướng ứng dụng khoa học, kỹ thuật áp dụng vào sản xuất để cây cà phê mang lại hiệu quả kinh tế cao. Trong tổng số diện tích 9.169 ha cây cà phê, có 1.143 ha cà phê ứng dụng công nghệ cao, với trên 1.600 hộ tham gia, tập trung tại 18 bản của các xã Chiềng Ban, Chiềng Chung, Chiềng Dong…

Ông Nguyễn Khắc Hào, Phó trưởng Phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Mai Sơn, cho biết: Huyện chỉ đạo các xã vận động nhân dân phối hợp với các doanh nghiệp, HTX liên doanh liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm theo hướng nông nghiệp xanh, không gây ô nhiễm môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị cà phê trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Trong vùng sản xuất cà phê ứng dụng công nghệ cao, đang có 876 hộ gia đình, cá nhân liên kết sản xuất 671,4 ha cà phê với Công ty cổ phần Phúc Sinh Sơn La; 679 hộ gia đình, cá nhân liên kết sản xuất 368,1 ha cà phê với Công ty cổ phần chế biến cà phê Sơn La.

Mai Sơn có 11.500 ha cây ăn quả; trong đó, 1.143 ha được cấp chứng nhận VietGAP, 5.400 ha cây ăn quả thực hiện theo mô hình ứng dụng công nghệ cao, 2.700 ha sản xuất theo hướng hữu cơ. Toàn huyện duy trì 46 mã số vùng trồng, với trên 1.217 ha; 5 cơ sở đóng gói; 4 vùng sản xuất ứng dụng công nghệ cao, tổng diện tích trên 1.773 ha, với 2.333 hộ tham gia.

Nông dân xã Cò Nòi, huyện Mai Sơn, chia sẻ kỹ thuật chăm sóc cây bí đao.

Các HTX đóng vai trò làm đầu mối chuyển giao khoa học kỹ thuật cho các thành viên, tổ chức sản xuất nông nghiệp xanh theo chuỗi liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, giải quyết tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao cuộc sống hội viên. Năm 2024, các doanh nghiệp, HTX đã tiêu thụ trong nước hơn 80.000 tấn quả tươi các loại, giá trị ước đạt trên 1.000 tỷ đồng; xuất khẩu hơn 15.000 tấn quả thanh long, chanh leo, xoài,... sang thị trường Ấn Độ, Trung Quốc và các nước châu Âu, tổng giá trị gần 100 tỷ đồng.

Bà Cầm Thị Khay, Phó Chủ tịch UBND huyện Mai Sơn, cho biết: Hầu hết các loại cây trồng chủ lực của huyện được trồng quy mô tập trung theo vùng phù hợp với đất đai, khí hậu, đem lại năng suất, chất lượng phục vụ thị trường trong nước và chế biến, xuất khẩu. Toàn huyện có 20 sản phẩm OCOP, trong đó, 10 sản phẩm OCOP 4 sao, 10 sản phẩm OCOP 3 sao.

Thời gian tới, huyện Mai Sơn tiếp tục tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật, hỗ trợ nông dân áp dụng các tiến bộ khoa học vào đầu tư thâm canh; khuyến khích phát triển các chuỗi liên kết, hình thành các vùng nguyên liệu tập trung có diện tích phù hợp, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, tăng giá trị sản xuất trên diện tích canh tác, đảm bảo năng suất, chất lượng cạnh tranh trên thị trường, góp phần phát triển nông nghiệp bền vững.

Sự thay đổi về tư duy trong sản xuất, nông dân huyện Mai Sơn đang làm chủ khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, tiếp tục khai thác tiềm năng, lợi thế, phát triển nông nghiệp xanh, bền vững, đem lại những sản phẩm nông sản an toàn, chất lượng cao.

Bài, ảnh: Minh Tuấn

 

Hiện đại hóa nông nghiệp từ đồng ruộng Long Phú

Trên những cánh đồng trải dài màu mỡ ven sông Hậu thuộc huyện Long Phú (tỉnh Sóc Trăng) đang chứng kiến một cuộc 'lột xác' mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp. Những thửa ruộng canh tác truyền thống dần thay đổi diện mạo nhờ khoa học công nghệ.

Trong hành trình chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng hiện đại, nông dân và các HTX tại Long Phú đã chủ động đưa khoa học công nghệ vào mọi khâu của chuỗi giá trị nông sản, từ giống, canh tác, thu hoạch đến chế biến và xây dựng thương hiệu.

Công nghệ là sống còn

Ngồi giữa văn phòng HTX Nông nghiệp Phú Lộc (xã Long Đức), ông Lê Văn Phong – Giám đốc HTX – mở chiếc máy tính bảng quen thuộc để điều khiển hệ thống tưới tự động trong vùng sản xuất 30ha lúa hữu cơ.

