Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 23 tháng 10 năm 2024

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 23 tháng 10 năm 2024

 

Xuất khẩu lô chanh leo tươi đầu tiên của Việt Nam sang Australia

 

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Ngày 19/10, tại xã Phú Sơn (huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng), Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu thương mại Blue Ocean (Blue Ocean JSC) tổ chức lễ xuất khẩu lô chanh leo tươi đầu tiên của Việt Nam sang Australia.

Tham dự buổi lễ có ông Phạm S - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng.

Được biết đây là loại trái cây thứ 5 của Việt Nam sau xoài, nhãn, vải thiều và thanh long được xuất sang thị trường này. Theo ông Phan Quốc Nam - Giám đốc kinh doanh Blue Ocean JSC, lô chanh leo đầu tiên của Việt Nam được xuất khẩu sang Australia có khối lượng 1,5 tấn. Đây là thành quả sau nỗ lực đàm phán, mở cửa thị trường, sự phối hợp chặt chẽ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Australia.

Đại diện Blue Ocean JSC cũng cho biết, với công nghệ và dây chuyền sản xuất khép kín được vận hành theo các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn vệ sinh thực phẩm như HACCP và BRCGS, sản phẩm của công ty đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, EU. Đặc biệt là thị trường Trung Quốc đầy tiềm năng về nhu cầu tiêu thụ cũng như về vị trí địa lý tạo cho Việt Nam lợi thế rất lớn trong khâu vận chuyển hàng hoá.

Cũng trong dịp này, Blue Ocean JSC đã tổ chức khai trương nhà máy chế biến trái cây đông lạnh tại xã Phú Sơn. Bà Phạm Thị Ngọc Thạch - Tổng Giám đốc Blue Ocean JSC cho biết: "Việc xây dựng nhà máy chế biến tại Lâm Đồng nhằm tối ưu hoá chuỗi cung ứng từ vùng nguyên hiệu đến sản xuất, cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu".

 

 

Nhà máy chế biến trái cây đông lạnh tại xã Phú Sơn có khả năng sản xuất và cung cấp ra thị trường trên 10.000 tấn sản phẩm mỗi năm.

Nhà máy chế biến trái cây đông lạnh có tổng diện tích 10.000 m2 với hệ thống công nghệ tiên tiến, có khả năng sản xuất và cung cấp ra thị trường trên 10.000 tấn sản phẩm mỗi năm. Theo đó, các sản phẩm được chế biến từ những loại nông sản lợi thế của tỉnh Lâm Đồng, các tỉnh Tây Nguyên, vùng lân cận và Đồng bằng sông Cửu Long như sầu riêng, chanh leo, chôm chôm, xoài, thanh long... đều được xử lý qua quy trình cấp đông nhanh và đóng gói ngay sau thu hoạch, giúp giữ trọn hương vị, độ tươi ngon và giá trị dinh dưỡng tự nhiên.

Phát biểu tại buổi lễ, ông Phạm S - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng cho biết, diện tích sản xuất nông nghiệp của tỉnh Lâm Đồng đạt hơn 388 nghìn ha. Trong đó, diện tích sản xuất nông nghiệp công nghệ cao chiếm hơn 21%; diện tích cây ăn quả hơn 40 nghìn ha, tổng sản lượng khoảng 600 nghìn tấn; riêng cây chanh leo, toàn tỉnh có khoảng 900ha, cao điểm đạt hơn 1.200ha.

Tuy nhiên, sản phẩm qua chế biến của Lâm Đồng còn khiêm tốn. Việc Blue Ocean JSC khai trương nhà máy chế biến trái cây đông lạnh mở ra cơ hội mới cho nhà nông và công ty trong hình thành chuỗi liên kết sản xuất - chế biến - tiêu thụ. Vì vậy, Blue Ocean JSC cần tiến hành rà soát vùng cây nguyên liệu tỉnh Lâm Đồng để xây dựng chuỗi liên kết sản xuất - chế biến - tiêu thụ; xây dựng nhà máy xanh và công ty trở thành mô hình kinh tế nông nghiệp tuần hoàn. Tỉnh Lâm Đồng cam kết hỗ trợ Blue Ocean JSC tham gia trong các chuyến hợp tác, xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường.

THÂN THU HIỀN

 

Bến Tre: Hỗ trợ sản xuất cây ăn quả theo tiêu chuẩn VietGAP

 

Nguồn tin: Báo Đồng Khởi

Thời gian qua, Trung tâm Khuyến nông và tư vấn dịch vụ nông nghiệp tỉnh Bến Tre (Trung tâm) đã triển khai thực hiện nhiều mô hình, dự án khuyến nông hỗ trợ nhà nông trên địa bàn tỉnh sản xuất các loại nông sản chủ lực. Gần đây nhất, Trung tâm đã chủ trì, phối hợp với các tỉnh Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp ký kết với Trung tâm Khuyến nông quốc gia để thực hiện dự án “Xây dựng mô hình sản xuất cây ăn quả theo VietGAP phục vụ phát triển vùng nguyên liệu gắn với liên kết tiêu thụ tại đồng bằng sông Cửu Long”, với quy mô 400ha tại 4 tỉnh trong vùng dự án, giai đoạn 2022 - 2024.

 

 

Mô hình thâm canh sầu riêng theo tiêu chuẩn VietGAP do Trung tâm Khuyến nông quốc gia hỗ trợ.

Hỗ trợ tập huấn kỹ thuật

Theo Giám đốc Trung tâm Châu Hữu Trị, đơn vị đã xây dựng mô hình thâm canh cây ăn quả trên sầu riêng, bưởi, xoài, mít theo tiêu chuẩn VietGAP tại các tỉnh. Riêng tại tỉnh, trong năm 2022 đã triển khai 50ha, gồm: 20ha mô hình thâm canh bưởi da xanh theo VietGAP và 30ha mô hình thâm canh sầu riêng theo VietGAP. Năm 2023, triển khai 70ha, gồm: 20ha mô hình thâm canh bưởi da xanh theo VietGAP và 50ha mô hình thâm canh sầu riêng theo VietGAP. Năm 2024 triển khai 90ha, gồm: 20ha mô hình thâm canh bưởi da xanh theo VietGAP và 70ha mô hình thâm canh sầu riêng theo VietGAP.

Mô hình thâm canh sầu riêng theo VietGAP được triển khai trên giống sầu riêng cơm vàng hạt lép Ri6, sầu riêng Monthong, các vườn sầu riêng đang trong thời kỳ kinh doanh có độ tuổi từ 6 - 10 năm trở lên, thực hiện canh tác theo VietGAP, tại các xã Tân Phú, Phú Đức, Tiên Long, Quới Thành và thị trấn Tiên Thủy, huyện Châu Thành. Mô hình thâm canh bưởi da xanh theo VietGAP được triển khai trên các vườn bưởi da xanh, các vườn bưởi đang trong thời kỳ kinh doanh có độ tuổi từ 4 - 5 năm trở lên, thực hiện canh tác theo VietGAP, tại các xã Tiên Long và Tân Thạch, huyện Châu Thành.

Tham gia các mô hình này, nông dân vùng trồng được hỗ trợ tập huấn kỹ thuật chăm sóc sầu riêng, bưởi da xanh trong điều kiện hạn mặn, xử lý ra hoa, kỹ thuật bón phân nâng cao phẩm chất trái, kỹ thuật tỉa cành tạo tán, có sổ tay hướng dẫn tưới nước tiết kiệm, tập huấn sổ tay hướng dẫn thực hành VietGAP trên cây cây ăn trái.

Bên cạnh đó, nông dân còn được tập huấn nâng cao năng lực quản trị chuỗi giá trị cho thành viên Ban quản trị hợp tác xã lập kế hoạch sản xuất, marketing, quảng bá thương hiệu; hướng dẫn công tác quản lý, ghi chép nhật ký sản xuất; hướng dẫn việc kiểm tra, giám sát, duy trì các tiêu chuẩn đã áp dụng, cấp mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc sản phẩm và chứng nhận VietGAP…

Nâng cao năng suất, chất lượng

Một vườn 2.000m2 trồng sầu riêng nếu làm đúng chuẩn có thể mang lại sản lượng từ 2 - 3 tấn/công và giá bán trung bình khoảng 50 ngàn đồng/kg vào mùa thuận (từ năm thu hoạch thứ 2 - 3 của cây). Đó cũng là lý do trong vài năm gần đây, diện tích trồng sầu riêng tại xã Tân Phú đã tăng mạnh, khoảng 30% so với trước. Ông Nguyễn Văn Út Tám - Tổ phó Tổ khuyến nông cộng đồng xã Tân Phú, huyện Châu Thành, là hộ tham gia dự án với 5.000m2 trồng sầu riêng (với 100 gốc), chia sẻ: Tổ khuyến nông kết hợp chặt chẽ với nông dân, đến tận vườn để hỗ trợ và hướng dẫn, giúp bà con tránh mua phải phân và thuốc giả. Mô hình chăm sóc sầu riêng tại Tân Phú nổi trội trong việc chăm sóc, thu hoạch và duy trì sức khỏe cây sau khi thu hoạch. Mô hình này được triển khai từ năm 2019 - 2020 và kéo dài đến nay. So với những năm trước, ý thức trữ nước và duy trì độ ẩm của vườn, cũng như việc kiểm tra nước và độ mặn đã được cải thiện. “Vườn sầu riêng tại Tân Phú đã được công nhận một số mã vùng trồng theo tiêu chuẩn VietGAP và xuất khẩu sang Trung Quốc, với khối lượng khá lớn so với các tỉnh khác. Nhờ đó, sản phẩm xuất bán ổn định…”, ông Nguyễn Văn Út Tám khẳng định.

Ông Đỗ Minh Luân, nông dân trồng bưởi tại xã Quới Thành là thành viên của Hợp tác xã (HTX) Dịch vụ nông nghiệp Quới Thành. Ông Luân cho biết, tham gia dự án, nông dân được Nhà nước hỗ trợ 50% chi phí phân bón hữu cơ và tư vấn kỹ thuật, đồng thời các cán bộ kỹ thuật đã xuống tận vườn để hỗ trợ cho nông dân. HTX Dịch vụ nông nghiệp Quới Thành đã tham gia mô hình VietGAP, với diện tích khoảng 10ha, mang lại hiệu quả tốt trong năm vừa qua.

Ông Luân cho biết thêm, khi tham gia chương trình và làm đúng quy trình kỹ thuật, vườn bưởi của ông đạt hiệu quả cao. Cây bưởi phát triển tốt, ít bị sâu bệnh, trái đẹp và năng suất cao, nhờ đó tỷ lệ xuất khẩu cũng tăng. Những vườn không tham gia mô hình này có tỷ lệ xuất khẩu chưa đạt 30%, trong khi vườn của ông có thể bán cho Công ty Hương Miền Tây xuất khẩu sang Trung Quốc và châu Âu, với tỷ lệ bưởi thu hoạch tại vườn đạt từ 50 - 60%.

Kết quả ghi nhận trong năm 2023, hầu hết các vườn cây ăn trái 6 - 10 năm tuổi, sau thời gian được hỗ trợ, cây sinh trưởng phát triển tốt, cho năng suất ổn định cao, chất lượng đạt tiêu chuẩn. Sầu riêng có năng suất trung bình đạt 16,4 tấn/ha, cao hơn 14,5% và lợi nhuận cao hơn 43% so với bên ngoài, tương ứng cao hơn 388 triệu đồng/ha. Bưởi da xanh có năng suất trung bình 14,5 tấn/ha, lợi nhuận cao hơn 53%, tương ứng cao hơn 78% so với ngoài mô hình. Dự án cũng đã cấp mã số vùng trồng cho các diện tích tham gia dự án.

“Thời gian tới, nông hộ sản xuất cây ăn trái nâng cao chất lượng và độ an toàn sản phẩm, đáp ứng thị trường tiêu thụ ngày càng cao. Điều này đòi hỏi nông dân trong sản xuất phải thay đổi tư duy và trở nên chuyên nghiệp hơn. Công tác quản lý, khai thác, phát triển các nhãn hiệu, nhất là nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, chỉ dẫn địa lý; các sản phẩm đạt chuẩn an toàn (GAP). Đồng thời, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ… Người dân, doanh nghiệp và hợp tác xã quan tâm nâng cao ý thức xây dựng, bảo hộ thương hiệu, dán tem truy xuất nguồn gốc”. (Giám đốc Trung tâm Khuyến nông và tư vấn dịch vụ nông nghiệp tỉnh Châu Hữu Trị)

Bài, ảnh: Vân Trần

 

Nông dân vùng lũ đầu nguồn sông Tiền thu nhập cao nhờ trồng mít chuyên canh

 

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang

Thực hiện mục tiêu chuyển đổi sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu và "chung sống với lũ", nông dân hai huyện đầu nguồn sông Tiền (tỉnh Tiền Giang): Cai Lậy và Cái Bè đã chuyển đổi gần 13.000 ha đất canh tác những địa bàn khó khăn, thường xuyên bị ảnh hưởng lũ lụt sông Cửu Long sang trồng mít Thái chuyên canh mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Với năng suất bình quân khoảng 20 tấn/ha, toàn vùng đạt sản lượng mỗi năm từ 260.000 tấn đến 300.000 tấn trái phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu.

Mít Thái thích hợp với thổ nhưỡng đất đai tại địa phương, cho năng suất cao và đầu ra thuận lợi, vừa tiêu thụ trong nước vừa được thị trường xuất khẩu ưa chuộng, nhất là Trung Quốc. Đáng mừng là trong năm nay, mít Thái giữ giá cao, mang lại nguồn thu nhập khá, nông dân rất phấn khởi.

Theo bà Nguyễn Thị Lạc, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Cai Lậy, trong 9 tháng đầu năm 2024, mít Thái trên địa bàn luôn có giá. Thời điểm đầu tháng 10/2024, mít Thái loại 1 có giá khoảng 38.000 đồng/kg, loại 2 có giá khoảng 21.000 đồng/kg, loại 3 có giá từ 9.000 đồng - 10.000 đồng/kg.

Với giá này, sau khi trừ chi phí, nông dân thu lãi từ 150 - 200 triệu đồng/ha, cao gấp nhiều lần so với trồng lúa năng suất cao nhưng thu nhập bấp bênh trước đây. Do vậy, những nông dân có vườn mít thu hoạch vào thời điểm này rất phấn khởi bởi lợi nhuận cao, tạo dựng cơ nghiệp từ cây trồng đặc sản.

Ông Nguyễn Văn Nhã, cư ngụ tại ấp 7, xã Mỹ Thành Nam (huyện Cai Lậy) chuyển đổi 2,2 ha đất trồng lúa sang trồng chuyên canh mít Thái cho biết, mít Thái trồng sau 3 năm đã cho trái và cho thu hoạch rải vụ gần như quanh năm, năng suất cao, bình quân đạt 25 - 30 tấn/ha/năm trong điều kiện chăm sóc tốt. Nhờ chuyển đổi sang trồng mít Thái, ông tạo dựng cơ nghiệp vững vàng trên vùng đất ngập lũ trước đây.

Nhằm giúp nông dân địa phương phát huy tiềm năng cây mít Thái giảm nghèo nông thôn, huyện Cai Lậy và huyện Cái Bè tập trung chuyển giao kỹ thuật thâm canh theo hướng GAP, thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng chất lượng nguồn nông sản hàng hóa gắn với khuyến khích các tổ chức, cá nhân, nông dân thiết lập vùng chuyên canh, triển khai việc cấp mã số vùng trồng phục vụ xuất khẩu chính ngạch mít Thái sang thị trường Trung Quốc, thu hút ngoại tệ.

Tại huyện Cai Lậy, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện đang đầu tư trên 218 triệu đồng triển khai mô hình "Trồng, thâm canh mít theo tiêu chí GAP" với quy mô 2 ha tại thị trấn Bình Phú trong nỗ lực chuyển giao kỹ thuật, nâng cao trình độ thâm canh mít cho nông dân vùng chuyên canh. Dự kiến, tháng 11/2024 tới sẽ tổng kết, đánh giá hiệu quả và nhân mô hình trồng mít ra diện rộng để nông dân cùng áp dụng.

Nhằm tạo vùng nguyên liệu xuất khẩu, đáp ứng tiêu chí xuất khẩu chính ngạch trái cây nói chung, mít Thái nói riêng, tại vùng chuyên canh huyện Cai Lậy và huyện Cái Bè cũng đã được cấp 47 mã số vùng trồng mít xuất khẩu với tổng diện tích trên 7.500 ha.

Các địa phương đang kỳ vọng với nỗ lực tạo vùng nguyên liệu chất lượng cao cho sản lượng ổn định cung ứng thị trường, phát huy hơn nữa tiềm năng và thế mạnh ngành hàng trái cây xuất khẩu, nông dân các huyện vùng lũ đầu nguồn sông Tiền có thêm nguồn thu nhập cao, ổn định từ vườn mít Thái chuyên canh, giúp ổn định và nâng cao mức sống vừa đổi mới nông nghiệp - nông thôn và xây dựng nông thôn mới trên địa bàn.

Mộng Tuyết

 

Lâm Đồng: Tạo lập nhãn hiệu Hạt điều Đạ Huoai

 

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Thông tin từ Phòng Kinh tế huyện Đạ Huoai (Lâm Đồng) cho biết, địa phương này đang tích cực triển khai kế hoạch “Tạo lập, quản lý và phát triển nhãn hiệu chứng nhận “Hạt điều Đạ Huoai” cho sản phẩm hạt điều của huyện Đạ Huoai”. Theo đó, dự án sẽ xây dựng mô hình quản lý và hệ thống các công cụ quản lý và kiểm soát chất lượng sản phẩm được bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận “Hạt điều Đạ Huoai”; Xây dựng hệ thống các công cụ quảng bá, phát triển thương hiệu cho sản phẩm mang nhãn hiệu chứng nhận “Hạt điều Đạ Huoai”; Áp dụng triển khai thí điểm 1 mô hình liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm mang nhãn hiệu chứng nhận “Hạt điều Đạ Huoai”.

Đăng ký thành công nhãn hiệu chứng nhận “Hạt điều Đạ Huoai” cho sản phẩm hạt điều của huyện Đạ Huoai sẽ góp phần duy trì và nâng cao danh tiếng sản phẩm, cải thiện thu nhập của người trồng, chế biến, kinh doanh tại huyện Đạ Huoai. Hai sản phẩm chủ lực được khảo sát và đề xuất đăng ký bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận là hạt điều tươi và hạt điều chế biến (hạt điều rang muối).

D.Q

 

Mô hình trồng ngò gai hữu cơ góp phần tăng thu nhập nông hộ

 

Nguồn tin: Báo Sóc Trăng

Với mục đích tập hợp hội viên, nông dân trồng rau màu sản xuất tập trung, an toàn, hỗ trợ nhau tìm đầu ra và bảo vệ môi trường, năm 2023, Hội Nông dân Phường 7, thành phố Sóc Trăng (Sóc Trăng) cho ra mắt mô hình Tổ hợp tác Ngò gai hữu cơ ở Khóm 6. Tổ hợp tác thu hút được 15 hội viên, nông dân tham gia. Đây là những hộ có nhiều năm kinh nghiệm trồng các loại rau màu ở địa phương.

 

 

Vườn ngò gai của nông dân Điền Đên, Khóm 6, Phường 7, thành phố Sóc Trăng (Sóc Trăng) đang cho thu hoạch. Ảnh: HUỲNH NHƯ

Trước đây, hội viên, nông dân ở Khóm 6, Phường 7 chỉ chuyên canh sản xuất lúa nên đất nông nghiệp bị bạc màu, cây lúa phát triển không tốt, năng suất thấp. Qua các lớp tập huấn, các buổi chuyển giao khoa học kỹ thuật, nhiều hộ nông dân đã chủ động tìm những loại cây trồng có hiệu quả kinh tế để thay thế, trong đó có mô hình trồng ngò gai. Trồng ngò gai tuy tốn thời gian chăm sóc nhưng chi phí đầu tư thấp. Ban đầu chỉ một vài hộ sản xuất nhỏ lẻ ban đầu, nay mô hình này đã được nhân rộng, nâng lên thành tổ hợp tác, với tổng diện tích sản xuất gần 3ha. Từ khi tham gia tổ hợp tác, các thành viên đã được thông tin về thời vụ, giá cả thị trường, đầu ra của sản phẩm và được tham gia các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật.

Hộ anh Điền Đên, ở Khóm 6, Phường 7 trước kia chỉ chuyên trồng lúa, nhưng khoảng 8 năm nay, anh đã mạnh dạn chuyển đổi 2 công đất lúa bạc màu sang trồng ngò gai. Hiện thương lái đến tận nhà để thu mua với giá 15.000 đồng/kg. Với 2 công ngò gai, mỗi ngày anh bán khoảng 100kg, thu về 1,5 triệu đồng/ngày (chưa trừ chi phí). Ngoài ra, anh còn tận dụng những lá ngò gai bị hư, rửa sạch để cho bò ăn. Thấy việc trồng ngò gai có triển vọng, thời gian tới, anh Đên dự định sẽ mở rộng diện tích trồng ngò gai.

Hay hộ anh Huỳnh Văn Luân, ngụ Khóm 6, Phường 7, trước đây cũng chỉ bám vào cây lúa, nhưng khi thấy nông dân trong khóm chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả để trồng ngò gai cho thu nhập ổn định, sau thời gian tìm hiểu, học hỏi, tiếp cận cách làm, anh cũng mạnh dạn chuyển đổi 2.000m2 đất trồng lúa sang trồng ngò. Nhờ chịu khó tìm tòi, học hỏi kỹ thuật cộng với kinh nghiệm bản thân nên ngò gai của anh phát triển tốt, cho thu nhập ổn định hơn gấp nhiều lần trồng lúa.

Các câu hỏi của đoàn viên, thanh niên đã được lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND tỉnh, lãnh đạo các sở, ngành tỉnh trả lời trực tiếp, cụ thể tại chương trình, đồng thời thông tin thêm một số vấn đề, nội dung mà đoàn viên, thanh niên quan tâm.Rau ngò gai dễ trồng, ít sâu bệnh, trồng một lần có thể thu hoạch nhiều đợt, trồng khoảng 3 tháng là có thể cho thu hoạch. Khi thu hoạch được thương lái tới tận nơi để thu mua với giá trung bình 15.000 đồng/kg, có thời điểm 20.000 đồng/kg. Một số hộ cũng có thể đem ra chợ Trung tâm thành phố Sóc Trăng hoặc vựa rau cải ở xã Đại Tâm (huyện Mỹ Xuyên) để tiêu thụ. Theo kinh nghiệm của nông dân nơi đây, sau khi thu hoạch lá xong, những cây con bắt đầu mọc lên, đa số nông dân còn tập trung chăm sóc những cây con để lấy hạt làm giống dự trữ cho những vụ tiếp theo hoặc làm giống bán với giá thị trường từ 200.000 - 300.000 đồng/kg.

Với chủ trương phát triển nông nghiệp đô thị theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp, cùng với đó, xuất phát từ nhu cầu thực tế tại địa phương, Trạm Khuyến nông thành phố Sóc Trăng cũng đã xây dựng mô hình trình diễn “ủ phân hữu cơ trong sản xuất rau an toàn”, giúp nông dân tham quan, học tập, áp dụng những tiến bộ kỹ thuật mới vào thực tiễn, góp phần làm giảm chi phí sản xuất, ít gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người và môi trường. Vừa qua, Trạm Khuyến nông thành phố đã hỗ trợ cho một số hộ trồng ngò gai tại Khóm 6 về giống, kỹ thuật chăm sóc, thiết bị vật tư… Nông dân trồng ngò gai rất phấn khởi vì chi phí phân hóa học giảm dần, nhưng năng suất tăng và chất lượng sản phẩm cũng được đảm bảo, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.

Điểm hay của mô hình Tổ hợp tác Ngò gai hữu cơ nữa là sử dụng phụ phẩm nông nghiệp rơm rạ, phân bò để ủ phân hữu cơ trồng ngò và phụ phẩm từ ngò gai lại là nguồn thức ăn chăn nuôi bò, cho nên ngoài lợi nhuận từ thu hoạch ngò gai, nông dân còn có lãi từ đàn bò của mình. Đây là một trong những mô hình khép kín mang lại hiệu quả kinh tế và có khả năng nhân rộng.

Ông Trần Quang Thái - Chủ tịch Hội Nông dân Phường 7 cho biết: Để mô hình Tổ hợp tác Ngò gai hữu cơ ở Khóm 6 hoạt động có hiệu quả bền vững, thời gian tới, Hội Nông dân Phường 7 sẽ phối hợp, kết hợp với các ngành, đoàn thể có liên quan tiếp tục mở các lớp tập huấn đầu bờ, hướng dẫn các hộ nông dân thực hiện quy trình sản xuất theo hướng GAP (sản xuất nông nghiệp sạch) và sản phẩm sau khi đưa ra thị trường phải đảm bảo 3 yêu cầu về: an toàn cho người sản xuất, an toàn cho người tiêu dùng, an toàn cho môi trường và truy nguyên được nguồn sản xuất. Bên cạnh đó, hội còn là cầu nối để sản phẩm ngò gai được đăng ký trên sàn thương mại điện tử quốc gia, sàn thương mại điện tử Felix.store để sản phẩm được quảng bá rộng rãi, mở ra hướng đi mới cho người nông dân ở địa phương

Có thể nói, mô hình Tổ hợp tác Ngò gai hữu cơ ở Khóm 6 là một mô hình hiệu quả, góp phần nâng cao giá trị sản xuất trên cùng diện tích đất, cải thiện thu nhập cho nông hộ, đóng góp vào sự phát triển kinh tế ở địa phương.

HUỲNH NHƯ

 

Yên Bái: Văn Chấn mở rộng diện tích trồng tre măng Bát độ

 

Nguồn tin: Báo Yên Bái

Thực hiện mục tiêu đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, những năm gần đây, huyện Văn Chấn (Yên Bái) đã và đang đưa vào thử nghiệm một số loại cây trồng mới; trong đó, tre măng Bát độ được coi là một trong những loại cây chủ lực.

 

 

Người dân xã Suối Bu tích cực tham gia trồng và phát triển tre măng Bát độ.

Thị trấn Nông trường Trần Phú từng là thủ phủ của cây cam, nhưng sau dịch bệnh vàng lá, thối rễ, hầu hết diện tích cam, quýt của thị trấn đã bị xóa sổ. Sau khi lựa chọn nhiều loại cây trồng thay thế, chính quyền địa phương nhận thấy cây tre măng Bát độ có nhiều ưu điểm và cho hiệu quả kinh tế cao nên đã tập trung chỉ đạo trồng thử nghiệm. Từ những diện tích trồng ban đầu, đến nay, diện tích tre măng Bát độ đã phát triển lên trên 35 ha.

Gia đình anh Phạm Hải Đường ở tổ dân phố 8 là một trong những hộ điển hình trồng tre măng Bát độ ở thị trấn Nông trường Trần Phú. Sau khi diện tích cam của gia đình bị chết, anh đã chuyển sang trồng bí đao, nhưng do giá cả bấp bênh, đầu ra không ổn định, anh đã mạnh dạn sang huyện Trấn Yên tìm hiểu và học hỏi cách trồng cây tre măng Bát độ. Đến nay, gia đình anh có trên 5 ha tre măng Bát độ, trong đó 3 ha đang cho thu hoạch.

Anh Đường cho biết: "Quá trình trồng và chăm sóc tre măng Bát độ khá thuận lợi, cây trồng từ năm thứ 2 là cho thu hoạch và được Công ty cổ phần Yên Thành về tận nơi thu mua, bao tiêu sản phẩm với giá trung bình từ 5.000 - 6.000 đồng/kg”. Năm 2023, gia đình anh Đường thu nhập được 400 triệu đồng từ bán lá và bán măng. Đặc biệt, từ đầu năm 2024 đến nay, gia đình anh đã bán được hơn 200 triệu đồng tiền măng tre Bát độ, dự kiến năm nay sẽ thu được trên 500 triệu đồng”.

Các loại tre măng nói chung và tre măng Bát độ nói riêng được huyện Văn Chấn đưa vào trồng từ rất sớm. Tuy nhiên, do chưa có sự liên kết bao tiêu sản phẩm và diện tích trồng manh mún nên hiệu quả còn hạn chế. Hai năm trở lại đây, thực hiện Nghị quyết số 69 của HĐND tỉnh quy định về chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tỉnh Yên Bái, giai đoạn 2021 - 2025, huyện đã phối hợp, tạo điều kiện để các đơn vị doang nghiệp thực hiện các dự án phát triển tre măng Bát độ. Bên cạnh việc liên kết với các doanh nghiệp trong bao tiêu sản phẩm, các tổ chức hội và nhân dân đã liên kết thành lập hợp tác xã, tổ hợp tác để giúp nhau phát triển măng tre hiệu quả.

Ông Nguyễn Trung Thậm - Chủ tịch UBND thị trấn Nông trường Trần Phú cho biết: "Thị trấn đã thử nghiệm nhiều cây trồng để thay thế cây cam, nhận thấy tre măng Bát độ là cây trồng khá phù hợp. Hiện nay, phong trào trồng tre măng Bát độ trên địa bàn thị trấn đang phát triển mạnh. Thị trấn đã vận động các hội viên các tổ chức hội và người dân thành lập các tổ hợp tác, tiến tới thành lập hợp tác xã để giúp nhau phát triển, mở rộng diện tích cây trồng này”.

Tuy mới phát triển trên quy mô lớn được vài năm, nhưng theo đánh giá của người dân, tre măng Bát độ có ưu thế vượt trội với tốc độ sinh trưởng nhanh, ít sâu bệnh và chi phí đầu tư thấp. Cây tre măng Bát độ yêu cầu ít phân bón và công chăm sóc, nhưng lại đem lại hiệu quả kinh tế cao. Với mức giá bình quân từ 5.000 - 6.000 đồng/kg, mỗi héc-ta tre măng Bát độ có thể đem lại thu nhập từ 200 - 250 triệu đồng, góp phần cải thiện đời sống của người dân. Không chỉ có lợi ích kinh tế, tre măng Bát độ còn mang giá trị lớn trong việc chống xói mòn đất, bảo vệ cảnh quan và môi trường sinh thái. Đến nay, toàn huyện Văn Chấn có trên 500 ha tre măng Bát độ mang lại nguồn thu nhập ổn định cho người dân với doanh thu hàng năm đạt trên 100 tỷ đồng.

Từ hiệu quả và triển vọng cây tre măng Bát độ mang lại, thời gian tới, huyện Văn Chấn sẽ tiếp tục chỉ đạo các xã, thị trấn phối hợp với Hạt Kiểm lâm huyện rà soát và quy hoạch thêm các diện tích trồng tre măng. Mục tiêu là không chỉ gia tăng sản lượng măng mà còn tạo thêm nhiều việc làm, ổn định thu nhập cho người dân, góp phần đưa nền nông nghiệp của huyện phát triển bền vững.

Năm 2024, huyện Văn Chấn phối hợp với Công ty cổ phần Yên Thành thực hiện dự án liên kết sản xuất tre măng Bát độ. Dự án đã quy hoạch và mở rộng thêm 100 ha tại một số xã vùng ngoài. Đến hết tháng 8, chính quyền địa phương đã cấp 46.500 cây giống cho người dân các xã Thượng Bằng La, Tân Thịnh và thị trấn Nông trường Trần Phú, nhân dân đã trồng 85,9 ha, với tỷ lệ cây sống cao.

Trần Ngọc

 

Triển vọng có thêm giống mì mới kháng được bệnh khảm lá

 

Nguồn tin: Báo Tây Ninh

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), Tây Ninh là tỉnh có điều kiện đất đai, khí hậu và nguồn nước tưới dồi dào nên thuận lợi phát triển các cây trồng, trong đó, có cây khoai mì (sắn).

 

 

Ông Jonathan Newby- Giám đốc Chương trình sắn quốc tế (Trung tâm CIAT) kiểm tra củ mì mới nhổ tại Trung tâm thực nghiệm nông nghiệp Tây Ninh.

Hiện diện tích trồng khoai mì hằng năm của tỉnh là trên 62.000 ha, lớn thứ hai cả nước sau Gia Lai; năng suất trung bình từ 33 - 35 tấn/ha (cao gấp 1,7 lần năng suất trung bình của cả nước), đứng đầu cả nước.

Chưa đáp ứng nhu cầu

Tuy nhiên, theo các chuyên gia, việc canh tác thâm canh liên tục đã tạo điều kiện cho nhiều loại bệnh hại trên cây khoai mì phát triển và gây hại, trong đó, bệnh lở cổ rễ (thối củ) phát hiện từ năm 2014 và bệnh khảm lá lần đầu tiên phát hiện từ giữa tháng 7.2017 làm ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng khoai mì.

Theo khảo sát ngành Nông nghiệp, vụ Đông xuân năm 2023 – 2024, trên địa bàn tỉnh Tây Ninh có hơn 300 ha khoai mì bị bệnh lở cổ rễ, diện tích bị bệnh trải rộng khắp các huyện trồng khoai mì chủ lực như Tân Châu, Tân Biên, Dương Minh Châu và tiếp tục lây lan.

Triệu chứng điển hình của bệnh lở cổ rễ là những vết bệnh xuất hiện ở vị trí cổ rễ (phần tiếp giáp với mặt đất), sau đó lan rộng bao hết chu vi cổ rễ làm gốc thân teo thắt, nứt, chảy nhựa màu nâu đen, ướt và thối mục. Lá cây khoai mì chuyển sang màu vàng và héo đột ngột. Bệnh phát triển lan xuống củ làm cho củ hư thối.

Riêng đối với bệnh khảm lá, đây là loại bệnh nguy hiểm gây thiệt hại lớn về năng suất thu hoạch và chất lượng tinh bột, hiện vẫn chưa có thuốc đặc trị. Từ năm 2018 đến nay, Sở NN&PTNT Tây Ninh đã phối hợp với Viện Di truyền Nông nghiệp, Trung tâm Nông nghiệp nhiệt đới Quốc tế (CIAT), Trung tâm Nghiên cứu - Thực nghiệm nông nghiệp Hưng Lộc (gọi tắt Trung tâm Hưng Lộc) thực hiện nghiên cứu, khảo nghiệm và đánh giá nhiều giống mì tiềm năng có khả năng kháng bệnh, phù hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh và khu vực Đông Nam bộ. Kết quả, đến nay đã chọn tạo được 6 giống khoai mì kháng bệnh khảm lá được Bộ NN&PTNT công nhận và công bố lưu hành, gồm: HN1, HN3, HN5, HN36, HN80, HN97.

Các giống này đưa vào sử dụng đã có những tín hiệu khả quan nhưng các đơn vị nghiên cứu vẫn tiếp tục khảo sát, lai tạo và tuyển chọn những giống khoai mì mới không chỉ có gen kháng bệnh khảm lá sắn mà còn có năng suất, chất lượng củ cao, có khả năng kháng - chống chịu tốt với các bệnh điển hình trên cây khoai mì như bệnh lở cổ rễ, chổi rồng…

Sẽ có thêm giống mới

Vào 2 ngày 14 và 15.10, Sở NN&PTNT Tây Ninh phối hợp CIAT và Trung tâm Hưng Lộc tiến hành thu hoạch, đánh giá bộ giống có tiềm năng kháng bệnh khảm lá được trồng khảo nghiệm và tuyển chọn liên tục tại Trung tâm thực nghiệm nông nghiệp Tây Ninh (xã Thái Bình, huyện Châu Thành) từ năm 2021 đến nay. Theo đó, sau đợt thu hoạch lần này, dự kiến có thêm khoảng hai giống mới có gen kháng được bệnh khảm lá và một số bệnh thường gặp trên cây khoai mì, cho chất lượng tinh bộ cao so hơn hoặc bằng với các giống trước đây.

Ông Jonathan Newby- Giám đốc Chương trình sắn quốc tế (Trung tâm CIAT) cho biết, từ khi dịch khảm lá trên cây khoai mì bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam, trung tâm và các đơn vị chuyên môn ngành nông nghiệp đã tiến hàng khảo nghiệm tìm ra một số giống có gen kháng được bệnh này. Nhằm tiếp tục nghiên cứu, nâng cao chất lượng giống khoai mì vừa có tính kháng bệnh khảm lá, có năng suất chất lượng cao, phù hợp với điều kiện thổ các ở địa phương, từ năm 2021, Trung tâm CIAT cùng các đơn vị chuyên môn ngành nông nghiệp đã triển khai lai tạo giữa các giống có gen kháng bệnh khảm và những giống tiềm năng của Việt Nam.

Quá trình này được thực hiện liên tục, mỗi năm trung tâm chọn lai tạo và trồng khảo nghiệm khoảng 1.000 dòng mới để có thể chọn lọc các giống kháng bệnh tốt. Đây là năm thứ tư thực hiện, phía CIAT hy vọng có thể chọn được khoảng 5 - 10 dòng tiềm năng được công nhận và đưa vào sản xuất.

Ông Hà Thanh Tùng– Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Tây Ninh cho biết, sau đợt thu hoạch lần này, các chuyên gia sẽ có đánh giá cụ thể đối với một số giống có đủ điều kiện về tính kháng bệnh khảm lá, chất lượng chữ bột và năng suất tốt để làm quy trình đề nghị Bộ NN&PTNT công nhận và cấp phép lưu hành, từ đó Trung tâm Khuyến nông sẽ triển khai nhanh công tác nhân giống mới nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân.

Theo ông Tùng, nhằm đa dạng hoá bộ giống mới vừa có tính kháng bệnh khảm lá, năng suất và chất lượng tinh bột cao hơn, đồng thời có thể chống chịu một số loại bệnh phổ biến, đặc biệt là bệnh thối củ trên cây khoai mì, thời gian tới, Trung tâm Khuyến nông tỉnh sẽ tham mưu Sở NN&PTNT phối hợp CIAT và Hưng Lộc tiếp tục khảo nghiệm, đánh giá thêm nhiều dòng, giống mì mới, tìm kiếm những bộ giống mới có triển vọng trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.

Kỳ vọng giống khoai mì mới sẽ khắc phục khuyết điểm của những giống trước đây

Ông Nguyễn Đình Xuân– Giám đốc Sở NN&PTNT cho biết, Tây Ninh là một trong các tỉnh có diện tích và năng suất khoai mì đứng đầu cả nước. Những năm qua, khoai mì là một trong những cây trồng có giá trị kinh tế cao, giúp nông dân phát triển kinh tế, ổn định đời sống.

Tuy nhiên, dịch khảm lá mì bùng phát tại Tây Ninh từ năm 2017 khiến hàng ngàn héc-ta cây khoai mì trên địa bàn tỉnh nhiễm bệnh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất và chất lượng sản phẩm khoai mì.

Với sự nỗ lực nghiên cứu, lai tạo, khảo nghiệm và tuyển chọn của các nhà khoa học trong và ngoài nước, hiện đã có một số giống được công nhận và cấp phép lưu hành. Tuy nhiên, các giống này khi được trồng đại trà ngoài thực địa lại bộc lộ nhiều khuyết điểm khác nhau. Ví dụ như giống HN5 thân cây to, củ to nhưng chữ bột không cao; giống HN1 rất thành công về năng suất, chất lượng tinh bột nhưng lại bị những cái bệnh khác như thối cổ rể, xì mủ thân hay chổi rồng trên phần ngọn...

Theo ông Nguyễn Đình Xuân, quan điểm của ngành nông nghiệp Tây Ninh là không tăng diện tích trồng cây khoai mì mà sẽ tăng năng suất và chất lượng trên cùng một diện tích. Do đo, Giám đốc Sở NN&PTNT Tây Ninh hy vọng, sau đợt thu hoạch và đánh giá lần này, các nhà khoa học sẽ tiếp tục tìm ra một số giống mới, không những có thể kháng bệnh khảm lá mà còn kháng được nhiều loại bệnh khác, đồng thời, khắc phục được khuyết điểm của những giống trước đây, giúp nâng cao năng suất và chất lượng khoai mì của tỉnh.

Minh Dương

 

Năng động làm kinh tế từ trồng trọt và chăn nuôi

 

Nguồn tin:  Báo Cần Thơ

Quyết tâm thay đổi cuộc sống cũng như thỏa đam mê chăn nuôi, anh Võ Văn Quốc Khánh ở ấp Nhơn Thọ 1, xã Nhơn Ái, huyện Phong Điền (TP Cần Thơ) đã mạnh dạn chuyển đổi cây trồng, vật nuôi để tìm ra mô hình sản xuất hiệu quả. Trải qua không ít gian nan, đến nay, anh Khánh đã gặt “quả ngọt” từ mô hình trồng sầu riêng và nuôi cua đinh, góp phần tăng thu nhập cho gia đình.

 

 

Mô hình nuôi cua đinh của anh Khánh được nhiều đoàn đến tham quan, tìm hiểu.

Gia đình có truyền thống nghề nông, từ nhỏ anh Khánh đã làm quen với công việc trồng trọt. Kế thừa gần 2.000m2 đất vườn phía sau nhà trồng cam từ cha mẹ. Tuy nhiên, sau thời gian canh tác, cây cam không cho hiệu quả kinh tế. Qua tìm hiểu, anh Khánh chuyển đổi sang trồng sầu riêng Ri6 với khoảng 30 cây. Bước đầu làm quen với mô hình mới cũng không ít khó khăn. Song, nhờ bản tính cần cù chịu khó và chủ động tìm hiểu kỹ thuật chăm sóc sầu riêng, vườn cây dần đi vào quỹ đạo và phát triển tốt, từ đó cho thu nhập ổn định. Sau thời gian chăm bẵm vườn sầu riêng tích cóp được kinh nghiệm và tài chính, cách đây hơn 6 năm, anh Khánh mua thêm gần 9.000m2 đất vườn gần nhà, trồng thêm 200 cây sầu riêng Ri6. Từ kinh nghiệm đã có, anh không ngừng học hỏi, cập nhật kiến thức mới trong kỹ thuật chăm sóc, đầu tư hệ thống phun tưới tự động… Nhờ đó, cả hai vườn sầu riêng đều phát triển khá thuận lợi, mang hiệu quả kinh tế cho gia đình trong những năm qua. Riêng mùa sầu riêng mới đây, anh thu hoạch được 10 tấn trái, giá bán 57.000 đồng/kg cho thu nhập 570 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí đầu tư, lợi nhuận gần 400 triệu đồng.

Với nguồn thu nhập từ vườn sầu riêng, cuộc sống gia đình cơ bản đã ổn định, tuy nhiên, anh Khánh lại có niềm đam mê với chăn nuôi. Anh Khánh kể: Anh rất thích chăn nuôi, nên tự mày mò, tìm hiểu con vật nào nuôi hiệu quả để làm thêm, tăng thu nhập cho gia đình. Vì vậy, song song với chăm sóc vườn sầu riêng, anh tận dụng một phần diện tích của ngôi nhà để phát triển thêm mô hình chăn nuôi. Bắt đầu với chăn nuôi heo nhưng không mang lại hiệu quả, toàn lỗ vốn, anh dừng chăn nuôi heo. Sau đó, phong trào nuôi trăn ở ĐBSCL rộ lên. Giá trăn tăng lên nhờ mặt hàng da trăn xuất khẩu sang châu Âu và một số nước châu Á. Nhận thấy mô hình này mang lại hiệu quả kinh tế, anh Khánh lần nữa “khởi nghiệp” với nuôi trăn. Được một thời gian, do xuất khẩu không được thuận buồm xuôi gió, giá trăn trở nên bấp bênh, tránh thua lỗ kéo dài, anh Khánh ngưng mô hình nuôi trăn.

Sau hai lần chăn nuôi không mấy suôn sẻ, cứ ngỡ anh Khánh sẽ gác lại đam mê chăn nuôi, chuyên tâm cho vườn sầu riêng. Thế nhưng, ý chí đã giúp anh Khánh biến gian nan thành động lực, tiếp tục theo đuổi đam mê. Đứng lên từ vấp ngã, anh dành nhiều thời gian tự học hỏi qua internet, tìm hiểu vật nuôi mang lại hiệu quả kinh tế. Nhận thấy mô hình nuôi cua đinh ít tốn công chăm sóc, không cần nhiều diện tích, đầu ra thuận lợi, thế là 5 năm trước, anh Khánh mua 10 con cua đinh giống với giá 500.000 đồng/con mang về nuôi thử. Anh Khánh chia sẻ: “Sau một năm nuôi thử, cua đinh phát triển khá thuận lợi, nuôi “khỏe” hơn rất nhiều so với những vật nuôi trước đây. Trong khi đó, thịt cua đinh có giá trị dinh dưỡng cao và chế biến được nhiều món ăn ngon nên cua đinh bán giá cao, được thị trường ưa chuộng. Thấy có triển vọng nên tôi quyết định mua cua đinh lớn để nuôi sinh trưởng và bắt tay xây bể phát triển cua đinh…”.

Hiện nay, anh Khánh dành 200m2 phía sau nhà để xây 12 bể xi măng và bể kính nuôi cua đinh. Trong suốt thời gian qua, anh Khánh không ngừng tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm chăm sóc cua đinh từ Internet, những mô hình thực tế xung quanh và tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật chăn nuôi cua đinh do huyện tổ chức để tích lũy kinh nghiệm, cập nhật kiến thức mới. Nhằm chủ động con giống, giảm chi phí sản xuất, anh Khánh nghiên cứu cho cua đinh sinh sản, nuôi gối đầu cho các vụ mùa tiếp theo và bán con giống. Ðể cho cua đinh đẻ trứng và ấp nở con thành công, anh học hỏi kiến thức, biết cách phân biệt con đực và con cái, cách bố trí, xây dựng chuồng trại cho cua đinh sinh sản. Mỗi lứa, anh Khánh lựa chọn các con lớn tách ra chăm sóc bể riêng để bán, chừa lại một phần con đực và cái để phục vụ việc sinh sản. Mỗi năm, cua đinh sinh sản 3-4 lứa, mỗi lứa từ 7-18 trứng. Trứng ấp khoảng 100-105 ngày mới nở. Sau đó đem nuôi khoảng 1 tuần rồi đưa ra dưỡng trong bể xi măng.

Theo anh Khánh, mô hình nuôi cua đinh là mô hình có hướng phát triển tốt, mang lại giá trị kinh tế cao và thị trường tiêu thụ ổn định. Đối với mô hình nuôi cua đinh không tốn nhiều diện tích, không đòi hỏi kỹ thuật cao, dễ nuôi ít tốn công chăm sóc, tỷ lệ hao hụt thấp, thức ăn dễ tìm. Tuy nhiên, đã nuôi con cua đinh phải chấp nhận “đường dài”, đầu tư lâu, sau 3 năm mới có thể có thu nhập. Năm đầu cua đinh tăng trưởng chậm, nhưng đến năm thứ hai sẽ tăng trưởng rất nhanh có thể đạt 2-3kg và đã bán được. Tuy nhiên, cua đinh lớn thì giá trị sẽ cao hơn, cho nên anh thường để nuôi cua đinh đạt từ 5-6kg mới đem bán. Vì vậy, thời gian qua, nguồn thu nhập từ cua đinh của anh Khánh chủ yếu là bán cua đinh giống, cua thịt chỉ bán lai rai vài chục con. Lứa cua gần đây, anh Khánh bán 400 con cua đinh giống, giá 250.000 đồng/con; cua thịt giá 300.000 đồng/kg. Hiện tại bể nuôi cua đinh của gia đình còn 300 con hậu bị và hơn 100 con bố mẹ.

Bên cạnh năng động trong suy nghĩ chuyển đổi mô hình sản xuất phù hợp, anh Khánh rất chịu khó, cần cù, cả vườn sầu riêng và đàn cua đinh đều do anh tự tay chăm sóc. Với ý chí dám nghĩ dám làm, quyết tâm theo đuổi đam mê, anh Khánh thành công trong mô hình trồng trọt và chăn nuôi. Từ cuộc sống khó khăn đã vươn lên có nguồn thu nhập ổn định, cải thiện cuộc sống gia đình. Đây cũng là một trong những mô hình phát triển kinh tế hiệu quả của xã Nhơn Ái được nhiều đoàn đến tham quan, tìm hiểu. Tại đây, anh Khánh sẵn sàng tiếp đón và chia sẻ kinh nghiệm để cùng nhau phát triển kinh tế…

Bài, ảnh: T. TRINH

 

Công nghệ sinh học- chìa khóa cho nền nông nghiệp bền vững

 

Nguồn tin:  Báo Vĩnh Long

Theo các chuyên gia kinh tế, việc ứng dụng công nghệ sinh học (CNSH) là “chìa khóa” để Việt Nam xây dựng một nền nông nghiệp (NN) bền vững và cạnh tranh cao. Tuy nhiên, ứng dụng CNSH trong NN ở nước ta quá chậm, cần có những định hướng, giải pháp phát triển NN bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế và đối mặt với các thách thức như biến đổi khí hậu.

 

 

Thời gian qua, các địa phương đã phát triển các mô hình hiệu quả mang giá trị đặc trưng, phù hợp điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu và thế mạnh địa phương cho năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao.

Xu hướng tất yếu

Theo ngành chức năng, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất NN là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả và tính bền vững của chuỗi giá trị nông sản.

Các công nghệ mới như CNSH, công nghệ thông tin, tự động hóa trong sản xuất và quản lý NN sẽ giúp tăng năng suất, giảm chi phí và bảo vệ môi trường. Việc chuyển đổi số, đưa công nghệ vào sản xuất NN là xu thế tất yếu, giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, giảm chi phí giá thành đầu tư cho người nông dân.

TS Cao Đức Phát- nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT, Chủ tịch HĐQT Viện Nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) khẳng định, CNSH là thành tựu của nhân loại, góp phần đóng góp vào hiệu quả sản xuất NN của thế giới trong nhiều thập kỷ, đặc biệt trong vòng 30 năm qua.

Trong đó, những công nghệ nổi bật có nuôi cấy mô giúp lĩnh vực trồng trọt có năng suất vượt trội, góp phần đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu, giảm lượng thuốc BVTV, cải thiện chất lượng đất, môi trường.

Tại tỉnh Vĩnh Long, theo ngành chức năng, CNSH được Tỉnh ủy, UBND tỉnh quan tâm chỉ đạo thực hiện đúng định hướng, từng bước đi vào chiều sâu, đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương.

Việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất NN thời gian qua đã thực sự tạo sự chuyển biến tích cực, từng bước làm thay đổi nhận thức và hành động từ cơ quan quản lý nhà nước, đến doanh nghiệp cũng như nông dân.

Qua đó, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, từng bước xây dựng ngành NN tỉnh phát triển theo hướng bền vững, hiện đại.

Theo ông Nguyễn Văn Liêm- Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp-PTNT, thời gian qua, các địa phương cũng đã phát triển các mô hình hiệu quả mang giá trị đặc trưng, phù hợp điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu và thế mạnh địa phương cho năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, mang tiềm năng phát triển thương hiệu, chỉ dẫn địa lý địa phương được ghi nhận.

Nhiều giống cây mới đã được phát triển với khả năng chống chịu sâu bệnh tốt hơn, giúp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Năm 2023, ngành NN đã hoàn thành 6 khảo nghiệm, thử nghiệm giống trước khi đề xuất, nhân rộng.

Nhiều nhiệm vụ khoa học công nghệ ứng dụng CNSH để góp phần hướng đến nền NN xanh như: ứng dụng chế phẩm sinh học trong quản lý sùng đục củ, sâu đục vỏ trái bưởi, ruồi vàng; ứng dụng giá thể hữu cơ vi sinh trong sản xuất NN…

Các hoạt động này tiếp tục đưa tiến bộ khoa học được kiểm chứng ứng dụng nhân rộng vào thực tiễn sản xuất, đồng thời định hình hướng đi mới nhằm gia tăng tỷ lệ tự động hóa, đa dạng sản phẩm và sinh kế để thích nghi, giảm bớt rủi ro trước biến động giá cả thị trường, biến chuyển xu thế tiêu dùng và biến đổi khí hậu.

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp

Những thành tựu CNSH đã ứng dụng vào NN không chỉ giúp tăng năng suất, chất lượng nông sản mà còn góp phần bảo vệ môi trường, giảm thiểu sử dụng hóa chất trong canh tác.

Trong tương lai, CNSH sẽ tiếp tục đóng vai trò then chốt trong việc giúp ngành NN Việt Nam đối phó với những thách thức từ biến đổi khí hậu và đáp ứng các yêu cầu ngày càng khắt khe từ thị trường quốc tế.

Tuy nhiên, những năm gần đây, việc ứng dụng CNSH bị chậm lại, có nguy cơ tụt hậu so với thế giới. Trên thế giới hiện nay, đã xuất hiện nhiều xu hướng mới trong phát triển và ứng dụng CNSH.

Cùng với sự thay đổi của công nghệ, sự kết hợp giữa CNSH và công nghệ số, AI cho phép nâng cao hiệu quả nghiên cứu và phát triển CNSH. Để không tụt hậu, cần nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt và ứng dụng các xu hướng mới này.

Theo TS Đỗ Tiến Phát- Trưởng Phòng Công nghệ tế bào thực vật, Viện CNSH, để đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế, ngành NN Việt Nam cần nhanh chóng đẩy mạnh ứng dụng CNSH.

Những tiến bộ như công nghệ chỉnh sửa gien (CRISPR) hay các giải pháp NN chính xác sẽ giúp NN Việt Nam tăng tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đồng thời giúp ngành này thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu.

Nhấn mạnh việc ứng dụng CNSH vào NN vẫn còn nhiều thách thức, PGS.TS Nguyễn Hữu Ninh- Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ và Môi trường, cho rằng, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa các nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân.

Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ từ Nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích áp dụng CNSH vào sản xuất và thúc đẩy phát triển NN bền vững.

Ngoài ra, cần xây dựng chính sách đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu về CNSH và tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các dự án nghiên cứu mới.

Việc xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam dựa trên nền tảng CNSH cũng là một yếu tố quan trọng để gia tăng giá trị và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.

Mục tiêu đến năm 2030, tỉnh Vĩnh Long phát triển và ứng dụng CNSH vào một số ngành, lĩnh vực nông nghiệp, công nghệ sau thu hoạch, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường... góp phần phát triển kinh tế- xã hội nhanh, bền vững. Bên cạnh đó, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đầu tư cơ sở vật chất nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, phát triển và ứng dụng CNSH; phát triển và đa dạng sản phẩm CNSH, từng bước xây dựng nền công nghiệp sinh học của tỉnh trở thành nền kinh tế- kỹ thuật quan trọng.

Bài, ảnh: TRÀ MY

 

Huyện Châu Đức (Bà Rịa - Vũng Tàu): Xây dựng được 12 mã số vùng trồng xuất khẩu

 

Nguồn tin:  Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Thời gian qua, Phòng NN-PTNT huyện Châu Đức (Bà Rịa - Vũng Tàu) đã chủ động phối hợp với các xã, thị trấn tham mưu UBND huyện khuyến khích, hỗ trợ các DN, HTX và nông hộ xây dựng cơ sở dữ liệu cấp, đăng ký mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói, nhằm tạo điều kiện cho nông sản của huyện vươn ra các thị trường trong nước và xuất khẩu.

 

 

Sau khi được cấp mã số vùng trồng xuất khẩu, sản phẩm sầu riêng đã được DN chủ động tìm đến hợp tác, thu mua. Ảnh: Ông Nguyễn Tấn Bản, Chủ tịch UBND huyện Châu Đức tham quan vùng trồng sầu riêng Liên Đức (xã Xà Bang).

Đến nay, huyện đã xây dựng được 12 mã số vùng trồng xuất khẩu cho cây chuối, sầu riêng, thanh long với tổng diện tích 552,5ha, sản lượng khoảng 1.779,5 tấn đi thị trường Trung Quốc.

Trong đó, 6 mã số vùng trồng trên cây chuối: Công ty CP Cao su Thống Nhất (2 vùng), Công ty CP DVSX Thương mại, Công ty TNHH SXTM nhập khẩu Minh Quyền (2 vùng), Đội Cao su Phong Phú;

6 mã số vùng trồng trên cây sầu riêng: Tổ sản xuất sầu riêng Liên Đức I, II, III, IV xã Xà Bang, HTX sầu riêng 9 Bê xã Láng Lớn và HTX Sản xuất DVNN Xuân Trường xã Sơn Bình;

2 cơ sở được cấp mã số đóng gói diện tích 4.567m2: Công ty CP cao su Thống Nhất, Công ty TNHH TMDV XNK Hồng Thái Dương.

Bên cạnh đó, huyện cũng đã xây dựng 10 mã số vùng trồng nội địa, với diện tích 12,05ha; cung ứng ra thị trường trong và ngoài tỉnh 123,8 tấn rau ăn lá, nấm bào ngư, nấm linh chi, măng cụt, bơ, bưởi, đu đủ, cacao, hồ tiêu...

Theo UBND huyện Châu Đức, hiện địa phương đang tiếp tục xây dựng 4 mã số vùng trồng sầu riêng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc với diện tích 42,3ha, sản lượng khoảng 898 tấn/năm.

ĐINH HÙNG

 

Sâm Ngọc Linh - sâm Việt Nam, kết nối giá trị và khẳng định thương hiệu Việt

 

Nguồn tin:  Cổng TTĐT tỉnh Quảng Nam

Đó là chủ đề của Lễ hội Sâm Ngọc Linh (Sâm Việt Nam) quốc tế tại tỉnh Quảng Nam năm 2025.

Theo kế hoạch sẽ tổ chức Lễ hội Sâm Ngọc Linh (Sâm Việt Nam) quốc tế tại tỉnh Quảng Nam năm 2025. Thời gian hoạt động chính của Lễ hội: dự kiến từ ngày 01 đến ngày 03/8/2025 (thứ Sáu đến Chủ nhật). Các hoạt động tuyên truyền, thông tin đối ngoại và hưởng ứng Lễ hội diễn ra trong cả năm 2025.

Địa điểm: Quảng trường 24 tháng 3 thành phố Tam Kỳ, huyện Nam Trà My và một số địa phương trong tỉnh.

Lê hội với các nội dung chính gồm: Lễ khai mạc; không gian trưng bày triển lãm, ẩm thực; chương trình giao lưu văn hóa nghệ thuật; Hội thảo khoa học về bảo tồn và phát triển Sâm Ngọc Linh, dược liệu; Diễn đàn xúc tiến đầu tư phát triển Sâm Ngọc Linh và dược liệu tỉnh Quảng Nam; Giải chạy Marathon hoặc Giải chạy Trail; Chương trình tham quan, khảo sát, trải nghiệm vùng trồng và cơ sở sản xuất sâm, dược liệu

Các hoạt động hưởng ứng Lễ hội trong năm 2025 gồm: Tổ chức famtrip, presstrip và Hội nghị phát triển du lịch tại vùng Sâm Ngọc Linh; Các hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch.

 

 

Phiên đấu giá sâm Ngọc Linh tại huyện Nam Trà My năm 2024.

Một số hoạt động của các địa phương trong tỉnh: Lễ hội Quế Trà My; Hội nghị về phát triển Đảng sâm; Hội nghị về phát triển dược liệu miền núi cao; Lễ hội ớt A Riêu huyện Đông Giang lần thứ hai…

Lễ hội nhằm tiếp tục quảng bá hình ảnh, giá trị cây sâm Ngọc Linh (sâm Việt Nam), tạo môi trường giao lưu, hợp tác trong nước và quốc tế trong lĩnh vực sâm, dược liệu và hưởng ứng, triển khai mạnh mẽ các nội dung trong Chương trình phát triển Sâm Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 theo Quyết định số 611/QĐ-TTg ngày 01/6/2023 của Thủ tướng Chính phủ.

Đồng thời bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các địa phương vùng sâm, dược liệu của tỉnh. Tạo cơ hội giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, kiến thức, công nghệ trong nước và quốc tế về công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị sâm và dược liệu, trong đó có sâm Ngọc Linh (sâm Việt Nam); qua đó, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, phát triển du lịch sinh thái, cộng đồng và thu hút đầu tư vào các địa phương trên địa bàn tỉnh.

VĂN TOÀN

 

Nhiều diện tích lúa bị ảnh hưởng do lũ, nông dân tập trung ứng cứu

 

Nguồn tin:  Báo Long An

Mấy ngày qua, do ảnh hưởng của lượng mưa tại chỗ kết hợp nước lũ từ thượng nguồn đổ về, nhiều diện tích lúa ở các huyện vùng Đồng Tháp Mười của tỉnh Long An bị ảnh hưởng.

 

 

Mưa, lũ làm ảnh hưởng khoảng 100ha lúa tại xã Vĩnh Đại, huyện Tân Hưng

Tại khu đê bao khoảng 100ha tại ấp Cà Dăm, xã Vĩnh Đại, huyện Tân Hưng, quan sát của phóng viên, hiện mực nước lũ bên ngoài cao hơn 1m so với mặt ruộng nên nước không thoát được, người dân phải dùng máy bơm rút nước ra. Hơn chục máy bơm nước được đặt dưới chân ruộng hoạt động hết công suất trong mấy ngày qua để cứu số diện tích lúa bị ngập úng trong khu vực.

Ông Nguyễn Văn Dũng (xã Vĩnh Đại, huyện Tân Hưng), không thể khoanh tay đứng nhìn diện tích lúa của mình chìm trong nước, hơn 5 ngày qua, ông phải canh từng giờ để bơm nước cứu sống diện tích 2,5ha lúa đã gieo sạ khoảng 1 tuần, tốn kém thêm khoản chi phí hơn 4 triệu đồng tiền dầu, thuốc diệt ốc. Mặc dù nước đã dần cạn nhưng theo ông thì lúa chết rất nhiều phải tốn thêm khoản chi phí dặm về sau.

Còn tại khu đê bao (thuộc ấp Gò Cát và Lò Gạch, xã Vĩnh Trị, huyện Vĩnh Hưng), khoảng 150ha lúa của nông dân trong giai đoạn chín cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nguyên nhân là lượng mưa tại chỗ kết hợp nước lũ từ thượng nguồn đổ về ở mức cao, nước trong ruộng không thoát được, người dân dùng máy bơm rút nước ra để cứu lúa, làm tốn thêm nhiều chi phí.

Anh Nguyễn Thanh Phần (xã Vĩnh Trị, huyện Vĩnh Hưng) cho biết: “10ha lúa của gia đình tôi hiện trong giai đoạn chín, chuẩn bị thu hoạch trong vài ngày tới. Do ảnh hưởng của mưa, lũ, hiện mực nước ngoài kênh cao hơn mặt ruộng khoảng 1,5m, nước không thể thoát được, nên đành phải đặt máy bơm nước ra. Hơn 20 ngày qua, những ngày có mưa máy phải chạy xuyên suốt 24/24, làm tốn thêm chi phí mỗi hécta lúa hơn 1 triệu đồng tiền dầu".

Mặc dù địa phương và ngành chức năng không khuyến cáo nông dân xuống giống lúa vụ Thu Đông (lúa vụ 3) nhằm hạn chế thiệt hại do nguy cơ của lũ, triều cường và sự lây nhiễm của các đối tượng gây hại từ lùa vụ Hè Thu sang, cũng như bảo đảm cho sản xuất lúa vụ Đông Xuân 2024 - 2025 đạt kết quả tốt.

Tuy nhiên, giá lúa tăng cao nông dân huyện Vĩnh Hưng tự phát xuống giống lúa vụ Thu Đông với diện tích 3.869ha.

Mấy ngày qua, tại 2 xã vùng trũng thấp (Tuyên Bình và Tuyên Bình Tây) có hàng trăm hécta lúa bị đe doạ, người dân và chính quyền địa phương phải ứng cứu, hạn chế thiệt hại gây ra.

Cụ thể, tại khu vực kênh Tên Lửa 1 (ấp Cả Gừa, xã Tuyên Bình Tây) có khoảng 180ha lúa đang trong giai đoạn đẻ nhánh. Tại bờ kênh Tên Lửa 1 có 7 điểm thấp, mặt đê cách mặt nước khoảng 20cm, mỗi điểm thấp này có chiều dài khoảng 5 - 25m; tại vách bờ kênh Rạch Bay có 8 điểm thấp, mặt đê còn cách mặt nước 20cm, mỗi điểm có chiều dài từ 3 - 15m. UBND xã Tuyên Bình Tây đã huy động kobe đắp xong 15 điểm thấp để bảo vệ an toàn cho 180ha lúa trong khu vực.

Tại xã Tuyên Bình, khu vực kênh ranh Thạnh Hưng có khoảng 240ha lúa đang trong giai đoạn để nhánh. UBND xã Tuyên Bình đã phối hợp UBND xã Thạnh Hưng (thị xã Kiến Tường) thống nhất giao mỗi xã chịu trách nhiệm đắp một đầu cống kênh ranh Thạnh Hưng để bảo vệ an toàn diện tích lúa này.

Còn tại huyện Tân Hưng, có hơn 5.800ha lúa Thu Đông nông dân đã xuống giống, tập trung ở các xã như Vĩnh Bửu, Vĩnh Đại, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu A, Vĩnh Châu B, Hưng Điền B, Hưng Hà, Thạnh Hưng, Hưng Thạnh. Trong đó, 3.490ha lúa giai đoạn mạ, 975ha lúa trong giai đoạn đẻ nhánh, 1.378ha lúa trong giai đoạn đòng trổ. Trong đó, nhiều diện tích bị mưa, lũ gây thiệt hại làm tốn thêm chi phí trong sản xuất.

Trước tình hình mưa, lũ còn diễn biến phức tạp, kéo dài, nông dân không nên nôn nóng xuống giống vụ mùa tiếp theo mà phải tuân thủ theo lịch thời vụ cơ quan chuyên môn khuyến cáo, để tránh thiệt hại về kinh tế trước mắt, đây cũng là cầu nối lây truyền sâu, bệnh cho những vụ mùa tiếp theo./.

Văn Đát

 

Quảng Ninh: Hải Hà chuẩn bị đưa trang trại chăn nuôi lợn công nghệ cao lớn nhất miền Bắc vào hoạt động

 

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Quảng Ninh

Theo báo cáo của chủ đầu tư, dự án Trang trại chăn nuôi lợn công nghệ cao Greentech, tại thôn 4, xã Quảng Sơn, huyện Hải Hà sẽ vận hành vào cuối tháng 10/2024 với hạng mục chăn nuôi lợn nái và đến trung tuần tháng sau sẽ chính thức chăn nuôi lợn thịt.

 

 

Công ty CP Công ty CP Chăn nuôi Greentech hoàn thành những công đoạn cuối để đưa vào vận hành đối với hạng mục chăn nuôi lợn nái vào cuối tháng 10 này.

Ngày 16/10, đoàn công tác của huyện Hải Hà đã có buổi kiểm tra, làm việc với Công ty CP chăn nuôi Greentech - Chủ đầu tư Dự án chăn nuôi lợn công nghệ cao tại xã Quảng Sơn, huyện Hải Hà.

Vào tháng 11/2021, UBND tỉnh Quảng Ninh phê duyệt chủ trương đầu tư dự án Trang trại chăn nuôi lợn công nghệ cao tại xã Quảng Sơn, huyện Hải Hà và đến tháng 6/2023 Dự án đủ điều kiện pháp lý để đầu tư xây dựng. Đây là dự án chăn nuôi công nghệ cao lớn nhất mà tỉnh Quảng Ninh đã thu hút đầu tư vào ngành chăn nuôi tính đến thời điểm này và có quy mô lớn nhất miền Bắc của Việt Nam.

Dự án Trang trại chăn nuôi lợn công nghệ cao Greentech có tổng vốn đầu tư tên 600 tỷ đồng, được xây dựng trên diện tích 45,2ha; công suất thiết kế nuôi 5.000 lợn nái, 20.000 lợn cai sữa và 40.000 lợn thịt/lứa với 2, 3 lứa/năm (tương đương 143.000 lợn giống và hơn 15 triệu kg thịt lợn hơi/năm) với công nghệ chăn nuôi tiên tiến, an toàn thực phẩm.

Dự án đặt ra mục tiêu phát triển mô hình chăn nuôi lợn theo hướng công nghiệp, khép kín, chủ động từ khâu sản xuất giống đến khâu chăn nuôi thành lợn thương phẩm, tạo ra các sản phẩm cho thị trường với chất lượng cao theo tiêu chuẩn nghiêm ngặt nhất; làm điểm cho mô hình chăn nuôi lợn theo hướng công nghiệp, làm cơ sở và tiền đề nhân rộng, hoàn thiện mô hình trong tương lai các tỉnh lân cận và khu vực. Đồng thời, Trang trại cũng phấn đấu đi đầu trong tăng hiệu suất sử dụng đất, tăng năng suất lao động, cải thiện môi trường tự nhiên, tái sử dụng sản phẩm xả thải phục vụ cho phát triển nông nghiệp sạch.

Đây là dự án chăn nuôi lợn công nghệ cao được đầu tư cơ sở hạ tầng, thiết bị chăn nuôi hàng đầu của Việt Nam như: Hệ thống cho ăn, làm mát tự động bằng thiết bị nhập khẩu châu Âu; thiết bị khung chuồng toàn bộ mạ kẽm nhúng nóng; hệ thống xử lý nước thải chăn nuôi đảm bảo cột A, quy chuẩn 62/2016 của Bộ Tài nguyên & Môi trường về nước thải chăn nuôi; đầu tư trạm xử lý nước sạch để phục vụ sinh hoạt và sản xuất…

Trong quá trình triển khai, những vướng mắc liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng, Công ty CP Chăn nuôi Greentech đã luôn nhận được quan tâm, đồng hành, hỗ trợ của tỉnh và huyện Hải Hà.

Sau 14 tháng khẩn trương triển khai xây dựng, đến nay dự án đã cơ bản hoàn thành. Cuối tháng 10/2024, Công ty CP Chăn nuôi Greentech sẽ đưa vào vận hành đối với hạng mục chăn nuôi lợn nái và đến đến trung tuần tháng 11, công ty sẽ tiếp tục đưa vào vận hành hệ thống chuồng nuôi lợn thương phẩm.

Dự án Trang trại chăn nuôi lợn công nghệ cao tại xã Quảng Sơn, huyện Hải Hà đi vào vận hành không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển nông nghiệp của địa phương mà còn đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng chung của ngành Nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh, đảm bảo thực hiện mục tiêu tăng trưởng GRDP toàn ngành trên 4% trong năm 2024.

Hữu Việt

 

Lâm Đồng: 90% cơ sở chăn nuôi quy mô lớn áp dụng công nghệ chuồng trại khép kín

 

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Mục tiêu đến năm 2030, toàn tỉnh Lâm Đồng phấn đấu 90% cơ sở chăn nuôi quy mô lớn và 60% cơ sở chăn nuôi quy mô vừa áp dụng công nghệ chuồng trại khép kín, có hệ thống thu gom, xử lý chất thải hiện đại, đảm bảo kỹ thuật và vệ sinh môi trường theo quy định.

Cụ thể có 4 giải pháp đổi mới công nghệ theo hướng tự động hóa gồm:

Thứ nhất, phát triển mô hình chăn nuôi tuần hoàn theo quy trình thức ăn - trang trại - thực phẩm - phân bón hữu cơ.

Thứ hai, tích hợp công nghệ thông tin và tự động hóa trong chăn nuôi từ các khâu quản lý, chăm sóc nuôi dưỡng, phòng, chống dịch bệnh.

Thứ ba, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ mới, công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch trong việc quản lý chất thải chăn nuôi theo hướng phòng ngừa chủ động.

Thứ tư, đổi mới hệ thống chuồng trại đảm bảo an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh trong hoạt động chăn nuôi.

VŨ VĂN

 

Chăn nuôi gà đen bản địa an toàn sinh học thu lãi khá cao

 

Nguồn tin: Báo Thái Nguyên

Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, giúp bà con dân tộc Mông gìn giữ và nhân rộng giống gà đen quý, từng bước tạo thành vùng chăn nuôi tập trung, đem lại hiệu quả kinh tế cao, tăng thu nhập cho người dân, từ tháng 7-2024 đến nay, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên phối hợp với UBND xã Quang Sơn triển khai mô hình chăn nuôi gà đen bản địa an toàn sinh học tại xóm Trung Sơn.

 

 

Một hộ dân xóm Trung Sơn, xã Quang Sơn (Đồng Hỷ), tham gia mô hình.

Tham gia mô hình có 21 hộ, nuôi 2.600 con gà đen bản địa. Trong quá trình triển khai mô hình, các hộ được hướng dẫn, tập huấn kỹ thuật chăn nuôi gà; hỗ trợ 70% kinh phí mua gà giống và 10,9 tấn thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh; chế phẩm sinh học, hóa chất sát trùng, phun khử khuẩn chuồng trại...

 

Sau 3,5 tháng chăn nuôi, qua đánh giá cho thấy, giống gà đen bản địa có đặc điểm thịt đen, xương đen, hàm lượng mỡ trong thịt ít, thịt chắc, thơm ngon; tỷ lệ gà nuôi sống đến khi được xuất bán đạt 97%; gà mái có thể đạt trọng lượng từ 1,5-2 kg/con, gà trống từ 1,8-2,5kg/con. Giống gà đen bản địa có khả năng thích nghi tốt, chống chịu bệnh tật cao, trong quá trình nuôi tận dụng được nguồn thức ăn sẵn có tại địa phương. Cùng với nuôi để lấy thịt, giống gà này còn được nuôi để làm cảnh hoặc sinh sản. Gà nuôi hơn 5 tháng bắt đầu đẻ trứng, mỗi đợt đẻ từ 10-12 quả. Trung bình mỗi hộ dân thu lãi 7,9 triệu đồng/100 con gà.

Ngọc Ánh

 

Tái đàn heo phục vụ thị trường cuối năm: Kỳ vọng giá cao, dịch bệnh được kiểm soát

 

Nguồn tin: Báo Bình Định

Người chăn nuôi trong tỉnh Bình Định đang tích cực tái đàn heo, nhằm đáp ứng nhu cầu tăng cao dịp cuối năm. Để đàn heo sinh trưởng và phát triển tốt, các hộ đặc biệt chú trọng công tác chăm sóc và phòng ngừa dịch bệnh, xem đây là yếu tố then chốt.

Tập trung tái đàn

Ông Nguyễn Văn Công, ở thôn Tân Hóa Bắc, xã Cát Hanh (huyện Phù Cát), cho biết gia đình đang nuôi 40 con heo con được 20 ngày tuổi. Dự kiến khi đàn heo này đạt 23 - 25 ngày tuổi, ông sẽ tách riêng để nuôi tiếp. Ngoài ra, ông còn có khoảng 60 con heo lứa chừng 1 tháng tuổi, sẵn sàng xuất chuồng trước tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025. Tính tổng cộng, ông Công dự kiến xuất bán khoảng 100 con heo để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ dịp cuối năm.

Trong đợt bán gần đây, heo xuất chuồng của ông Công đạt giá 64.000 - 65.000 đồng/kg heo hơi, tăng 9.000 - 10.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước. “Năm nay, giá heo duy trì mức cao ổn định, người nuôi có lãi tốt”, ông phấn khởi chia sẻ.

Để đàn heo phát triển tốt, ông Công đặc biệt chú trọng khâu chăm sóc và bảo vệ chuồng trại. Trang trại của ông được giăng lưới kín xung quanh để ngăn côn trùng như ruồi, muỗi xâm nhập, đồng thời thường xuyên vệ sinh sát trùng khu vực chuồng trại. Ông cũng kiểm soát kỹ người ra vào chuồng bằng cách yêu cầu vệ sinh giày dép, thay trang phục trước khi tiếp xúc với đàn heo.

Ông Công nhấn mạnh: “Việc tiêm phòng vắc xin định kỳ là yếu tố quan trọng giúp duy trì sức khỏe đàn heo. Hiện, đàn heo của tôi đã được tiêm các loại vắc xin phòng ngừa nhiều bệnh, trong đó có dịch tả heo cổ điển, tai xanh, tụ huyết trùng, phó thương hàn, các bệnh ký sinh trùng và cả dịch tả châu Phi”.

Tại xã Ân Nghĩa (huyện Hoài Ân), ông Nguyễn Thanh Nhất - người đã có 8 năm kinh nghiệm nuôi heo ở thôn Kim Sơn cũng đang tất bật cho vụ nuôi cuối năm. Đầu tháng 9 âm lịch, ông Nhất mua 100 con heo giống với giá 175 nghìn đồng/kg. Đàn heo này dự kiến xuất chuồng vào giữa tháng Chạp để kịp phục vụ thị trường Tết.

Ông Nhất cho biết, đầu năm 2024 đến cuối tháng 8 âm lịch, ông nuôi và xuất bán được 2 lứa heo, với giá từ 53.000 - 60.000 đồng/kg heo hơi. Đây là mức giá có lãi cho người nuôi, trong khi chi phí thức ăn không tăng mạnh.

Trang trại của ông Nhất rộng 360 m², được che chắn cẩn thận bằng vải mùng để ngăn côn trùng và kết hợp phun thuốc sát trùng, rắc vôi xung quanh chuồng trại. Ông cũng duy trì việc tiêm phòng vắc xin đầy đủ cho đàn heo, gồm các loại như E.coli, tụ huyết trùng và sắp tới sẽ tiếp tục tiêm các vắc xin phòng dịch tả châu Phi, tai xanh.

“Để đàn heo khỏe mạnh, ngoài việc tiêm phòng đầy đủ, tôi còn kiểm soát kỹ người ra vào chuồng trại và giữ chuồng sạch sẽ, thông thoáng,” ông Nhất chia sẻ và kỳ vọng sẽ thu lãi cao trong vụ nuôi này, góp phần phục vụ thị trường cuối năm.

 

 

Ông Nguyễn Văn Công, ở thôn Tân Hóa Bắc, xã Cát Hanh (huyện Phù Cát) đang chăm sóc đàn heo 1 tháng tuổi, dự kiến vài ngày nữa sẽ tách mẹ để nuôi thịt. Ảnh: T.LỢI

Tăng cường biện pháp an toàn dịch bệnh

Theo ông Huỳnh Ngọc Diệp, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y (Sở NN&PTNT), đầu năm 2024 đến nay, một số ổ dịch lẻ tẻ đã xuất hiện nhưng đều được xử lý kịp thời. Tuy nhiên, nguy cơ dịch bệnh tái phát vẫn cao do mầm bệnh tồn tại trong môi trường, hoạt động vận chuyển, mua bán gia súc tăng mạnh trong dịp cuối năm và thời tiết chuyển biến thất thường. Dự báo thời gian tới, hiện tượng ENSO có khả năng chuyển sang trạng thái

Theo Cục Thú y (Bộ NN&PTNT), đầu năm 2024 đến nay, tình hình bệnh dịch tả heo châu Phi đã xảy ra và diễn biến phức tạp. Hiện nay, đã có 1.139 ổ dịch tại 47 tỉnh, thành trong cả nước. Nguy cơ các loại dịch bệnh nguy hiểm trên đàn vật nuôi và lây sang người tiếp tục phát sinh, lây lan nhanh trên phạm vi cả nước trong thời gian tới là rất cao.

La Nina, gây mưa lớn, dông, lốc và sét kéo dài, tạo điều kiện cho dịch bệnh bùng phát nếu không chủ động các biện pháp phòng ngừa hiệu quả.

Toàn tỉnh có hơn 695.900 con heo, phấn đấu đạt hơn 759.400 con vào cuối năm 2024. Ông Diệp khuyến nghị các địa phương chủ động tuyên truyền và hướng dẫn chăn nuôi an toàn sinh học, phòng chống dịch bệnh hiệu quả; sử dụng con giống rõ nguồn gốc và thực hiện tiêm phòng đầy đủ các loại vắc xin; vệ sinh, tiêu độc khử trùng chuồng trại định kỳ hàng tuần để loại bỏ mầm bệnh. Bên cạnh đó, phối hợp với cơ quan thú y và chính quyền địa phương để kịp thời báo cáo và xử lý khi phát hiện dấu hiệu dịch bệnh. Chi cục đã phân công thành viên các tổ phòng chống dịch bám sát địa bàn, kiểm tra công tác tiêm phòng và giám sát hoạt động tái đàn.

Ông Diệp nhấn mạnh: “Chỉ khi thực hiện đồng bộ các biện pháp, đàn heo mới có thể phát triển khỏe mạnh, bền vững, đảm bảo nguồn cung cho thị trường và giảm thiểu rủi ro dịch bệnh”.

Hoài Ân được mệnh danh là “vựa heo” của miền Trung - Tây Nguyên, đang tích cực triển khai các biện pháp đảm bảo an toàn dịch bệnh cho đàn heo. Theo ông Huỳnh Thanh Vương, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Hoài Ân, toàn huyện có khoảng 220 nghìn con heo (35.000 heo nái, 185 nghìn heo thịt và hơn 30.000 heo con theo mẹ). Hoạt động tái đàn bắt đầu từ đầu tháng 9 âm lịch và dự kiến đến cuối năm 2024, tổng đàn heo sẽ đạt 261.660 con, trong đó đàn nái duy trì ở mức 35.000 con và heo thịt tăng lên 226.660 con.

Hiện nay, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Hoài Ân đang phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn người chăn nuôi tái đàn an toàn theo các nguyên tắc nghiêm ngặt về cách ly, vệ sinh, khử trùng và an toàn sinh học, dưới sự giám sát của chính quyền địa phương và các cơ quan chuyên môn. Đồng thời, triển khai đăng ký và tổ chức tiêm phòng vắc xin phòng dịch tả heo châu Phi theo chỉ đạo cấp trên và theo dõi hiệu quả sau tiêm. Đặc biệt, khuyến khích người nuôi phát triển mô hình chăn nuôi an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh; phân công giám sát tận cơ sở, sẵn sàng báo cáo và xử lý nhanh khi có dịch bệnh. Ngoài ra, thực hiện kiểm tra chặt chẽ, xử phạt nghiêm các trường hợp kinh doanh, vận chuyển động vật nhiễm bệnh hoặc giết mổ không đúng quy định.

TRỌNG LỢI

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop