Kiểm soát hàng giả, hàng kém chất lượng thúc đẩy sản xuất nông nghiệp vững vàng hơn - Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Đợt cao điểm này diễn ra từ ngày 15/5/2025 đến 15/6/2025, tập trung tại các địa phương trọng điểm có tình hình phức tạp, nhằm bảo vệ an toàn thực phẩm và thúc đẩy phát triển bền vững ngành nông nghiệp.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định phạm vi kiểm tra tập trung vào các sản phẩm thuộc quản lý nhà nước, với trọng tâm là: an toàn thực phẩm, thực phẩm giả, độc hại, không rõ nguồn gốc; lâm sản, thủy sản; sản xuất, buôn bán giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) giả; sử dụng chất kích thích tăng trưởng trong hoa quả; và lạm dụng hóa chất để tăng trọng, chống mất nước sau khi rã đông, gây gian lận khối lượng, giảm chất lượng sản phẩm. Đây là những vấn đề nhức nhối, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng, môi trường, và uy tín xuất khẩu nông sản Việt Nam.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy chỉ đạo đoàn công tác tuân thủ tinh thần Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 17/5/2025 và Công điện số 65/QĐ-TTg ngày 15/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ. Bộ trưởng yêu cầu thực hiện kiểm tra đúng trọng tâm, trọng điểm, tránh hình thức; phân công nhiệm vụ rõ ràng, phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị thuộc Bộ, địa phương, và cơ quan chức năng để đảm bảo thông tin thông suốt, xử lý kịp thời các tình huống phát sinh. Đặc biệt, Bộ trưởng nhấn mạnh kỷ luật hành chính nghiêm ngặt, đôn đốc tiến độ, xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu, và tháo gỡ vướng mắc trong quá trình thực hiện. Đồng thời, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật được đẩy mạnh nhằm nâng cao ý thức tự giác của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, và người tiêu dùng trong việc ngăn chặn các hành vi vi phạm.
Tổ công tác đợt cao điểm gồm 9 thành viên, do Thứ trưởng Trần Thanh Nam làm Tổ trưởng và Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường Ngô Hồng Phong làm Tổ phó. Các đơn vị trực thuộc Bộ được giao nhiệm vụ cụ thể:
Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường: Thành lập 2 đoàn công tác do lãnh đạo Bộ dẫn đầu, làm việc với tỉnh Kiên Giang và Lào Cai. Nhiệm vụ tập trung kiểm tra an toàn thực phẩm, xử lý nghiêm thực phẩm giả, độc hại, không rõ nguồn gốc, và lạm dụng hóa chất để tăng trọng, chống mất nước trong thủy sản sau rã đông.
Cục Chăn nuôi và Thú y: Kiểm tra nhập khẩu, tạm nhập tái xuất thịt, phụ phẩm gia súc gia cầm, thức ăn chăn nuôi; giám sát buôn bán, vận chuyển gia súc, gia cầm lậu tại cửa khẩu biên giới; và xử lý giống vật nuôi, thuốc thú y, thức ăn chăn nuôi giả, cùng việc lạm dụng hóa chất trong sản phẩm động vật.
Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm: Tập trung kiểm soát buôn bán, vận chuyển trái phép lâm sản, động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm, đồng thời thực hiện truy xuất nguồn gốc lâm sản.
Cục Thủy sản và Kiểm ngư: Kiểm tra giống, thức ăn thủy sản, chất xử lý môi trường nuôi trồng; xử lý hóa chất, kháng sinh cấm trong sản xuất, kinh doanh và nuôi trồng thủy sản; và giám sát vi phạm truy xuất nguồn gốc, chống khai thác IUU (ngư nghiệp bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định).
Vụ Pháp chế: Rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, khắc phục các điểm chưa đầy đủ, lạc hậu, chồng chéo, và phản ánh từ các đơn vị thực hiện.
Đợt cao điểm này diễn ra trong bối cảnh ngành nông nghiệp đối mặt với nhiều thách thức từ buôn lậu và hàng giả, đặc biệt là thực phẩm không an toàn và sản phẩm kém chất lượng ảnh hưởng đến xuất khẩu. Với kim ngạch nông sản đạt 60 tỷ USD năm 2024, việc bảo vệ thương hiệu Việt Nam là ưu tiên hàng đầu. Kết quả từ đợt kiểm tra không chỉ giúp xử lý vi phạm mà còn xây dựng cơ sở pháp lý chặt chẽ, nâng cao ý thức cộng đồng, và thúc đẩy chuỗi cung ứng bền vững. Bộ Nông nghiệp và Môi trường cam kết đồng hành cùng địa phương để đạt mục tiêu xuất khẩu 70 tỷ USD vào năm 2025, đồng thời bảo vệ môi trường và sức khỏe người dân.
Xây dựng 33 mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Thời gian qua, các địa phương trong tỉnh đã tích cực triển khai xây dựng mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất.
Trồng nho trong nhà lưới tại xã Đồng Du (Bình Lục).
Đến nay, toàn tỉnh đã xây dựng và thực hiện được 33 mô hình nhà màn, nhà lưới. Trong đó, huyện Bình Lục xây dựng được 24 mô hình, Lý Nhân 4 mô hình, thị xã Kim Bảng 5 mô hình. Cùng với đó, các địa phương cũng xây dựng được 5 hệ thống tưới có tổng diện tích 62.973 m2 (mỗi mô hình 500- 2.000m2). Các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chủ yếu được áp dụng trong sản xuất rau, củ, quả (rau ăn lá, dưa chuột…). Riêng tại huyện Bình Lục xây dựng mô hình trồng nho hạ đen, mẫu đơn trong nhà lưới có diện tích 2 ha.
Mô hình trồng nho trong nhà lưới tại Đồng Du (Bình Lục).
Các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã và đang phát huy hiệu quả, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Bình quân đạt giá trị cao gấp 3- 4 lần so với sản xuất đại trà, giúp nâng cao thu nhập cho người dân. Cơ bản sản phẩm tại các mô hình đều đạt tiêu chuẩn an toàn, VietGAP…
Thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa
Từ những sản phẩm nuôi trồng tự phát phục vụ gia đình và tiêu thụ tại thị trường nhỏ lẻ, nhiều hợp tác xã (HTX) đã khai thác lợi thế địa phương hình thành vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, theo hướng hàng hóa.
Từ những sản phẩm nuôi trồng tự phát phục vụ gia đình và tiêu thụ tại thị trường nhỏ lẻ, nhiều hợp tác xã (HTX) đã khai thác lợi thế địa phương hình thành vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, theo hướng hàng hóa.
Từ ngày tham gia hợp tác xã, gia đình bà Bàn Thị Thinh ở tổ 9, phường Thống Nhất (TP Hòa Bình) có thu nhập ổn định từ cây sả.
Nhiều năm trước, bà Xa Thị Sinh ở xóm Tràm, xã Tân Pheo (Đà Bắc) đã chăn nuôi lợn bản địa. Ngày đó, việc chăn nuôi chỉ để sử dụng vào dịp lễ, Tết hay nhà có công việc. Thức ăn chăn nuôi tận dụng phụ phẩm trong gia đình, nếu nuôi thêm được vài con thì bán cho những hộ xung quanh có nhu cầu. Năm 2021, bà tham gia là hộ liên kết của HTX đa ngành nghề Tâm Cương Tân Minh, việc chăn nuôi của gia đình chuyển theo hướng hàng hóa. Chuồng trại mở rộng, đầu tư chăn nuôi giống lợn bản địa thuần chủng. Giống lợn này được thị trường ưa chuộng bởi thịt thơm ngon. Bà Sinh cho biết: Từ ngày tham gia HTX gia đình tôi mở rộng chăn nuôi và có nguồn thu nhập ổn định. Công việc chăn nuôi phù hợp với địa phương vì tận dụng được phụ phẩm nông nghiệp và lao động nông nhàn.
Ông Hà Văn Vững ở xóm Tràm, xã Tân Pheo chăn nuôi lợn bản địa từ nhiều năm nay cho biết: Trước đây nhà tôi chăn nuôi nhỏ lẻ, chỉ vài con để dùng trong gia đình. Tính về kinh tế vẫn thấy nuôi lợn hiệu quả hơn các vật nuôi khác nên gia đình mở rộng quy mô. Với diện tích khoảng 3ha, tôi làm rào thả đồi hơn 70 con, đầu tư chuồng trại đơn giản, không phải chăm sóc nhiều. Tôi dự tính tiếp tục nhân đàn khoảng 200 con. Đây là hướng đi phù hợp với bà con vùng cao Đà Bắc.
Không chỉ gia đình bà Sinh, ông Vững mà nhiều hộ ở các xã vùng cao huyện Đà Bắc đã thay đổi tư duy, cách làm trong chăn nuôi. Việc chăn nuôi không chỉ sử dụng trong gia đình mà còn là nguồn thu nhập chính.
Bà Hà Thị Tâm, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX Tâm Cương Tân Minh chia sẻ: Hiện, quy mô nuôi lợn đen của HTX khoảng 200 con/lứa. HTX liên kết với 25 hộ dân trong xã để đảm bảo nguồn hàng cung cấp cho thị trường. Các hộ liên kết ký cam kết với HTX đảm bảo về nguồn giống, quy trình kỹ thuật chăn nuôi. HTX đảm bảo thu mua lợn thương phẩm với giá 80.000 đồng/kg. HTX đã đầu tư hệ thống lò mổ cùng trang thiết bị bảo quản, máy hút chân không, đảm bảo thịt lợn luôn tươi ngon đến tay khách hàng, kể cả khách hàng ở xa. Sản phẩm được gắn tem truy xuất nguồn gốc, có mã số, mã vạch rõ ràng. Thịt lợn móc hàm được HTX bán với giá 130.000 đồng/kg; bán lẻ hút chân không 150.000 đồng/kg. Trung bình mỗi tháng, HTX tiêu thụ khoảng 5 tạ lợn thương phẩm. Hiện tại, nhu cầu thực phẩm sạch của người tiêu dùng các tỉnh, thành phố rất lớn. Mỗi năm, vào dịp Tết Nguyên đán chúng tôi không đủ hàng cung cấp cho thị trường. Trung bình dịp Tết tiêu thụ hơn 100 con lợn đen. Tôi tin rằng, sau khi sản phẩm lợn bản địa Tân Minh được công nhận đạt chuẩn OCOP thì thị trường sẽ được mở rộng. Do đó, HTX mong muốn liên kết với các HTX chăn nuôi lợn đen trên địa bàn tỉnh. Từ đó tạo thành chuỗi liên kết ngành lợn đen của tỉnh, đảm bảo nguồn cung cho thị trường các tỉnh, thành phố trên cả nước.
Trước đây, sản phẩm sả của bà con ở phường Thống Nhất, TP Hòa Bình được trồng để nhà dùng. Gia đình nào có nhiều thì bán nhỏ lẻ ngoài chợ. Từ khi HTX nông nghiệp bản Dao Thống Nhất được thành lập, triển khai làm sản phẩm tinh dầu sả thì ngoài phần củ sả bán ra thị trường, bà con tận dụng lá sả bán cho HTX làm tinh dầu. Cũng từ đó, diện tích sả được mở rộng hơn 20ha và trở thành cây trồng chủ lực của địa phương.
Bà Bàn Thị Thinh ở tổ 9, phường Thống Nhất cho biết: Gia đình tôi có diện tích 2ha. Trước đây trồng mía, trồng ngô, việc tiêu thụ phụ thuộc vào thị trường. Nhiều năm mía rẻ không muốn thu hoạch. Từ ngày thành lập HTX, tôi chuyển sang trồng sả. Việc chăm sóc cây sả ít tốn chi phí và công hơn. Mặt khác được thu thường xuyên và giá ổn định, phù hợp với người nông dân.
Bà Nguyễn Thị Bình, Giám đốc HTX nông nghiệp bản Dao Thống Nhất cho biết: Trước đây các hộ trồng sả theo hình thức nhỏ lẻ nên không thành vùng canh tác. Từ sự liên kết với người sản xuất, mô hình phát triển bền vững hơn. Vùng trồng nguyên liệu lớn và sản xuất tinh dầu sả tạo hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho người dân. Cũng từ đó người dân mạnh dạn chuyển đổi mô hình sản xuất nhỏ lẻ, manh mún sang sản xuất tập trung, quy mô lớn với tiêu chuẩn chất ượng cao. Đây là hướng đi lâu dài tạo dựng vùng trọng điểm trong phát triển nông nghiệp hàng hóa của tỉnh.
Tiền Giang: Hiệu quả từ công tác phối hợp hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã
Trong giai đoạn 2019 - 2024, công tác phối hợp giữa Hội Nông dân, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường) và Liên minh HTX tỉnh Tiền Giang đã tạo nên những thành tựu quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế tập thể (KTTT) và hợp tác xã (HTX).
Hội Nông dân, ngành Nông nghiệp và Liên minh HTX tỉnh ký kết công tác phối hợp phát triển KTTT, HTX trong thời gian tới.
Trong 5 năm qua, Hội Nông dân, ngành Nông nghiệp và Liên minh HTX đã tích cực tham mưu các chương trình, chính sách hỗ trợ phát triển KTTT, HTX. Theo đó, liên ngành đã tích cực phối hợp với các sở, ban, ngành, địa phương trong việc tham mưu đề xuất với Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh phổ biến rộng rãi, triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch, nghị quyết về phát triển KTTT, HTX của Trung ương, tỉnh. Liên minh HTX tỉnh đã phối hợp tổ chức 163 lớp tuyên truyền chính sách pháp luật về KTTT, HTX với 8.325 lượt người tham dự. Các lớp đổi mới cả về nội dung và hình thức theo hướng thiết thực, hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng.
Liên ngành còn triển khai thực hiện các chương trình hỗ trợ phát triển KTTT, HTX. Theo đó, liên ngành đã phối hợp với các sở, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, chính quyền địa phương tổ chức tuyên truyền trực tiếp cho các sáng lập viên, nông dân tham gia thành lập HTX. Trong 5 năm, đã thành lập được 116 HTX. Tính đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có 275 HTX, quỹ tín dụng nhân dân.
Giai đoạn 2019 - 2024, ngành Nông nghiệp, Liên minh HTX tỉnh tổ chức 44 lớp bồi dưỡng, tập huấn với nhiều chuyên đề thiết thực như: Chuyển đổi số, thuế, xúc tiến thương mại, thuế, kỹ năng quản lý điều hành, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, kỹ năng đàm phán, ký kết hợp đồng, nghiệp vụ về kiểm toán, kiểm soát... với 1.688 người tham dự.
Các lớp học này không chỉ mở rộng kiến thức, mà còn xây dựng kỹ năng thực tế, thúc đẩy năng lực cạnh tranh và khả năng thích nghi của HTX với xu hướng chuyển đổi số hiện nay. Phối hợp với Trường Trung cấp nghề và đào tạo cán bộ HTX miền Nam tổ chức đào tạo lớp trung cấp kế toán HTX cho 21 học viên.
Ngành Nông nghiệp phối hợp Liên minh HTX tỉnh và các sở, ngành, địa phương triển khai thẩm định hồ sơ, kiểm tra, giám sát việc sử dụng lao động trẻ của HTX. Giai đoạn 2018 - 2020 hỗ trợ kinh phí chi trả lương cho 9 lao động trẻ về làm việc cho 9 HTX với kinh phí hỗ trợ hơn 606 triệu đồng; giai đoạn 2023 - 2024 hỗ trợ kinh phí chi trả lương cho 61 lao động trẻ làm việc tại 41 HTX với kinh phí hơn 4,908 tỷ đồng.
Theo đánh giá chung, giai đoạn 2019 - 2024, sự phối hợp giữa Hội Nông dân, ngành Nông nghiệp và Liên minh HTX tỉnh đã tạo nên những thành tựu quan trọng trong việc thúc đẩy KTTT và HTX.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa 3 cơ quan đã đảm bảo các chính sách hỗ trợ KTTT được thực thi hiệu quả.
Các HTX được tiếp cận dễ dàng hơn với các nguồn vốn ưu đãi, đất đai, kỹ thuật, hỗ trợ hạ tầng, xúc tiến thương mại… Qua đó, giúp HTX giải quyết được những khó khăn cơ bản và mở rộng quy mô hoạt động. Sự phối hợp giữa 3 ngành đã tạo ra những bước tiến lớn trong phát triển KTTT.
Đây là minh chứng cho thấy tầm quan trọng của sự hợp tác liên ngành trong việc thúc đẩy hiệu quả hoạt động của HTX và cải thiện chất lượng đời sống người dân.
Liên minh HTX tỉnh phối hợp với các sở, ban, ngành tỉnh xây dựng, đổi mới nội dung, hình thức hệ thống thông tin dữ liệu tuyên truyền, hỗ trợ về KTTT, HTX trên địa bàn tỉnh. Trong đó, chú trọng phát triển website http://lmhtx.tiengiang.gov.vn/ để cập nhật các văn bản, tin tức, giới thiệu các mô hình HTX kiểu mới để phổ biến và nhân rộng.
Đồng thời, xây dựng “Hệ thống quản lý HTX tỉnh Tiền Giang” tại địa chỉ https://tthtx.tiengiang.gov.vn nhằm chuyển đổi số trong công tác quản lý HTX, giúp cho việc cung cấp thông tin về HTX được nhanh chóng, hiệu quả.
Giai đoạn 2019 - 2024, Liên minh HTX tỉnh đã phối hợp với các ngành giới thiệu cho hơn 100 HTX liên kết với các doanh nghiệp trong cung ứng, tiêu thụ sản phẩm; tổ chức 5 đoàn cho các HTX tham dự Hội chợ xúc tiến thương mại cho khu vực KTTT, HTX tại miền Bắc, miền Trung - Tây Nguyên, miền Nam cho 38 lượt HTX.
Ngành Nông nghiệp phối hợp Liên minh HTX tỉnh, các sở, ngành, địa phương trong công tác triển khai, thẩm định hồ sơ đề nghị và trình phê duyệt danh mục hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng cho HTX. Giai đoạn 2019 - 2020, tỉnh đã hỗ trợ 42 công trình cho 35 HTX, với tổng kinh phí thực hiện là 32 tỷ đồng; giai đoạn 2023 - 2024 hỗ trợ cho 10 HTX, kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ 10,72 tỷ đồng. Các công trình đã được bàn giao, nghiệm thu và đưa vào sử dụng đem lại hiệu quả tích cực trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh của HTX.
Bên cạnh đó, còn phối hợp với Ngân hàng Nhà nước tháo gỡ khó khăn về tín dụng, vay vốn cho các HTX... Đồng thời, hướng dẫn HTX xây dựng phương án vay vốn từ nguồn vốn Quỹ hỗ trợ phát triển HTX của Quỹ Đầu tư phát triển tỉnh và Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX Việt Nam. Đến nay, có 10 HTX đang vay vốn tại Quỹ Đầu tư phát triển với 17 dự án. Tổng nguồn vốn vay là 21,949 tỷ đồng, tổng dư nợ cho vay là 8,446 tỷ đồng. Quỹ hỗ trợ phát triển HTX Việt Nam cho 2 HTX vay vốn với số tiền là 2,446 tỷ đồng.
Để hỗ trợ các HTX phát triển sản xuất, kinh doanh, Liên minh HTX tỉnh đã phối hợp sở, ngành, địa phương hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho các HTX được thuê đất để xây dựng trụ sở làm việc. Đến nay, toàn tỉnh có 84 HTX nông nghiệp được địa phương cho thuê đất, nhưng không thu tiền với diện tích 316 ha. Trong đó, 19 HTX có quyền sử dụng đất với diện tích 290,8 ha để sản xuất, xây dựng trụ sở, nhà kho, nhà sơ chế bảo quản sản phẩm; 52 HTX thuê đất cá nhân với tổng số diện tích 3 ha.
Ngoài ra, để giúp các HTX nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển bền vững, Liên minh HTX tỉnh đã phối hợp hướng dẫn hỗ trợ cho 121 HTX nông nghiệp sản xuất đạt chứng nhận theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP.
Đồng thời, tham mưu và được UBND tỉnh ban hành Kế hoạch 372 về việc thực hiện liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2021 - 2025. Hiện có 19 dự án và 33 kế hoạch liên kết được phê duyệt, với tổng kinh phí thực hiện 248,07 tỷ đồng; trong đó nguồn vốn từ ngân sách nhà nước hỗ trợ là 31,935 tỷ đồng.
Phát huy những kết quả đạt được, Liên minh HTX tỉnh sẽ phối hợp với các ngành tiếp tục tăng cường các hoạt động phối hợp nhằm phát huy đầy đủ vai trò, thế mạnh, nâng cao trách nhiệm của các ngành; quán triệt và triển khai thực hiện tốt quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT, HTX.
Một trong những định hướng quan trọng là triển khai hiệu quả các chương trình hỗ trợ, chính sách khuyến khích phát triển KTTT, HTX; xây dựng và phát triển mô hình kinh tế hợp tác, HTX theo chuỗi giá trị góp phần quan trọng thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với tái cơ cấu ngành Nông nghiệp của tỉnh theo hướng phát triển bền vững, hiệu quả.
Theo đó, liên ngành sẽ tập trung nâng cao nhận thức về bản chất, vị trí, vai trò và tầm quan trọng của KTTT trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, tiếp tục tham mưu hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển KTTT. Một trong những nội dung quan trọng là đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức KTTT; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với KTTT...
Trồng chanh, rau thu tiền tỷ, nông dân Bến Lức tự tin làm nông nghiệp công nghệ cao
Trên những cánh đồng phẳng lặng ở vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ Đông, huyện Bến Lức (tỉnh Long An) đang chuyển mình mạnh mẽ trong cuộc cách mạng sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghệ cao.
Không còn những cảnh người nông dân “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” với chiếc nón lá bạc màu và đôi tay lấm lem bùn đất. Giờ đây, nông dân Bến Lức điều hành nhà kính qua điện thoại, canh tác bằng hệ thống tưới tự động, giám sát dịch bệnh bằng cảm biến, và đăng ký sở hữu trí tuệ để bảo vệ thương hiệu nông sản của mình.
Từ cây chanh thế mạnh
Bến Lức từng được biết đến là vựa lúa truyền thống của tỉnh Long An, với hàng ngàn ha chuyên canh lúa nước. Tuy nhiên, nhiều năm trước, mô hình sản xuất manh mún, phụ thuộc thời tiết, năng suất thấp và hiệu quả kinh tế không cao khiến nông dân ngày càng gặp khó.
Trước bối cảnh đó, huyện đã mạnh dạn triển khai tái cơ cấu ngành nông nghiệp, khuyến khích chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang các mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao, hình thành chuỗi giá trị.
Ứng dụng công nghệ cao giúp người trồng chanh ở Bến Lức thu lời trên 200 triệu đồng/ha (Ảnh: BLA).
Điển hình, trồng 4ha chanh theo hướng ứng dụng công nghệ cao, anh Trần Hữu Thạch (ấp 5, xã Lương Bình) cho biết toàn bộ vườn chanh đều sử dụng phân bón hữu cơ, thuốc bảo vệ thực vật sinh học theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, tiết kiệm đáng kể nước tưới và vật tư đầu vào so với phương pháp canh tác truyền thống.
Hiện nay, trong khi giá thị trường chanh dao động ở mức 18.000 đồng/kg, thì doanh nghiệp liên kết thu mua sản phẩm của gia đình anh Thạch với giá 21.000 đồng/kg. Nếu tính thêm phần hỗ trợ chanh đạt chuẩn xuất khẩu, chi phí thuốc bảo vệ thực vật và quy trình sản xuất đạt chuẩn GlobalGAP, giá bán lên tới 23.000 đồng/kg. Với mức giá này, lợi nhuận mỗi ha chanh đạt khoảng 200 triệu đồng/năm.
Đáng chú ý, sản phẩm chanh đạt chuẩn GlobalGAP hoặc canh tác theo hướng GAP đều đủ điều kiện xuất khẩu sang thị trường châu Âu. Mức giá thu mua chanh ứng dụng công nghệ cao thường cao hơn thị trường từ 3.000 – 5.000 đồng/kg, giúp nông dân chuyển đổi tư duy sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, đồng thời góp phần xây dựng thương hiệu chanh Bến Lức trên thị trường quốc tế.
Xác định phát triển cây chanh theo hướng ứng dụng công nghệ cao là hướng đi tất yếu, huyện Bến Lức đã phối hợp các ngành chức năng triển khai đồng bộ nhiều giải pháp.
Cụ thể, huyện thực hiện 10 cánh đồng phòng trừ sâu bệnh tổng hợp với quy mô 160ha tại 6 xã (kinh phí gần 1,6 tỷ đồng), xây dựng 27 mô hình tưới tiết kiệm (kinh phí 748 triệu đồng), hỗ trợ giống chanh trên diện tích 318ha (gần 1,7 tỷ đồng). Tổng kinh phí thực hiện đến nay đạt hơn 4,4 tỷ đồng.
Đến những khu vườn công nghệ
Bên cạnh cây chanh, khoa học công nghệ cũng được nông dân, HTX ở Bến Lức đưa vào ứng dụng sản xuất nhiều loại cây trồng khác. Như ở xã Lương Bình, HTX Nông nghiệp Sạch Bến Lức là một trong những đơn vị tiên phong ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất rau màu an toàn.
Những luống rau xanh mướt trải dài trong nhà màng rộng hàng ngàn mét vuông không còn phụ thuộc vào mưa nắng tự nhiên, mà được điều khiển hoàn toàn tự động thông qua hệ thống cảm biến và bảng điều khiển thông minh.
Anh Nguyễn Minh Tân – Giám đốc HTX chia sẻ: “Chúng tôi đầu tư nhà màng, hệ thống tưới nhỏ giọt, cảm biến độ ẩm, giám sát nhiệt độ, ánh sáng bằng phần mềm kết nối điện thoại. Từ khâu gieo hạt, chăm sóc đến thu hoạch đều được tiêu chuẩn hóa. Nhờ đó, sản phẩm đồng đều, đạt tiêu chuẩn VietGAP, có thể truy xuất nguồn gốc rõ ràng”.
Không chỉ sản xuất an toàn, HTX còn chú trọng phát triển thương hiệu. Gần đây, HTX đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp chứng nhận nhãn hiệu tập thể cho sản phẩm “Rau sạch Bến Lức”, góp phần nâng cao uy tín, tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Hiện sản phẩm của HTX đã có mặt tại các siêu thị và cửa hàng thực phẩm sạch tại TP.HCM và các tỉnh lân cận.
HTX trở thành điểm tựa giúp thành viên, nông dân liên kết tự tin ứng dụng công nghệ cao (Ảnh: BLA).
Cùng với rau màu, nhiều HTX trồng cây ăn trái tại Bến Lức cũng đang thay đổi cách làm nông nghiệp truyền thống bằng tư duy khoa học. HTX Thanh long Hòa Khánh (xã Hòa Khánh Đông) hiện đang canh tác hơn 30ha thanh long theo quy trình hữu cơ kết hợp công nghệ cao. Trên mỗi cây thanh long, hệ thống tưới nhỏ giọt và cảm biến độ ẩm đất được tích hợp, giúp tối ưu nguồn nước và phân bón.
HTX từng bước loại bỏ thói quen canh tác truyền thống để hướng tới mô hình thanh long công nghệ cao. Việc sử dụng đèn LED cho thanh long ra hoa trái vụ, phun xịt bằng chế phẩm sinh học thay thuốc hóa học là minh chứng rõ nét cho sự thay đổi.
Quan trọng hơn, HTX đã xây dựng thành công mã số vùng trồng, được cấp mã truy xuất nguồn gốc và đang trong quá trình hoàn thiện hồ sơ đăng ký chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm “Thanh long Hòa Khánh”. Đây là bước tiến quan trọng giúp sản phẩm có thể vươn ra thị trường quốc tế, nhất là các thị trường yêu cầu cao như Nhật Bản, Hàn Quốc, EU.
Tạo “hệ sinh thái” cho nông nghiệp công nghệ cao
Không dừng lại ở việc khuyến khích HTX áp dụng công nghệ, huyện Bến Lức còn chú trọng xây dựng “hệ sinh thái” hỗ trợ toàn diện, từ tín dụng ưu đãi, xúc tiến thương mại, phát triển thương hiệu đến chuyển giao khoa học kỹ thuật. Huyện đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ HTX tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi, kết nối doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, xây dựng mã số vùng trồng, đăng ký nhãn hiệu hàng hóa…
Thành công của các HTX trên địa bàn huyện cũng có những đóng góp không nhỏ từ các chính sách đồng hành của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Long An. Cụ thể, trong năm 2024, Quỹ hỗ trợ phát triển HTX tỉnh Long An đã giải ngân 23,55 tỷ đồng cho 25 HTX, trong đó có các HTX tại huyện Bến Lức.
Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh cũng đẩy mạnh tổ chức nhiều lớp đào tạo và bồi dưỡng cho cán bộ quản lý HTX, bao gồm lớp bồi dưỡng cho Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc HTX và các lớp phổ biến kiến thức về kinh tế tập thể và HTX.
Cùng với đó, Liên minh HTX tỉnh Long An đã ký kết hợp tác với các doanh nghiệp để bao tiêu sản phẩm cho các HTX trên địa bàn huyện Bến Lức, từ đó giúp các HTX ổn định đầu ra và nâng cao giá trị sản phẩm.
Từ những chương trình hỗ trợ, đồng hành của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Long An, những mô hình HTX thành công như HTX Nông nghiệp Sạch Bến Lức, HTX Thanh long Hòa Khánh đã ra đời, góp phần phác họa một bức tranh nông nghiệp công nghệ cao ở Bến Lức.
Bến Lức hiện không còn là vùng đất trũng trong tư duy và công nghệ, mà là vùng đất “thông minh”, nơi những người nông dân không chỉ làm ra hạt gạo, trái cây mà còn làm chủ cả quy trình, thương hiệu và giá trị sản phẩm.
Hành trình này còn nhiều thử thách, nhưng bằng sự chủ động, sáng tạo và tinh thần dấn thân từ những HTX tiêu biểu, “giấc mơ công nghệ” của người nông dân Bến Lức đang dần thành hiện thực.
Liên kết sản xuất lúa hình thành những 'cánh đồng vàng' ở Phú Yên
Với việc tập trung đầu tư vào các khâu giống, ứng dụng công nghệ và xây dựng liên kết chuỗi giá trị, trên địa bàn tỉnh Phú Yên ngày càng xuất hiện nhiều điểm sáng về sản xuất lúa. Trong đó, 145 HTX nông nghiệp được đánh giá là mắt xích vững chắc trong chuỗi giá trị sản xuất lúa ở các địa phương, nâng cao thu nhập cho các thành viên và hộ dân liên kết, góp phần quan trọng trong thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững của tỉnh.
Thời gian qua, trong quá trình quản lý sản xuất, các HTX từng bước nâng cao giá trị hạt lúa bằng cách xây dựng thương hiệu gạo chất lượng cao, ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ số vào sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Thành công của các HTX góp phần đưa Phú Yên trở thành vựa lúa của miền Trung, mỗi năm canh tác 55.000ha lúa 2 vụ, tổng sản lượng khoảng 340.000 tấn
Bắt đầu từ “nhất giống”…
Năm 2010, thực hiện chương trình sản xuất lúa giống của tỉnh, HTX Dịch vụ nông nghiệp Hòa Quang Nam (huyện Phú Hòa) đã phục tráng các nguồn giống phù hợp với thổ nhưỡng địa phương, tạo ra các giống lúa nguyên chủng, siêu nguyên chủng. Khoảng 2 năm sau, sản phẩm lúa giống HQ ra đời gắn với logo HTX Hòa Quang Nam được công nhận và Cục Sở hữu trí tuệ cấp nhãn hiệu độc quyền.
Sử dụng giống chuẩn được xác nhận giúp tăng năng suất lúa, nâng cao thu nhập của nông dân và thành viên HTX.
HTX Hòa Quang Nam là HTX nông nghiệp đầu tiên của tỉnh Phú Yên tiến hành xây dựng thương hiệu lúa giống. Và nhờ có thương hiệu, HTX đã tiêu thụ được từ 35-40 tấn lúa giống xác nhận cấp 1.
“Cái được lớn nhất của việc sản xuất lúa giống tại các HTX là tạo đà đẩy mạnh phong trào giống nông hộ trong thành viên. Từ đây, bà con thay đổi thói quen sử dụng lúa thịt làm giống. Trên cánh đồng không còn giống lẫn tạp sẽ tạo điều kiện cho công tác phòng trừ dịch hại, duy trì ổn định sản xuất trên diện rộng”, đại diện HTX chia sẻ.
HTX nông nghiệp An Nghiệp (huyện Tuy An) cũng là một điển hình trong việc hướng dẫn chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa và hiệu quả kinh tế; góp phần tích cực thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Trong đó, việc thực hiện mô hình giảm lượng giống gieo sạ và mô hình sản xuất lúa giống chất lượng cao đã đem lại lợi nhuận cao cho người trồng lúa.
Giám đốc HTX An Nghiệp Trần Tấn Khoa cho biết, tổng diện tích đất canh tác của HTX chỉ 470ha, trong đó diện tích sản xuất hai vụ lúa có 243ha. Năm 2005, HTX được chọn tham gia dự án sản xuất lúa giống nông hộ do Sở NN&PTNT Phú Yên làm chủ đầu tư. Dự án đã đào tạo được 5 lớp, mỗi lớp 30 học viên nông dân trực tiếp tham gia sản xuất lúa. Đây là nguồn nhân lực cơ bản ban đầu để HTX tổ chức sản xuất lúa giống, trước mắt là cung cấp lúa giống cho nhu cầu ở địa phương.
Từ 2ha ban đầu, đến nay, mỗi vụ HTX An Nghiệp sản xuất 30ha lúa giống theo hợp đồng liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ngay từ đầu vụ với các doanh nghiệp, sản lượng lúa giống tiêu thụ hằng năm từ 350-400 tấn. Kết quả sản xuất lúa giống có những ưu điểm vượt trội như giảm chi phí đầu tư 20%, năng suất tăng 10%, nên nông dân yên tâm sản xuất.
Hiện nay, thực hiện Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), HTX An Nghiệp chọn sản phẩm là gạo chất lượng cao, hướng tới gạo sạch chất lượng cao, được người tiêu dùng chấp nhận…
…Đến áp dụng cơ giới hóa và công nghệ số
HTX Nông nghiệp An Nghiệp cũng là một trong những HTX đầu tiên của tỉnh đưa máy sấy lúa vào vận hành. Từ năm 2019 đến nay, máy sấy vẫn hoạt động tốt với công suất từ 15-35 tấn/mẻ, giúp bà con không còn lo thời tiết mưa nắng bất thường mỗi vụ thu hoạch.
Phú Yên đẩy mạnh các giải pháp giảm giá thành sản xuất lúa gạo nhờ áp dụng cơ giới hóa và khoa học công nghệ, đồng thời nâng cao giá trị sản phẩm.
Học tập HTX An Nghiệp, nhiều HTX trên địa bàn Phú Yên đã đầu tư máy sấy, giải phóng sức lao động và ổn định sản xuất.
Ông Nguyễn Văn Đông, Giám đốc HTX Nông nghiệp kinh doanh dịch vụ Hòa Phong (huyện Tây Hòa) cho biết, HTX đầu tư mua sắm máy sấy điện với công suất từ 5-8 tấn lúa/ca. Máy được vận hành bằng công nghệ thông minh 4.0: tự ngắt khi đủ độ ẩm, độ nóng. Hiện nay, với diễn biến thời tiết bất thường, lúa sau thu hoạch nếu chỉ chờ phơi nắng thì độ ẩm vẫn còn, khiến hạt gạo bị kém chất lượng. Việc đưa máy sấy vào hoạt động sẽ đáp ứng nhu cầu của bà con, giúp người dân có thể trữ lúa lâu dài chờ thời điểm xuất bán, không bị ép giá.
Trong khi đó, không chỉ áp dụng các kỹ thuật sản xuất như sạ hàng sạ thưa, quản lý dịch hại tổng hợp IPM, “1 phải, 5 giảm”, “3 giảm, 3 tăng”…, HTX Nông nghiệp dịch vụ Hòa Định Đông (huyện Phú Hòa) còn triển khai thí điểm mô hình sử dụng đất và phân bón hợp lý cho cây lúa bằng công nghệ số. Giám đốc Lê Văn Định thông tin: “Cơ sở dữ liệu về đất nông nghiệp sẽ được số hóa thành phần mềm. Thành viên HTX chỉ cần sử dụng điện thoại và tải phần mềm là sẽ nắm được toàn bộ thông tin về đất gắn với từng giai đoạn sinh trưởng phát triển của cây lúa và từng khâu làm đất, xuống giống, làm đòng… Ở mỗi giai đoạn, phần mềm sẽ khuyến cáo về lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật phù hợp để cây phát triển tốt nhất cũng như cảnh báo nguy cơ xảy ra dịch bệnh để xử lý ngay từ khi phát hiện…”.
Hiện, trên cánh đồng của nhiều HTX sản xuất lúa, khâu làm đất được thực hiện bằng máy cày đất, sạ lúa bằng máy gieo giống, phun thuốc bằng máy bay không người lái, thu hoạch bằng máy gặt, rơm cũng được cuộn tự động bằng máy. Lúa sau thu hoạch được chở về HTX sấy khô và đóng bao tự động… Tất cả khâu sản xuất đang được các HTX thực hiện bằng cơ giới hóa với tỷ lệ bình quân đạt trên 90%.
Ngành nông nghiệp Phú Yên đã xúc tiến, đẩy nhanh việc dồn điền đổi thửa để tăng quy mô sản xuất/hộ. Đồng thời, phối hợp với các đơn vị của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh hướng dẫn đẩy mạnh các giải pháp giảm giá thành sản xuất lúa gạo như áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật thâm canh trong sản xuất lúa như IPM, ICM, “3 giảm, 3 tăng”; nâng cao tỷ lệ sử dụng lúa xác nhận, giảm mật độ gieo sạ, bón phân cân đối, tăng cường sử dụng phân hữu cơ, đẩy mạnh ứng dụng cơ giới hóa vào sản xuất, đặc biệt là ứng dụng máy bay không người lái vào các khâu gieo sạ, bón phân, phun thuốc bảo vệ...
Đặc biệt, Phú Yên đã thực hiện các chính sách như khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; khuyến khích phát triển hợp tác liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn theo nghị định của Chính phủ và nghị quyết của HĐND tỉnh nhằm mở rộng quy mô sản xuất lúa thông qua đẩy mạnh tích tụ ruộng đất.
Đề người trồng lúa “sống được” bằng nghề
Hiện nay, tỉnh Phú Yên đang tập trung các giải pháp thúc đẩy sản xuất lúa gạo chất lượng, đáp ứng thị trường xuất khẩu, giúp người trồng lúa có lợi nhuận cao hơn. Đồng thời, tỉnh cũng đẩy mạnh công tác hỗ trợ các mô hình sản xuất điểm, áp dụng tiến bộ công nghệ mới, sản xuất xanh, đào tạo tập huấn và hỗ trợ nông dân, HTX về xúc tiến thương mại.
Mới đây, Liên minh HTX tỉnh Phú Yên đã hoàn thành khóa đào tạo kỹ năng xúc tiến thương mại cho các HTX trong tỉnh. Tại đây, các HTX được hướng dẫn ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong xúc tiến thương mại, kỹ năng xây dựng thông điệp marketing và mạng lưới bán hàng, các phương pháp quảng bá thương hiệu, giới thiệu sản phẩm trên các phương tiện thông tin, mạng xã hội. Các HTX cũng được hướng dẫn các công cụ thu thập thông tin nhu cầu thị trường, định vị thương hiệu sản phẩm và xây dựng chiến lược kênh phân phối, chiến lược giá… Đây là một trong những hoạt động của Kế hoạch xúc tiến thương mại năm 2025 mà Liên minh HTX tỉnh đang triển khai cho các HTX.
Giám đốc HTX Nông nghiệp An Nghiệp Trần Tấn Khoa cho biết, việc tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại giúp thành viên HTX nâng cao hiểu biết. Nhớ lại những ngày đầu mang sản phẩm gạo thơm Hoa Vàng đi hội chợ, vì bao bì, mẫu mã xấu và thông tin sản phẩm, nơi sản xuất… chưa đầy đủ nên HTX gặp khó với việc liên kết tiêu thụ. Sau khi thiết kế lại bao bì và đầu tư máy móc tự động hóa các khâu đóng, khâu bao…, sản phẩm được thị trường đón nhận tích cực. Thêm nữa, cũng từ các hội chợ thương mại được tham gia, HTX từng bước đa dạng sản phẩm để tăng lựa chọn cho khách hàng và tăng cơ hội tiếp cận thị trường cho sản phẩm của HTX.
“Sau khi đưa thành công giống lúa ST24 vào đồng ruộng địa phương, HTX mong muốn xây dựng sản phẩm gạo ST24 Hòa Phú theo hướng thương mại. Vì là lần đầu thực hiện nên HTX khá lúng túng với các quy định về một sản phẩm thương mại đủ điều kiện lưu thông trên thị trường. Từ các lớp tập huấn về xúc tiến thương mại, đơn vị dần dẫn tích lũy được kiến thức và kinh nghiệm. Hiện, sản phẩm của HTX có nhãn hiệu được đăng ký độc quyền và mã QR trên bao bì; có mặt tại một số cửa hàng, siêu thị trong và ngoài tỉnh”, ông Võ Văn Dị, Giám đốc HTX Nông nghiệp kinh doanh dịch vụ Hòa Phú (huyện Tây Hòa) chia sẻ.
Ông Nguyễn Văn Đông, Giám đốc HTX Nông nghiệp kinh doanh dịch vụ Hòa Phong cho biết, nhằm khuyến khích, hỗ trợ thành viên đầu tư, mở rộng phát triển vào lĩnh vực nông nghiệp; đẩy mạnh phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho thành viên trên cùng một đơn vị diện tích, trong những năm qua, được sự hỗ trợ của Nhà nước, HTX Hòa Phong triển khai thực hiện các mô hình khuyến nông đem lại hiệu quả cao. Cụ thể như: Mô hình cánh đồng mẫu thực hiện chương trình giảm lượng giống gieo sạ, ứng dụng cơ giới hóa vào sản xuất; mô hình cánh đồng mẫu sản xuất lúa chất lượng, ứng dụng cơ giới hóa; mô hình cánh đồng mẫu thực hiện chương trình giảm lượng giống, ứng dụng cơ giới hóa được Nhà nước hỗ trợ 100% giống từ nguồn kinh phí hỗ trợ cho người trồng lúa theo Nghị định số 62/2019/NĐ-CP của Chính phủ, với diện tích 50ha, 264 hộ tham gia …
Đặc biệt, HTX Hòa Phong đã triển khai mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa giống và lúa thương phẩm. HTX đứng ra ký hợp đồng với các trung tâm giống và công ty để thực hiện liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm lúa của thành viên. Nhờ mô hình này, giá lúa bán cao hơn, nên lợi nhuận bình quân hơn 30 triệu đồng/ha, cao hơn ruộng sản xuất bình thường từ 8 triệu - 10 triệu đồng/ha.
Ngoài các mô hình sản xuất nêu trên, thời gian qua, HTX phối hợp các công ty giống trong và ngoài tỉnh triển khai các mô hình trình diễn giống lúa mới năng suất và chất lượng cao để nhân rộng trong sản xuất. Năng suất bình quân cả năm của các mô hình là 80 tạ/ha, so với sản xuất lúa bình thường tăng 1,5 tạ/ha.
“Việc thực hiện các mô hình sản xuất lúa góp phần nâng cao trình độ sản xuất cây lúa, giúp thay đổi nhận thức, tập quán canh tác của nông dân, áp dụng được các biện pháp khoa học, kỹ thuật vào quá trình sản xuất cây lúa làm giảm chi phí đầu vào, tăng năng suất, chất lượng, tăng hiệu quả kinh tế cho các thành viên”, Giám đốc HTX Hòa Phong nói.
Nâng cao kỹ thuật sản xuất, thay đổi thói quen canh tác lạc hậu đã và đang giúp hạt lúa trở thành sản phẩm có giá trị. Giá trị này lại một lần nữa được các HTX khẳng định bằng cách xây dựng các thương hiệu gạo chất lượng cao. Có thể kể tới sản phẩm gạo thơm Hoa Vàng của HTX An Nghiệp, gạo chất lượng Hòa Phú của HTX Hòa Phú, gạo chất lượng cao Đất Phú của HTX Nông nghiệp Phú Yên (huyện Phú Hòa), gạo chất lượng cao Hòa Thành của HTX Dịch vụ nông nghiệp tổng hợp Hòa Thành (thị xã Đông Hòa), gạo chất lượng Hòa Quang Nam của HTX Hòa Quang Nam…
Ông Trần Tấn Khoa, Giám đốc HTX Nông nghiệp An Nghiệp cho biết: Năm 2022, sản phẩm gạo thơm Hoa Vàng của HTX đạt chứng nhận OCOP 3 sao cấp tỉnh. Sau khi hết hạn, HTX tiếp tục hoàn tất hồ sơ đăng ký và sản phẩm một lần nữa đạt chứng nhận OCOP 3 sao lần 2 vào năm 2024. Cùng với quá trình này, sản phẩm gạo của HTX ngày một chuyên nghiệp. Không chỉ chất lượng gạo được củng cố mà mẫu mã bao bì và thông tin sản phẩm cũng ngày một rõ ràng, minh bạch. Nhờ đó, sản phẩm có mặt trong các siêu thị, cửa hàng, được nhiều công ty đăng ký đại diện tiêu thụ. Gạo An Nghiệp theo các đơn hàng có mặt ở trong và ngoài nước.
Cũng với mong muốn nâng cao giá trị hạt gạo quê hương, nhiều HTX muốn kết nối các HTX cùng sản xuất gạo để đưa thương hiệu gạo từ phạm vi làng xóm lên phạm vi toàn huyện, toàn tỉnh. Theo ông Nguyễn Hữu Hồng, Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp Hòa Trị 2, HTX kêu gọi nhiều HTX ở địa phương cùng nhau xây dựng thương hiệu gạo Phú Hòa. Các HTX đều đồng thuận và đang cùng HTX mua máy sấy, máy đóng bao, đăng ký thương hiệu, mã vạch hàng hóa…
Theo Liên minh HTX tỉnh, toàn tỉnh có 145 HTX nông nghiệp đang quản lý hoạt động sản xuất lúa. Các HTX đang hướng tới cơ giới hóa, ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ giúp cây lúa, hạt gạo từng bước trở thành hàng hóa có giá trị trên thị trường. Hiện, tất cả HTX xây dựng được thương hiệu cho sản phẩm gạo chất lượng cao đều bao tiêu 100% sản lượng cho thành viên. Việc tìm đầu ra cho hạt lúa vì vậy không còn là bài toán khó với các HTX.
Cũng chính từ những thành công bước đầu này đã góp phần đáng kể vào tiến trình tái cơ cấu nông nghiệp của tỉnh Phú Yên và đóng góp không nhỏ vào mục tiêu giảm nghèo bền vững của các địa phương.
Hiện, toàn tỉnh Phú Yên hiện còn 6.483 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 2,44%; hộ cận nghèo còn 15.793 hộ, chiếm tỷ lệ 5,95%. Theo kế hoạch thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững năm 2025 trên địa bàn tỉnh, Phú Yên đưa ra mục tiêu cụ thể tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025 giảm 1,02% (theo Nghị quyết số 54/NQ-HĐND ngày 6/12/2024 của HĐND tỉnh về nhiệm vụ kinh tế- xã hội, quốc phòng-an ninh năm 2025), tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm 2025 còn 1,42%, tương ứng giảm 2.711 hộ nghèo; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3%.
Nguồn vốn xanh mở đường cho nông nghiệp tuần hoàn, công nghệ cao
Trong hành trình chuyển đổi nông nghiệp theo hướng bền vững, doanh nghiệp giữ vai trò trung tâm, dẫn dắt các mô hình liên kết sản xuất, song hành cùng các chính sách tín dụng để tạo động lực phát triển chuỗi giá trị.
Năm 2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đặt mục tiêu tăng trưởng GDP toàn ngành đạt 3,4 - 3,5%; kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản khoảng 64 - 65 tỷ USD. Trọng tâm là tái cơ cấu nền kinh tế nông nghiệp theo hướng hiệu quả, bền vững, minh bạch, trách nhiệm và tích hợp đa giá trị. Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp sẽ khuyến khích phát triển mô hình sản xuất lớn theo hướng hữu cơ, tuần hoàn.
Những định hướng này cho thấy "xanh hóa" đang trở thành xu hướng chủ đạo, được ưu tiên và tạo điều kiện phát triển trên phạm vi toàn quốc. Điều này cũng gợi mở rằng trong năm 2025 và các năm tiếp theo, các chính sách đầu tư, tài chính và tín dụng sẽ ngày càng chú trọng vào việc hỗ trợ nông nghiệp xanh, với những ưu đãi về lãi suất, điều kiện tiếp cận vốn vay từ các ngân hàng thương mại.
Trong bối cảnh đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng xanh, bền vững, nông nghiệp Việt Nam dù giàu truyền thống vẫn đang phải đối mặt với không ít thách thức do mô hình sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ. Vì vậy, việc tìm kiếm các giải pháp tài chính thiết thực và đồng hành cùng người dân, hợp tác xã, doanh nghiệp là điều kiện tiên quyết.
Tín dụng xanh: Công cụ dẫn dắt chuyển đổi
Tại Đại hội đồng cổ đông năm 2025, bà Thái Hương - Phó Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Ngân hàng Bắc Á chia sẻ: "Nông nghiệp sạch, công nghệ cao luôn là ưu tiên đầu tư hàng đầu, đồng thuận với định hướng phát triển kinh tế xanh của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước".
Với ngân hàng này, nông nghiệp – đặc biệt là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao – không chỉ là lĩnh vực trọng yếu mà còn là đòn bẩy chiến lược trong tăng trưởng tín dụng những năm tới".
Bà Thái Hương – Phó Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Ngân hàng Bắc Á.
Từ ngành sữa đến thực phẩm, Bắc Á Bank đều theo đuổi chiến lược đưa người nông dân trở thành một mắt xích chủ động trong chuỗi giá trị. Nhưng để làm được điều đó, nền nông nghiệp buộc phải chuyển mình – phải cao hơn, xanh hơn và thông minh hơn. Việc đào tạo nông dân ứng dụng công nghệ cao không thể chỉ dừng lại ở lý thuyết. Công nghệ cao bao gồm nhiều khâu: Từ thay đổi phương thức sản xuất lạc hậu sang cơ giới hóa hiện đại, nơi một chiếc máy có thể thay thế đến 800 lao động, cho đến việc số hóa quy trình, quản lý dữ liệu và truy xuất nguồn gốc toàn cầu.
Trong quá trình tái cấu trúc, Bắc Á Bank từng dành đến 70% dư nợ cho nông nghiệp. Dù tỉ trọng hiện tại giảm còn khoảng 50%, nhưng đó là do dư nợ toàn hệ thống tăng lên chứ chiến lược vẫn không hay đổi. Ngân hàng tiếp tục xây dựng các dự án tích hợp, đưa thanh niên vào đào tạo bài bản, và theo đuổi giấc mơ kinh tế rừng – một mô hình phát triển dài hơi, cần đánh giá lại thực trạng và chính sách về tài nguyên rừng.
Đại diện Bắc Á Bank khẳng định, cấp tín dụng cho nông nghiệp không thể làm đơn lẻ mà cần tư vấn, đồng hành, đưa khoa học quản trị vào quy trình để đảm bảo chất lượng và tối ưu chi phí.
Thực tế cho thấy, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn hiện vẫn là khu vực được hệ thống ngân hàng dành nhiều chương trình ưu tiên, ưu đãi nhất. Riêng hoạt động cho vay sản xuất, kinh doanh lúa gạo tại Đồng bằng sông Cửu Long, đến cuối năm 2024, các tổ chức tín dụng đã giải ngân khoảng 124.000 tỷ đồng.
Với Đề án Phát triển một triệu ha lúa chất lượng cao gắn với tăng trưởng xanh, hàng chục mô hình sản xuất lớn đã tiếp cận được nguồn vốn ưu đãi. Các ngân hàng thương mại cũng cam kết không giới hạn hạn mức tín dụng. Trong khi đó, với gói vay ưu đãi lãi suất dành cho lĩnh vực lâm sản, thủy sản, hạn mức đã tăng từ 15.000 tỷ lên 60.000 tỷ đồng, với dư nợ cho vay ở nhiều địa phương đạt 4.000 – 5.000 tỷ đồng. Nhiều doanh nghiệp được hỗ trợ lãi suất 1-2%/năm.
Nông nghiệp sạch, công nghệ cao luôn là ưu tiên đầu tư hàng đầu.
Theo ông Lê Đức Thịnh - Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn nhận định: "Với nền kinh tế định hướng xuất khẩu như Việt Nam, việc chuyển đổi xanh là tất yếu và sống còn. Tín dụng xanh là công cụ tài chính quan trọng để nông dân, HTX và doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn ưu đãi đầu tư vào nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn".
Khó tiếp cận tín dụng phục vụ chuyển đổi sang sản xuất xanh và bền vững đang là một trong những điểm nghẽn lớn nhất hiện nay. Lý giải cụ thể, ông Lê Đức Thịnh cho biết, các tác nhân trong chuỗi từ HTX, doanh nghiệp đến các nhóm hộ và trang trại đều gặp khó khăn khi vay vốn do vướng hai điều kiện cơ bản là phải có tài sản thế chấp và dự án vay vốn rõ ràng.
Trong bối cảnh đó, nhu cầu cấp thiết về một cơ chế tín dụng linh hoạt, phù hợp hơn với đặc thù sản xuất nông nghiệp xanh là điều không thể phủ nhận.
Đòi hỏi của thị trường về tính minh bạch
Liên kết chặt chẽ giữa các chủ thể trong chuỗi giá trị, đặc biệt là vai trò tiên phong của doanh nghiệp, đang ngày càng trở nên quan trọng. Trong làn sóng đổi mới này, doanh nghiệp chính là mắt xích then chốt dẫn dắt sự chuyển dịch, không chỉ trong sản xuất mà còn trong việc tạo dựng các mô hình liên kết hiệu quả, từng bước hình thành hệ sinh thái nông nghiệp xanh, tuần hoàn và bền vững.
Tuy nhiên, để hệ sinh thái đó thực sự vận hành, ngoài việc khơi thông nguồn vốn thì còn cần sự cộng hưởng từ phía thị trường. Bởi lẽ, dòng chảy tín dụng chỉ phát huy hiệu quả khi sản phẩm đầu ra có chỗ đứng vững chắc. Đó cũng là lý do vì sao, bên cạnh câu chuyện về vốn, bài toán về tiêu dùng và những đòi hỏi ngày càng khắt khe từ thị trường cũng đang trở thành tâm điểm được quan tâm.
Ông Nguyễn Văn Thứ – Chủ tịch HĐQT GC Food.
Trao đổi với Người Đưa Tin, ông Nguyễn Văn Thứ – Chủ tịch Hội đồng quản trị GC Food cho biết, những người sản xuất nông sản theo hướng an toàn với chi phí sản xuất cao hơn thường khó cạnh tranh về giá với sản phẩm canh tác đại trà không được kiểm soát. Trong khi đó, người tiêu dùng luôn mong muốn có những thực phẩm sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, nhưng thực tế lại không dễ để mua được sản phẩm đúng nghĩa "sạch".
"Trong "ma trận" thực phẩm sạch - "bẩn" lẫn lộn, chúng tôi mong muốn sẽ xây dựng được một chuỗi nông sản sạch, an toàn với giá cả phù hợp đến tay người tiêu dùng", ông Thứ nói.
Bằng cách tự sản xuất đồng thời liên kết, hỗ trợ các hợp tác xã, hộ nông dân dưới sự giám sát, kiểm soát chất lượng chặt chẽ, GC Food đảm bảo được nguồn nông sản sạch cung cấp cho người tiêu dùng, hướng tới mục tiêu phát triển mô hình nông nghiệp bền vững, góp phần lan tỏa văn hóa sản xuất nông nghiệp sạch tại Việt Nam.
Tuy nhiên, câu chuyện đầu tư làm nông sản chắc chắn phải xác định là trường kỳ và thực sự khó nhằn, nếu chỉ chăm chăm vào lợi nhuận trước mắt sẽ khó mà làm được.
Ông Thứ nhấn mạnh, cần tăng cường ứng dụng chuyển đổi số trong nông nghiệp. Việc ứng dụng chuyển đổi số trong phát triển nền nông nghiệp xanh không chỉ giúp sản phẩm nông, lâm, thủy sản của nông dân đáp ứng được đòi hỏi của thị trường về tính minh bạch trong quá trình sản xuất, truy xuất nguồn gốc sản phẩm mà chuyển đổi số còn giúp nông dân gia tăng giá trị, hiệu quả của sản phẩm.
Dưới góc nhìn chuyên gia, ông Nguyễn Bá Hùng – Chuyên gia Kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam nhấn mạnh, nông nghiệp là một trong 5 lĩnh vực cần ưu tiên tín dụng xanh.
Phát triển bền vững là tăng trưởng đi kèm với trách nhiệm không tàn phá môi trường, không làm tổn hại tới tương lai.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Bá Hùng, các ngành hàng này cần có khuôn khổ chính sách hỗ trợ tốt hơn, từ cơ chế tính phí dịch vụ cân đối giữa lợi ích xã hội và bù đắp được chi phí đầu tư vận hành, đến các biện pháp hỗ trợ tài chính hay chia sẻ rủi ro đầu tư để thu hút được đầu tư tư nhân quy mô lớn. Khi thị trường các ngành này sôi động, đây sẽ là cơ hội đáng kể để phát triển tài chính xanh.
Dưới góc nhìn của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Quang Huân (đoàn Bình Dương), kinh tế xanh là một thành tố quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững. Trong quá trình phát triển, cần đặt trọng tâm vào việc kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và bảo đảm tiến bộ xã hội.
Ông tinh thần chung là phải tăng trưởng phải đi kèm với trách nhiệm không tàn phá môi trường, không làm tổn hại tới tương lai, đó mới là phát triển bền vững.
Theo ông Huân, để thực hiện các cam kết tại Hội nghị COP26, Việt Nam cần hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng "0", bằng cách hạn chế khí thải trong mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống. Ngành lâm nghiệp đóng vai trò then chốt khi phải trồng thêm rừng đủ lớn để hấp thụ khoảng 80 triệu tấn carbon vào năm 2050, mức hấp thụ cần thiết để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng không.
Ông cũng lưu ý rằng, Việt Nam chấp nhận đạt đỉnh phát thải vào năm 2035 và sau đó sẽ bắt đầu giảm dần. Tuy nhiên, hiện nay nhiều doanh nghiệp vẫn còn sử dụng công nghệ cũ, gây tiêu tốn năng lượng và phát thải nhiều khí nhà kính, ảnh hưởng đến tiến trình này.
Về mặt chính sách, ông Huân nhận định khung pháp lý hiện hành cho kinh tế xanh tuy đã có nền tảng, nhưng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ. Vì vậy, cần bổ sung thêm các đạo luật, quy định cụ thể để các ngành và địa phương có cơ sở triển khai thống nhất.
Ông nhấn mạnh, để người dân và doanh nghiệp cùng chung tay thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh, ngoài việc duy trì định hướng xuyên suốt từ Đảng và Nhà nước, rất cần sự hoàn thiện hành lang pháp lý cũng như các biện pháp tuyên truyền, vận động nhằm khơi dậy hành động từ cộng đồng ngay từ bây giờ.
Mô hình trình diễn thành công - Đòn bẩy cho hướng sản xuất nông nghiệp mới
Những mô hình khuyến nông có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng nông dân ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đây là những mô hình trình diễn nếu triển khai thành công sẽ được nhân ra diện rộng, trở thành hướng sản xuất chính, giúp nông dân làm theo và tự giải quyết những vấn đề sản xuất để không chỉ nâng cao hiệu quả kinh tế, cải thiện mức sống mà còn nâng cao dân trí trong cộng đồng nông thôn. Càng ngày, vấn đề ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn càng trở nên cấp thiết trong quá trình xây dựng nông thôn mới.
Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng dưa lưới ở xã Kim Thạch, huyện Vĩnh Linh - Ảnh: V.T.H
Để đáp ứng yêu cầu sản xuất trong tình hình mới và cùng với sự hỗ trợ từ các chương trình, chính sách của trung ương, địa phương, nhiều mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng thích ứng với biến đổi khí hậu và nâng cao hiệu quả có nhiều chuyển biến tích cực.
Trung tâm Khuyến nông tỉnh tham mưu Sở Nông nghiệp và Môi trường, các trạm khuyến nông địa phương chủ động phối hợp với Phòng Nông nghiệp và Môi trường... đề xuất với các cấp chính quyền xây dựng và triển khai ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong các mô hình khuyến nông cấp tỉnh, cấp huyện.
Đây cũng là một bước cụ thể hóa các nghị quyết về phát triển lĩnh vực nông nghiệp của tỉnh, huyện theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao chất lượng các loại sản phẩm có giá trị kinh tế; đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm từ khâu sản xuất, cơ giới hóa, chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp nhằm không ngừng tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động...
Nhằm định hướng cho nông dân chuyển dần sang sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ để bảo vệ môi trường sản xuất, môi trường sinh thái, bảo vệ sức khỏe con người, nâng cao hiệu quả kinh tế, Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị đã phối hợp với Công ty Cổ phần Tổng công ty Thương mại Quảng Trị triển khai các mô hình sản xuất lúa hữu cơ và ứng dụng chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp. Vượt qua bao khó khăn thử thách ban đầu, các mô hình phối hợp trình diễn công nghệ mới, phương thức canh tác mới thành công như mong đợi.
Hơn thế nữa, sự ảnh hưởng của các mô hình đã lan nhanh đến với nông dân vốn ít nhiều cũng chịu tác động của Cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 nên vụ mùa sau, cả tỉnh Quảng Trị nông dân đã tự ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất lúa hữu cơ. Đến nay, diện tích lúa hữu cơ trên toàn tỉnh khoảng 500 ha, năng suất lúa hữu cơ đạt hơn 60 tạ/ha.
Giám đốc Trung tâm khuyến nông Quảng Trị Trần Cẩn cho biết: Sản xuất theo hướng hữu cơ là xu hướng tất yếu trong sản xuất nông nghiệp, vừa cho năng suất cao vừa đảm bảo phát triển bền vững. Do đó, người dân sau khi tham gia các mô hình trình diễn sẽ tự nhân rộng mô hình. Các mô hình khuyến nông sau khi trình diễn thành công tự nó dẫn dắt hiệu quả hướng phát triển sản xuất mới cho nông dân.
Những năm qua, nền kinh tế nông nghiệp của tỉnh tiếp tục tăng trưởng phù hợp thể hiện bằng sự gia tăng về năng suất, chất lượng và giá trị thu nhập từ nông sản hàng hóa. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi được chuyển đổi phù hợp với sự biến đổi khí hậu và nhu cầu đa dạng của cầu thị trường.
Các địa phương có lợi thế cạnh tranh đã phát triển tốt sản xuất qua các vùng chuyên canh nông sản chủ lực có thế mạnh gắn với Chương trình OCOP. Đến nay, tất cả các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh đều có nhiều sản phẩm OCOP đạt tiêu chuẩn 3 sao trở lên, tạo giá trị tăng thêm lớn cho sản xuất.
Có được thành công đó, ngoài định hướng sản xuất đúng còn phải kể đến vai trò của công tác chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất mà trong đó các mô hình khuyến nông đóng góp rất quan trọng.
Trong những năm qua, Trung tâm Khuyến nông đã phối hợp với các cấp, ngành tổ chức triển khai các mô hình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, hội thảo đầu bờ cho hàng ngàn lượt nông dân trên địa bàn tỉnh.
Thông qua đó, nông dân được trang bị thêm những kiến thức về chăn nuôi, trồng trọt, lâm nghiệp, thủy sản, đặc biệt là các mô hình sản xuất cây, con mới, quy trình sản xuất mới theo tiêu chuẩn hữu cơ, an toàn sinh học, nông nghiệp tuần hoàn...
Nhờ đó, cơ cấu cây trồng, vật nuôi toàn tỉnh đã chuyển dịch đúng hướng theo tăng sản lượng và giá trị; hình thành các vùng sản xuất hàng hóa có kết nối tiêu thụ sản phẩm như: chăn nuôi bò, lợn thâm canh, nuôi tôm 2 giai đoạn, cá chim vây vàng, sản xuất lúa hữu cơ, thâm canh cam an toàn thực phẩm... Nhiều công nghệ mới được ứng dụng và trở thành phổ biến như: tưới tiết kiệm nước, công nghệ tưới tự động, tưới phun sương, tưới nhỏ giọt, đệm lót sinh học trong chăn nuôi...
Có thể khẳng định, công tác khuyến nông đang phát huy vai trò là cầu nối đưa tri thức khoa học đến với nhà nông, góp phần quan trọng xây dựng thành công các mô hình sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; tổ chức liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản hàng hóa... giúp cho người dân sản xuất và tiêu thụ nông sản ngày một tốt hơn và phát triển bền vững, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống, thúc đẩy tiến trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh.
Tập huấn giảm phát thải nhà kính trong nông nghiệp
Ngày 20 và 21/5, Ban quản lý Chương trình FFF II, Hội Nông dân tỉnh Bắc Kạn tổ chức tập huấn về các biện pháp giảm phát thải nhà kính trong nông nghiệp cho cán bộ Sở Nông nghiệp và Môi trường, Hội Nông dân, các hợp tác xã, tổ hợp tác trong vùng thực hiện Chương trình hỗ trợ rừng và trang trại II tại các huyện Ba Bể, Chợ Mới, Chợ Đồn.
Lãnh đạo Hội Nông dân tỉnh phát biểu tại hội nghị.
Tại lớp tập huấn, các học viên được giảng viên đến từ Viện Môi trường Nông nghiệp, Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam trao đổi về thực trạng biến đổi khí hậu và sự tác động đến sản xuất nông nghiệp; thực trạng đất và các vấn đề liên quan đến quản lý đất nông nghiệp; canh tác nông nghiệp xanh, tuần hoàn; giới thiệu các mô hình thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu; xây dựng mô hình theo chuỗi giá trị phù hợp tại Bắc Kạn… Đồng thời, đây cũng là dịp học viên trao đổi, chia sẻ những khó khăn, kinh nghiệm trong quá trình sản xuất.
Học viên thực hành theo nhóm.
Thông qua lớp tập huấn, học viên được nâng cao nhận thức và nắm bắt được những kiến thức, kỹ năng thiết thực trong việc giảm thiểu phát thải khí nhà kính từ hoạt động nông nghiệp; tiếp cận các phương pháp canh tác thân thiện với môi trường. Qua đó, góp phần giúp các cán bộ, hợp tác xã, tổ hợp tác ứng dụng hiệu quả vào thực tiễn sản xuất, vừa nâng cao năng suất, chất lượng nông sản, vừa đảm bảo phát triển nông nghiệp bền vững và thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu./.
Hiệu quả nguồn vốn tín dụng trong tái cơ cấu nông nghiệp ở Gia Lai
Tín dụng ngân hàng đang tiếp cận nông thôn tỉnh Gia Lai, góp phần thúc đẩy tái cơ cấu nông nghiệp. Những điểm giao dịch lưu động đến tận vùng xa cùng thủ tục vay vốn ngày càng được đơn giản hóa đang mở ra cơ hội tiếp cận vốn dễ dàng hơn cho người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số.
Chị Rơ Lan Thuen, người dân tộc Jarai ở làng Dọch Krót, Chủ tịch Hội Nông dân xã Ia Krăi (huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai) là tấm gương vượt khó thoát nghèo. Xuất thân từ gia đình nghèo, vợ chồng chị khởi nghiệp cùng vài sào rẫy. Năm 2005, vợ chồng chị vay 30 triệu đồng từ Agribank - Chi nhánh tỉnh Gia Lai để trồng cà phê. Nhờ chăm chỉ học hỏi và lao động cần cù, 4 năm sau, vườn cà phê nhà chị thu gần 5 tấn nhân. Tích lũy được vốn, gia đình chị mở rộng sản xuất, trồng cao su, cà phê, sầu riêng. Khu vườn 7 ha cây trồng, đến nay đã có 5 ha mang lại nguồn thu nhập ổn định. Vợ chồng chị Rơ Lan Thuen đã xây được nhà mới.
Mô hình chăn nuôi bò.
Chị Thuen bày tỏ, nhờ có nguồn vốn vay ngân hàng, vợ chồng chị mới có thể đầu tư sản xuất, thoát khỏi nghèo đói: “Năm 2020, gia đình gom tiền mua thêm 2 ha rẫy cà phê vì thấy cà phê mới mua toàn những cây già cỗi, thu hoạch không có năng suất nên chúng tôi đã nhổ đi và đầu tư trồng mới. Để có thêm thu nhập trên một diện tích đất canh tác, chúng tôi tiến hành trồng xen vào cây sầu riêng nữa. Như vậy, hiệu quả kinh tế sẽ cao hơn trồng một loại cây”.
Nhiều hộ dân vay vốn ngân hàng trồng tiêu và cà phê.
Ông Rơ Lan Huăn, người dân tộc Jarai ở làng Cúc, xã biên giới Ia O (huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai) là điển hình vượt khó vươn lên từ hai bàn tay trắng. Trước đây, gia đình ông sống dựa vào làm lúa rẫy, săn bắt và khai thác lâm sản, thường xuyên thiếu đói, phải nhận gạo cứu trợ vào mùa giáp hạt. Cuộc sống gia đình ông có nhiều thay đổi từ khi ông đầu tư vào trồng điều, vừa được hỗ trợ giống, vừa ít tốn công chăm sóc.
Với 3 ha cây điều, mỗi năm gia đình ông thu về hơn 150 triệu đồng. Có được nguồn vốn vay từ Ngân hàng Agribank, ông Rơ Lan Huăn tiếp tục đầu tư trồng thêm các loại cây cao su, cà phê, sầu riêng, từng bước nâng cao thu nhập. Hiện gia đình ông còn có đàn bò 9 con.
Nông dân tỉnh Gia Lai thu hoạch cà phê.
Ông Huăn cho biết thêm, tất cả vườn cây và đàn bò hôm nay đều nhờ nguồn vốn vay ngân hàng: “Trước đây, gia đình vay bên ngân hàng 200 triệu đồng để mua giống cây cà phê, sầu riêng. Sau một thời gian chăm sóc, gia đình cũng có nguồn thu ổn định. Từ những loại cây trồng này, khi có tiền rồi, tôi cũng làm được ngôi nhà. Tôi cảm ơn Đảng, Nhà nước đã tạo điều kiện cho người dân chúng tôi phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống".
Từ nguồn vốn vay ngân hàng nhiều hộ đầu tư mô hình sản xuất, thoát nghèo bền vững.
Hiện nay, hơn 4.270 hộ dân tại huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai vay vốn từ Agribank với tổng dư nợ vượt 1.000 tỷ đồng, trong đó hơn 1.200 hộ là đồng bào dân tộc thiểu số. Nguồn vốn vay này chủ yếu đầu tư vào trồng cây công nghiệp và chăn nuôi.
Bà Nguyễn Thị Lành, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện Ia Grai cho biết, nhờ hưởng lợi từ các chính sách ưu đãi của Nhà nước, đặc biệt là nguồn vốn tín dụng, nhiều hộ dân đã từng bước thoát nghèo và ổn định cuộc sống.
“Ngân hàng Agribank Chi nhánh huyện Ia Grai đã hỗ trợ người dân trên địa bàn phát triển sản xuất kinh doanh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, từ đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Đặc biệt, nguồn vốn tín dụng này đã góp phần quan trọng vào công tác xóa đói giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới" - bà Nguyễn Thị Lành cho biết.
Tại tỉnh Gia Lai, nguồn vốn tín dụng phát huy hiệu quả trong tái cơ cấu nông nghiệp. Dịch vụ ngân hàng đã đến gần người dân hơn nhờ việc mở điểm giao dịch lưu động, phục vụ tận các xã xa trung tâm, giúp bà con giao dịch thuận tiện, tiết kiệm chi phí và thời gian. Thủ tục vay vốn cũng được rà soát và đơn giản hóa, dễ thực hiện, phù hợp với trình độ người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Những thay đổi này không chỉ giúp bà con thuận tiện hơn trong giao dịch mà còn tạo điều kiện giúp mọi người dễ tiếp cận vốn vay, phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương.
Ông Đào Thanh Tịnh, Phó Giám đốc Agribank Gia Lai.
Ông Đào Thanh Tịnh, Phó Giám đốc Agribank Gia Lai cho biết, nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn e ngại khi tiếp cận vốn vay do chưa quen với thủ tục ngân hàng. Từ thực tế đó, Agribank Gia Lai triển khai mô hình “một cửa” tại các điểm giao dịch cơ sở, công khai minh bạch phí và hỗ trợ người dân hoàn tất thủ tục từ đầu đến khi giải ngân. Ngân hàng cũng phối hợp với chính quyền, các hội đoàn thể ở địa phương như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ và các tổ trưởng có uy tín để tuyên truyền chính sách, làm cầu nối giữa ngân hàng với người dân.
Ông Đào Thanh Tịnh cho biết thêm: “Chúng tôi ưu tiên hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ, sản phẩm tín dụng ưu đãi đặc thù như cho vay theo Nghị định 55/2015, Nghị định 116/2018, cho vay tái canh cà phê, cho vay xây dựng nông thôn mới… để hỗ trợ bà con mở rộng sản xuất kinh doanh, ổn định đời sống. Chúng tôi đẩy mạnh mô hình cho vay qua Tổ vay vốn. Đây là kênh dẫn vốn hiệu quả, là nơi bà con hỗ trợ lẫn nhau, chia sẻ kinh nghiệm, mô hình, cách làm hay trong sản xuất".
Tính đến ngày 30/4, tỉnh Gia Lai đã thành lập 461 tổ vay vốn với 18.800 thành viên, dư nợ cho vay đạt 713 tỷ đồng. Những tổ vay vốn này đóng vai trò quan trọng trong việc đưa nguồn vốn tín dụng đến tay người dân. Nhờ những cải cách mạnh mẽ trong quy trình vay vốn, người dân Gia Lai giờ đây có thể tiếp cận nguồn tín dụng dễ dàng và nhanh chóng hơn. Đây chính là động lực quan trọng giúp họ vượt qua khó khăn, thoát nghèo bền vững và phát triển kinh tế gia đình. Đồng thời, việc tiếp cận vốn cũng đang góp phần vào quá trình tái cơ cấu nông nghiệp tại địa phương, hướng tới một nền nông nghiệp hiệu quả và bền vững hơn, mở ra cơ hội làm giàu cho người dân vùng cao.
Gỡ vướng trong giải ngân vốn đầu tư công lĩnh vực nông nghiệp
Từng là điểm sáng nhiều năm liền về giải ngân vốn đầu tư công, bước sang năm 2025, ngành nông nghiệp đang gặp khó trong công tác này với nhiều lý do đan xen. Thực trạng trên đòi hỏi Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NNMT) phải có giải pháp đột phá để hoàn thành kế hoạch giải ngân vốn được giao năm nay…
Đầu tư công lĩnh vực nông nghiệp đang gặp khó khăn. Ảnh: TL
Giải ngân dự án đầu tư công lĩnh vực nông nghiệp gặp khó
Sau nhiều lần trễ hẹn, tháng 4 vừa qua, Hồ Krông Pách Thượng - công trình thủy lợi đa mục tiêu lớn nhất Tây Nguyên - chính thức khánh thành, mở ra kỳ vọng phát triển nông nghiệp bền vững. Với tổng mức đầu tư hai giai đoạn lên đến 5.536 tỷ đồng, Dự án đã vượt qua nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức triển khai. Đây là một trong số ít dự án trọng điểm của ngành nông nghiệp do Bộ NNMT quản lý được hoàn thành trong nửa đầu năm nay kể từ khi sắp xếp Bộ, đồng thời cho thấy công tác giải ngân vốn đầu tư công gặp nhiều khó khăn, tiến độ triển khai dự án đang gặp nhiều thách thức.
Theo đại diện Vụ Kế hoạch - Tài chính (Bộ NNMT), tổng số vốn Bộ được giao năm 2025 là 23.381 tỷ đồng, Bộ đã phân bổ 20.786 tỷ đồng cho các dự án. Đến ngày 09/4/2025, Bộ đã giải ngân 2.141,8 tỷ đồng (đạt 9,2% số vốn được Thủ tướng Chính phủ giao và đạt 10,3% số vốn đã phân bổ).
Lí giải nguyên nhân khiến tỷ lệ giải ngân đạt thấp, đại diện Vụ Kế hoạch - Tài chính (Bộ NNMT) cho biết, do quá trình sắp xếp, sáp nhập giữa hai Bộ cũng phần nào ảnh hưởng đến công tác giải ngân vốn, khi hai cơ quan phải thống nhất lại đầu mối; thay đổi nhân sự phụ trách; cũng như hoàn thiện các thủ tục phối hợp, bàn giao có liên quan. “Dù muốn đẩy nhanh, nhưng quy trình, thủ tục vẫn phải tuân thủ, nhất là các điều kiện để giải ngân vốn” - lãnh đạo Vụ cho biết, đồng thời nhấn mạnh năm 2025 là năm cuối cùng của giai đoạn trung hạn, số vốn được giao lại rất lớn.
Chia sẻ thêm về vấn đề này, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ NNMT) Nguyễn Hoài Nam cho biết, công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng các dự án đầu tư công liên quan đến ngành này đều do cấp huyện triển khai, trong khi thời gian tới các địa phương tiếp tục sáp nhập tỉnh, bỏ cấp huyện nên phần nào ảnh hưởng đến công tác giải phóng mặt bằng nói chung, trong đó các dự án của ngành nông nghiệp. “Một số dự án nếu không quyết liệt có thể không đáp ứng yêu cầu tiến độ” - lãnh đạo Cục cho biết.
Mặt khác, đặc thù của các dự án nông nghiệp, đó là công tác thi công phải hạn chế tối đa việc gây ảnh hưởng tới sản xuất, mùa vụ, nên có nhiều thời điểm việc thi công dự án phải điều chỉnh theo kế hoạch sản xuất. Trong khi đó, nhiều dự án phải thực hiện nhiều thủ tục chuyển mục đích sử dụng rừng; quy trình xin ý kiến các Bộ, ngành dẫn đến mất nhiều thời gian ngay từ khâu thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư. Các thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu tư, xin ý kiến nhà tài trợ (đối với dự án ODA) càng phức tạp hơn… Ngoài ra, việc đẩy mạnh phòng ngừa tham nhũng, lãng phí cũng đưa đến tâm lý sợ sai, không mạnh dạn làm hoặc làm cầm chừng để ngóng sắp xếp - đây cũng là những yếu tố chủ quan được Bộ nhận diện, từ đó có giải pháp chấn chỉnh kịp thời.
Đẩy nhanh giải ngân vốn, gắn với phòng, chống lãng phí, tiêu cực
Xác định đầu tư công là động lực quan trọng giúp thúc đẩy, gánh vác và bù đắp tăng trưởng cho các động lực khác, lãnh đạo Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cho biết, với vai trò là đơn vị quản lý, Cục sẽ tham mưu cho lãnh đạo Bộ nhiều giải pháp đẩy nhanh công tác này, trong đó ưu tiên các dự án, công trình hoàn thành năm 2025. Tuy nhiên, công tác giải ngân vốn đầu tư công trong thời gian tới được dự báo vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Đơn cử như việc sáp nhập tỉnh, bỏ cấp huyện trong khi cấp huyện đang được giao trực tiếp thực hiện công tác giải phóng mặt bằng. “Quá trình sắp xếp ít nhiều sẽ gây khó khăn, đặc biệt trong việc thực hiện kịp thời các quy trình, thủ tục đầu tư, giải phóng mặt bằng. Đây là vấn đề cần được đánh giá kỹ lưỡng để có giải pháp nhằm hạn chế tối đa tác động này” - lãnh đạo Cục lưu ý.
Trên cơ sở nhận định tình hình giải ngân vốn còn khó khăn, tiến độ triển khai dự án còn chưa đạt yêu cầu, Bộ NNMT đã kịp thời đưa ra giải pháp để cải thiện tình trạng này, cũng như đề xuất điều chỉnh nguồn vốn đầu tư công cho phù hợp với bối cảnh mới. Theo đó, nhằm hạn chế tối đa ảnh hưởng đến các hoạt động quản lý, đầu tư, trong đó có giải ngân vốn đầu tư công, ngay sau khi hai Bộ hoàn tất hợp nhất, Bộ NNMT đã có văn bản gửi các tỉnh, thành phố và chủ đầu tư các dự án hướng dẫn thực hiện các dự án đầu tư công.
Trên cơ sở đánh giá về nguồn vốn đầu tư công được giao năm 2025 (sau khi hợp nhất), Bộ NNMT đã có văn bản gửi Bộ Tài chính rà soát khả năng giải ngân năm 2025 đề nghị Bộ Tài chính tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép giảm kế hoạch vốn năm 2025 của Bộ là 3.850,4 tỷ đồng (bao gồm số vốn chưa phân bổ là 2.595,4 tỷ đồng và giảm số vốn đã phân bổ là 1.255 tỷ đồng). Mặt khác, lãnh đạo Bộ đã thường xuyên theo dõi, chỉ đạo các cơ quan chức năng, các chủ đầu tư yêu cầu các nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thi công các dự án đã được phân bổ vốn. Quyết tâm đẩy nhanh các dự án đầu tư công, song lãnh đạo Bộ nhấn mạnh, không vì mục tiêu tiến độ mà chủ đầu tư bỏ qua quy trình, quy định; nghiêm cấm để xảy ra tiêu cực, lãng phí trong quá trình triển khai dự án. Do đó, “Bộ đặc biệt coi trọng công tác kiểm tra, giám sát nhằm hạn chế tối đa, sai sót trong triển khai đầu tư” - Thứ trưởng Bộ NNMT Phùng Đức Tiến cho biết.
Theo đó, tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, trong thời gian tới, các đơn vị chức năng của Bộ sẽ tập trung vào các giải pháp nhằm đảm bảo chất lượng xây dựng như yêu cầu các đơn vị chức năng theo sát công tác chuẩn bị đầu tư của từng dự án, song hành thẩm tra, thẩm định ngay từ đầu với chủ đầu tư; giám sát chặt chẽ các điều khoản hợp đồng. Định kỳ hằng quý đánh giá năng lực nhà thầu tư vấn, xây lắp; phối hợp chặt chẽ với các đoàn thanh tra, kiểm toán làm việc với các chủ đầu tư về từng dự án, qua đó đã kịp thời phát hiện và hạn chế tối đa các sai sót trong triển khai đầu tư, cũng như tuyệt đối không để xảy ra tiêu cực, lãng phí./.