“Chỉ cần chạm nhẹ là có thể kiểm soát độ ẩm, phân tích dinh dưỡng đất và theo dõi sâu bệnh từ xa. Mình không còn phải đi từng ruộng như trước nữa. Đó là điều 10 năm trước chưa dám mơ”, ông Phong tự hào nói.

Ứng dụng khoa học kỹ thuật giúp HTX, nông dân Long Phú giảm công lao động, tăng năng suất.

HTX Phú Lộc là một trong những đơn vị tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ số vào sản xuất lúa hữu cơ. Từ năm 2021, với sự hỗ trợ từ ban ngành chức năng tỉnh cùng các tổ chức phi chính phủ, HTX đã tiếp cận mô hình canh tác thông minh: sử dụng thiết bị IoT trong kiểm soát môi trường đất, sử dụng máy bay không người lái để phun thuốc sinh học, và dùng ứng dụng phần mềm để ghi chép nhật ký canh tác.

“Làm nông bây giờ phải biết dùng công nghệ, chứ không thì không theo kịp thị trường. Khách hàng hỏi rất kỹ về quy trình sản xuất, truy xuất nguồn gốc. Công nghệ giúp mình trả lời tất cả bằng số liệu”, ông Phong nói thêm.

Không chỉ có Phú Lộc, nhiều HTX khác tại Long Phú cũng đang bắt nhịp với xu hướng số hóa nông nghiệp: HTX Rau sạch Thạnh Phú (xã Tân Thạnh) đầu tư nhà màng, hệ thống cảm biến môi trường và quy trình canh tác theo hướng VietGAP; HTX nuôi tôm Long Phú ở xã Song Phụng sử dụng hệ thống cảm biến đo độ mặn, pH nước và oxy hòa tan tự động, giúp kiểm soát dịch bệnh và tăng năng suất...

Bên cạnh lớp nông dân truyền thống, những người trẻ ở Long Phú đang tạo nên sức bật mạnh mẽ trong ứng dụng công nghệ cao vào nông nghiệp.

Anh Nguyễn Hữu Tín – kỹ sư công nghệ sinh học, hiện đang phụ trách kỹ thuật tại HTX Sản xuất nấm sạch Long Phú (xã Châu Khánh) – chia sẻ: “Chúng tôi áp dụng quy trình sản xuất khép kín, từ nhân giống, ươm sợi đến đóng gói đều được kiểm soát bằng công nghệ. Mỗi ngày đều có báo cáo từ hệ thống cảm biến nhiệt độ, độ ẩm để điều chỉnh môi trường tối ưu cho nấm phát triển”.

“Lá chắn” bảo vệ thương hiệu nông sản

Anh Tín cho biết thêm, sản phẩm nấm bào ngư và nấm linh chi của HTX Sản xuất nấm sạch Long Phú hiện đã được đăng ký mã số, mã vạch và tem truy xuất nguồn gốc điện tử. Nhờ đó, sản phẩm dễ dàng vào được các siêu thị tại Cần Thơ, TP. HCM và được đối tác tin tưởng hơn.

Không chỉ chú trọng công nghệ trong sản xuất, HTX còn đẩy mạnh thương mại điện tử. “Chúng tôi có fanpage riêng, bán hàng trên các sàn như Postmart, Voso, Shopee. Thậm chí còn hợp tác với các KOLs địa phương để quảng bá sản phẩm nông nghiệp sạch”, anh Tín chia sẻ.

Một điểm sáng trong bức tranh chuyển đổi của Long Phú là việc các HTX dần quan tâm đến sở hữu trí tuệ – một yếu tố quan trọng giúp nâng tầm giá trị nông sản.

Năm 2023, HTX Lúa hữu cơ Phú Lộc đã hoàn tất đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tập thể cho sản phẩm “Gạo sạch Phú Lộc”. Cũng trong năm này, hai sản phẩm là “Nấm sạch Long Phú” và “Rau an toàn Thạnh Phú” đã được cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu tại Cục Sở hữu trí tuệ.

Lãnh đạo ngành nông nghiệp huyện Long Phú cho hay sở hữu trí tuệ là nền tảng để xây dựng thương hiệu bền vững. Nếu không có bảo hộ, sản phẩm dễ bị làm nhái, mất uy tín. Vì vậy, những năm gần đây, huyện đã phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức nhiều lớp tập huấn về nhãn hiệu, sở hữu trí tuệ, truy xuất nguồn gốc để hỗ trợ HTX, hộ sản xuất.

Long Phú dự kiến đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa, hiện đại, nâng giá trị gia tăng.

Trong năm 2025, Long Phú đặt mục tiêu ít nhất 50% HTX nông nghiệp có sản phẩm được bảo hộ sở hữu trí tuệ hoặc mã vùng trồng. Đặc biệt, địa phương đang hướng tới xây dựng chỉ dẫn địa lý cho một số nông sản đặc trưng như gạo thơm Châu Khánh và cá bống tượng Long Đức.

Có thể thấy, ứng dụng khoa học công nghệ và sở hữu trí tuệ không chỉ dừng ở việc tăng năng suất, chất lượng, mà còn mở đường cho sản phẩm nông nghiệp Long Phú tham gia sâu vào chuỗi giá trị.

Thông qua các dự án liên kết sản xuất – tiêu thụ, nhiều HTX tại Long Phú đã ký kết với doanh nghiệp lớn như Lộc Trời, Tân Long, Co.opMart để tiêu thụ ổn định.

Hướng tới nông nghiệp bền vững

Sự phát triển của khu vực kinh tế hợp tác, HTX rõ ràng đang góp phần thay đổi diện mạo nền nông nghiệp huyện Long Phú theo hướng hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng. Để có thành công này, Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Sóc Trăng đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ thiết thực.

Điển hình, nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong các HTX, Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Sóc Trăng đã tổ chức nhiều hội nghị tập huấn về ứng dụng trí tuệ nhân tạo, thương mại điện tử và hỗ trợ xuất khẩu cho các thành viên, hộ liên kết của HTX.

Thông qua các hội nghị, các HTX được hướng dẫn sử dụng các công cụ số như phần mềm quản lý sản xuất, hóa đơn điện tử và chữ ký số. Đơn cử, HTX Nông nghiệp Hưng Lợi (xã Long Đức) đã tiên phong trong việc áp dụng hóa đơn điện tử và chữ ký số, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và giao dịch.

Liên minh HTX tỉnh Sóc Trăng đã ký kết hợp tác với các đơn vị như Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng thương mại và kỹ thuật số (CADE) và Sàn thương mại điện tử Felix.store. Sự hợp tác này nhằm hỗ trợ các HTX trong việc mở rộng kênh phân phối trực tuyến và tiếp cận thị trường mới. Nhiều HTX đã mở gian hàng trực tuyến trên các sàn thương mại điện tử, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ.

Cùng với đó, Liên minh HTX tỉnh Sóc Trăng đã ký kết chương trình hợp tác phát triển kinh tế tập thể với Liên minh HTX tỉnh Trà Vinh và Hậu Giang giai đoạn 2023-2025. Chương trình nhằm thúc đẩy giao thương, liên kết phát triển nguồn nguyên liệu sản xuất và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các HTX thành viên giữa ba tỉnh. Đồng thời, đẩy mạnh đầu tư, chuyển giao công nghệ số và phát triển năng lực sản xuất theo hướng nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm hàng hóa của các HTX ở mỗi địa phương .

Với những nguồn lực, chiến lược phát triển đúng hướng, huyện Long Phú đang dần vẽ nên một bức tranh nông nghiệp hiện đại, thông minh và xanh hơn nhờ sự đồng hành của khoa học công nghệ và sở hữu trí tuệ. Không còn là những cánh đồng đơn lẻ, manh mún, Long Phú giờ đây là nơi sản xuất kết nối – từ ruộng đồng đến siêu thị, từ nông dân đến người tiêu dùng.

Chặng đường phía trước vẫn còn nhiều thách thức, nhưng với những gì đã và đang làm được, Long Phú xứng đáng là một trong những điểm sáng của Đồng bằng sông Cửu Long trong tiến trình hiện đại hóa nông nghiệp.

Nam Phong

 

Phú Lương: Tích cực hỗ trợ các hợp tác xã, tổ hợp tác phát triển

Tính đến thời điểm hiện tại, huyện Phú Lương có 81 hợp tác xã (tăng 44 hợp tác xã so với năm 2019), 50 tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.

Thành viên Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Ngọc Anh (xã Yên Lạc) chăm sóc cây giống phục vụ trồng rừng.

Thời gian qua, từ nguồn hỗ trợ của Trung ương và tỉnh, huyện Phú Lương đã tích cực hỗ trợ các hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, như: Hỗ trợ chứng nhận VietGAP, hữu cơ cho trên 1.100ha chè, 62ha cây ăn quả, 92ha lúa; hỗ trợ hệ thống tưới tiết kiệm nước quy mô 56,5ha; hỗ trợ trên 1.000 máy vò, 117 tôn sao chè bằng inox, 8 tôn sao chè bằng điện…; gần 46.000 tem QR code; hỗ trợ quảng bá sản phẩm…

Hiện nay, trên 1.100ha chè của các hợp tác xã, tổ hợp tác trên địa bàn huyện Phú Lương đã được hỗ trợ cấp chứng nhận VietGAP, hữu cơ. Trong ảnh: Thành viên Hợp tác xã nông sản Phú Lương chăm sóc chè chính vụ.

Bên cạnh sự hỗ trợ của các cấp, ngành liên quan, các HTX cũng chủ động xây dựng và phát triển sản phẩm thế mạnh. Nhờ đó, huyện Phú Lương đã có thêm 28 sản phẩm OCOP được xếp hạng từ 3 sao trở lên. Lũy kế đến tháng 5-2025, toàn huyện có 35 sản phẩm OCOP, trong đó có 13 sản phẩm được công nhận OCOP 4 sao, số còn lại là OCOP 3 sao.

Việt Hùng

 

Nhân rộng mô hình nông dân tự sản xuất phân, thuốc sinh học

Từ năm 2018, huyện Vĩnh Cửu là một trong những địa phương đầu tiên của tỉnh triển khai mô hình sử dụng men vi sinh bản địa (IMO) sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật sinh học phục vụ sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ.

Người dân xã Vĩnh Tân (huyện Vĩnh Cửu) thực hiện việc phân loại rác tại nguồn, tận dụng rác hữu cơ ủ làm phân bón chăm sóc cây trồng.Ảnh: L.Quyên

Đến nay, toàn huyện đã nhân rộng được hơn 238 hécta đất trồng trọt được người dân sử dụng men vi sinh IMO để phân hủy phế, phụ phẩm nông nghiệp, rác hữu cơ để tạo thành nguồn phân hữu cơ cải thiện chất lượng đất canh tác. Giải pháp này góp phần giảm thiểu đáng kể chi phí đầu vào trong quá trình sản xuất. Trong lĩnh vực chăn nuôi, trên địa bàn huyện có hơn 30 hộ chăn nuôi sử dụng men vi sinh IMO để xử lý chất thải trong chăn nuôi, làm giảm thiểu mùi hôi, cải thiện môi trường tại khu vực chăn nuôi và các hộ lân cận.

Ngoài ra, trên địa bàn huyện hiện có 15 khu dân cư kiểu mẫu đã thực hiện mô hình thùng rác phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn, kết hợp xử lý chất thải thực phẩm để trồng cây, góp phần thể hiện rõ nét hơn kết quả thực hiện công tác phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn, kết hợp xử lý chất thải thực phẩm bằng IMO để làm mùn hữu cơ, phân bón cho canh tác nông nghiệp. Đặc biệt, các trường học trên địa bàn huyện đã ứng dụng thành công mô hình sử dụng men vi sinh bản địa để xây dựng nhà vệ sinh thân thiện sáng, xanh, sạch, đẹp, thoáng mát, góp phần tích cực xây dựng trường học thân thiện, trường học hạnh phúc.

Lê Quyên

 

60% đất nông nghiệp Việt Nam bị xói mòn: Hồi chuông cảnh báo không thể xem thường

Các chuyên gia cho rằng khoảng 60% diện tích đất nông nghiệp trên cả nước đang chịu tác động của xói mòn, trong đó 30% diện tích bị xói mòn nghiêm trọng.

Thông tin này được nêu tại hội thảo tham vấn Dự thảo Chiến lược sức khỏe đất và Kế hoạch hành động quốc gia.

Đây là hoạt động trọng điểm nằm trong khuôn khổ Dự án “Hỗ trợ xây dựng chiến lược và kế hoạch hành động về sức khỏe đất quốc gia” do FAO tài trợ và Viện Thổ nhưỡng Nông hóa chủ trì thực hiện.

Dự án nhằm lồng ghép các yếu tố an ninh lương thực, an toàn thực phẩm và quản lý sử dụng vật tư nông nghiệp một cách hợp lý, bền vững.

Lãnh đạo FAO tại Việt Nam, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật và Viện Thổ nhưỡng Nông hóa chủ trì buổi tham vấn Dự thảo Chiến lược sức khỏe đất và Kế hoạch hành động quốc gia (Ảnh: Ngọc Sơn)

Theo thống kê từ các tổ chức chuyên môn, khoảng 60% diện tích đất nông nghiệp trên cả nước đang chịu tác động của xói mòn, trong đó 30% diện tích bị xói mòn nghiêm trọng với mức tổn thất đất mặt vượt 20 tấn/ha/năm.

Nguyên nhân chủ yếu là do địa hình đồi núi chiếm khoảng 75% diện tích đất nông nghiệp của Việt Nam, trong đó có tới 50% có độ dốc lớn hơn 20 độ – một yếu tố làm tăng mạnh nguy cơ xói mòn.

Khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên và Duyên hải Nam Trung Bộ là những địa bàn bị ảnh hưởng nặng nề nhất, nơi địa hình dốc kết hợp với mưa lớn khiến đất dễ bị rửa trôi, mất lớp hữu cơ bề mặt vốn giàu dinh dưỡng – nền tảng cho năng suất nông nghiệp bền vững.

Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường (2020), khoảng 44% diện tích đất sản xuất nông nghiệp đã bị thoái hóa. Trong đó, diện tích thoái hóa mạnh chiếm khoảng 1%, thoái hóa trung bình 14% và thoái hóa nhẹ 29%. Các dạng thoái hóa phổ biến gồm xói mòn, khô hạn, kết von, suy giảm độ phì, mặn hóa và phèn hóa.

Tại hội thảo, các chuyên gia, nhà quản lý, đại diện tổ chức quốc tế đã tập trung góp ý hoàn thiện nội dung dự thảo, đồng thời đề xuất định hướng chính sách để triển khai hiệu quả trong thời gian tới.

Điểm nhấn của chiến lược lần này là việc tiếp cận vấn đề "sức khỏe đất" không chỉ dưới góc độ nông nghiệp, mà còn như một yếu tố nền tảng liên kết giữa đất – cây – con người – môi trường trong khuôn khổ “Một sức khỏe” (One Health).

Cách tiếp cận toàn diện này không chỉ mở rộng phạm vi trách nhiệm mà còn tạo điều kiện thu hút nguồn lực tri thức, công nghệ và tài chính từ cộng đồng.

Ông Rémi Nono Womdim trưởng đại diện FAO tại Việt Nam phát biểu tại buổi tham vấn (Ảnh: Ngọc Sơn)

Ông Rémi Nono Womdim, Trưởng đại diện FAO tại Việt Nam nhấn mạnh, đất khỏe là nền tảng không thể thiếu của nền nông nghiệp bền vững.

Theo ông Rémi, Chiến lược quốc gia về sức khỏe đất đến năm 2030, tầm nhìn 2050 và Kế hoạch hành động được thiết kế phù hợp với bối cảnh phát triển và thể chế hiện hành của Việt Nam. Chiến lược này đồng thời hướng đến tiệm cận tiêu chuẩn quốc tế và nâng cao khả năng cạnh tranh cho nông sản Việt trên thị trường thế giới.

Phát biểu tại hội thảo, ông Huỳnh Tấn Đạt - Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật nhấn mạnh mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ trở thành một trong những quốc gia đi đầu trong khu vực về năng lực và hiệu quả quản lý sức khỏe đất trồng trọt và dinh dưỡng cây trồng.

Ông Huỳnh Tấn Đạt – Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật phát biểu tại buổi tham vấn (Ảnh: Ngọc Sơn)

Cũng theo ông Huỳnh Tấn Đạt, để đạt được mục tiêu này, ngành Nông nghiệp sẽ tập trung vào bốn nhiệm vụ trọng tâm: "Xây dựng cơ sở dữ liệu đất: Hoàn thiện bộ cơ sở dữ liệu về chất lượng các loại đất chính, bao gồm đầy đủ các chỉ tiêu lý học, hóa học và sinh học của đất, cũng như dữ liệu sử dụng phân bón cho các cây trồng chủ lực.

Bộ chỉ tiêu đánh giá sức khỏe đất: Thiết lập bộ chỉ số và hệ thống phân cấp đánh giá sức khỏe đất trồng trọt – công cụ quan trọng để theo dõi, quản lý và đưa ra các chính sách phù hợp".

Bên cạnh đó, ông Đạt cho rằng cần cải tiến quy trình canh tác. Trong đó, các ngành Nông nghiệp cần nghiên cứu và áp dụng các quy trình canh tác hợp lý nhằm sử dụng phân bón hiệu quả, giảm thất thoát dinh dưỡng, bảo vệ hệ sinh vật có ích trong đất và giảm phát thải khí nhà kính.

"Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ từ trung ương đến địa phương, đồng thời thúc đẩy nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của sức khỏe đất và dinh dưỡng cây trồng", ông Đạt nói thêm.

Đây không chỉ là nhiệm vụ của riêng ngành Nông nghiệp, mà đòi hỏi sự tham gia của toàn xã hội, đặc biệt là sự đồng hành của cộng đồng quốc tế, các nhà khoa học và khối doanh nghiệp công – tư.

Thanh Huyền

 

Giám sát vật tư nông nghiệp: Để đầu vào sạch, đầu ra mạnh

Vật tư nông nghiệp là yếu tố đầu vào quan trọng, nếu được sử dụng đúng, an toàn và chất lượng sẽ gia tăng giá trị hàng hóa, bảo vệ môi trường, sức khỏe, mở rộng thị trường, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nông dân.

Quản lý chặt chẽ hoạt động kinh doanh

Công tác giám sát vật tư nông nghiệp đóng vai trò đặc biệt quan trọng, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nông dân. Thông qua đó, người nông dân được trang bị kiến thức để sử dụng vật tư an toàn, đồng thời nâng cao khả năng nhận diện, phòng tránh hàng giả, hàng kém chất lượng.

Ông Đỗ Mạnh Hải, Phó trưởng ban Tổ chức - Kiểm tra Trung ương Hội Nông dân Việt Nam cho biết, trong giai đoạn 2014 - 2020, thực hiện chương trình phối hợp giám sát việc chấp hành pháp luật về sản xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp, cả nước đã tổ chức hơn 100.000 buổi tuyên truyền và gần 10.000 lớp tập huấn, thu hút khoảng 800.000 lượt nông dân tham gia. Thông qua các hoạt động này, nông dân được nâng cao nhận thức và kỹ năng nhận diện vật tư nông nghiệp an toàn, từng bước đẩy lùi tình trạng sử dụng hàng giả, hàng kém chất lượng.

Cần sớm có chính sách đầu tư cho công cụ giám sát nông nghiệp, nhất là tại các xã vùng cao.

Ngoài công tác tuyên truyền, Hội Nông dân còn chủ động tham gia giám sát pháp luật khi trực tiếp nghiên cứu, xem xét hơn 7.300 văn bản quy phạm pháp luật liên quan và thành lập gần 6.000 đoàn giám sát tại cơ sở. Nhờ sự vào cuộc quyết liệt này, đã có hơn 2.600 vụ vi phạm liên quan đến vật tư nông nghiệp được phát hiện, góp phần lành mạnh hóa thị trường và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người nông dân.

Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy nhận định: “Việc người nông dân trực tiếp tham gia giám sát vật tư nông nghiệp là một bước tiến có tính chất chiến lược”. Theo ông, điều này mang lại ít nhất 3 ý nghĩa: Thứ nhất, nó là “thước đo” về an ninh nông nghiệp. Thứ hai, việc giám sát giúp nông dân chủ động bảo vệ cây trồng, vật nuôi và sức khỏe cộng đồng. Thứ ba, đây là sự kết nối cần thiết giữa Đảng - Nhà nước quản lý và người dân thực thi, qua đó thúc đẩy hình thành một nền nông nghiệp có tiêu chuẩn, minh bạch, hướng đến kinh tế xanh.

Ông Thủy cũng chỉ rõ những tồn tại cần khắc phục: “Hiện nay, giống cây trồng, vật nuôi có thể kiểm soát được nhưng phân bón lại rất khó. Bao bì phân bón hiện chỉ ghi thành phần mà không có hướng dẫn phối trộn cụ thể, gây khó khăn cho người giám sát”. Điều này đang cản trở mục tiêu xây dựng chuỗi nông sản sạch, trong khi thị trường đang đòi hỏi ngày càng cao về truy xuất nguồn gốc và chất lượng sản phẩm.

Nếu không đảm bảo đầu vào thì đầu ra không thể sạch. Giám sát tốt vật tư nông nghiệp chính là gắn sản xuất với tiêu chuẩn kỹ thuật, giúp người dân chuyển từ canh tác bừa bãi sang sản xuất có trách nhiệm.

Khoảng trống trong năng lực giám sát tại cơ sở

Tại một số địa phương miền núi, công tác giám sát vẫn còn gặp không ít khó khăn, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa. Đặc biệt, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật giả hiện nay có mẫu mã, bao bì rất tinh vi. Ngay cả cán bộ kỹ thuật nhiều khi cũng không nhận ra được hàng giả thì làm sao đòi hỏi nông dân phát hiện.

Thực tế, việc giám sát hiện chủ yếu vẫn dựa vào cảm quan và kinh nghiệm, trong khi thiếu các thiết bị chuyên dụng để kiểm tra nhanh tại chỗ. Mạng lưới cảnh báo vật tư kém chất lượng chưa được thiết lập đồng bộ khiến khả năng phản ứng với các sản phẩm giả mạo rất hạn chế.

Ông Nguyễn Quang Hiếu, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) kiến nghị cần sớm có chính sách đầu tư cho công cụ giám sát, nhất là tại các xã vùng cao, nơi dễ bị các đối tượng tiêu thụ vật tư kém chất lượng lợi dụng.

Để giải bài toán vật tư nông nghiệp kém chất lượng, theo ông Hiếu, không thể chỉ dựa vào người nông dân hay cơ quan chức năng mà cần sự vào cuộc của cả doanh nghiệp. Các đơn vị sản xuất, phân phối vật tư cần chủ động phối hợp với chính quyền và Hội Nông dân để tổ chức tập huấn, đào tạo kỹ năng nhận diện sản phẩm chính hãng.

Nhiều doanh nghiệp lớn trong ngành phân bón, thuốc bảo vệ thực vật đã chủ động phối hợp với Cục Bảo vệ thực vật và các địa phương tổ chức các buổi huấn luyện, hướng dẫn nông dân lựa chọn và sử dụng đúng quy trình. Cần nhân rộng các mô hình này để tạo thành phong trào giám sát từ cơ sở, với nông dân là trung tâm.

Một vấn đề nữa cũng được các chuyên gia lưu ý là vai trò của hợp tác xã trong việc bảo vệ quyền lợi cho nông dân. Dù công tác giám sát của Hội Nông dân có tích cực đến đâu, nếu không có những hợp tác xã đủ mạnh làm “chỗ dựa” cho người sản xuất, thì quyền lợi của họ vẫn rất khó được đảm bảo.

Hợp tác xã là nơi tập trung lực lượng sản xuất, có khả năng tổ chức đàm phán, ký kết hợp đồng mua vật tư với các nhà cung cấp uy tín, từ đó đảm bảo chất lượng đầu vào cho sản xuất nông nghiệp. Không chỉ vậy, khi thông qua hợp tác xã để mua vật tư, nông dân còn có thể lưu giữ chứng từ, hóa đơn, mẫu vật tư để phục vụ việc truy xuất nguồn gốc nếu xảy ra sự cố về chất lượng.

Về lâu dài, các chuyên gia cho rằng cần xây dựng cơ chế khuyến khích hợp tác xã ký hợp đồng tập thể với doanh nghiệp cung ứng vật tư nông nghiệp, đồng thời vận động người dân lưu giữ bao bì, hóa đơn và mẫu vật tư đầu vào cho đến hết vòng đời sản phẩm. Đây được xem là giải pháp thiết thực nhằm tăng cường năng lực giám sát từ cơ sở, góp phần xây dựng nền nông nghiệp minh bạch, an toàn và bền vững.

Trong bối cảnh ngành nông nghiệp Việt Nam đang chuyển đổi sang hướng xanh, sạch, tuần hoàn, việc kiểm soát chặt chẽ vật tư đầu vào sẽ quyết định chất lượng đầu ra. Mọi sự lơ là trong giám sát sẽ làm giảm sức cạnh tranh của nông sản trên thị trường quốc tế.

Theo định hướng của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, từ năm 2025, các địa phương cần xây dựng và vận hành hệ thống giám sát vật tư nông nghiệp có sự tham gia của cả ba bên: cơ quan quản lý, doanh nghiệp và người dân. Hệ thống này cần tích hợp công nghệ thông tin, như mã QR truy xuất nguồn gốc, app phản ánh sản phẩm nghi vấn, hệ thống cảnh báo sớm…

Linh Nguyễn

 

Đảm bảo nước tưới, tiêu phục vụ sản xuất vụ hè thu

Sáng 20/5, tại đập đầu mối kênh chính Bắc thuộc xã Hòa Hội (huyện Phú Hòa), Công ty TNHH MTV Thủy nông Đồng Cam tổ chức mở nước hệ thống thủy nông Đồng Cam phục vụ sản xuất nông nghiệp vụ hè thu năm 2025.

Tham dự có đồng chí Hồ Thị Nguyên Thảo, Ủy viên Ban thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh cùng đại diện các sở, ngành liên quan.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hồ Thị Nguyên Thảo và lãnh đạo Công ty TNHH MTV Thủy nông Đồng Cam mở nước Đập Đồng Cam. Ảnh: KHÁNH VY

Theo Công ty TNHH MTV Thủy nông Đồng Cam, lưu lượng nước xả tại kênh chính Bắc 12m3/giây, kênh chính Nam 16,8m3/giây, đủ nước để nông dân cày ải, gieo sạ đúng lịch thời vụ. Trước khi mở nước, hệ thống thủy nông Đồng Cam đã thực hiện tu bổ, nạo vét kênh mương và bảo dưỡng công trình, máy móc thiết bị của các hệ thống thủy nông. Vụ hè thu năm nay, hệ thống thủy nông Đồng Cam đảm bảo cung cấp nước tưới, tiêu phục vụ sản xuất cho gần 20.000ha.

Dự báo, tình hình thời tiết thời gian đến diễn biến phức tạp, hạn hán và nắng nóng tiếp tục xảy ra; lượng nước về đầu mối các hệ thống công trình và các hồ chứa giảm, dẫn đến thiếu nước trên diện rộng; đồng thời các nguồn nước hiện có từ sông, suối, ao, hồ, giếng… ở các địa phương cũng sẽ bị cạn kiệt, gây khó khăn cho công tác điều tiết nước tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp. Để chủ động nguồn nước tưới, tiêu và chống hạn hán cho vụ hè thu năm 2025, công ty đã xây dựng phương án chống hạn tại các hệ thống thủy nông, các hồ chứa nước và các trạm bơm do công ty quản lý, vận hành.

KHÁNH VY

 

Giảm phí nông nghiệp – môi trường: Hỗ trợ thiết thực, thúc đẩy chuyển đổi số

Đề xuất giảm 20–50% một số khoản phí, lệ phí trong lĩnh vực nông nghiệp – môi trường 6 tháng cuối năm 2025 nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy dịch vụ công trực tuyến.

Gỡ khó cho sản xuất nông nghiệp trong bối cảnh chi phí leo thang

Giữa lúc chi phí đầu vào tăng cao, thiên tai cực đoan diễn biến bất thường, nhiều doanh nghiệp và người dân hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp đang phải chịu áp lực kép: vừa duy trì sản xuất, vừa ứng phó biến đổi khí hậu. Trong bối cảnh đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã đề xuất giảm hàng loạt loại phí và lệ phí nhằm hỗ trợ thực chất cho khu vực này.

Ảnh minh họa.

Theo nội dung đề xuất gửi Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Môi trường kiến nghị giảm từ 20% đến 50% nhiều khoản thu hiện hành thuộc phạm vi quản lý, áp dụng trong nửa cuối năm 2025. Đây là động thái nhằm cụ thể hóa yêu cầu tại Công văn 5648/BTC-CST ngày 28/4/2025, trong đó Bộ Tài chính đề nghị các bộ, ngành đề xuất chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thiết thực, tránh hình thức.

Trong lĩnh vực trồng trọt và giống cây lâm nghiệp, Bộ đề xuất giảm 20% phí duy trì hiệu lực Bằng bảo hộ giống cây trồng cho giai đoạn từ năm thứ 1 đến năm thứ 9, và giảm 30% cho giai đoạn từ năm thứ 10 trở đi. Mức thu hiện nay đang được quy định tại Thông tư số 207/2016/TT-BTC.

Đây là khoản chi thường niên với nhiều cơ sở nghiên cứu và đơn vị sản xuất giống, nên việc giảm phí được kỳ vọng sẽ khuyến khích hoạt động chọn tạo, phát triển nguồn giống chất lượng cao, thích ứng tốt với biến đổi khí hậu – một trong những trụ cột quan trọng để nâng cao năng suất và tính bền vững của nông nghiệp Việt Nam.

Không chỉ vậy, trong lĩnh vực thú y – ngành có vai trò then chốt trong bảo đảm an toàn thực phẩm và kiểm soát dịch bệnh, Bộ cũng đề xuất giảm 50% phí kiểm tra lâm sàng gia cầm. Đây là bước đi đáng chú ý trong bối cảnh dịch bệnh trên vật nuôi có xu hướng diễn biến phức tạp do thời tiết nắng nóng kéo dài và sự gia tăng hoạt động chăn nuôi quy mô nhỏ lẻ.

Thúc đẩy dịch vụ công trực tuyến và hỗ trợ chuyển đổi số

Đề xuất giảm phí, lệ phí không chỉ mang ý nghĩa hỗ trợ tài chính trực tiếp, mà còn góp phần thúc đẩy việc ứng dụng mạnh mẽ dịch vụ công trực tuyến – một trong những định hướng trọng tâm trong chuyển đổi số ngành nông nghiệp – môi trường.

Cụ thể, đối với hoạt động khai thác và sử dụng nguồn nước, Bộ đề nghị giảm 20% phí thẩm định đề án và báo cáo do cơ quan trung ương thực hiện, theo quy định tại Thông tư số 01/2022/TT-BTC. Đây là loại phí thường phát sinh với các dự án đầu tư liên quan đến tài nguyên nước – lĩnh vực vốn đang đối mặt với nhiều thách thức về suy giảm trữ lượng, ô nhiễm nguồn nước và nhu cầu sử dụng gia tăng nhanh.

Về phần lệ phí, Bộ đề xuất giảm 50% lệ phí cấp giấy chứng nhận kiểm dịch đối với động vật, sản phẩm động vật trên cạn và thủy sản trong các trường hợp nhập khẩu, quá cảnh, tạm nhập tái xuất hoặc chuyển cửa khẩu. Đồng thời, lệ phí cấp chứng chỉ hành nghề dịch vụ thú y cũng được đề nghị giảm một nửa để tạo thuận lợi hơn cho các cá nhân hoạt động trong lĩnh vực này, nhất là tại các địa phương vùng sâu vùng xa, nơi dịch vụ hành chính còn hạn chế.

Tính đến nay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang trực tiếp quản lý 5 khoản lệ phí và 38 khoản phí. Việc cắt giảm một phần trong số này không chỉ giúp doanh nghiệp giảm gánh nặng chi phí mà còn khuyến khích họ chủ động sử dụng các dịch vụ hành chính qua môi trường số, từ đó từng bước hiện đại hóa quy trình quản lý nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.

Quan trọng hơn, việc đơn giản hóa và giảm nhẹ chi phí thủ tục cũng giúp khuyến khích nhiều hộ nông dân và doanh nghiệp nhỏ chính thức hóa hoạt động, tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị chính thức và minh bạch – yếu tố then chốt để phát triển nền nông nghiệp quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh và xuất khẩu bền vững.

Đề xuất giảm 20–50% một số loại phí, lệ phí trong ngành nông nghiệp và môi trường không chỉ là biện pháp tình thế nhằm giảm áp lực tài chính, mà còn mở ra cơ hội để thúc đẩy chuyển đổi số, cải thiện năng suất và hiệu quả quản lý nhà nước trong bối cảnh nông nghiệp đang phải đối mặt với những thách thức lớn từ thiên tai, biến đổi khí hậu đến hội nhập thị trường.

Nếu được triển khai hiệu quả, chính sách này sẽ tạo ra hiệu ứng lan tỏa tích cực, giúp doanh nghiệp và người dân mạnh dạn đầu tư công nghệ, tuân thủ các quy trình kỹ thuật, đồng thời đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa nền nông nghiệp Việt Nam theo hướng xanh, thông minh và bền vững.

BN

 

Hiếu Giang tổng hợp

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop