Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 23 tháng 6 năm 2025

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 23 tháng 6 năm 2025

 

Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt hơn 28 tỷ USD trong 5 tháng

5 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 28,04 tỷ USD, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước. Ngành nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế…

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến thông tin tại buổi gặp mặt. Ảnh: N.Lộc

Đây là thông tin được Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho biết tại buổi gặp mặt các cơ quan báo chí nhân Kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam chiều 20/6, tại Hà Nội.

Nhiều kết quả tích cực

Thông tin cụ thể về tình hình sản xuất, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 5 tháng đầu năm, lãnh đạo Văn phòng Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt 15,29 tỷ USD, tăng 16,3%; giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 217,2 triệu USD, tăng 11,7%; giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 4,11 tỷ USD, tăng 15,1%; giá trị xuất khẩu lâm sản đạt 7,48 tỷ USD, tăng 11,7%; giá trị xuất khẩu đầu vào phục vụ sản xuất đạt 938,7 triệu USD, tăng 24,3%; giá trị xuất khẩu muối đạt 4,6 triệu USD, tăng 2,4 lần.

Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 5 tháng đầu năm đạt 28,04 tỷ USD; nhập khẩu 20,01 tỷ USD; xuất siêu khoảng 8,03 tỷ USD (cao hơn mức xuất siêu 6,24 tỷ USD của nền kinh tế).

Châu Á là thị trường xuất khẩu lớn nhất của các mặt hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam với thị phần chiếm 42%. Tiếp đó là thị trường châu Mỹ và châu Âu với thị phần lần lượt là 23% và 16,1%. Thị phần của 2 khu vực châu Phi và châu Đại Dương chiếm lần lượt 3,3% và 1,3%...

So với cùng kỳ năm trước, giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam 5 tháng đầu năm 2025 sang khu vực châu Á tăng 1,8%; châu Mỹ tăng 17,2%; châu Âu tăng 46,8%; châu Phi tăng 94,1%; châu Đại Dương tăng 4,6%.

Đối với vấn đề thị trường, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, Bộ sẽ tập trung phát triển thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu; tiếp tục xử lý các vấn đề thị trường nhằm thuận lợi cho xuất khẩu nông thủy sản sang các thị trường: Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản; mở cửa các thị trường mới, nhiều tiềm năng: Các nước Hồi giáo Halal, Trung Đông, châu Phi...

5 tháng 2025, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt hơn 28 tỷ USD. Ảnh ST

Tận dụng ưu đãi từ các Hiệp định thương mại tự thế hệ mới (FTAs) để đẩy mạnh xuất khẩu nông, lâm, thủy sản chủ lực, hỗ trợ doanh nghiệp ký kết đơn hàng xuất khẩu mới; tiếp tục theo dõi, nắm bắt tình hình giá cả, nguồn cung lương thực, thực phẩm thiết yếu; phối hợp với các địa phương hỗ trợ kết nối, thúc đẩy chế biến, tiêu thụ nông sản; thông tin quy định thị trường, thị hiếu tiêu dùng; kết nối tiêu thụ thông qua hệ thống tham tán thương mại, nông nghiệp tại các thị trường...

Quyết liệt thực hiện mục tiêu đề ra

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cũng thẳng thắn nhìn nhận rằng ngành nông nghiệp và môi trường vẫn đối mặt nhiều thách thức lớn, bao gồm thị trường xuất khẩu bất ổn, tác động của chiến tranh khu vực, rào cản thuế và hạn chế về trình độ khoa học - công nghệ.

Trong bối cảnh đó, Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 59-NQ/TW, Nghị quyết số 68-NQ/TW và Nghị quyết số 66-NQ/TW là nền tảng để ngành phát huy thế mạnh, vượt qua khó khăn.

Năm 2025, ngành Nông nghiệp và Môi trường đặt mục tiêu tăng trưởng 4%; đồng thời hướng tới kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 65 tỷ USD, chạm mốc 70 tỷ USD. Với những kết quả của 5 tháng đầu năm 2025, khả năng đạt mục tiêu của ngành là có cơ sở.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết, để đạt được mục tiêu của ngành nông nghiệp năm 2025, trong những tháng còn lại của năm, toàn Ngành nông nghiệp và môi trường sẽ quyết liệt hơn nữa trong hoạt động thực tiễn, khát vọng thành công hơn.

Đại diện lãnh đạo đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường thông tin về tình hình xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 5 tháng đầu năm 2025. Ảnh: N.Lộc

Tiếp tục triển khai đồng bộ, hiệu quả các Nghị quyết, luật, chiến lược, chương trình, đề án, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành và từng lĩnh vực theo hướng phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững, minh bạch, trách nhiệm, tích hợp đa giá trị theo hướng giữ vững an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái; khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn; chú trọng phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao; phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương.

"Những mục tiêu đề ra của ngành nông nghiệp và môi trường sẽ khó thuận lợi, nếu thiếu vai trò thông tin tuyên truyền, hỗ trợ của cơ quan thông tấn, báo chí" - Thứ trưởng nhấn mạnh.

Tại buổi gặp mặt, đại diện các đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã thông tin về những kết quả đạt được, một số rào cản, thách thức đối trong thực hiện mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu; phát triển bền vững../.

N.LỘC

 

Thủ tướng Phạm Minh Chính: thực hiện 4 đẩy mạnh để xây dựng nông thôn hiện đại

Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, cả hệ thống chính trị cần tập trung thực hiện '4 đẩy mạnh', trong đó có đẩy mạnh hoàn thiện thể chế để phục vụ nông dân là trung tâm, là chủ thể, nông nghiệp là động lực, nông thôn là nền tảng của sự phát triển...

Chiều 22/6, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Phong trào thi đua "Cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới", Phong trào thi đua "Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau" giai đoạn 2021-2025.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị.

Phát biểu khai mạc Hội nghị, nhấn mạnh vai trò, vị trí, tầm quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế; chúng ta lấy nông dân làm trung tâm, nông nghiệp làm động lực, nông thôn là nền tảng. Đa số người dân Việt Nam ở nông thôn, số lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn.

Cùng với đó, Thủ tướng nhấn mạnh vai trò của nền văn minh lúa nước, đóng góp, dấu ấn của khu vực nông nghiệp, nông thôn với nền văn hóa dân tộc Việt Nam.

Thủ tướng nêu rõ, thời gian qua, chương trình xây dựng nông thôn mới có 79% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, 51% số đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn hoặc hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; đã có 12 tỉnh, thành phố được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.

Tuy nhiên, hiện nay, còn nhiều vùng có tỷ lệ nghèo trên 50%. Bên cạnh sự tích cực của các phong trào thi đua, công tác thi đua khen thưởng cũng còn những bất cập như chưa phát hiện, khen thưởng kịp thời các điển hình, nhiều cá nhân, tổ chức có nhiều đóng góp mà chưa được khen thưởng, biểu dương...

Thủ tướng Phạm Minh Chính thăm một gian trưng bày sản phẩm OCOP.

Phát biểu kết luận Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá cao công tác chuẩn bị và các báo cáo, ý kiến tại Hội nghị. Theo Thủ tướng, điều này khẳng định tính đúng đắn, cần thiết của việc tổng kết các Chương trình ngay trong tháng 6/2025 (trước 6 tháng so với kế hoạch) và trước khi cả nước vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp từ ngày 1/7, sẵn sàng cùng cả nước chuẩn bị bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Thủ tướng khái quát, thực tiễn cho thấy việc xây dựng, tổ chức thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn là đúng, trúng, phù hợp, hiệu quả mang lại rất tích cực:

Thứ nhất, góp phần cơ cấu lại, phát triển kinh tế đất nước theo hướng nhanh, bền vững.

Thứ hai, cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi, y tế, văn hóa, giáo dục, điện - đường - trường -trạm, diện mạo nông thôn, đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn được nâng lên toàn diện.

Thứ ba, Việt Nam trở thành hình mẫu thế giới về thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, trong đó có giảm nghèo, phát triển nông thôn, cung cấp nước sạch.

Phân tích các nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, Thủ tướng nhấn mạnh sự lãnh đạo của Đảng, thường xuyên, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư Tô Lâm; sự chung sức đồng lòng của cả dân tộc, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; sự hợp tác của bạn bè quốc tế; phát huy sức mạnh tổng hợp trong mối quan hệ nông nghiệp – nông dân – nông thôn, phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân; phát huy nguồn lực thiên nhiên, nền văn hóa, văn minh lúa nước và phát huy nguồn lực con người, sự tham gia của người nông dân.

Định hướng thời gian sắp tới, Thủ tướng nêu rõ, theo định hướng phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc; chúng ta tiếp tục thực hiện các chương trình, phong trào thi đua, kiên trì, kiên định để thực hiện bằng được mục tiêu xây dựng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh như Nghị quyết Đại hội XIII đã đề ra và mục tiêu giảm nghèo toàn diện, bao trùm và bền vững.

Để đạt mục tiêu đề ra, Thủ tướng nhấn mạnh, cả hệ thống chính trị (cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội) cần tập trung thực hiện "4 đẩy mạnh":

Một là, đẩy mạnh hoàn thiện thể chế để phục vụ nông dân là trung tâm, là chủ thể, nông nghiệp là động lực, nông thôn là nền tảng của sự phát triển.

Hai là, đẩy mạnh phát triển hạ tầng chiến lược cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn (gồm hạ tầng giao thông, năng lượng, y tế, văn hóa, giáo dục, thể thao, hạ tầng số… theo hướng xanh và bền vững).

Ba là, đẩy mạnh xây dựng, phát triển yếu tố con người, cụ thể là nông dân phù hợp với giai đoạn cách mạng mới, sự phát triển mới, chính quyền địa phương 2 cấp, thực hiện "bộ tứ trụ cột" theo 4 Nghị quyết của Bộ Chính trị (đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; hội nhập quốc tế trong tình hình mới; đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật; phát triển kinh tế tư nhân).

Bốn là, đẩy mạnh đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp phù hợp nhu cầu và sự hưởng thụ của người dân Việt Nam và người tiêu dùng thế giới; đa dạng hóa chuỗi cung ứng trong nông nghiệp; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu nông nghiệp. Thủ tướng lấy ví dụ về mặt hàng thực phẩm Halal với 2 tỷ người sử dụng trên thế giới.

Với người nông dân, Thủ tướng đề nghị thực hiện "3 tiên phong": Tiên phong thoát nghèo và thi đua làm giàu từ bàn tay, khối óc, mảnh đất, khung trời, cửa biển; tiên phong xây dựng nông dân văn minh; tiên phong sản xuất xanh, bền vững, chuyển đổi số và đặc biệt là triển khai phong trào Bình dân học vụ số, xây dựng nền kinh tế số, Chính phủ số, xã hội số, công dân số.

Phân công nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành, các cấp, Thủ tướng yêu cầu cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc, đồng bộ, hiệu quả sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đồng chí Tổng Bí thư; tập trung khẩn trương xây dựng các Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2026-2035 theo hướng tích hợp; đồng thời nghiên cứu, tham mưu phát động phong trào thi đua phù hợp; huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc trong tổ chức thực hiện với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, phân công 6 rõ: Rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm, rõ thẩm quyền.

Thủ tướng cho rằng trong bối cảnh hiện nay, phải lấy nguồn lực nhà nước đóng vai trò "vốn mồi", dẫn dắt, kích hoạt mọi nguồn lực xã hội, kêu gọi đoàn kết, chung tay của tất cả mọi người, của doanh nghiệp, thúc đẩy hợp tác công tư. Phải tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để giải phóng nguồn lực; đào tạo nhân lực; đầu tư hạ tầng; làm tốt các chính sách xã hội, bảo đảm an sinh, không để ai bị bỏ lại phía sau, không hy sinh tiến bộ, công bằng, an sinh xã hội và môi trường nông thôn để chạy theo tăng trưởng đơn thuần.

Thủ tướng lưu ý, việc triển khai các chương trình, phong trào phải sống động, thực chất, đã nói là làm, đã cam kết phải thực hiện, mang lại hiệu quả cân đong đo đếm được; đồng thời khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thời gian qua, có công cụ để ngăn chặn tham nhũng, tiêu cực, lãng phí trong quá trình thực hiện; các cơ quan báo chí truyền thông cần vào cuộc đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về nội dung này.

"Chủ trương đúng, đồng thuận phải cao, tổ chức thực hiện phải hiệu quả và sự hưởng thụ của người dân phải thực chất, để người nông dân cảm nhận thực sự thành quả mang lại chứ không phải những lời sáo rỗng, những lời hứa suông", Thủ tướng nhấn mạnh.

Hồng Hương

 

Cơ hội lớn cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ

Nghị định 156/2025/NĐ-CP được kỳ vọng trao cơ hội lớn cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ khi quy định cho phép vay đến 70% giá trị dự án không cần tài sản bảo đảm, giữ nguyên nhóm nợ và hỗ trợ vay mới khi gặp khó khăn khách quan.

Vân Thảo

 

Tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận tín dụng nông nghiệp

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 156/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn (đã được sửa đổi tại Nghị định 116/2018/NĐ-CP). Việc sửa đổi chính sách nhằm phù hợp với thực tiễn, đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng lớn của người dân trong sản xuất nông nghiệp, đóng góp chung phấn đấu hoàn thành mục tiêu tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội.

Theo đó, Nghị định số 156/2025/ NĐ-CP nâng mức cho vay tối đa không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, hộ kinh doanh, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và chủ trang trại. Cụ thể, mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia đình cư trú trên địa bàn nông thôn hoặc có hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp tăng từ 100-200 triệu đồng lên 300 triệu đồng. Mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với tổ hợp tác và hộ kinh doanh hoạt động trên địa bàn nông thôn được tăng từ 300 triệu đồng lên 500 triệu đồng. Mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với chủ trang trại được tăng từ 1 - 2 tỷ đồng lên 3 tỷ đồng. Mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được tăng từ 1 - 3 tỷ đồng lên 5 tỷ đồng.

Ngoài việc nâng hạn mức, Nghị định số 156/2025/NĐ-CP cũng đơn giản hóa thủ tục vay. Cụ thể, người dân không cần nộp giấy xác nhận đất chưa có sổ đỏ hoặc không tranh chấp như trước. Việc nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ được thực hiện theo thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng, thay vì bắt buộc. Đáng chú ý, Nghị định số 156/2025/NĐ-CP còn mở rộng đối tượng được hưởng ưu đãi tín dụng như nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn, cho phép tiếp cận vốn và xử lý rủi ro tương tự mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao hoặc liên kết chuỗi.

Việc ban hành Nghị định 156/2025/ NĐ-CP là bước đi cụ thể nhằm khơi thông nguồn lực tín dụng, thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn, góp phần hoàn thành các mục tiêu tăng trưởng bền vững trong giai đoạn tới.

THANH HỒNG

 

Tạo sức bật để An Thái bứt phá

Xã An Thái, huyện Phú Giáo không chỉ giữ vững danh hiệu xã nông thôn mới kiểu mẫu mà còn kỳ vọng bứt phá, mở rộng mô hình kinh tế nông thôn dựa trên nền tảng hạ tầng số, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao và sự tham gia tích cực của người dân.

Đòn bẩy chuyển đổi số

Thời gian qua, xã An Thái chọn chuyển đổi số nông thôn làm mũi nhọn trong phát triển. Ấp Phú Thịnh 1 được chọn làm mô hình “ấp thông minh” với 100% hộ dân được phủ sóng internet cáp quang, tỷ lệ người dùng điện thoại thông minh đạt 88,4%, thanh toán không dùng tiền mặt đạt trên 52,5%. Không dừng ở đó, tỷ lệ hộ dân xây dựng cảnh quan “sáng - xanh - sạch - đẹp” tại đây đạt 92,03%. Hạ tầng cấp nước cũng được đầu tư đồng bộ, 100% hộ dân sử dụng nước sạch, trong đó hơn 67% hộ dân đã tiếp cận nước đạt chuẩn từ hệ thống tập trung.

Ông Bùi Văn Thịnh, Trưởng ban Điều hành ấp Phú Thịnh 1, cho biết ấp hiện có khoảng 200 hộ dân, với hạ tầng cơ bản ngày càng hoàn thiện. Tổ công nghệ số của ấp phối hợp với Đoàn Thanh niên thường xuyên hỗ trợ người dân sử dụng điện thoại thông minh và thanh toán không dùng tiền mặt. Toàn bộ các tuyến đường trên địa bàn ấp đã được lắp đặt camera giám sát, hầu hết đã bê tông hóa, chỉ có một tuyến đường còn sỏi đỏ.

Những thành quả đạt được trong thời gian qua đang tạo đà để xã An Thái bứt phá phát triển trong thời kỳ mới. Trong ảnh: Mô hình sản xuất chuối của Unifarm tại xã An Thái

Lãnh đạo xã An Thái cho biết chỉ vài năm trước địa phương vẫn còn gặp khó về kết nối thông tin và ứng dụng công nghệ số trong đời sống nông thôn. Hiện nay, từ internet cáp quang đến sóng 3G/4G đã phủ sóng khắp 6 ấp. Cùng với việc triển khai các chương trình tập huấn số hóa, người dân trên địa bàn xã bắt đầu chuyển mình theo nhịp phát triển của xã hội hiện đại.

Tới đây, xã An Thái sẽ cùng với 2 xã Phước Sang và Tân Hiệp sáp nhập thành một xã lấy tên là Phước Thành. Người dân nơi đây kỳ vọng, sau sáp nhập mọi sự ràng buộc về địa giới hành chính, khoảng cách “địa phương” sẽ được gỡ bỏ, những mối quan hệ kinh tế - xã hội sẽ hài hòa, tạo thuận lợi để người dân ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, cùng chung tay xây dựng vùng đất nông nghiệp ngày càng đổi mới.

Ông Bùi Văn Bảo, Chủ tịch UBND xã An Thái, cho hay: “Chúng tôi tập trung hỗ trợ người dân tiếp cận vốn vay ưu đãi, chuyển đổi giống cây trồng và kỹ thuật canh tác, đồng thời kết nối việc làm cho lao động địa phương thông qua doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh. Mục tiêu là mỗi hộ đều có cơ hội tăng thu nhập bền vững”.

Những nỗ lực này tạo nền tảng vững chắc để An Thái không chỉ giữ vững tiêu chí xã nông thôn mới (NTM) nâng cao mà còn đạt 100% nhóm tiêu chí xã NTM kiểu mẫu về văn hóa - môi trường - số hóa. Đây là cơ sở để địa phương kỳ vọng tạo bước đột phá sau sáp nhập, hướng đến hình mẫu NTM kiểu mẫu thông minh gắn với phát triển bền vững.

Kỳ vọng đột phá trong thời kỳ mới

Sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã An Thái đang dịch chuyển mạnh mẽ sang mô hình hiện đại, ứng dụng công nghệ cao với nhiều mô hình tiêu biểu. Trong đó, Công ty Cổ phần Nông nghiệp U&I (Unifarm) trở thành điểm sáng trong chuyển đổi sản xuất nông nghiệp bền vững. Đại diện Unifarm cho biết: “Chúng tôi áp dụng công nghệ Isarel, cảm biến IoT (internet vạn vật) và hệ thống tưới nhỏ giọt điều khiển tự động để kiểm soát dinh dưỡng, độ ẩm, ánh sáng. Việc gắn mã QR cho nông sản giúp truy xuất nguồn gốc minh bạch, nâng cao giá trị sản phẩm và niềm tin từ thị trường. Hiện tại, toàn bộ sản phẩm cây có múi như cam, quýt, chuối, bưởi da xanh của công ty đều được chứng nhận GlobalGAP. Đáng chú ý, một sản phẩm đạt chuẩn OCOP (Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm”) 4 sao cấp tỉnh”.

Cùng với doanh nghiệp, nhiều hộ nông dân ở An Thái cũng tích cực áp dụng công nghệ trong sản xuất. Ông Nguyễn Văn Cừ, chủ trang trại sầu riêng ở ấp Phú Thịnh 1, cho hay hiện gia đình ông đang canh tác 3 ha sầu riêng, gia đình vừa nộp hồ sơ để được công nhận sản phẩm sầu riêng đạt chuẩn OCOP. Gia đình ông còn nhận chăm sóc vườn sầu riêng cho các hộ có nhu cầu, luôn sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm kỹ thuật cho người dân.

Ông Bùi Văn Thịnh chia sẻ qua nắm bắt ý kiến về kỳ vọng của người dân sau khi các xã sáp nhập, đa số đều mong muốn hạ tầng giao thông nông thôn trên địa bàn tiếp tục được đầu tư, nâng cấp khang trang, đồng bộ hơn. Người dân cũng đề xuất mở rộng và thông suốt các tuyến đường theo dạng bàn cờ, kết nối liên ấp nhằm thuận tiện trong việc đi lại. Bên cạnh đó, việc thu gom rác thải cần được các đơn vị liên quan thực hiện đúng giờ, đúng lịch trình, để bảo đảm vệ sinh môi trường.

Theo ông Bùi Văn Bảo, xã An Thái xây dựng mô hình NTM kiểu mẫu không chỉ dừng lại ở việc đạt chuẩn hạ tầng hay nâng cao thu nhập, mà còn đặt trọng tâm vào chuyển đổi tư duy sản xuất, lối sống và khả năng tiếp cận công nghệ của người dân. Đây chính là nền tảng cho một nông thôn hiện đại, văn minh, đúng với tinh thần mà chương trình NTM kiểu mẫu đề ra. Xã vừa được công nhận xã NTM kiểu mẫu gắn với mô hình làng thông minh. Việc sắp xếp lại đơn vị hành chính không chỉ là câu chuyện địa giới mà còn mở ra cơ hội tái cấu trúc không gian phát triển kinh tế. Sau sáp nhập, xã An Thái căn cứ vào chỉ tiêu phát triển kinh tế của TP.Hồ Chí Minh mới để có định hướng phát triển kinh tế phù hợp, hiệu quả.

THEO UBND XÃ AN THÁI, THU NHẬP BÌNH QUÂN ĐẦU NGƯỜI CỦA XÃ TĂNG TỪ 71 TRIỆU ĐỒNG/ NGƯỜI NĂM 2021 LÊN 92,787 TRIỆU ĐỒNG VÀO CUỐI NĂM 2024, VƯỢT CHUẨN XÃ NÔNG THÔN MỚI KIỂU MẪU.

TIẾN HẠNH

 

Không ngừng đổi mới, phát triển

Để nâng cao thu nhập, giúp thành viên an tâm sản xuất, gắn bó lâu dài, Hợp tác xã Nông nghiệp dịch vụ nông thôn Bình Nhì (gọi tắt là HTX Bình Nhì), huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang, đã không ngừng đổi mới, áp dụng các quy trình canh tác hiện đại, chuyển đổi số, hướng đến sản xuất nông nghiệp bền vững.

NHỮNG ĐIỂM NHẤN

Từ những ngày đầu thành lập, HTX Bình Nhì đã mang trong mình sứ mệnh giản dị nhưng cao cả là đảm bảo nguồn nước sạch cho cộng đồng nông thôn. Qua 24 năm, sứ mệnh ấy không chỉ được duy trì mà còn được mở rộng, trở thành nền tảng cho những bước tiến vượt bậc trong nông nghiệp và chuyển đổi số. Năm 2024, doanh thu của HTX đạt 2,64 tỷ đồng cùng lợi nhuận sau thuế hơn 210 triệu đồng. Đây là minh chứng cho sự ổn định và phát triển bền vững của HTX.

Dịch vụ cung cấp nước sạch là “trái tim” của HTX Bình Nhì, kết nối mọi hộ dân trong xã bằng nguồn nước sạch, đạt chuẩn chất lượng. Với hệ thống 7 giếng nước tầng sâu và 4 dàn lọc, HTX đã cung cấp 368.317 m³ nước sạch trong năm 2024, tăng 19.187 m³ so với năm trước, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt ngày càng tăng của người dân. Giá nước hợp lý cùng với việc kiểm tra chất lượng định kỳ bởi ngành Y tế đã đảm bảo rằng mỗi giọt nước đến tay người dân đều an toàn và đáng tin cậy.

Tập huấn các thành viên HTX Nông nghiệp dịch vụ nông thôn Bình Nhì về chuyển đổi số.

Không dừng lại ở đó, HTX đã đầu tư hơn 328 triệu đồng để nâng cấp máy bơm từ 3,5HP lên 7,5HP, san lấp mặt bằng, lắp đặt ống thoát nước và cải tạo 13 tuyến đường ống, mang lại nguồn nước ổn định hơn cho cộng đồng. Với tinh thần không ngừng cải tiến, HTX đã lên kế hoạch nâng cấp đường ống chính Ø90, triển khai hệ thống xúc rửa tự động và điều chỉnh giờ cung cấp nước để tối ưu chi phí.

Song hành với dòng nước sạch là khát vọng vươn lên trong nông nghiệp. Năm 2024, HTX đã triển khai hàng loạt mô hình sản xuất tiên tiến, từ lúa chất lượng cao, lúa hữu cơ, đến dưa hấu và các loại cây trồng chủ lực như dừa, thanh long, và bắp. Mô hình lúa chất lượng cao theo Nghị quyết 04/2021/NQ-HĐND, với sự hỗ trợ 40% vật tư nông nghiệp được triển khai cho 32 hộ dân trên 20 ha tại ấp Bình Đông Trung, đã áp dụng cơ giới hóa đồng bộ từ làm đất đến thu hoạch, giúp giảm chi phí đáng kể và tăng lợi nhuận cho nông dân. Mô hình lúa hữu cơ trên 20 ha với 41 hộ tham gia không chỉ nâng cao giá trị sản phẩm mà còn góp phần bảo vệ môi trường, đáp ứng xu hướng tiêu dùng xanh.

Đặc biệt, chương trình liên kết tiêu thụ lúa theo Nghị quyết 07/2019/NQ-HĐND, hợp tác với Công ty TNHH Thương mại HK đã cung ứng giống lúa và vật tư cho 64 hộ trên 30,53 ha từ năm 2022 - 2024, với tổng kinh phí hơn 2 tỷ đồng. Năm 2024, mô hình này mở rộng sang cây dưa hấu với 16,25 ha và 21 hộ tham gia, mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt và mở ra triển vọng mới cho sản xuất nông nghiệp.

Điểm nhấn trong hành trình nông nghiệp của HTX Bình Nhì là việc áp dụng tiêu chuẩn VietGAP và xây dựng mã số vùng trồng. Với 5 ha lúa VietGAP tại ấp Bình Hòa Đông và 16,25 ha dưa hấu tại ấp Bình Đông Trung được cấp chứng nhận VietGAP, HTX đã đáp ứng các yêu cầu khắt khe của thị trường. Mã số vùng trồng được cấp cho 4 loại cây (dừa, thanh long, lúa, bắp) đã tạo nên một hệ thống sản xuất minh bạch, truy xuất nguồn gốc rõ ràng, mở ra cơ hội chinh phục thị trường quốc tế, đặc biệt với cây dừa.

Chuyển đổi số là một chương mới trong câu chuyện của HTX Bình Nhì. Được chọn làm mô hình điểm về chuyển đổi số của tỉnh Tiền Giang, HTX đã trang bị cho thành viên kỹ năng sử dụng phần mềm ghi chép nhật ký canh tác trên điện thoại, giúp theo dõi và quản lý quy trình sản xuất một cách chính xác, từ lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật đến năng suất cây trồng. Hệ thống này không chỉ giảm thiểu sai sót mà còn hỗ trợ cán bộ quản lý điều chỉnh kịp thời, đảm bảo sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, phát thải thấp. Việc xây dựng mã vùng trồng, mã vạch, và truy xuất nguồn gốc sản phẩm đã tạo lợi thế cạnh tranh, đưa các sản phẩm của Bình Nhì đến gần hơn với thị trường quốc tế. Chuyển đổi số không chỉ là công cụ mà còn là động lực để HTX hiện thực hóa giấc mơ về một nền nông nghiệp xanh, sạch, và bền vững.

HƯỚNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Trong thời gian tới, HTX Bình Nhì sẽ nâng cấp hệ thống nước sạch với đường ống Ø90, triển khai hệ thống xúc rửa tự động, và di dời đồng hồ nước ra đường ống chính sẽ đảm bảo nguồn nước ổn định và hiệu quả hơn. Trong nông nghiệp, HTX sẽ tiếp tục duy trì mô hình VietGAP, cánh đồng lớn và liên kết tiêu thụ sản phẩm.

Đồng thời, tham gia Đề án “Phát triển bền vững một triệu ha lúa chất lượng cao và phát thải thấp” tại Đồng bằng sông Cửu Long, góp phần vào mục tiêu tăng trưởng xanh. Việc thành lập tổ cơ giới hóa và triển khai máy bay không người lái trong sản xuất, với kinh phí 535 triệu đồng, hứa hẹn nâng cao năng suất và bảo vệ môi trường. Dự án Sản xuất nước uống đóng bình, với kinh phí 400 triệu đồng, sẽ mở ra cơ hội kinh doanh mới, trong khi mô hình liên kết “Doanh nghiệp - HTX - Nông dân” sẽ được đẩy mạnh thông qua hội thảo, tập huấn, và chuyển giao kỹ thuật.

HTX Bình Nhì không chỉ là một tổ chức kinh tế mà còn là ngọn lửa thắp sáng tinh thần đoàn kết, đổi mới, và khát vọng vươn lên của cộng đồng. Các chương trình tuyên truyền về Luật HTX 2023, Nghị quyết 20-NQ/TW và Nghị quyết 07/NQ-TU đã nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của kinh tế tập thể, khơi dậy niềm tin vào sức mạnh cộng đồng.

Sự quan tâm của Liên minh HTX, Chi cục Chất lượng và Phát triển Nông thôn tỉnh Tiền Giang và các cấp chính quyền địa phương là nguồn động lực to lớn, giúp HTX vượt qua mọi thử thách để tiến về phía trước. Từ những giọt nước sạch đến những hạt lúa vàng, từ cánh đồng truyền thống đến nông nghiệp hiện đại, HTX Bình Nhì đang viết tiếp câu chuyện về một vùng quê trù phú, nơi mỗi thành viên đều là một mảnh ghép trong bức tranh phát triển bền vững.

ANH KHOA - ANH THƯ

 

Chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp ở Quỳnh Nhai

Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, huyện Quỳnh Nhai tích cực triển khai nhiều giải pháp, thay đổi tư duy, nhận thức của nông dân về sản xuất nông nghiệp, hỗ trợ xây dựng các mô hình kinh tế hiệu quả, góp phần đẩy mạnh kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.

Mô hình trồng cây ăn quả tại xã Mường Giôn, huyện Quỳnh Nhai.

Chiềng Khay là xã vùng cao của huyện Quỳnh Nhai, có lợi thế về diện tích đất sản xuất lớn cùng với khí hậu mát mẻ, thích hợp với nhiều loại cây trồng. Xã vận động, tuyên truyền bà con chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng tận dụng thế mạnh của địa phương. Ông Lò Văn Tuyến, Phó Chủ tịch UBND xã Chiềng Khay, thông tin: Toàn xã có 273,5 ha quế; 47 ha mắc ca, sa nhân; hơn 130 ha cây ăn quả các loại. Chiềng Khay còn phát triển mạnh chăn nuôi với tổng đàn gia súc gần 10.000 con, phát triển gần 63 ha cỏ chủ động nguồn thức ăn chăn nuôi. Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân cải thiện, thu nhập trên 45 triệu đồng/người/năm, thời điểm hiện tại tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 11,4%.

Gia đình ông Tẩn Văn Pặp, bản Phiêng Bay, xã Chiềng Khay luôn năng động trong phát triển kinh tế gia đình. Hiện nay, gia đình ông trồng 1 ha cây sa nhân, 4 ha xoài, 7 ha cây quế và mắc ca, duy trì nuôi 30-40 con bò, thu nhập mỗi năm trên 500 triệu đồng. Ông Pặp chia sẻ: Phải kết hợp lấy ngắn nuôi dài, chăn nuôi để có tiền đầu tư cho các loại cây trồng dài ngày như cây quế, mắc ca... Tôi cũng động viên, hướng dẫn bà con cách làm này để người dân Phiêng Bay từng bước cải thiện thu nhập gia đình.

Vùng trồng mắc ca và quế tại xã Chiềng Khay, huyện Quỳnh Nhai.

Còn tại các xã vùng sâu, vùng xa của huyện, nhiều mô hình kinh tế mới được hình thành, bước đầu đem lại hiệu quả, như mô hình trồng cây ăn quả có múi tại xã Nặm Ét; trồng cây mắc ca tại xã Mường Chiên, Mường Giôn; trồng dược liệu tại xã Cà Nàng, Chiềng Khay; trồng cây ăn quả tại xã Chiềng Ơn, Mường Giôn; nuôi cá lồng tại xã Chiềng Bằng. Ông Cam Văn Chưn, Chủ tịch UBND xã Cà Nàng, cho biết: Hằng năm, bà con trong xã duy trì trên 600 ha cây trồng trên nương; duy trì đàn gia súc trên 5.500 con, 72 lồng cá làm hàng hóa; phát triển hơn 50 ha cây thiên niên kiện. Sự thay đổi trong cách làm kinh tế, giúp nhân dân có cuộc sống ngày một khấm khá, xã đạt chuẩn nông thôn mới vào cuối năm 2024.

Vườn quế của gia đình ông Tẩn Văn Pặp, bản Phiêng Bay, xã Chiềng Khay, huyện Quỳnh Nhai.

Thực hiện mục tiêu chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp, huyện Quỳnh Nhai đã huy động và lồng ghép hiệu quả nguồn vốn từ các chương trình, dự án hỗ trợ người dân xây dựng mới hoặc mở rộng các mô hình sản xuất. Trọng tâm là tập trung phát huy thế mạnh của địa phương về nuôi cá lồng, chăn nuôi đại gia súc, chuyển đổi cây trồng trên đất dốc và phát triển trồng dược liệu dưới tán rừng. Hiện nay, toàn huyện đang triển khai Dự án Khu sản xuất nông sản, lâm sản tập trung của Công ty Cổ phần Liên Việt Sơn La với quy mô hơn 240 ha cây mắc ca, sản lượng 1.100 tấn/năm, vốn đầu tư 51,2 tỷ đồng. Đến nay, dự án trồng được 63 ha cây mắc ca, đang tiếp tục triển khai trong thời gian tới. Toàn huyện hiện có gần 2.000 ha cây ăn quả các loại, sản lượng trên 4.800 tấn năm 2024; duy trì 4.500 lồng cá trên lòng hồ, sản lượng nuôi và đánh bắt hơn 1.800 tấn/năm. Ngoài ra, huyện đang triển khai 8 mô hình nuôi bò sinh sản, bò đực giống, nuôi cá lăng nha, trồng thâm canh dứa, cây ăn quả, hỗ trợ phát triển sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị. Hiện tại, Quỳnh Nhai có 3 sản phẩm OCOP là cá sông Đà cấp đông, gạo nếp tan Chiềng Khoang và tinh dầu xả Java, đang tiếp tục phát triển các sản phẩm OCOP từ thủy sản và sản phẩm cam Nặm Ét.

Vườn cây ăn quả tại xã Chiềng Ơn, huyện Quỳnh Nhai.

Ông Lò Thanh Thủy, Phó Chủ tịch UBND huyện Quỳnh Nhai, cho biết: Những năm qua, huyện Quỳnh Nhai đã thực hiện lồng ghép các nguồn vốn, nhất là nguồn vốn từ các chương trình mục tiêu quốc gia để bố trí phân bổ cho các dự án, tiểu dự án bao trùm ở nhiều lĩnh vực. Trong đó, chú trọng triển khai các mô hình sản xuất tạo sinh kế giảm nghèo bền vững, giúp bà con nhân dân ổn định đời sống, góp phần làm thay đổi diện mạo nông thôn của huyện.

Với cách làm sát thực tế, Quỳnh Nhai đã và đang định hướng, hỗ trợ giúp bà con trên địa bàn huyện xây dựng và phát triển các mô hình sản xuất đem lại hiệu quả thực tiễn, tận dụng và phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Kết quả này cũng là cơ sở vững chắc để cấp ủy, chính quyền và nhân dân các xã của Quỳnh Nhai sau khi sắp xếp, sáp nhập tiếp tục phát huy, đưa kinh tế nông nghiệp ngày càng phát triển.

Thanh Đào

 

Khơi dòng thủy lợi nhỏ

Trong những năm qua, công tác phát triển thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng (các công trình có diện tích tưới nhỏ hơn 20ha) đã được các cấp, ngành liên quan tập trung triển khai thực hiện. Qua đó, góp phần quan trọng vào phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới.

Người dân xã Đề Thám, huyện Tràng Định nạo vét kênh mương phục vụ sản xuất

Xã Trấn Ninh, huyện Văn Quan là xã thuần nông, kinh tế của người dân chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông lâm nghiệp. Để tiếp tục chủ động nguồn nước tưới phục vụ sản xuất của người dân, năm 2024, từ các nguồn vốn thuộc các chương trình khác nhau, xã Trấn Ninh được đầu tư xây dựng 3 công trình thủy lợi gồm 1 trạm bơm và 2 công trình xây dựng, nâng cấp trên 1.500 m kênh mương (nguồn vốn trên 3 tỷ đồng).

Ông Hoàng Văn Vịnh, Chủ tịch UBND xã Trấn Ninh cho biết: Từ nguồn lực đầu tư của Nhà nước và sự chung sức của người dân, đến nay, trên địa bàn xã có 20 công trình thủy lợi, trong đó, kiên cố hóa được 5,2/7,3 km kênh mương, diện tích tưới chủ động phục vụ sản xuất đạt 86,9%. Không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, việc đầu tư các công trình thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng còn trực tiếp góp phần giúp xã hoàn thành tiêu chí về thủy lợi và phòng, chống thiên tai trong xây dựng nông thôn mới. Năm 2024, xã Trấn Ninh được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.

Tương tự xã Trấn Ninh, việc phát triển thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng trên địa bàn xã Hoàng Văn Thụ, huyện Bình Gia đã đạt được kết quả tích cực. Ông Nông Ngọc Kính, Chủ tịch UBND xã cho biết: Từ nguồn lực đầu tư của Nhà nước và sự chung sức của người dân, trên địa bàn xã được triển khai xây dựng 30 công trình thủy lợi, trong đó, xã trực tiếp quản lý 26 công trình thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng với chiều dài trên 12 km, kênh mương được kiên cố hóa 100%, năng lực tưới đạt gần 92% diện tích đất sản xuất nông nghiệp theo thiết kế. Do các công trình đã được đầu tư xây dựng từ những năm trước nên để giữ gìn, nâng cấp các công trình thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng, những năm gần đây, trung bình mỗi năm, người dân trên địa bàn xã đã đóng góp khoảng 350 công lao động để tiến hành nạo vét tất cả kênh mương thủy lợi, tổ chức phát quang, sửa chữa hư hỏng nhỏ...

Việc phát triển thủy lợi nói chung, trong đó có thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước tưới phục vụ sản xuất. Chính vì vậy, bên cạnh 2 xã kể trên, trong những năm qua, việc phát triển thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng được các cấp, ngành liên quan tập trung triển khai thực hiện và đạt được những kết quả tích cực. Ông Vũ Văn Thịnh, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường cho biết: Để phát triển thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng, đơn vị đã tham mưu UBND tỉnh ban hành kế hoạch phát triển thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng làm cơ sở để các cấp, ngành liên quan xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng gắn với xây dựng nông thôn mới; lồng ghép, bố trí kinh phí để hoàn thiện cơ sở hạ tầng thủy lợi nội đồng đảm bảo cấp, tưới, tiêu và thoát nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, hỗ trợ đầu tư công trình tích trữ nước, kiên cố hóa kênh mương... Cụ thể, giai đoạn từ năm 2021 đến nay, từ các nguồn lực khác nhau, UBND tỉnh đã cân đối, lồng ghép phân bổ hơn 373 tỷ đồng để đầu tư, xây dựng, cải tạo, sửa chữa, nâng cấp các công trình thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng tại các huyện, thành phố.

Bên cạnh nguồn lực đầu tư của Nhà nước, từ năm 2021 đến nay, bình quân mỗi năm, người dân trên địa bàn tỉnh đóng góp khoảng 80.000 công lao động để chung sức sửa chữa, đào đắp, nạo vét, phát dọn kênh mương...

Từ nguồn lực đầu tư của Nhà nước và sự chung sức của người dân, đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xây dựng được 2.364 công trình thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng. Các công trình thủy lợi này phục vụ tưới cho trên 6.667 ha/vụ, năng lực tưới đạt 88% so với thiết kế. Các công trình thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng đã góp phần quan trọng vào việc phục vụ sản xuất, phát triển kinh tế-xã hội. Bên cạnh đó, việc phát triển thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng góp phần trực tiếp vào việc hoàn thành tiêu chí thủy lợi và phòng, chống thiên tai trong xây dựng nông thôn mới. Đến nay, 97% số xã trên địa tỉnh đạt tiêu chí thủy lợi và phòng, chống thiên tai.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, các cấp, ngành liên quan tiếp tục cân đối, lồng ghép nguồn lực, tăng cường tuyên truyền, vận động huy động sự chung sức của người dân để đầu tư xây dựng, nâng cấp công trình thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng. Qua đó, tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp của người dân cũng như góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới trên địa bàn.

TÂN AN

 

Quản lý hiệu quả hệ thống thủy lợi

Trong những năm qua, hệ thống thủy lợi trên địa bàn tỉnh ta được quan tâm đầu tư xây dựng tương đối hoàn chỉnh. Các ngành, địa phương tập trung vận hành hiệu quả hệ thống thủy lợi, phòng chống ngập úng và điều tiết nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống dân sinh.

Công trình kè suối Tấc, huyện Phù Yên giúp ngăn lũ cho cánh đồng lúa Mường Tấc.

Toàn tỉnh có 111 hồ chứa, 132 đập dâng và hơn 2.100 công trình thủy lợi. Hiện nay, Công ty TNHH MTV quản lý, khai thác công trình thủy lợi Sơn La quản lý, khai thác trên 2.500 công trình thủy lợi lớn và vừa, gồm 12 chi nhánh trực thuộc Công ty đặt tại các huyện, thành phố, thị xã. Các xã, phường thành lập các tổ thủy lợi cơ sở, gồm 1.400 tổ thủy lợi cơ sở với 3.406 thành viên. Công tác tổ chức bộ máy quản lý thủy lợi đang từng bước được kiện toàn và nâng cao năng lực, chất lượng quản lý, khai thác bảo vệ công trình hiệu quả.

Từ đầu năm, Sở Nông nghiệp và Môi trường đã phối hợp với các đơn vị chức năng kiểm tra, đánh giá an toàn công trình thủy lợi, xây dựng phương án phòng chống lũ bão phù hợp thực tế. Rà soát, đề xuất sửa chữa công trình xuống cấp; vận động người dân nạo vét mương dẫn nước, khơi thông dòng chảy. Từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã tổ chức hàng trăm đợt ra quân làm thủy lợi, tu sửa, nạo vét khoảng 800 km mương và bảo dưỡng 140 công trình phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Công ty TNHH MTV Quản lý, khai thác công trình thủy lợi Sơn La đã xây dựng kế hoạch điều tiết nước phù hợp theo diễn biến thời tiết và nhu cầu từng địa phương; tăng cường giám sát từ xa, sử dụng thiết bị đo mực nước tự động. Đồng thời, kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm hành lang bảo vệ công trình thủy lợi. Ông An Đức Hậu, Phó Giám đốc Công ty, cho biết: Công ty đã chỉ đạo các chi nhánh phối hợp với chính quyền địa phương trực ban, theo dõi sát tình hình mưa lũ tại sông, suối, hồ đập, chủ động triển khai các biện pháp phòng, chống thiên tai, bảo vệ công trình thủy lợi và điều tiết nước phục vụ sản xuất.

Tại huyện Phù Yên, có 4 hồ chứa, với tổng dung tích hơn 4 triệu m³ nước; trong đó, hồ Suối Chiếu chiếm khoảng 3 triệu m³. Từ đầu năm, huyện đã đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân nạo vét hơn 300 km mương dẫn nước; sửa chữa trên 100 km mương nội đồng và đắp hơn 30 km phai tạm, đảm bảo nước tưới phục vụ sản xuất và tiêu thoát nước khi mưa lớn.

Ông Đinh Văn Bích, Giám đốc Chi nhánh Quản lý, khai thác công trình thủy lợi Phù Yên, cho biết: Đơn vị đã hướng dẫn các tổ thủy nông rà soát, đánh giá hệ thống công trình, đề xuất sửa chữa, nâng cấp; đồng thời tích trữ nước tại các hồ chứa và báo cáo lượng xả hằng ngày để UBND huyện chỉ đạo điều tiết. Trong mùa mưa lớn, đơn vị bố trí cán bộ trực 24/24 giờ để theo dõi mực nước, kịp thời báo cáo và xin ý kiến UBND huyện về việc xả lũ, đảm bảo an toàn hồ chứa.

Chiến sĩ Trung đoàn 754, Bộ CHQS tỉnh, tham gia nạo vét mương thủy lợi tại xã Chiềng Xôm, thành phố Sơn La.

Còn tại huyện Vân Hồ, vận hành hiệu quả 135 công trình thủy lợi tại 14 xã, bảo đảm nước tưới cho gần 2.130 ha cây trồng và hơn 42 ha nuôi thủy sản, các địa phương đã huy động hơn 4.000 ngày công lao động phát dọn, khơi thông 114 km mương dẫn nước; tu sửa 50 công trình, với kinh phí hơn 400 triệu đồng.

Ông Thái Bá Sinh, Phó trưởng Phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Vân Hồ, cho biết: Phần lớn diện tích trồng lúa và hoa màu của huyện nằm ở vùng trũng, thấp nên hệ thống thủy lợi đóng vai trò then chốt trong việc cấp nước tưới và tiêu úng. Phòng đã tham mưu UBND huyện chỉ đạo các xã rà soát, sửa chữa và vận hành hiệu quả các mương dẫn nước. Trước tình trạng mưa lớn gây ngập úng, đơn vị đã hướng dẫn các địa phương đắp phai tạm để tiêu thoát nước nhanh, hạn chế thiệt hại cho cây trồng.

Với sự vào cuộc tích cực các cấp, các ngành, địa phương và sự chủ động của nhân dân trong quản lý, khai thác hệ thống thủy lợi, giúp nông dân chủ động mở rộng diện tích canh tác, phát triển nông nghiệp bền vững.

Khải Hoàn

 

Chuyển hướng trồng chanh leo giúp kinh tế nông nghiệp Đầm Hà ngày một phát triển

Những năm gần đây, huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh đã đẩy mạnh việc phát triển kinh tế vườn đồi, từng bước hình thành vùng cây ăn quả tập trung, trong đó phải kể tới cây chanh leo đã cho giá trị kinh tế cao, góp phần nâng cao đời sống người dân trên địa bàn.

Đơn cử, tại huyện Đầm Hà (tỉnh Quảng Ninh), mô hình trồng chanh leo của HTX Nông nghiệp tổng hợp Trường Giang (thôn Trại Dinh, xã Đầm Hà) đã và đang từng bước mang lại hiệu quả tích cực.

Thành công nhờ quyết định chuyển hướng cây trồng

Nhớ lại dấu mốc giúp gia đình và nhiều người dân tại địa phương đổi đời, anh Đặng Văn Giang, Giám đốc HTX Trường Giang, chia sẻ: "Năm 2018, chúng tôi chủ yếu trồng các loại rau, hoa màu nhưng hiệu quả không cao, năng suất thấp. Tháng 11/2023, qua tìm hiểu từ các kênh thông tin, nhận thấy cây chanh leo cho hiệu quả kinh tế cao, HTX đã chuyển sang trồng loại cây này với diện tích trên 3ha theo hướng hữu cơ".

Mô hình trồng chanh leo của HTX Nông nghiệp tổng hợp Trường Giang (thôn Trại Dinh, xã Đầm Hà) đã và đang từng bước mang lại hiệu quả tích cực.

Nhờ mạnh dạn chuyển đổi, hơn 3ha đất chua mặn của HTX vốn đang được trồng rau màu sau khi chuyển hướng sang trồng cây chanh leo, đã mang lại hiệu quả vượt trội. Đặc biệt, với sự hỗ trợ của chính quyền huyện Đầm Hà cũng như Liên minh HTX tỉnh Quảng Ninh về các chương trình đào tạo tập huấn, cũng như hỗ trợ 70% kinh phí về giống, phân bón vật tư chính với tổng số tiền 323 triệu đồng cho mô hình, cây chanh leo phát triển tốt và cho thu hoạch với sản lượng đáng ghi nhận.

Anh Giang cho hay, toàn bộ quá trình chọn giống, trồng, chăm sóc, cho đến thu hoạch, bảo quản chanh leo được cán bộ xã Đầm Hà phối hợp với Trung tâm Dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp huyện và đơn vị thu mua là Công ty CP Sài Gòn - Gia Lai hướng dẫn, tập huấn chi tiết. Hiện sản phẩm chanh leo đạt tiêu chuẩn không có 570 chất cấm nông nghiệp, bước đầu đảm bảo các điều kiện xuất khẩu.

Đến nay, vườn chanh leo của HTX Trường Giang đã trở thành mô hình thí điểm của huyện Đầm Hà với số lượng hơn 4.000 gốc. Phần giống, vật tư được huyện hỗ trợ 70% kinh phí. "Quả chanh leo có chất lượng cao, an toàn với người tiêu dùng. Vườn chanh leo được đánh giá đạt tiêu chuẩn toàn cầu GlobalGAP, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu. Thời gian ra quả từ 45 - 50 ngày. Sản lượng mỗi ha có thể cho thu hoạch 20 tấn, với giá bán từ 10.000 - 20.000đ/kg", anh Giang cho biết.

Ông Hoàng Vĩnh Khuyến, Chủ tịch UBND huyện Đầm Hà, chia sẻ, địa phương đang tích cực đào tạo, hỗ trợ nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng kém hiệu quả sang trồng cây chanh leo. Khuyến khích các hộ gia đình, các HTX và doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng khoa học công nghệ, giống mới vào sản xuất, nhất là đối với chanh leo và các cây ăn quả chủ lực, áp dụng quy trình canh tác tiên tiến, đưa ra thị trường những sản phẩm nông sản sạch, chất lượng cao.

Lan tỏa hướng đi bền vững

Có thể thấy, những năm gần đây, cây chanh leo là một trong 4 loại cây chủ lực được huyện Đầm Hà lựa chọn trồng theo đề án Phát triển vùng cây ăn quả tập trung đến năm 2030. Cũng nhờ sự hỗ trợ tích cực và sát sao từ chính quyền địa phương, vườn chanh leo của gia đình anh Đặng Văn Giang được đánh giá đạt tiêu chuẩn toàn cầu GlobalGAP, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu sang Châu Âu, cùng với đó, HTX còn tạo việc làm và thu nhập ổn định cho gần 10 lao động với mức lương bình quân 8 triệu đồng/người/tháng.

Khi cây chanh leo được trồng thử nghiệm và cho hiệu quả kinh tế cao trên đất Đầm Hà thì gia đình ông Tô Văn Đông, thôn Tân Hà, xã Tân Bình cũng mạnh dạn chuyển đổi gần 1ha đất đồi vườn sang loại cây trồng giàu tiềm năng này. Dù đã gần 70 tuổi nhưng đam mê với nghề nông dường như chưa từng tắt lửa trên gương mặt vợ chồng ông Đông.

Vốn là cây trồng mới, chưa có kinh nghiệm, trước khi bắt tay vào thực hiện, ông Đông đã dày công học hỏi từ những mô hình đi trước. “Tôi không bỏ sót bất kỳ một chia sẻ nào về quy trình, kỹ thuật chăm sóc cây chanh leo. Học từ thực tế, học thêm từ cán bộ kỹ thuật nông nghiệp, các HTX và từ thông tin trên mạng và từ thực tiễn tại các HTX ở địa phương”... - ông Tô Văn Đông chia sẻ.

Huyện Đầm Hà dự kiến sẽ nhân rộng mô hình trồng chanh leo, thu hút nhà đầu tư, tạo thành các chuỗi liên kết, tiêu thụ sản phẩm theo đúng đề án phát triển sản xuất cây ăn quả tập trung trên địa bàn huyện.

Có lẽ chính vì vậy mà sau một thời gian, 1.000 gốc chanh leo của gia đình ông Đông sinh trưởng, phát triển tốt, đẹp mã, thơm, bán được giá hơn hẳn so với thị trường, được thương lái đến tận vườn thu mua.

“Cây chanh này phù hợp với thổ nhưỡng, bước đầu cũng cho thấy hiệu quả. Hai vợ chồng tôi đã tính toán, sang năm tới, dọn lại 2ha đồi, làm đất và trồng tiếp khoảng 2.500 gốc chanh leo nữa để nâng cao thu nhập” – ông Đông phấn khởi chia sẻ thêm.

Trước thành công ban đầu của cây chanh leo, Đầm Hà dự kiến sẽ nhân rộng mô hình theo đúng đề án phát triển sản xuất cây ăn quả tập trung của huyện. Đại diện Phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Đầm Hà cho biết, đơn vị sẽ tiếp tục tham mưu huyện tập trung chỉ đạo, đánh giá mô hình, thu hút nhà đầu tư, tạo thành các chuỗi liên kết, tiêu thụ sản phẩm.

Đại diện Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Quảng Ninh, thông tin, mô hình trồng chanh leo của huyện Đầm Hà đang cho kết quả tích cực, góp phần phát triển sản xuất cây ăn quả tập trung trên địa bàn huyện. Cũng theo ông Thực, mô hình cần đầu tư, khắc phục những hạn chế còn tồn tại, mở rộng diện tích để được cấp mã số vùng trồng. Từ đó, thuận tiện cho việc tra cứu thông tin, truy xuất nguồn gốc, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.

Xây dựng vùng cây ăn quả tập trung

Được biết, huyện Đầm Hà đặt mục tiêu đến hết năm 2025 diện tích trồng chanh leo đạt 150ha, sản lượng 4.400 tấn. Đến năm 2030, tổng diện tích trồng chanh leo đạt 500ha, sản lượng đạt 10.000 tấn, tập trung chủ yếu tại các xã Tân Bình, Dực Yên, Đầm Hà, Tân Lập, Quảng Tân, Đại Bình.

Đây cũng là nhiệm vụ cụ thể hóa Đề án phát triển sản xuất cây ăn quả tập trung trên địa bàn huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030. Từ đó góp phần thúc đẩy ngành nông nghiệp địa phương phát triển theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng cao, đảm bảo sức cạnh tranh và phát triển bền vững.

Để phát triển cây chanh leo, Liên minh HTX tỉnh cùng chính quyền huyện Đầm Hà đang tích cực đào tạo, hỗ trợ nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng kém hiệu quả sang trồng cây chanh leo. Trong đó, ưu tiên vào các hộ có diện tích vườn cây ăn quả rộng, có khả năng tiếp thu, đầu tư ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới vào việc trồng, chăm sóc cây ăn quả cho năng suất cao.

Đồng thời, đẩy mạnh tập huấn kỹ thuật chuyên sâu về trồng, chăm sóc, thu hoạch cho các hộ trồng và thâm canh cây ăn quả tập trung, khuyến khích các nông hộ, các HTX và doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng khoa học công nghệ, giống mới vào sản xuất, nhất là đối với chanh leo và các cây ăn quả chủ lực, áp dụng quy trình canh tác tiên tiến, đưa ra thị trường những sản phẩm nông sản sạch. Cùng với các loại cây ăn quả như na, bưởi mít,...

Nhờ triển khai đồng bộ nhiều giải pháp phát triển toàn diện các lĩnh vực sản xuất, kinh tế của huyện Đầm Hà đã có nhiều khởi sắc. Giá trị sản xuất các ngành trọng điểm nông, lâm, thủy sản tăng trưởng mạnh qua các năm. Nhờ vậy, thu nhập của người dân Đầm Hà trung bình đạt trên 80 triệu đồng/người/năm, trong đó khu vực nông thôn là 75 triệu đồng/người/năm, khu vực đô thị là trên 103 triệu đồng/người/năm. Toàn huyện không có hộ nghèo, không có nhà dột nát, chất lượng cuộc sống người dân trên địa bàn đã nâng lên rõ rệt.

Hồng Hương

 

Hạ Lang đẩy mạnh phát triển sản phẩm OCOP

Nhằm đẩy mạnh phát triển các sản phẩm nông nghiệp theo hướng phát triển nội lực, tạo ra sản phẩm hàng hóa có thương hiệu, gia tăng giá trị sản phẩm gắn với Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, huyện Hạ Lang đẩy mạnh chương trình 'Mỗi xã một sản phẩm' (OCOP), từng bước xây dựng hàng nông sản chủ lực, đặc trưng, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, tăng thu nhập cho người dân.

Để các sản phẩm OCOP thúc đẩy phát triển sản xuất ở các địa phương, huyện xây dựng kế hoạch, chỉ đạo phòng chuyên môn phối hợp với UBND các xã, thị trấn tuyên truyền, vận động các chủ thể chú trọng các khâu từ sản xuất tới thành phẩm và phải đặt chất lượng lên hàng đầu để mỗi sản phẩm OCOP không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn mang “sứ mệnh” tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu sản phẩm đặc trưng của địa phương, gắn với văn hóa truyền thống trong sản xuất nông nghiệp của các dân tộc trên địa bàn huyện tới các tỉnh, du khách thập phương. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý sản phẩm OCOP của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất có sản phẩm đạt OCOP. Đổi mới hình thức tổ chức sản xuất, khuyến khích, tạo điều kiện cho hợp tác xã, doanh nghiệp, cá nhân phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa; duy trì và mở rộng các mô hình sản xuất theo chuỗi liên kết nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm, nhất là các sản phẩm đặc trưng từng địa phương.

Chỉ đạo các ngành chức năng phối hợp với Văn phòng Điều phối nông thôn mới và đơn vị tư vấn Chương trình OCOP của tỉnh tổ chức khảo sát, hướng dẫn, hỗ trợ hoàn thiện sản phẩm theo tiêu chí OCOP tại các doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất có sản phẩm đăng ký tham gia chương trình OCOP. Quan tâm hỗ trợ xây dựng phát triển thương hiệu các sản phẩm có lợi thế của huyện gắn với thực hiện chương trình mỗi xã một sản phẩm OCOP theo hướng nâng cao giá trị thương hiệu địa phương, vùng miền nhằm phát huy thế mạnh vùng nông sản.

Phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện hướng dẫn các xã, thị trấn rà soát, đánh giá các sản phẩm OCOP tiềm năng, khảo sát, hướng dẫn các chủ thể có sản phẩm tham gia chương trình OCOP chuẩn bị hồ sơ tham gia đánh giá, phân hạng sản phẩm, quy hoạch phát triển sản xuất hàng hóa tập trung, triển khai các chính sách hỗ trợ phát triển sản phẩm, hoàn thiện mẫu mã, bao bì sản phẩm, in tem chứng nhận OCOP cho các chủ thể, hình thành chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ, tạo điều kiện thuận lợi hình thành sản phẩm OCOP. Hằng năm, tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn cho cán bộ quản lý, điều hành chương trình OCOP cấp huyện, cấp xã và các chủ thể về nhãn mác, bộ nhận diện thương hiệu; đăng ký và công bố sản phẩm, tư vấn luật, quản lý sản xuất bằng hệ thống tem điện tử thông minh (QR Code); tư vấn, định hướng phát triển sản phẩm OCOP cho các địa phương; rà soát, lựa chọn, hỗ trợ các sản phẩm tham gia thi đánh giá, phân hạng, hỗ trợ hoàn thiện những thủ tục cần thiết, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm để được xếp hạng, công nhận sản phẩm OCOP.

Đồng hành cùng hợp tác xã, doanh nghiệp, cá nhân, các ngành, chính quyền địa phương đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, hỗ trợ các doanh nghiệp triển khai đa dạng các hoạt động quảng bá, giới thiệu sản phẩm thông qua các hình thức như: hội chợ, triển lãm, quầy giới thiệu sản phẩm… Ứng dụng công nghệ số trong truyền thông, thúc đẩy phát triển thương mại điện tử cho sản phẩm OCOP thông qua các sàn thương mại điện tử, các ứng dụng mạng xã hội như: Zalo, Facebook… Qua các hoạt động xúc tiến thương mại, sản phẩm OCOP của huyện đã được quảng bá rộng rãi đến người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh, giúp sản phẩm đến gần hơn với người tiêu dùng và tạo ra cơ hội tiêu thụ mới.

Sản phẩm Gạo Nếp nương Quang Long và Đậu tương đạt OCOP 3 sao.

Cơ sở sản xuất hộ kinh doanh Triệu Văn San, xã Quang Long được cơ quan chuyên môn hướng dẫn, hỗ trợ, tổ chức sản xuất theo tiêu chuẩn bảo đảm an toàn vệ sinh, đầu tư máy móc chế biến, đóng gói với đầy đủ bao bì, nhãn mác, tem truy xuất nguồn gốc... Đến nay, sản phẩm gạo nếp nương Quang Long và đậu tương được xếp hạng OCOP 3 sao. Ông Triệu Văn San, chủ cơ sở kinh doanh cho biết: Tham gia chương trình OCOP, tôi được hỗ trợ hoàn thiện sản phẩm, xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường, chuẩn hóa về mẫu mã, nhãn mác sản phẩm, thúc đẩy việc tiêu thụ các sản phẩm gạo nếp nương Quang Long và đậu tương. Doanh thu cơ sở kinh doanh đạt 180 triệu đồng/năm.

Chương trình OCOP đã góp phần làm thay đổi tư duy sản xuất của người dân, nâng cao giá trị, chất lượng sản phẩm, phát huy được tiềm năng lợi thế của từng địa phương, dần hình thành các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh tập trung, nâng cao thu nhập cho người dân, khuyến khích người dân đầu tư phát triển kinh tế và làm giàu ngay trên mảnh đất của mình. Đến nay, huyện có 7 sản phẩm OCOP hạng 3 sao. Nổi bật là các sản phẩm lạp sườn Du Mông, bánh nướng Thu Điệp, gạo nếp nương Quang Long, bún khô Long Thủy, rượu ngô Tuấn Tú… Các chủ thể sau khi được chứng nhận sản phẩm OCOP cơ bản chấp hành tốt các tiêu chí của chương trình, đầu tư, nâng cấp, mở rộng quy mô, đa dạng mẫu mã bao bì, chú trọng quảng bá thương hiệu, đưa sản phẩm OCOP vươn ra thị trường trong và ngoài tỉnh. Nhiều sản phẩm OCOP được người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh đón nhận tiêu thụ với số lượng lớn như: lạp sườn Du Mông, bánh nướng Thu Điệp…

Các sản phẩm OCOP sau khi được công nhận đã mang lại hiệu quả kinh tế, gia tăng giá trị cho các chủ thể, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường gắn với xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, một số địa phương sau khi có sản phẩm OCOP được công nhận chững lại, chưa tích cực rà soát các sản phẩm tiềm năng hiện có để vận động, tuyên truyền chủ thể của sản phẩm tham gia Chương trình. Trưởng Phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Phương Đức Thiện cho biết: Thời gian tới, huyện chỉ đạo các xã, thị trấn tiếp tục rà soát các sản phẩm trên địa bàn, lựa chọn các sản phẩm có tiềm năng, lợi thế và đủ điều kiện để đăng ký tham gia Chương trình. Đối với các địa phương có sản phẩm được công nhận OCOP đã hết thời hiệu tiếp tục vận động, tuyên truyền các chủ thể sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm, hoàn thiện mẫu mã, bao bì và thiết lập hồ sơ công nhận lại. Định hướng cho các chủ thể phát triển sản phẩm ý tưởng gắn với nghề, làng nghề truyền thống, các sản phẩm tiềm năng mang tính đặc trưng của địa phương để tham gia Chương trình OCOP.

Ngọc Dung

 

Thái Nguyên thành lập mới 25 hợp tác xã

Trong 6 tháng đầu năm 2025, toàn tỉnh Thái Nguyên thành lập mới được 25 hợp tác xã, đạt 83% kế hoạch cả năm. Trong đó, có 24 hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và 1 hợp tác xã phi nông nghiệp.

Liên minh Hợp tác xã tỉnh phối hợp với UBND xã Tân Linh (Đại Từ) tuyên truyền, hỗ trợ các hộ dân thành lập hợp tác xã.

Ngay từ đầu năm, Liên minh Hợp tác xã (HTX) tỉnh đã phối hợp với các ngành liên quan và chính quyền các địa phương đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, đồng thời triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể. Nhờ đó, nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh và người dân đã mạnh dạn thành lập HTX, mở rộng quy mô và đa dạng hóa ngành nghề. Các HTX thành lập mới đều chủ động đầu tư sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu và mở rộng thị trường tiêu thụ.

Tính đến nay, toàn tỉnh có 809 HTX (gồm 565 HTX nông nghiệp, 241 HTX phi nông nghiệp và 3 quỹ tín dụng nhân dân), trong đó, có 560 HTX hoạt động hiệu quả, chiếm gần 70%.

Các HTX trên địa bàn tỉnh hiện tạo việc làm cho trên 42.000 thành viên và người lao động. Mức thu nhập bình quân tại các HTX nông nghiệp đạt từ 4-4,5 triệu đồng/người/tháng; còn tại các HTX phi nông nghiệp đạt từ 5-5,5 triệu đồng/người/tháng.

Vũ Công

 

Đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong nông nghiệp

Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã tổ chức 'Hội nghị khoa học về Công nghệ, Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số' vào chiều 21/6.

Hội nghị là diễn đàn quan trọng nhằm nhận diện các thách thức, định hướng các giải pháp căn cơ trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo để giải quyết các vấn đề lớn của lĩnh vực nông nghiệp và môi trường ở Việt Nam đồng thời thảo luận về cơ chế, chính sách nhằm tạo đột phá phát triển khoa học công nghệ trong các lĩnh vực này.

Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học công nghệ trong phát triển đất nước và khẳng định Bộ sẽ cùng với Học viện Nông nghiệp thực hiện sứ mệnh đầu tàu trong nghiên cứu, đào tạo và đổi mới sáng tạo.

“Việt Nam muốn giàu có lên thì phải dựa vào khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Chúng ta thoát nghèo, đạt thu nhập bình quân đầu người trên 1.000 USD là nhờ nông nghiệp. Nước chúng ta trở thành nước có thu nhập trung bình tăng là nhờ FDI, tuy nhiên để đạt được mức thu nhập trên 5.000 USD thì không còn con đường nào khác ngoài khoa học công nghệ. Nhà nước đang tập trung xây dựng các đại học nghiên cứu hàng đầu, sánh vai với khu vực và thế giới, do đó Học viện Nông nghiệp Việt Nam phải là trung tâm khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trọng điểm quốc gia về nông nghiệp và Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ giúp Học viện thực hiện sứ mệnh này”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh.

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ cũng mong muốn Học viện Nông nghiệp luôn là cơ sở khoa học công nghệ đi đầu trong thực hiện các chính sách mới về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Sau gần 70 năm xây dựng và phát triển, hiện Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã xây dựng được 52 phòng thí nghiệm. Đặc biệt, Học viện đã thành lập Trung tâm Nghiên cứu xuất sắc và Đổi mới sáng tạo với 20 phòng nghiên cứu hiện đại, chuyên sâu. Đây là nơi hoạt động của các nhóm Nghiên cứu tinh hoa, Nghiên cứu xuất sắc, với mục tiêu tạo ra các sản phẩm đột phá cho ngành nông nghiệp và môi trường Việt Nam.

Tiến Cường

 

Hợp tác xã Nông nghiệp Công nghệ cao Bình Quý: Kiến tạo giá trị nông nghiệp bền vững

Tại vùng đất Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang - nơi giàu tiềm năng nông nghiệp, Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp Công nghệ cao Bình Quý đã và đang khẳng định vị trí là một tổ chức sản xuất tiên phong, kiên định theo hướng phát triển nông nghiệp sạch, hữu cơ, có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao và giá trị cộng đồng sâu sắc.HÀNH TRÌNH KIẾN TẠO GIÁ TRỊ

Ngay từ khi chính thức thành lập vào cuối năm 2020, HTX Nông nghiệp Công nghệ cao Bình Quý đã xác định một hướng phát triển bền vững “lấy chất lượng làm nền tảng, lấy công nghệ làm công cụ và lấy sự đồng thuận tập thể làm động lực”. HTX không chạy theo sản lượng mà kiên trì xây dựng chuỗi giá trị nông sản từ sản xuất - chế biến - tiêu thụ, với quy trình quản trị minh bạch, bài bản, gắn kết giữa sản xuất nông nghiệp với thị trường và người tiêu dùng.

Sản xuất các sản phẩm tại HTX Nông nghiệp Công nghệ cao Bình Quý.

Tính đến năm 2025, HTX Nông nghiệp Công nghệ cao Bình Quý có 130 thành viên, tăng 23 thành viên so với năm 2024, với tổng vốn điều lệ đạt 2,5 tỷ đồng. HTX tạo việc làm ổn định cho 5 lao động thường xuyên, thu nhập bình quân đạt từ 6 đến 8 triệu đồng/người/tháng. Đội ngũ quản lý gồm 5 người có trình độ đại học, đảm bảo năng lực điều hành và tổ chức sản xuất quy mô lớn.

Trong năm 2024, tổng doanh thu HTX Nông nghiệp Công nghệ cao Bình Quý đạt 4,7 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt 24 triệu đồng. Đây là kết quả từ hoạt động sản xuất và tiêu thụ hơn 340 tấn nông sản các loại. Trong đó, nổi bật có 158 tấn gạo lức, gần 30 tấn rau ngót Nhật, hơn 27 tấn xà lách xoăn Nhật, gần 10 tấn chuối chín, 55.000 trái dừa khô và gần 48.000 trái dừa tươi… HTX vừa trực tiếp sản xuất, vừa thu mua từ thành viên theo hợp đồng liên kết, đảm bảo ổn định đầu ra, nâng cao thu nhập cho nông dân.

Điểm nhấn nổi bật trong hoạt động phát triển sản phẩm của HTX Nông nghiệp Công nghệ cao Bình Quý chính là Trà Sâm Toshiha - dòng sản phẩm chủ lực được nghiên cứu, chế biến từ các loại thảo dược trồng theo hướng hữu cơ như sâm Ấn Độ, dây thìa canh, kim ngân hoa, cỏ ngọt, bạc hà... HTX chủ động đầu tư từ khâu giống, hướng dẫn kỹ thuật, thu hoạch đúng chuẩn, sấy lạnh và đóng gói theo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.

Tháng 3-2025, Trà Sâm Toshiha chính thức được công nhận sản phẩm OCOP 3 sao. Đây là sản phẩm đầu tiên mang thương hiệu riêng của HTX Nông nghiệp Công nghệ cao Bình Quý được cấp chứng nhận. Không chỉ là sự công nhận về chất lượng, chứng nhận này còn mở ra cánh cửa đưa sản phẩm vào hệ thống phân phối chính quy, phát triển thương hiệu và tiến tới thị trường xuất khẩu. Đây là minh chứng cho tư duy sản xuất hiện đại, dám làm, dám chuyển mình của HTX trong nền nông nghiệp đổi mới.

Nhằm nâng cao năng lực sản xuất, HTX đã tranh thủ tốt chính sách hỗ trợ hạ tầng từ nhà nước. Trong năm 2024, HTX được đầu tư hơn 2,1 tỷ đồng để xây dựng nhà xưởng, lắp đặt máy sấy nhiệt lạnh, máy sấy thăng hoa, kho lạnh và trạm biến áp 3 pha. HTX đã đối ứng hơn 540 triệu đồng và trực tiếp quản lý vận hành toàn bộ hệ thống này.

Tính đến giữa năm 2025, HTX đã sấy thử nghiệm hơn 4 tấn nguyên liệu, bao gồm rau củ quả, gừng, dược liệu, phục vụ sản xuất sản phẩm trà, sấy dẻo, sấy khô... Đây là nền tảng quan trọng để HTX từng bước phát triển ngành chế biến sâu và tăng giá trị nông sản.

Song song đó, HTX Nông nghiệp Công nghệ cao Bình Quý chú trọng phát triển đội ngũ kế thừa là các lao động trẻ có trình độ cao. Hiện có 3 nhân sự trẻ làm việc ổn định tại HTX, bao gồm 1 kế toán và 2 cán bộ kỹ thuật chuyên ngành, tham gia vận hành sản xuất, quản lý đơn hàng, marketing, truy xuất nguồn gốc và truyền thông sản phẩm.

HTX tạo điều kiện để các lao động này được tham gia các lớp tập huấn chuyên sâu do Liên minh HTX tỉnh Tiền Giang tổ chức, nhằm nâng cao năng lực thực tiễn. Đồng thời, xây dựng một đội ngũ nhân lực có tư duy quản trị hiện đại.

GẮN KẾT CỘNG ĐỒNG - ĐỒNG HÀNH CÙNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

Là một HTX gắn liền với nông dân và cộng đồng địa phương, HTX Nông nghiệp Công nghệ cao Bình Quý luôn chủ động phối hợp cùng chính quyền, hội đoàn thể để tổ chức sản xuất hiệu quả, đóng góp vào xây dựng nông thôn mới nâng cao.

Sản xuất các sản phẩm tại HTX Nông nghiệp Công nghệ cao Bình Quý.

Điển hình là việc HTX tham gia thực hiện mô hình liên kết trồng dừa với quy mô 17,23 ha và sự tham gia của 44 hộ nông dân. Nhờ sự đồng hành của HTX, các hộ này được cung ứng đầu vào, hướng dẫn kỹ thuật, đảm bảo tiêu thụ ổn định và nâng cao giá trị sản phẩm.

Ngoài ra, HTX Nông nghiệp Công nghệ cao Bình Quý tích cực vận động hội viên áp dụng mô hình nông nghiệp tuần hoàn, tận dụng rác hữu cơ, phân chuồng, phụ phẩm sau thu hoạch để làm phân bón sinh học.

Qua đó, góp phần giảm ô nhiễm môi trường, tiết kiệm chi phí và nâng cao chất lượng đất canh tác. Các hoạt động này không chỉ góp phần giữ vững Tiêu chí số 13 về tổ chức sản xuất trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới nâng cao mà còn lan tỏa mô hình sản xuất thân thiện với môi trường, trách nhiệm với cộng đồng và hướng tới nền nông nghiệp xanh.

Bước vào giai đoạn 2025 - 2030, HTX Nông nghiệp Công nghệ cao Bình Quý xác định rõ chiến lược phát triển theo hướng mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm. Trọng tâm là mở rộng vùng trồng rau dược liệu, sâm, dừa, bưởi theo hướng hữu cơ, áp dụng đồng bộ tiêu chuẩn VietGAP, hướng tới GlobalGAP và chuỗi giá trị xuất khẩu.

HTX Nông nghiệp Công nghệ cao Bình Quý sẽ tiếp tục đầu tư chiều sâu vào lĩnh vực chế biến nông sản, đẩy mạnh các sản phẩm chủ lực như trà thảo dược, tinh dầu, dừa sấy, gừng sấy, rau củ sấy… Đồng thời, xúc tiến thương mại, tham gia hội chợ, kết nối đối tác phân phối và đẩy mạnh tiêu thụ qua sàn thương mại điện tử, mạng xã hội và chuỗi bán lẻ hiện đại.

HTX sẽ tiếp tục kiện toàn nhân sự, nâng cao năng lực quản lý, tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi và chương trình hỗ trợ đổi mới sáng tạo. Xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu bài bản, đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, mã số vùng trồng, truy xuất điện tử và nâng hạng OCOP cho các sản phẩm hiện hữu. Mục tiêu dài hạn là đưa sản phẩm nông nghiệp mang thương hiệu HTX Bình Quý không chỉ vững vàng tại thị trường nội địa mà còn có chỗ đứng ở các thị trường xuất khẩu tiềm năng như Nhật Bản, Hàn Quốc, EU…

ANH KHOA - A. THƯ

 

160 tấn giống lúa từ nguồn dự trữ quốc gia hỗ trợ Huế sau bão số 1

Nhằm giúp thành phố Huế nhanh chóng khôi phục sản xuất nông nghiệp sau thiệt hại nặng nề do bão số 1 gây ra, Bộ Nông nghiệp và Môi trường vừa ban hành quyết định xuất cấp 160 tấn giống lúa từ nguồn dự trữ quốc gia để hỗ trợ địa phương này.

Cán bộ, chiến sĩ Bộ CHQS thành phố Huế giúp nhân dân Thị xã Hương Thủy gặt lúa chạy lũ thời điểm giữa tháng 6 vừa qua

Theo đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường giao Công ty Cổ phần Giống cây trồng - vật nuôi Thừa Thiên Huế xuất cấp (không thu tiền) 100 tấn hạt giống lúa Khang Dân 18 cấp nguyên chủng và 60 tấn hạt giống lúa Hương Thơm 1 cấp nguyên chủng cho thành phố Huế. Việc cấp phát và tiếp nhận giống lúa được thực hiện theo đúng các quy định hiện hành, đảm bảo hỗ trợ kịp thời, đúng đối tượng và phục vụ hiệu quả cho việc tái sản xuất sau thiên tai.

Chủ tịch UBND thành phố Huế được giao trách nhiệm chỉ đạo công tác tiếp nhận, quản lý và sử dụng số giống lúa được hỗ trợ. Đồng thời, chính quyền địa phương phải đảm bảo tính chính xác của số liệu thiệt hại do thiên tai và chịu trách nhiệm toàn diện trong việc sử dụng nguồn giống dự trữ quốc gia.

Quyết định này được ban hành dựa trên đề nghị của UBND Thành phố Huế trong Công văn số 7765/UBND-NN ngày 18/6/2025 về việc xin hỗ trợ giống lúa khắc phục hậu quả bão số 1.

Trước đó, bão số 1 đã gây thiệt hại lớn đến diện tích lúa vụ hè thu của địa phương, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp của người dân vùng bị ảnh hưởng.

Việc xuất cấp kịp thời nguồn giống từ dự trữ quốc gia được kỳ vọng sẽ góp phần giúp người dân Thành phố Huế sớm khôi phục sản xuất, ổn định đời sống, giảm thiểu thiệt hại kinh tế sau thiên tai.

Cơn bão số 1 vừa qua khiến mưa lớn tại khu vực miền Trung nước ta gây ra hậu quả nghiêm trọng. Theo thống kê từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, thiên tai đã khiến 7 người thiệt mạng (trong đó Quảng Bình 4 người, Quảng Trị 3 người) và 1 người bị thương tại Quảng Trị. Thiệt hại về nhà ở cũng không nhỏ, với gần 100 ngôi nhà bị sập đổ, hư hỏng hoặc tốc mái, khiến nhiều hộ dân lâm vào cảnh trắng tay.

Đặc biệt, lĩnh vực sản xuất nông nghiệp bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tổng cộng 33.959 ha lúa và hoa màu bị ngập úng, trong đó thành phố Huế có tới 13.731 ha. Quảng Trị cũng ghi nhận 15.523 ha bị thiệt hại, còn Quảng Bình là 4.705 ha.

Không chỉ thiệt hại về trồng trọt, thủy sản cũng gánh chịu hậu quả nặng nề. Tổng cộng 2.341 ha diện tích nuôi trồng thủy sản bị ngập, cuốn trôi, trong đó Quảng Bình thiệt hại 1.636 ha, Quảng Trị 623 ha, thành phố Đà Nẵng 33 ha và Quảng Nam 49 ha. Ngoài ra, có 324 lồng bè bị thiệt hại (Quảng Bình 265, Quảng Trị 59) cùng 8 tàu cá bị chìm hoặc hư hỏng (trong đó Quảng Bình 3 chiếc, Đà Nẵng 5 chiếc).

Trước tình hình thiên tai diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng về cường độ, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có công văn chỉ đạo yêu cầu các cấp, các ngành tập trung tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai. Công văn nhấn mạnh cần nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo; tổ chức diễn tập ứng phó; và nhất là đẩy mạnh hỗ trợ tái thiết sản xuất, ổn định đời sống nhân dân.

Không chỉ riêng thành phố Huế, trước đó vào ngày 16/6, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đã quyết định xuất cấp 130 tấn giống lúa Khang Dân 18 từ nguồn dự trữ quốc gia để hỗ trợ tỉnh Quảng Trị khôi phục sản xuất sau thiên tai. Những hỗ trợ kịp thời này đã phần nào giảm bớt khó khăn cho nông dân vùng bị ảnh hưởng, giúp nhanh chóng khôi phục hoạt động sản xuất lúa vụ Hè Thu.

Việc sử dụng giống lúa Khang Dân 18 và Hương Thơm 1 đây là hai loại giống có khả năng chống chịu tốt và thời gian sinh trưởng phù hợp, được đánh giá là giải pháp phù hợp để nhanh chóng đưa đồng ruộng trở lại sản xuất trong bối cảnh thời vụ đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Trong thời gian tới, cùng với việc hỗ trợ giống cây trồng, các địa phương cũng cần huy động tối đa nguồn lực, phương tiện, nhân lực để khôi phục cơ sở hạ tầng nông thôn, đảm bảo nước tưới tiêu và hướng dẫn người dân khôi phục sản xuất hiệu quả, bền vững hơn trước các nguy cơ thiên tai ngày càng phức tạp.

Nguyễn Thuấn

 

Đòn bẩy và điểm nghẽn của nông nghiệp hiện đại

Bên cạnh một số mô hình sản xuất nông nghiệp đã chủ động ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ, không ít thành quả nghiên cứu vẫn 'nằm im' trong phòng thí nghiệm vì thiếu cơ chế chuyển giao, chia sẻ rủi ro và hành lang pháp lý phù hợp.

Nông dân Mộc Châu (Sơn La) tiếp cận công nghệ cao trong khuôn khổ Dự án "Nông nghiệp thông minh vì thế hệ tương lai".

đang trở thành đòn bẩy giúp nông nghiệp Việt Nam nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh, đồng thời trao cho nông dân vai trò chủ thể tri thức. Tuy nhiên, bên cạnh một số mô hình sản xuất đã chủ động ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ, không ít thành quả nghiên cứu vẫn “nằm im” trong phòng thí nghiệm vì thiếu cơ chế chuyển giao, chia sẻ rủi ro và hành lang pháp lý phù hợp. Công nghệ sẽ không thể phát huy giá trị nếu những điểm nghẽn về thể chế, tài chính và liên kết không được kịp thời tháo gỡ.

Bài 1: Làm chủ đồng ruộng bằng công nghệ

Ứng dụng công nghệ cao đang tạo nên những bước nhảy vọt cho nông nghiệp Việt Nam, từ tăng trưởng GRDP ấn tượng đến việc hình thành lớp nông dân mới có cả kỹ năng quản lý, kinh doanh, tiếp cận thị trường. Tuy nhiên, sự phát triển này sẽ không bền vững nếu người nông dân chỉ đóng vai trò “vận hành thụ động” thay vì làm chủ tri thức và chuỗi giá trị.

Giải bài toán xã hội trước khi tối ưu lợi nhuận

Ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp tạo ra những đột phá, mang lại diện mạo mới cho ngành nông nghiệp. Hiện, công nghệ IoT, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) và robot đang được triển khai để tối ưu hóa mọi khâu từ gieo trồng, chăm sóc đến thu hoạch và phân phối... giúp nông dân quản lý mùa vụ hiệu quả hơn, giảm thiểu rủi ro và tăng thu nhập.

Dự án “Nông nghiệp thông minh vì thế hệ tương lai” tại Mộc Châu là một minh chứng rõ ràng cho việc ứng dụng công nghệ cao vào nông nghiệp.

Dự án do Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) và Viện Nghiên cứu Rau quả (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) hợp tác triển khai, cùng với sự tham gia tích cực của Công ty cổ phần Hachi trong việc thiết kế và triển khai hệ thống nhà màng thông minh.

Dự án đã hỗ trợ cải tạo và nâng cấp hơn 35.000m² nhà màng tại Mộc Châu, giúp 34 hộ gia đình nông dân tiếp cận với công nghệ nông nghiệp hiện đại, làm thay đổi đời sống của người dân.

Anh Vũ Văn Hiệu, ngụ huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, một nông dân trẻ từng gặp khó khăn do thời tiết thất thường và biến động thị trường. Tham gia dự án hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao, anh đầu tư xây dựng nhà màng thông minh rộng 1.836m², trồng ớt chuông và ớt Palermo.

Vụ đầu tiên, gia đình anh thu được 18 tấn sản phẩm, mang lại lợi nhuận khoảng 500 triệu đồng chỉ sau 3 tháng. Từ thành công ban đầu, anh Hiệu mở rộng diện tích và thành lập Hợp tác xã Công nghệ cao Tân Lập, quy tụ 8 hộ cùng sản xuất và liên kết tiêu thụ sản phẩm.

Kết quả đó cho thấy công nghệ cao đang tạo ra chuyển biến rõ rệt trong sản xuất nông nghiệp ở vùng cao, từ cách làm đến tư duy liên kết, tạo nền tảng cho một nền nông nghiệp bền vững, hiện đại.

Tại Thanh Hóa, Công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn cùng nông dân huyện Thọ Xuân đang trở thành một trong những điểm sáng trong việc chủ động ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.

Với vùng nguyên liệu khoảng 9.500ha, từ năm 2022, công ty phối hợp các đơn vị nghiên cứu và chuyển giao công nghệ đưa vào vận hành hệ thống “mắt thông minh” (Smart Eye) - một giải pháp tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI), máy bay không người lái (drone) và internet vạn vật (IoT). Hệ thống này giúp theo dõi độ ẩm đất, quản lý tưới tiêu, dinh dưỡng và phát hiện sớm sâu bệnh trên từng thửa ruộng.

Cùng với đó, công ty còn ứng dụng hệ thống bản đồ quản lý vùng nguyên liệu GIS kết hợp AI để phân tích quy trình canh tác và đưa ra cảnh báo sớm về thời tiết cho từng khu vực trồng mía.

Cán bộ kỹ thuật không cần trực tiếp ra đồng vẫn có thể theo dõi sát sao tình hình thu hoạch, vận chuyển và sinh trưởng của mía trên toàn vùng nguyên liệu. Nhờ sự vào cuộc bài bản, sản lượng và chất lượng mía nguyên liệu đã tăng đáng kể. Năm 2024, sản lượng đạt 563.000 tấn, chất lượng mía tăng từ 10-15%.

Tính đến tháng 4/2025, sản lượng tiếp tục tăng lên 660.000 tấn. Doanh nghiệp đặt mục tiêu đến năm 2026 sẽ mở rộng diện tích trồng mía lên 10.000 ha, với sản lượng ước đạt 750.000-800.000 tấn.

Ông Lê Bá Chiều, Phó Tổng Giám đốc phụ trách nguyên liệu Công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn cho biết: Trước đây, nhờ ứng dụng khoa học, công nghệ quy mô vùng trồng mía được mở rộng, cho năng suất cao khiến thu nhập người nông dân tăng lên; trung bình 1 hộ có thể thầu 5-10ha, doanh thu đạt đến hơn 1 tỷ đồng/năm.

Công ty đã ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ, từ máy trồng mía, máy làm đất cho đến máy chăm sóc bón phân, phun thuốc trừ sâu bằng máy bay không người lái rồi đến máy thu hoạch.

Hiện, công ty có 9 máy thu hoạch, với giá trị đầu tư 10 tỷ đồng/máy; giúp thu hoạch bình quân khoảng 250-300 tấn mía/ngày tương đương 200 lao động làm một ngày.

Ông Đào Văn Đường (Thôn 3, xã Thọ Lâm, huyện Thọ Xuân), người đã gắn bó với cây mía gần 30 năm chia sẻ, nhờ có sự hỗ trợ từ doanh nghiệp như cho vay không lãi suất, hướng dẫn kỹ thuật, cơ giới hóa đồng bộ, ông đã mạnh dạn tích tụ ruộng đất, mở rộng thêm 14 ha mía. Sau khi trừ chi phí, mỗi năm, gia đình ông thu về khoảng 500 triệu đồng.

Tại Lâm Đồng, mô hình trồng rau thủy canh tuần hoàn trong nhà màng của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Nông sản Phong Thúy (huyện Đức Trọng) đã được nhân rộng ở nhiều trang trại trong vùng.

Với hơn 100ha canh tác, trong đó 30ha ứng dụng công nghệ cao, mô hình này giúp doanh nghiệp và nông dân tiết kiệm đáng kể nước tưới, giảm thất thoát sau thu hoạch từ 30% xuống dưới 10%, rút ngắn chu kỳ sản xuất từ 20 ngày đến 1 tháng; rau gần như không cần dùng thuốc bảo vệ thực vật hóa học.

Có thể thấy, thay vì cạnh tranh gay gắt về giá cả hay chất lượng sản phẩm như logic thị trường thông thường, mô hình công nghệ cao đang đi theo hướng lấy người dân làm trung tâm, giải bài toán xã hội trước khi tối ưu lợi nhuận.

Để người nông dân làm chủ chuỗi giá trị

Bên cạnh những mô hình đổi mới sáng tạo với người nông dân được giữ vai trò trung tâm trong chuỗi giá trị, vẫn còn nhiều mô hình nông nghiệp công nghệ cao đang dần bỏ họ lại phía sau.

Phó Cục trưởng Cục Khởi nghiệp và Doanh nghiệp công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) Phạm Đức Nghiệm cho biết, thực tế nhiều dự án nông nghiệp thông minh đang phát triển theo hướng “đóng kín”, chỉ phù hợp với doanh nghiệp lớn.

Các công ty đầu tư hệ thống nhà kính, nhà màng, tự động hóa từ gieo trồng đến thu hoạch, mà không cần tới sự tham gia của người nông dân. Những mô hình này thường có chi phí đầu tư rất cao, đòi hỏi trình độ quản lý hiện đại, trong khi đại đa số nông dân không thể tiếp cận về cả tài chính lẫn kỹ thuật, khiến họ đứng ngoài cuộc.

Điều này đi ngược với tinh thần của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vốn coi người nông dân là trung tâm, khiến cho nông nghiệp công nghệ cao sẽ khó lan tỏa và bền vững.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sơn, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, nhận định quá trình chuyển đổi khiến nông dân trở thành người “vận hành thụ động”, không làm chủ tri thức hay giá trị gia tăng, sẽ dẫn đến khoảng cách xã hội và phát triển không bền vững.

Người nông dân cần trở thành trung tâm của quá trình chuyển đổi. Muốn vậy, cần nâng họ trở thành chủ thể tri thức, không chỉ học kỹ thuật mà phải được đào tạo về công nghệ số, thị trường, quản lý kinh tế nông trại.

Cần thiết kế các chương trình đào tạo thực hành tại chỗ, có sự tham gia của nhà khoa học và doanh nghiệp. Các mô hình công nghệ cao cũng cần tạo cơ chế hợp tác công bằng, trong đó nông dân góp đất, góp công, cùng vận hành và chia sẻ lợi ích với doanh nghiệp. Hợp tác xã kiểu mới, tổ hợp tác sản xuất ứng dụng công nghệ nên được ưu tiên tiếp cận đất đai, tín dụng và kỹ thuật.

Bên cạnh đó, hệ thống chuyển giao khoa học, công nghệ phải thân thiện và phù hợp với thực tiễn nông hộ nhỏ, thông qua các trạm dịch vụ nông nghiệp cấp xã, huyện. “Nông dân không thể chỉ làm thuê cho công nghệ. Họ phải là người đồng kiến tạo và hưởng lợi bền vững. Khi người nông dân thật sự làm chủ, chuyển đổi số mới có thể lan tỏa sâu rộng”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sơn nhấn mạnh.

BÍCH LIÊN và HÀ LINH

 

Tăng các khoản vay không tài sản đảm bảo trong lĩnh vực nông nghiệp từ ngày 1/7

Tất cả các đối tượng tham gia đầu tư, phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp tại các khu vực nông thôn đều được tăng các khoản vay không tài sản đảm bảo, trong đó, mức cao nhất có thể lên đến 3 tỷ đồng

Chính phủ mới ban hành Nghị định số 156/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 của Chính phủ.

Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2025.

Theo đó, mức cho vay tối đa không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, hộ kinh doanh, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và chủ trang trại được nâng lên để phù hợp với nhu cầu vốn phục vụ sản xuất nông nghiệp của các khách hàng hiện nay. Cụ thể, mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia đình được tăng từ mức 100-200 triệu đồng lên mức 300 triệu đồng; Mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với tổ hợp tác và hộ kinh doanh được tăng từ mức 300 triệu đồng lên mức 500 triệu đồng; Mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với chủ trang trại được tăng từ mức 1 -2 tỷ đồng lên mức 3 tỷ đồng; Mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được tăng từ mức 1 - 3 tỷ đồng lên mức 5 tỷ đồng.

Ngoài ra, Nghị định cũng sửa đổi theo hướng giảm thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho khách hàng khi vay vốn tại các tổ chức tín dụng. Theo đó, bỏ nội dung liên quan đến yêu cầu nộp giấy xác nhận chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đất không có tranh chấp do UBND cấp xã xác nhận; Đồng thời quy định khách hàng được vay không có tài sản bảo đảm và tổ chức tín dụng thỏa thuận (thay vì yêu cầu bắt buộc như quy định trước đây) về việc khách hàng nộp cho tổ chức tín dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của khách hàng trong thời gian vay không có tài sản bảo đảm tại tổ chức tín dụng.

Hoàng Tú

 

Những dòng vốn đầu tư thay đổi diện mạo đồng quê

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững, tỉnh ta đã huy động đồng bộ các nguồn lực đầu tư để tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Từ những cánh đồng lúa truyền thống, nông nghiệp của tỉnh đang chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, ứng dụng khoa học, công nghệ, nâng cao hiệu quả kinh tế và thay đổi diện mạo nông thôn.

Mô hình trồng dưa trong nhà lưới tại xã Hoằng Đạt (Hoằng Hóa). Ảnh: Ngân Hà

Nhớ lại những ngày cuối vụ đông vừa qua, khi cái rét ngọt vẫn còn đọng lại, thôn Kim Sơn, xã Hoằng Tiến (Hoằng Hóa) rộn ràng mùa thu hoạch khoai tây. Những củ khoai tây to đều, vàng óng được phân loại vào từng túi nilon lớn, xếp ngay ngắn trên bờ ruộng chờ xe tải đến vận chuyển. Đây không chỉ là cảnh tượng quen thuộc của một mùa vụ, mà là minh chứng rõ nét cho cuộc tái cơ cấu nông nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ trên vùng đất xứ Thanh. Ông Lê Văn Tư, trưởng thôn Kim Sơn, không giấu được niềm vui: "Đây là năm thứ 5 người dân ở đây sản xuất khoai tây liên kết với doanh nghiệp. Mỗi năm 3 vụ, không cho đất nghỉ... hệ số sử dụng đất nông nghiệp đạt đến 2,35 lần. Với năng suất 1,4 tấn/sào và giá thu mua ổn định 7.500 đồng/kg, một sào khoai tây mang lại hiệu quả kinh tế gấp 3 - 4 lần so với trồng lúa truyền thống".

Tương tự, tại xã Hoằng Lưu, 120 hộ dân liên kết với Công ty TNHH Xuân Minh trồng 20ha khoai tây, 10ha cà rốt. Mỗi ha đất trồng cây hàng hóa luân phiên canh tác 3 vụ/năm, giá trị mang lại có thể đạt 120 - 150 triệu đồng/ha/vụ. Mô hình sản xuất liên kết ở Hoằng Lưu đã được triển khai từ 7 - 8 năm trở lại đây. Đặc biệt, từ khi áp dụng khoa học, công nghệ, đưa cơ giới hóa vào sản xuất, hợp đồng cam kết đầu ra cho sản phẩm, người dân hào hứng tham gia. Phần lớn diện tích liên kết được đầu tư hệ thống tưới tự động nên cây trồng đạt năng suất, chất lượng cao.

Riêng huyện Hoằng Hóa, chỉ tính trong năm 2024, toàn huyện có 769,5ha cây trồng liên kết theo chuỗi giá trị, tăng 340ha so với cùng kỳ năm 2023. Nhiều tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, HTX trong và ngoài huyện đã xây dựng mối liên kết sản xuất bền vững, lâu dài với người dân.

Sự thay đổi này không đến một cách tự nhiên. Đằng sau những cánh đồng màu xanh tươi là cả một chính sách đầu tư toàn diện mà tỉnh đã triển khai trong suốt giai đoạn 2021-2025. Với tổng kinh phí trên 3.500 tỷ đồng từ các nguồn vốn khác nhau, tỉnh đã tập trung đầu tư cho phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững. Trong đó, nguồn vốn đầu tư công đạt gần 1.934 tỷ đồng, bao gồm 717 tỷ đồng từ ngân sách trung ương; 212,5 tỷ đồng vốn nước ngoài (ODA) và hơn 1.004 tỷ đồng vốn đầu tư công ngân sách tỉnh. Bên cạnh đó, nguồn chi thường xuyên từ sự nghiệp kinh tế trong giai đoạn 2021-2024 đã đạt hơn 1.401 tỷ đồng. Một trong những chính sách quan trọng nhất là Nghị quyết số 185/2021/NQ-HĐND về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân với tổng kinh phí thực hiện gần 375 tỷ đồng. Chính sách này đã hỗ trợ xây dựng 239ha vùng sản xuất rau an toàn tập trung chuyên canh, hỗ trợ hạ tầng cho 13 khu trang trại chăn nuôi tập trung và hỗ trợ phát triển trồng rừng thâm canh 25.196ha; làm đường lâm nghiệp vùng trồng rừng sản xuất tập trung 16.600ha; cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững cho 16.115ha...

Đặc biệt, chính sách khuyến khích tích tụ, tập trung đất đai để phát triển sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao theo Nghị quyết số 192/2019/NQ-HĐND ngày 16/10/2019 của HĐND tỉnh đã hỗ trợ chuyển nhượng 11ha và thuê đất 6.777ha với tổng kinh phí 38,855 tỷ đồng, tạo thuận lợi cho việc hình thành các vùng sản xuất tập trung, áp dụng công nghệ hiện đại. Để hỗ trợ cho sự phát triển này, tỉnh đã đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng. Từ nguồn vốn được bố trí, đã có 114 công trình hồ chứa, 57 đập dâng, 19 trạm bơm, 62 tuyến kênh, 115km đê, 76km đường lâm nghiệp, 18 trạm bảo vệ rừng... được đầu tư xây dựng, cải tạo. Những công trình này đã từng bước hoàn thiện hệ thống hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống Nhân dân.

Sự đầu tư vào khoa học, công nghệ đã thay đổi hoàn toàn cách thức sản xuất nông nghiệp. Việc ứng dụng cơ giới hóa từ khâu chuẩn bị đất, gieo trồng đến thu hoạch đã giảm sức lao động, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Hệ thống tưới tiết kiệm nước, các biện pháp canh tác tiên tiến được áp dụng rộng rãi.

Với mục tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm từ 3% trở lên, sản lượng lương thực có hạt hàng năm ổn định ở mức 1,5 triệu tấn, diện tích đất nông nghiệp được tích tụ, tập trung để sản xuất nông nghiệp quy mô lớn tăng thêm 50 nghìn ha, tỉnh Thanh Hóa đang hướng tới mục tiêu thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2030 gấp 1,5 lần so với năm 2025.

Theo kế hoạch phát triển của tỉnh đến năm 2030, sẽ duy trì và phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung, quy mô lớn với diện tích ấn tượng: vùng lúa thâm canh năng suất, chất lượng cao 150 nghìn ha, vùng trồng ngô thâm canh năng suất, chất lượng cao 20 nghìn ha, vùng mía nguyên liệu 16,5 nghìn ha, vùng sắn nguyên liệu 11 nghìn ha, vùng trồng cây ăn quả tập trung 18 nghìn ha, sản xuất rau an toàn tập trung 20 nghìn ha...

Đi trên những cánh đồng rộn ràng mùa thu hoạch, có thể thấy rõ sự đổi thay mạnh mẽ của nông nghiệp tỉnh ta. Từ những cánh đồng lúa đơn điệu đã chuyển mình thành những vùng sản xuất đa dạng, hiện đại với hệ số sử dụng đất cao. Vẫn những cánh đồng quen thuộc, vẫn công việc đồng áng quanh năm thường nhật, song ở một tâm thế mới, hình thức sản xuất mới, những “bờ xôi, ruộng mật” và tinh thần cần cù lao động đã mang đến những mùa bội thu.

Hành trình tái cơ cấu nông nghiệp của tỉnh không chỉ là sự thay đổi về mặt kinh tế mà còn là cuộc cách mạng về tư duy, cách thức tổ chức sản xuất. Khi những dòng vốn đầu tư được điều phối một cách khoa học, có định hướng, đã thực sự làm thay đổi diện mạo đồng quê, mang lại cuộc sống khá giả hơn cho người nông dân và định hình nên một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững.

Ngân Hà

 

Máy bay nông nghiệp, tìm ẩn nhiều rủi ro

Vựa lúa Đồng bằng sông Cửu Long đang chứng kiến sự xuất hiện khá nhiều của máy bay, hay còn gọi là drone trong nông nghiệp bởi sự hữu ích, nhưng đồng thời cũng ẩn chứa một số rủi ro cần được kiểm soát.

 

Nông dân tự vận hành và bảo đảm an toàn theo hướng dẫn của nhà cung cấp drone.

Drone đã trở thành công cụ đắc lực, giúp nông dân miền Tây tiết kiệm thời gian, chi phí và nâng cao hiệu quả sản xuất.

Tuy nhiên, cùng với những lợi ích vượt trội, việc quản lý và bảo đảm an toàn khi sử dụng drone cũng đang đặt ra những thách thức đáng kể, đặc biệt khi đã có những tai nạn đáng tiếc xảy ra.

VĂN ÚT - TÙNG ANH
 
 

Nâng cao đời sống cho người dân

Triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM), NTM nâng cao, kiểu mẫu, các cấp, ngành, các địa phương trên địa bàn tỉnh đã thực hiện hiệu quả cơ cấu lại ngành Nông nghiệp, chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP), phát triển mạnh các ngành nghề, nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã và chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn..., góp phần nâng cao thu nhập của người dân theo hướng bền vững.

Hình thành các vùng trồng trọt theo hướng hàng hóa tập trung giúp gia tăng giá trị sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh. Ảnh: Nguyễn Lượng

Giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh triển khai thực hiện hiệu quả các chính sách hỗ trợ cơ cấu lại ngành nông nghiệp, đặc biệt là triển khai các chính sách hỗ trợ tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo Nghị quyết số 20 của HĐND tỉnh nâng cao thu nhập cho người dân khu vực nông thôn, nổi bật là việc thực hiện hỗ trợ chuyển đổi diện tích đất trồng lúa sang trồng cây hằng năm, cây ăn quả và kết hợp nuôi trồng thủy sản, hỗ trợ các loại giống lúa mới, cá giống các loại...

Riêng năm 2024, ngành Nông nghiệp đã thực hiện hỗ trợ hơn 805 tấn giống lúa các loại trên diện tích hơn 16.100 ha đến các xã, phường, thị trấn trong tỉnh; hỗ trợ 1,52 triệu con cá giống các loại trên diện tích 115 ha cho các hộ trên địa bàn các huyện, thành phố; cấp hỗ trợ 37 nghìn con cá giống...

Nâng cao hiệu quả hoạt động của các hình thức tổ chức sản xuất, tỉnh tiếp tục hướng dẫn các hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX năm 2023. Hiện nay, toàn tỉnh có 411 HTX nông nghiệp, có 264 HTX hoạt động và 21 tổ hợp tác trong nông nghiệp hoạt động hiệu quả theo quy định. Các HTX nông nghiệp từng bước đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, gắn kết và lồng ghép với quá trình triển khai thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn và hàng năm có đóng góp nhất định vào thu nhập của địa phương, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và theo hướng đa dạng các loại hình dịch vụ, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thành viên và thị trường.

Xác định được vai trò của khoa học và công nghệ trong xây dựng NTM, trong thời gian qua, trên địa bàn tỉnh đã triển khai thực hiện 145 đề tài, dự án khoa học - công nghệ thuộc lĩnh vực nông - lâm nghiệp.

Các đề tài nghiên cứu tập trung vào việc thử nghiệm các giống cây, con có năng suất, chất lượng cao; ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất, đời sống, phù hợp nhu cầu thực tế sản xuất của người nông dân.

Bên cạnh đó, thực hiện hiệu quả Chương trình phát triển du lịch nông thôn trong xây dựng NTM; đã đưa vào khai thác phát triển du lịch cộng đồng, du lịch nông thôn với các sản phẩm du lịch như: Du lịch trải nghiệm vườn thanh Long ruột đỏ tại các xã Vân Trục, Xuân Hòa, Ngọc Mỹ (Lập Thạch); du lịch trải nghiệm thưởng thức đặc sản rau su su, trà hoa vàng của Tam Đảo; du lịch trải nghiệm cộng đồng tại xã Ngọc Thanh (Phúc Yên),...

Từ các chương trình hỗ trợ của tỉnh, người dân ở các vùng nông thôn trên địa bàn tỉnh tích cực đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lấy chăn nuôi làm mũi nhọn, sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa tập trung đã tạo bước “đột phá”, góp phần tăng trưởng giá trị sản xuất nông nghiệp hàng năm, tạo nền tảng, động lực, đòn bẩy để xây dựng NTM.

Theo thống kê, tốc độ tăng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản (giá so sánh năm 2010) bình quân 5 năm (2021 - 2025) của tỉnh ước tăng 3%/năm; cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp, thủy sản, cây trồng, vật nuôi chuyển biến tích cực, đã hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung trên địa bàn tỉnh, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong và ngoài tỉnh, từng bước hướng đến xuất khẩu. Thu nhập bình quân đầu người năm 2024 toàn tỉnh đạt 63 triệu đồng/người/năm.

Đa dạng hóa các ngành nghề ở nông thôn giúp nâng cao thu nhập của người dân trên địa bàn huyện Bình Xuyên. Ảnh: Nguyễn Lượng

Đến nay, 100% số xã đã được công nhận đạt chuẩn NTM. Toàn tỉnh đã có 231 thôn được công nhận thôn NTM kiểu mẫu; 37 thôn được công nhận thôn thông minh; 38 xã đạt chuẩn NTM nâng cao; 8 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu; huyện Yên Lạc đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận huyện đạt chuẩn NTM nâng cao.

Những kết quả được trong chương trình xây dựng NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu trên địa bàn tỉnh thời gian qua sẽ tạo động lực, nền tảng để khi tỉnh Phú Thọ mới đi vào hoạt động, chương trình xây dựng NTM nâng cao, kiểu mẫu giai đoạn 2026 - 2030 tiếp tục được kế thừa, phát huy hiệu quả.

Theo đó, cần tiếp tục xây dựng nông thôn văn minh, hiện đại, gắn với công nghiệp hóa nông nghiệp, đô thị hóa nông thôn; kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển mạnh mẽ, trình độ sản xuất tiên tiến, chú trọng phát triển sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao gắn với chế biến nông sản quy mô nhỏ và vừa, liên kết theo chuỗi, kinh tế nông nghiệp tuần hoàn; môi trường, cảnh quan, không gian nông thôn sáng, xanh, sạch, đẹp... Qua đó, góp phần thiết thực tái cơ cấu ngành nông nghiệp hiệu quả, nhân dân được thụ hưởng chính những thành quản của mình, đời sống được nâng cao, mỗi miền quê thực sự là nơi đáng sống.

Lưu Nhung

 

Xuân Lộc hoàn thành tiêu chí nông thôn mới kiểu mẫu

UBND huyện Xuân Lộc đã có văn bản kiến nghị UBND tỉnh Đồng Nai xem xét, công nhận huyện Xuân Lộc hoàn thành Đề án Thí điểm xây dựng huyện Xuân Lộc đạt chuẩn nông thôn mới (NTM) kiểu mẫu theo hướng phát triển sản xuất hàng hóa nông nghiệp bền vững giai đoạn 2018-2025.

Mô hình ứng dụng công nghệ cao trồng dưa lưới trong nhà màng ở huyện Xuân Lộc đạt chuẩn GlobalGAP. Ảnh:B.Nguyên

Tính đến cuối năm 2024, huyện đã đạt tất cả các nhóm mục tiêu, chỉ tiêu đề ra, sớm hơn một năm so với mục tiêu đề án. Toàn huyện hiện có 14/14 xã đạt chuẩn NTM nâng cao; có 14/14 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu giai đoạn 2021-2025. Trong đó có 9/14 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu theo hướng phát triển sản xuất hàng hóa nông nghiệp bền vững.

Thu nhập tốp đầu của tỉnh

Năm 2014, Xuân Lộc là huyện đầu tiên của cả nước đạt chuẩn NTM. Năm 2018, huyện được Trung ương chọn là một trong 4 địa phương trên cả nước thí điểm huyện xây dựng NTM kiểu mẫu. Năm 2023, huyện Xuân Lộc đã về đích NTM nâng cao. Năm 2024, huyện đã hoàn thành các tiêu chí NTM kiểu mẫu. Điều ấn tượng nhất là huyện vùng sâu, vùng xa này luôn bám sát mục tiêu phát triển sản xuất hàng hóa nông nghiệp bền vững xuyên suốt quá trình xây dựng NTM đến NTM kiểu mẫu.

Ấn tượng nhất là nhiều xã kiểu mẫu trên địa bàn huyện Xuân Lộc đạt mức thu nhập bình quân đầu người năm 2024 rất cao như: xã Xuân Định đạt gần 107,7 triệu đồng, Bảo Hòa hơn 96,9 triệu đồng..

Kết quả ấn tượng nhất của địa phương là thu nhập người dân nông thôn không ngừng được nâng cao nhờ tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp. Cụ thể, năm 2024, giá trị sản xuất bình quân của trồng trọt và nuôi trồng thủy sản của huyện đạt 232,4 triệu đồng/hécta/năm, tăng 78 triệu đồng so với thời điểm xây dựng đề án vào năm 2018. Riêng với cây trồng chủ lực, giá trị sản xuất bình quân đạt 348,5 triệu đồng/hécta/năm; nếu tính cả chăn nuôi thì đạt đến 367 triệu đồng/hécta/năm.

Nhờ đó, đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn được cải thiện rõ nét, chất lượng cuộc sống không ngừng được nâng lên. Năm 2024, thu nhập bình quân đầu người toàn huyện đạt 95,95 triệu đồng, tăng gần 36,4 triệu đồng/người so với thời điểm xây dựng đề án. Trong đó, khu vực nông thôn đạt gần 95,4 triệu đồng/người/năm, cao hơn nhiều so với mặt bằng chung của tỉnh. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn của Trung ương giảm còn hơn 0,5% (còn khoảng 310 hộ).

Huy động từ nguồn lực xã hội hóa

Giai đoạn 2020-2024, huyện Xuân Lộc đã huy động được trên 53 ngàn tỷ đồng thực hiện Chương trình Xây dựng NTM. Trong đó, vốn ngân sách nhà nước chiếm tỷ lệ hơn 4,4%, còn gần 95,6% là nguồn vốn xã hội hóa.

Đường kiểu mẫu tại xã Suối Cao (huyện Xuân Lộc).

Theo Chủ tịch UBND huyện Xuân Lộc Nguyễn Thị Cát Tiên, huyện không chỉ tập trung phát triển sản xuất mà đầu tư đồng bộ, hoàn thành tốt 6 nhóm tiêu chí chung và 29 chỉ tiêu của đề án.

Trong đó, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển mạnh, tạo bộ mặt mới cho khu vực nông thôn. Đến nay, 100% xã đều có đường nhựa đến trung tâm xã và kết nối đến trung tâm huyện, 100% đường huyện quản lý, đường trục xã, liên xã được nhựa hóa, bê tông hóa. Tỷ lệ trường học các cấp đạt chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất đạt 100%; hệ thống thiết chế văn hóa, mạng lưới thông tin truyền thông, y tế... đều đạt chuẩn. Đặc biệt, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế trên địa bàn huyện đạt hơn 95,7%.

Môi trường sinh thái khu vực nông thôn được cải thiện, hệ thống nước sạch, nhà vệ sinh, chuồng, trại chăn nuôi được tập trung đầu tư. Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 100%, trong đó hơn 92,2% hộ dân sử dụng nước sạch. Tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nước sạch từ công trình cấp nước tập trung nông thôn và đấu nối các đường ống cấp nước đô thị đạt hơn 77,1%, cao hơn nhiều so với mặt bằng chung của tỉnh. Trên địa bàn huyện, nhiều mô hình bảo vệ an ninh trật tự khu dân cư hiệu quả, thiết thực được nhân rộng như: Tiếng kẻng an ninh, Hàng rào bảo vệ an ninh trật tự, Tổ tự quản về an ninh trật tự, Câu lạc bộ Thắp sáng niềm tin.

Làm việc với huyện Xuân Lộc về kết quả xây dựng NTM kiểu mẫu, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và môi trường Trần Thanh Nam đánh giá, trong 4 huyện của cả nước được chọn xây dựng điểm huyện NTM kiểu mẫu, Xuân Lộc là địa phương đầu tiên cơ bản hoàn thành các tiêu chí huyện NTM kiểu mẫu. Điều rất hoan nghênh là Xuân Lộc thực hiện song song 2 mục tiêu, vừa tập trung vào mục tiêu chính là phát triển sản xuất hàng hóa chuyên sâu bền vững, vừa làm kiểu mẫu về các mô hình khác. Đây là bài học giá trị cho Trung ương có thêm kinh nghiệm trong xây dựng NTM kiểu mẫu thời gian tới.

Bình Nguyên

 

Liên kết chuỗi - đòn bẩy nâng cao giá trị nông nghiệp

Những năm gần đây, nhiều hợp tác xã (HTX) nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Nam Định đã chủ động tái cơ cấu, đổi mới phương thức hoạt động theo hướng sản xuất hàng hóa, gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp và thị trường tiêu thụ. Nhiều mô hình liên kết theo chuỗi giá trị đã hình thành và mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao thu nhập cho nông dân và phát triển kinh tế nông thôn bền vững.

HTX Sản xuất Kinh doanh Dịch vụ nông nghiệp Nghĩa Bình (HTX Nghĩa Bình) là một trong những điển hình trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng chuỗi liên kết. Với phương châm: Trồng lúa sạch-làm gạo sạch-sản xuất bền vững, HTX đã xây dựng thành công vùng sản xuất lúa theo tiêu chuẩn VietGAP, đồng thời phát triển chuỗi gạo chất lượng cao như “Gạo nếp Bắc Nghĩa Bình”, “Gạo huyết rồng”, “Gạo Bắc thơm Nghĩa Bình”.

Các sản phẩm của HTX đều đạt chuẩn OCOP 4 sao, được người tiêu dùng tin tưởng lựa chọn. Nhờ đó, giá trị canh tác của HTX đạt từ 115-120 triệu đồng/ha/năm. Để tiếp tục phát triển bền vững, HTX Nghĩa Bình đã và đang tiếp tục triển khai nhiều hướng đi mới trong chiến lược phát triển bền vững. Một mặt, HTX mở rộng diện tích các vùng chuyên canh sản xuất lúa đặc sản; mặt khác, tập trung đầu tư chiều sâu nâng cao chất lượng giống, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, từng bước cơ giới hóa và số hóa quy trình sản xuất...

Sản xuất lúa nếp theo hướng hữu cơ tại Hợp tác xã Sản xuất Kinh doanh Dịch vụ nông nghiệp Nghĩa Bình.

Một mô hình tiêu biểu khác là HTX Sản xuất Kinh doanh Dịch vụ nông nghiệp Minh Tân. HTX vừa được vinh danh là một trong 100 HTX tiêu biểu toàn quốc, nhận giải thưởng “Ngôi sao HTX-Coop Star Awards 2025” do Liên minh HTX Việt Nam tổ chức. HTX đã hình thành các vùng chuyên sản xuất giống lúa thuần có giá trị kinh tế cao, vùng trình diễn các giống lúa lai, lúa thuần có năng suất, chất lượng cao, hợp tác với nhiều công ty trong và ngoài tỉnh. Hằng năm, HTX cung ứng từ 80-100 tấn vật tư, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật với giá trị từ 1,2-1,5 tỷ đồng theo phương châm chất lượng tốt nhất, giá cả bằng và thấp hơn thị trường tại thời điểm. HTX còn cho các hộ thành viên vay vốn ưu đãi từ dịch vụ tín dụng nội bộ để phát triển sản xuất, đến ngày 31-12-2024, doanh số cho vay đạt 2,566 tỷ đồng.

Nam Định hiện có 418 HTX nông, lâm, thủy sản, ngư nghiệp với hơn 314 nghìn thành viên. Đến nay, toàn tỉnh có 1 HTX và 1 doanh nghiệp của tỉnh là đầu mối kết nối sản xuất gắn với chuỗi giá trị chế biến, tiêu thụ lúa gạo với hơn 30 HTX nông nghiệp trên địa bàn. 63 HTX đã xây dựng được chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp... Các mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp giúp tăng năng suất, chất lượng cây trồng vật nuôi, tăng giá trị sản phẩm và từng bước nâng cao thu nhập cho nông dân. Thực tế cho thấy, khi tham gia chuỗi giá trị, chi phí sản xuất, kinh doanh của HTX giảm từ 5-8%, thu nhập của thành viên tăng 20-25%, mang lại nhiều lợi ích cho các thành viên và HTX.

Liên minh HTX tỉnh Nam Định đã và đang giữ vai trò cầu nối, hỗ trợ các HTX xây dựng và mở rộng mô hình liên kết chuỗi thông qua các hoạt động thiết thực như: Tổ chức hội nghị, hội thảo giữa HTX và doanh nghiệp; tổ chức đoàn đi học tập kinh nghiệm tại các tỉnh, khu vực có mô hình HTX tiên tiến; kết nối với các tổ chức quốc tế để nâng cao năng lực quản trị cho cán bộ. Những hoạt động này đã giúp các HTX cập nhật kiến thức, mở rộng quan hệ hợp tác, tạo điều kiện phát triển kinh tế tập thể theo hướng bền vững.

Thực tế cho thấy, liên kết HTX-doanh nghiệp-nông dân đã tạo ra các khu sản xuất tập trung, cánh đồng mẫu lớn, vùng nguyên liệu lớn, đồng thời là cơ sở quan trọng để đưa các tiến bộ khoa học vào sản xuất theo quy trình công nghệ, tiêu chuẩn hóa các tiêu chí về chất lượng sản phẩm, tạo ra khối lượng hàng hóa chủ lực đủ lớn đáp ứng yêu cầu của thị trường, khắc phục được những nhược điểm của mô hình kinh tế hộ nhỏ lẻ, manh mún. Nhờ đó, trên địa bàn tỉnh xuất hiện ngày càng nhiều mô hình liên kết hợp tác phát triển kinh tế tiêu biểu ở các địa phương. Với những kết quả nổi bật đã đạt được, trong thời gian tới, các HTX sẽ tiếp tục phát huy vai trò liên kết giữa nông dân-HTX-doanh nghiệp, qua đó góp phần thúc đẩy nông nghiệp tỉnh phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững.

Bài và ảnh: AN ĐỊNH

 

Hiếu Giang tổng hợp

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop