Giá vú sữa giảm
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Thu mua vú sữa tại một vựa trái cây ở Phong Điền.
Nguồn cung tăng khi bước vào mùa thu hoạch rộ, giá trái vú sữa tại nhiều địa phương vùng ĐBSCL hiện giảm từ 20.000-25.000 đồng/kg so với cách nay hơn 1 tháng. Hiện vú sữa Lò Rèn, vú sữa bơ và vú sữa tím loại 1 được nông dân tại nhiều nơi bán cho thương lái với giá 25.000-30.000 đồng/kg, trong khi trước đây ở mức 45.000-55.000 đồng/kg. Giá giảm nhưng vẫn còn ở mức cao và nhiều nhà vườn trồng vú sữa vẫn có thu nhập khá tốt từ loại cây trồng này. Đáng chú ý, nông dân tại một số hợp tác xã có liên kết với doanh nghiệp và thực hiện quy trình bao trái và sản xuất theo VietGAP và Global GAP để có sản phẩm đạt chuẩn xuất khẩu hiện vẫn bán được với giá khá cao, lên đến 50.000-55.000 đồng/kg. Nông dân có thể thu được lợi nhuận khoảng trên dưới 40 triệu đồng/công vú sữa.
Tin, ảnh: KHÁNH TRUNG
Đồng Nai: Đang nỗ lực khôi phục mã số vùng trồng chuối
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai
Huyện Trảng Bom (Đồng Nai) có diện tích chuối lớn nhất tỉnh, cũng là địa phương có mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói bị tạm dừng xuất khẩu nhiều nhất. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến đầu ra, giá cả, uy tín sản phẩm xuất khẩu.
Kiểm tra rệp sáp trên cây chuối tại xã Thanh Bình
Các chủ thể đang nỗ lực khôi phục bằng cách kiểm soát chặt chẽ quá trình sản xuất, đóng gói; làm hồ sơ xin mở lại, cấp mới mã số.
Bị tạm dừng nhiều mã số
Với hơn 6 ngàn ha, H.Trảng Bom có diện tích chuối lớn nhất tỉnh. Chuối ở đây chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Theo yêu cầu của đối tác, các cơ quan quản lý nhà nước đã hỗ trợ chủ thể là cá nhân, HTX, doanh nghiệp xây dựng được 22 mã số vùng trồng và 32 mã số cơ sở đóng gói. Tháng 9-2023, nhiều mã số vùng trồng bị tạm dừng do vi phạm kiểm dịch thực vật, bị phía Trung Quốc khuyến cáo do vi phạm kiểm dịch thực vật.
Ông Vũ Văn Toàn, hộ kinh doanh tại xã Thanh Bình cho biết, cơ sở của ông đang bị tạm dừng 2 mã số vùng trồng và 1 mã số đóng gói. Việc này khiến hơn 60ha chuối chuẩn bị thu hoạch có nguy cơ không xuất khẩu được. Cơ sở lẫn nhà vườn đều thiệt hại.
“Những vườn đến kỳ thu hoạch, chúng tôi phải nhờ bà con bán nội địa, trong khi cơ sở không có chuối để xuất khẩu. Chúng tôi đang khắc phục để cơ quan chức năng đến kiểm tra, mở lại mã số càng sớm càng tốt, vì chuối đã vào vụ thu hoạch" - ông Toàn nói.
Công ty TNHH Real Farm tại xã Thanh Bình cũng bị tạm dừng 1 mã số vùng trồng và đóng gói. Việc tạm dừng này ảnh hưởng rất nhiều đến việc tiêu thụ cũng như giá bán chuối.
Ông Lê Thanh Hòa, Giám đốc công ty cho biết ông khá lo lắng vì chuối chuẩn bị vào vụ thu hoạch. Công ty đang nỗ lực để được mở lại mã số bằng cách truyền đạt cho nông dân chăm sóc theo quy trình, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đúng liều lượng. Đầu tư xây mới bể rửa chuối, hệ thống ròng rọc vận chuyển chuối từ vườn đến bể.
“Mỗi mã số vùng trồng gồm nhiều nhà vườn khác nhau. Có hộ chăm sóc kỹ, có hộ chưa làm đúng quy trình dẫn đến sản phẩm có rệp sáp. Đây là bài học đắt giá cho chúng tôi trong kiểm soát sản xuất, đóng gói về sau" - ông Hòa nói.
Hiện tại, vùng trồng chuối lớn nhất tỉnh chuẩn bị bước vào vụ thu hoạch chính. Tuy nhiên, nhiều chủ thể chưa được mở lại mã số vùng trồng, đóng gói. Không chỉ đầu ra, giá cả bị ảnh hưởng, mà lớn hơn là mất uy tín sản phẩm xuất khẩu.
Bà Sàn Thị Thúy, cán bộ trồng trọt Phòng Kinh tế H.Trảng Bom cho biết, huyện có 8 mã số vùng trồng và 12 mã số đóng gói bị tạm dừng do quá trình kiểm tra lô hàng xuất khẩu có rệp sáp. Các mã số bị thu hồi tuân thủ nghiêm quy định, ngưng xuất khẩu cho đến khi được mở lại mã số. Hiện giá chuối trong khoảng 7-9 ngàn đồng/kg, thấp hơn trước, nhưng ở mức chấp nhận được.
Cần giữ uy tín sản phẩm
Theo H.Trảng Bom, sau sự việc trên, Huyện ủy, UBND huyện đã chỉ đạo các ngành chức năng tổ chức các lớp tập huấn về quy trình sản xuất, hướng dẫn nhà vườn đặt bẫy côn trùng, quan tâm phòng trị sâu bệnh. Đối với mã số đóng gói, cơ sở phải đầu tư bồn rửa, thực hiện đầy đủ các biện pháp kỹ thuật bảo đảm làm sạch sinh vật gây hại trên hàng hóa trước khi xuất khẩu, đóng gói đúng quy trình.
Cũng theo bà Thúy, huyện còn nhiều diện tích trồng chuối chưa có mã số vùng trồng. Trong quá trình chờ khôi phục các mã số, huyện hướng dẫn các cơ sở làm mã số mới tại khu vực còn diện tích để đảm bảo nguồn hàng xuất khẩu.
Ông Trần Ngọc Tú, Giám đốc HTX Nông nghiệp dịch vụ Trảng Bom cho hay, cơ sở có 1 mã số vùng trồng và đóng gói nhưng chưa đáp ứng yêu cầu xuất khẩu. Do đó, HTX đang nâng cấp 1 mã số vùng trồng, thực hiện thêm 1 mã số vùng trồng mới. Rút kinh nghiệm từ vụ việc này, HTX sẽ giám sát chặt chẽ các nhà vườn về 3 tiêu chí: chất lượng, sản lượng và kiểm soát sâu bệnh. Sản phẩm không đạt các tiêu chí sẽ không đóng gói xuất khẩu.
Trung Quốc là thị trường tiêu thụ nông sản lớn của Việt Nam. Thị trường này ngày càng yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm nhập chính ngạch, trong đó có yêu cầu mã số vùng trồng, mã số đóng gói. Vì vậy, không khỏi xảy ra tình trạng chạy đua làm mã số mà chưa quan tâm đúng mức đến chất lượng dẫn đến nhiều mã số bị tạm dừng, thu hồi.
Thực tế này là hồi chuông cảnh báo người sản xuất, đơn vị thu mua đóng gói, cơ quan quản lý nhà nước trong việc tuân thủ các yêu cầu, kiểm soát chất lượng, quản lý mã số được cấp.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Võ Văn Phi cho rằng, mã số vùng trồng cũng như tiêu chuẩn GAP, không phải được cấp rồi là xong, mà phải duy trì thực hiện để giữ mã số. Sản xuất, thu hoạch, đóng gói phải tuân thủ quy trình, đảm bảo chất lượng. Lãnh đạo tỉnh cho rằng, các ngành chức năng cần tăng cường kiểm soát đối tượng kiểm dịch thực vật tại các vùng trồng, cơ sở đóng gói xuất khẩu để tránh tình trạng vi phạm, dẫn đến nguy cơ mất thị trường. Có chế tài xử lý với hành vi gian lận mã số, tái phạm nhiều lần.
Phan Anh
Giá mãng cầu ta sụt giảm mạnh
Nguồn tin: Báo Kiên Giang
Hiện nay nhiều nông dân ở huyện Giồng Riềng (Kiên Giang) đang thu hoạch trái mãng cầu ta (na) bán với mức giá dao động từ 35.000-40.000 đồng/kg, nếu so với 2 tháng trước giá giảm đến 20.000 đồng/kg.
Vườn mãng cầu ta cho trái to.
Nhiều hộ dân ở huyện Giồng Riềng cho biết, so với thời điểm 2 tháng trước, giá mãng cầu ta giảm mạnh.
Anh Lê Văn Chớp, ngụ ấp Hoà Lộc, xã Hoà Lợi có khoảng 2,3ha đất trồng xen canh ổi, sầu riêng, mãng cầu... cho biết: “Tôi vừa cắt bán cho thương lái khoảng 1 tấn mãng cầu ta chỉ với giá 40.000 đồng/kg, giảm 20.000 đồng/kg so với thời điểm vài tháng trước”.
Anh Trần Văn Lưng - thương lái chuyên thu mua mãng cầu nói: “Hiện tôi vào nhà vườn thu mua mãng cầu ta với giá 35.000 – 40.000 đồng/kg. Mãng cầu ta có giá cao vào thời điểm tháng 7 và tháng 8 âm lịch”.
Theo một số thương lái, giá mãng cầu ta giảm do bắt đầu vào vụ thu hoạch, nguồn cung vào dồi dào nhưng nhu cầu tiêu thụ vẫn ở mức thấp và phải cạnh tranh với mãng cầu ta ở các tỉnh khác.
Phó Chủ tịch UBND xã Hoà Lợi (huyện Giồng Riềng) Nguyễn Thanh Khởi nói: “Mô hình trồng xen canh các loại cây ăn trái là nguồn thu nhập chính của nhiều hộ dân trên địa bàn xã. Tuy nhiên, vào vụ thu hoạch thường xảy ra tình trạng được mùa mất giá, lợi nhuận của người nông dân vì vậy mà giảm sút”.
Tin và ảnh: THÚY ANH
Phát triển vùng chuyên canh rau theo hướng an toàn
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang
Là vùng chuyên canh rau lớn nhất của tỉnh Tiền Giang, huyện Châu Thành hiện có gần 2.000 ha diện tích trồng rau màu, mỗi năm cung cấp sản lượng 350.000 tấn rau các loại cho thị trường chủ yếu là các tỉnh miền Ðông, miền Tây Nam Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông Huỳnh Văn Bé Hai, Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Châu Thành cho biết: Thực hiện Quyết định số 2230/QĐ-UBND của UBND tỉnh Tiền Giang về việc phê duyệt quy hoạch vùng sản xuất rau màu của tỉnh, huyện Châu Thành đã phối hợp các ngành chức năng liên quan, triển khai thực hiện đạt hiệu quả, góp phần vào phát triển kinh tế địa phương để huyện được công nhận huyện nông thôn mới vào cuối năm 2023.
Đến nay, trên địa bàn huyện Châu Thành đã hình thành các vùng trồng rau chuyên canh tập trung phù hợp với thổ nhưỡng từng khu vực. Vùng trồng rau ăn lá, rau gia vị (rau má, ngò gai, húng cây, rau diếp cá, rau om,...) tập trung ở các xã như: Tam Hiệp, Tân Lý Đông, Thân Cửu Nghĩa, Thạnh Phú, Long Hưng, Nhị Bình. Vùng trồng rau ăn quả tổng hợp (dưa leo, khổ qua, bầu, bí, cà chua,...), tập trung ở các xã: Tân Lý Đông, Tân Hội Đông, Tân Hương, Thân cửu Nghĩa,... Việc quy hoạch này giúp cho việc định hướng phát triển cây rau một cách bài bản. Các ngành, các cấp có điều kiện tập trung chuyển giao khoa học - kỹ thuật, triển khai các chương trình, dự án phát triển cây rau.
Ðồng thời, hệ thống ô, đê bao ngăn lũ của huyện được đầu tư khép kín và phát huy tác dụng là điều kiện thuận lợi để huyện phát triển diện tích trồng rau truyền thống. Bên cạnh những địa phương nằm trong hai vùng quy hoạch trồng rau tập trung, hầu hết các xã trong toàn huyện đã phát triển theo hướng chuyên canh với số lượng lớn.
Tổng diện tích canh tác rau màu các loại của huyện Châu Thành tính đến tháng 10/2023 đạt gần 2.000 ha, diện tích gieo trồng trên 15.000 ha, tổng sản lượng trên 350.000 tấn. Hiệu quả thu nhập từ cây rau đạt từ 150 - 325 triệu đồng/ha/năm.
Tại ấp Thân Bình, xã Thân Cửu Nghĩa, ông Nguyễn Văn Thương đã sáng tạo và thành công quay vòng đất một cách hợp lý trong việc canh tác các loại rau theo phương pháp lấy ngắn nuôi dài. Với 4.000m2 đất, ông Thương trồng luân phiên các loại rau như: ngò gai, hành lá, cải, tía tô... nên cho thu hoạch thường xuyên. Với cách làm này, ông vừa tận dụng diện tích đất một cách triệt để, vừa thu hoạch từng loại cây rau quanh năm theo chu kỳ từng loại, gia đình ông thu được trên 150 triệu đồng/năm.
Theo Phòng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn huyện Châu Thành, song song với việc hình thành các vùng chuyên canh rau, huyện đã tăng cường đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ trong thâm canh cây trồng nhằm hướng người dân sản xuất rau theo hướng sạch, an toàn, đảm bảo chất lượng, đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Đến nay, tại các vùng chuyên canh rau, người dân đã áp dụng khoa học công nghệ trong sản xuất rau màu: Sử dụng giống F1, IPM, hệ thống tưới phun tự động, nhỏ giọt, tưới tiết kiệm nước (tưới phun mưa), sử dụng chế phẩm sinh học trong canh tác, ứng dụng nhà lưới và nhà màng trong canh tác,...
Qua thống kê, diện tích áp dụng hệ thống tưới phun mưa đạt 3.400 ha, chiếm khoảng 80% diện tích gieo trồng rau màu các loại. Diện tích áp dụng IPM đạt 2.800 ha, chiếm 65% diện tích gieo trồng rau màu các loại. Diện tích áp dụng phân bón hữu cơ, sinh học đạt 3.000 ha, chiếm 70% diện tích gieo trồng rau màu các loại.
Theo ông Huỳnh Văn Bé Hai, Chủ tịch UBND huyện Châu Thành, nhằm phát huy lợi thế cây rau, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập người dân trên địa bàn huyện, UBND huyện chỉ đạo ngành Nông nghiệp huyện tiếp tục củng cố hợp tác xã rau an toàn, các tổ hợp tác sản xuất rau và rau an toàn hiện có trên địa bàn, đồng thời phát triển mới các mô hình kinh tế hợp tác ở nơi chưa có tổ hợp tác, hợp tác xã rau.
Bên cạnh đó, ngành Nông nghiệp huyện tăng cường tổ chức, xác lập, nhân rộng các mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ cây rau để hoàn thành tiêu chí hình thức tổ chức sản xuất trong xây dựng xã nông thôn mới nâng cao, phát triển ổn định cây rau; tiếp tục phối hợp với các xã tập huấn, hướng dẫn người dân sản xuất theo hướng rau an toàn, đạt tiêu chuẩn VietGAP để khi có đủ điều kiện xúc tiến việc công nhận.
Đặc biệt, huyện Châu Thành cũng kêu gọi các nhà đầu tư liên kết hợp tác chế biến từ các loại rau nhằm tăng thêm giá trị thu nhập của nông dân cũng như giữ vững diện tích cây rau của huyện phát triển một cách ổn định, lâu dài, góp phần tăng thu nhập cho người dân.
Nguyễn Hữu
Để vụ lúa đông xuân đạt hiệu quả
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Vụ lúa thu đông 2023 được thu hoạch dứt điểm, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) TP Cần Thơ đánh giá là vụ lúa được mùa, cho lợi nhuận khá cao. Kết quả này là nhờ chuyển đổi thời vụ, xuống giống né rầy, dịch hại, với cơ cấu giống phù hợp... Tiếp nối niềm vui trên, nông dân TP Cần Thơ khẩn trương chuẩn bị cho vụ lúa đông xuân 2023-2024 sắp tới.
Nông dân huyện Vĩnh Thạnh (TP Cần Thơ) chuẩn bị đất gieo sạ lúa đông xuân 2023-2024.
Theo Sở NN&PTNT TP Cần Thơ, trong năm 2023, toàn thành phố có diện tích sản xuất lúa là 216.215ha, thấp hơn 169ha so với năm 2022, đạt 106% so với kế hoạch năm. Đến thời điểm hiện tại, diện tích lúa thu đông (vụ 3) đã thu hoạch dứt điểm, năng suất trung bình đạt 55,07 tạ/ha, tương đương so với cùng kỳ năm 2022. Giá lúa khô hiện tại ổn định, cụ thể giống OM5451 có giá từ 8.300-8.500 đồng/kg, OM18 từ 8.500-8.800 đồng/kg, giống Đài Thơm 8 từ 8.600-8.900 đồng/kg và giống IR50404 từ 8.200-8.400 đồng/kg. Với mức giá này, nông dân thu được lợi nhuận khá cao so với vụ lúa thu đông 2022. Theo Sở NN&PTNT TP Cần Thơ, trên đồng ruộng, hiện tại mực nước nội đồng đang ở mức cao, đây là thời điểm thuận lợi để bà con tập trung vệ sinh đồng ruộng, diệt ốc bươu vàng, diệt chuột… Sở NN&PTNT đề nghị ngành nông nghiệp địa phương hướng dẫn nông dân thu gom tiêu diệt ốc bươu vàng bằng nhiều biện pháp, như cắm cọc cho ốc đẻ trứng, thu gom tiêu diệt trứng ốc, đặt lưới; tổ chức diệt chuột cộng đồng, thường xuyên bằng nhiều biện pháp, đồng thời tranh thủ các đợt triều cường đưa nước vào ruộng để vệ sinh đồng ruộng và tăng lượng phù sa cho đất…
Ông Nguyễn Văn Sử, Giám đốc Sở NN&PTNT TP Cần Thơ, nhận định: “Các vụ lúa vừa qua, nông dân TP Cần Thơ đạt được kết quả cao là nhờ sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của UBND thành phố, ngành Nông nghiệp, sự phối hợp của các ban ngành chức năng và các địa phương trong chỉ đạo thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất, phòng chống dịch bệnh, vận động nông dân gieo sạ tập trung né rầy; sự chỉ đạo sâu sát, nhạy bén của ngành Nông nghiệp, nhất là năng lực của đội ngũ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật, góp phần vào việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, tổ chức phòng chống dịch hại theo hướng an toàn sinh thái. Nông dân cũng tích cực hợp tác ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, 3 giảm 3 tăng, 1 phải 5 giảm, sản xuất sử dụng chế phẩm sinh học, sử dụng phân hữu cơ từ rơm… nên chi phí sản xuất giảm, năng suất và lợi nhuận tăng cao”.
Theo Sở NN&PTNT TP Cần Thơ, vụ lúa đông xuân 2023-2024, TP Cần Thơ có kế hoạch gieo sạ với diện tích 74.040ha, sản lượng ước 533.088 tấn. Lịch thời vụ xuống giống được các địa phương bố trí mùa vụ trên cơ sở khung thời vụ của thành phố kết hợp với biện pháp “Xuống giống né rầy, đồng loạt, tập trung cho từng vùng, từng cánh đồng”, chỉ đạo không xuống giống kéo dài, không để trên cùng một cánh đồng có nhiều trà lúa đan xen. Lịch thời vụ gieo sạ lúa đông xuân 2023-2024, gồm: đợt I từ 15 đến 22-11-2023 (từ ngày 3 đến ngày 9 tháng 10 âm lịch). Đợt II từ ngày 2 đến ngày 8-12-2023 (từ ngày 20 đến 26 tháng 10 âm lịch). Các địa phương nên vận động bà con xuống giống tập trung đồng loạt nhưng vẫn đảm bảo thời gian cách vụ, hiệu quả sản xuất, chất lượng hạt lúa và hạn chế thất thoát sau thu hoạch. Đồng thời, các địa phương thuộc TP Cần Thơ cần theo dõi chặt chẽ rầy nâu tại chỗ và tình hình rầy di trú kết hợp với chế độ thủy văn xây dựng lịch thời vụ cụ thể cho địa phương, thời gian giãn cách giữa hai vụ lúa tối thiểu 3 tuần, xuống giống theo dự báo rầy nâu di trú và rầy nâu tại chỗ của ngành Nông nghiệp.
Để chuẩn bị nguồn giống tốt, đảm bảo yêu cầu chất lượng cho vụ đông xuân 2023-2024, ngành Nông nghiệp TP Cần Thơ yêu cầu các quận, huyện vận động nông dân chọn các giống phù hợp cho vùng sản xuất 2 hoặc 3 vụ/năm, nhằm đảm bảo thời gian cách ly giữa các vụ lúa ít nhất 3 tuần. Khuyến cáo nông dân sử dụng giống cấp xác nhận trở lên để gieo sạ; xây dựng cơ cấu giống lúa cho vụ đông xuân 2023-2024 đảm bảo yêu cầu cân đối, an toàn dịch bệnh và sử dụng giống bền vững, phù hợp với thực tế sản xuất và thị trường, giữ tỷ lệ cơ cấu phù hợp với các giống chủ lực: Đài Thơm 8, Jasmine 85, OM 5451, OM 18; xây dựng vùng sản xuất giống lúa đặc sản, chất lượng cao, xây dựng kế hoạch sản xuất và chăm sóc để quản lý dịch hại, bảo vệ năng suất, sản lượng và an toàn cho sản xuất các vụ sau…
Ông Nguyễn Văn Sử nhấn mạnh: ngành Nông nghiệp các quận, huyện cần tập trung thực hiện một số giải pháp trong thời gian tới như tổ chức điều hành, theo dõi chặt chẽ tình hình gieo sạ, điều tra dự báo dịch hại, hướng dẫn nông dân biện pháp phòng trị và đánh giá hiệu quả theo hướng an toàn sinh thái. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về thời vụ, giống lúa để quản lý tốt dịch bệnh, đặc biệt là rầy nâu và muỗi hành. Tập trung nguồn lực tại địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tập huấn cho nông dân về sử dụng giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật theo nguyên tắc “4 đúng”… nhằm đảm bảo hiệu quả sản xuất cho nông dân. Tăng cường công tác kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây trồng, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật nhằm ngăn ngừa tình trạng giống cây trồng, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón giả, kém chất lượng và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm…
Bài, ảnh: HÀ VĂN
Thu hoạch cà phê xanh: Lợi bất cập hại
Nguồn tin: Báo Bình Phước
Niên vụ này, cà phê được thương lái thu mua với giá cao, đây là tín hiệu đáng mừng đối với người trồng. Tuy nhiên, thời điểm đầu mùa, nhiều người có tâm lý nóng vội, lo cà phê rớt giá nên tranh thủ thu hoạch, dù tỷ lệ quả chín đạt thấp. Theo khuyến cáo của cơ quan chức năng, việc người dân hái cà phê quá xanh nhằm bán chốt lời gây ảnh hưởng rất nhiều đến sản lượng cũng như uy tín của cà phê Việt.
TRANH THỦ THU HOẠCH ĐỂ ĐÓN ĐẦU
Với 3 ha cà phê trồng xen trong vườn điều, vụ mùa năm nay gia đình anh Điểu Hoan ở thôn 5, xã Đồng Nai, huyện Bù Đăng (tỉnh Bình Phước) thu được khoảng 25 tấn cà phê tươi. Anh Hoan cho biết, so với năm trước, năm nay năng suất cà phê giảm khoảng 10%, tuy nhiên bù lại giá bán đầu mùa ở mức cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Đầu mùa, thương lái vào tận vườn thu mua với giá 11,8 ngàn đồng/kg cà phê tươi.
Tranh thủ giá cà phê đang ở mức cao, gia đình anh Hoan đã thuê 10 công, thu hoạch trong 3 ngày để kịp bán cho thương lái. Mặc dù theo quan sát, vườn cà phê của gia đình anh mới bắt đầu chín bói.
“Cà phê chưa được chín lắm, tuy nhiên quả đã già hết rồi, chỉ còn xanh phần vỏ. Tranh thủ lúc giá cao mình hái bán cho thương lái, để ít hôm vào chính vụ sợ cà phê rớt giá. Hái sớm cũng dễ thuê nhân công, mình còn thời gian để cắt tỉa, chăm sóc, tái tạo vườn cho vụ mùa năm sau” - anh Hoan chia sẻ.
Thời điểm đầu mùa người dân ồ ạt thu hoạch cà phê xanh để bán chốt lời. Trong ảnh: Người dân xã Đồng Nai, huyện Bù Đăng sử dụng máy tách vỏ cà phê tươi
Chỉ với 1 ha, tuy nhiên nhờ trồng chuyên canh nên niên vụ này gia đình anh Điểu Quang ở thôn Sơn Hòa, xã Thọ Sơn, huyện Bù Đăng dự kiến thu về khoảng 200 triệu đồng. Anh Quang cho biết: Dù năng suất giảm so với năm trước nhưng bù lại năm nay giá cà phê đầu mùa ở mức cao. Mỗi ngày gia đình tôi thuê gần 20 công lao động, chủ yếu người địa phương để thu hoạch. Tiền công được khoán theo kilôgam, vườn nhà tôi khoán 1,5 ngàn đồng/kg quả tươi. Một ngày, một người cũng kiếm được khoảng 300 ngàn đồng, người quen việc có thể gấp đôi, thậm chí gấp 3 tùy vườn quả nhiều hay ít.
“Cà phê mới chín được khoảng 30%, tôi tranh thủ thuê công hái trong 1 tuần để kịp bán lúc được giá. Mấy năm nay giá nông sản bấp bênh, trong khi giá phân bón tăng cao, nếu không thu hoạch sớm mà để chờ vào chính vụ tôi lo giá xuống thấp lại thiệt cho người trồng” - anh Quang bộc bạch.
Có thâm niên thu mua nông sản trên địa bàn huyện Bù Đăng, chị Thị Khươi cho biết: Đầu mùa trung bình mỗi ngày gia đình tôi thu mua từ 50-100 tấn cà phê tươi. Năm nay, đầu mùa thương lái thu mua 12 ngàn đồng/kg, giá cao nên người dân ồ ạt thu hoạch cà phê xanh để bán.
Theo chị Khươi, việc người dân thu hoạch cà phê khi quả chưa chín không chỉ ảnh hưởng chất lượng hạt, giá bán cũng không cao vì cà phê xanh sẽ mất thêm nhiều nhân công trong quá trình phơi, sấy và chế biến.
LỢI TRƯỚC MẮT, THIỆT LÂU DÀI
Giữa thời điểm người dân ồ ạt thu hoạch cà phê xanh để bán cho thương lái thì vườn cà phê của hộ chị Thị Khươi ở thôn 5, xã Đồng Nai vẫn giữ nguyên dù quả trên cây đã chín hơn 60%. Với 4 ha cà phê trồng xen điều, vụ mùa năm nay gia đình chị ước thu khoảng 20 tấn cà phê tươi. Theo chị Khươi, năm nào gia đình chị cũng thu hoạch khi cà phê đã chín đỏ cây. Đến thời điểm này, tỷ lệ quả chín trên cây hơn 90%, dự kiến khoảng 1 tuần nữa chị mới bắt đầu thu hoạch.
Từ thực tế vườn cây của gia đình, chị Khươi cho rằng giá trị nông sản không chỉ phụ thuộc phương pháp trồng và chăm sóc mà còn ở cách thu hoạch. Đối với vườn cà phê của gia đình, nhờ để tỷ lệ quả chín hơn 90% mới thu hoạch nên năng suất và sản lượng tăng cao. Công thu hoạch cũng thấp hơn vì hầu hết các hộ đã thu hoạch xong nên nguồn lao động dồi dào.
Xác định không bán cà phê tươi ngay tại vườn như nhiều gia đình khác, năm nay hộ chị Khươi đã lắp đặt hệ thống sấy cà phê tại nhà nên nắng hay mưa trong thời gian thu hoạch không còn quá quan trọng.
Chị Khươi chia sẻ: Nhiều người nghĩ thu hoạch cà phê khi quả còn xanh để bán có thể cao hơn 1 đến 2 giá so với bước vào thời điểm chính vụ. Tuy nhiên năm nay, cà phê càng về cuối vụ giá càng cao. Hiện cà phê được thương lái thu mua 13 ngàn đồng/kg tươi, cao hơn 1 đến 2 giá so với đầu vụ.
Chị THỊ KHƯƠI, thôn 5, xã Đồng Nai, huyện Bù Đăng: “Người dân nóng vội thu hoạch cà phê khi còn xanh không chỉ mất giá mà năng suất, chất lượng cũng giảm do hạt chưa đủ độ già, căng mẩy. Về lâu dài sẽ tác động tiêu cực đến người trồng cà phê do đầu vào của nguyên liệu không đạt chuẩn, ảnh hưởng giá trị xuất khẩu cà phê nhân ra nước ngoài”.
Tại các địa phương trong tỉnh, cây cà phê chủ yếu được trồng xen. Tuy nhiên, những năm qua, đây là loại cây trồng mang lại giá trị kinh tế lớn cho người dân. Hiện nay, thị trường tiêu thụ ngày càng yêu cầu cao về tiêu chuẩn chất lượng, đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Do đó, nếu người dân vì lợi nhuận trước mắt, không thay đổi tập quán canh tác, thu hoạch để bắt kịp xu thế thì đồng nghĩa sẽ không có cơ hội nâng cao giá trị kinh tế, về lâu dài ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của chính những người nông dân trồng cà phê.
Xuân Túc
8.000 hộ nông dân hưởng lợi từ Dự án ‘Thúc đẩy sản xuất và thương mại bền vững hồ tiêu Việt Nam’
Nguồn tin: Báo Đắk Lắk
Qua ba năm triển khai, Dự án “Thúc đẩy sản xuất và thương mại bền vững hồ tiêu Việt Nam” đã góp phần cải thiện đời sống của gần 8.000 hộ nông dân trồng hồ tiêu trên diện tích 8.500 ha ở Tây Nguyên.
Một số kết quả chính của dự án, gồm: tăng 60% khối lượng hạt tiêu tuân thủ các yêu cầu dư lượng thuốc bảo vệ thực vật của thị trường cao cấp và giá trị tiêu xuất khẩu được chứng nhận năm 2023 ước đạt 600 triệu USD; 50% đại lý thuốc bảo vệ thực vật ký cam kết tuân thủ các quy định về quản lý thuốc.
Nông dân trồng hồ tiêu ở huyện Cư M'gar tham gia Dự án “Thúc đẩy sản xuất và thương mại bền vững hồ tiêu Việt Nam”
Ngoài ra, dự án đã góp phần giảm 98% việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật cấm, đặc biệt là các loại thuốc diệt cỏ, nấm và côn trùng trong bối cảnh thị trường cảnh báo tồn dư ở mức cao ở vùng triển khai dự án; huy động sự tham gia của 12 doanh nghiệp, hợp tác xã sản xuất và xuất khẩu hồ tiêu hàng đầu Việt Nam vào dự án; 14 đội dịch vụ nông nghiệp được thành lập nhằm cung cấp dịch vụ nông nghiệp, tư vấn và giám sát việc sử dụng hóa chất có trách nhiệm của nông dân.
Trong ba năm, 160 khóa tập huấn cho nông dân đã được tổ chức. Nông dân được phổ biến kiến thức và hướng dẫn áp dụng thực hành nông nghiệp tốt, quản lý dịch hại tổng hợp, quản lý sức khỏe cây trồng, quản lý thảm phủ... góp phần giảm vật tư đầu vào, qua đó giảm 10% phát thải carbon và giảm 17% lượng nước tưới.
Được biết, dự án này do Liên minh châu Âu và Tổ chức IDH tài trợ, được thực hiện trong giai đoạn 2021 - 2023 tại ba tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông và Gia Lai.
Việc triển khai dự án nhằm hỗ trợ Việt Nam đạt được những lợi ích từ các cam kết thương mại song phương, trong đó tập trung vào việc thực hiện Hiệp định Thương mại tự do EU - Việt Nam (EVFTA), thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao từ Việt Nam sang EU, góp phần giúp các doanh nghiệp sản xuất, chế biến hồ tiêu tăng sản lượng bền vững.
Thời gian tới, Tổ chức IDH sẽ tăng cường huy động sự tham gia đầu tư của khối công, khối tư để nhân rộng các kết quả của dự án.
Minh Thuận
Sản xuất phân bón, thức ăn chăn nuôi từ phụ, phế phẩm nông nghiệp
Nguồn tin: Báo Sóc Trăng
Tận dụng nguồn phụ, phế phẩm nông nghiệp, nhiều nông dân ở Sóc Trăng đã sản xuất ra phân bón hữu cơ, thức ăn cho gia súc, gia cầm, góp phần giảm thiểu tác động của con người đến môi trường, giảm chi phí sản xuất, thu hoạch được nông sản sạch.
Đầu tháng 9 vừa qua, 30 hộ nông dân ở khóm 6, phường 7, thành phố Sóc Trăng được Hội Nông dân phường 7 và Viện Cây ăn quả Miền Nam hướng dẫn kỹ thuật sản xuất phân hữu cơ từ phế, phụ phẩm nông nghiệp. Sau khi được tập huấn kỹ thuật ủ phân hữu cơ, các hộ dân biết được cách chọn lựa nguồn nguyên liệu ủ phân, cách trộn phế phẩm với nguyên liệu ủ, cách pha chế, liều lượng chế phẩm vi sinh, phương pháp ủ phân cơ bản, cách bảo quản… Ông Lâm Quan Vân - thành viên Tổ hợp tác Trồng ngò gai hữu cơ phường 7 chia sẻ: “Được hướng dẫn cụ thể quy trình sản xuất phân hữu cơ từ phế, phụ phẩm nông nghiệp, tôi đã biết cách ủ phân để bón cho rau màu, cây trồng. Nguyên liệu sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh đa dạng như rơm rạ, mùn cưa, phân gia súc, gia cầm… Kết hợp nguyên liệu đó với chế phẩm sinh học rồi phủ kín bạt ủ khoảng 30 ngày sẽ cho ra thành phẩm phân bón hữu cơ vi sinh. Ngoài nguồn dinh dưỡng cung cấp cho rau màu, phân hữu cơ vi sinh còn có tác dụng cải tạo đất, tăng lượng mùn trong đất làm đất tơi xốp, đất không bị bạc màu. Được biết, loại phân bón này rất thân thiện với môi trường, ít gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Với mô hình này, chúng tôi có thể chủ động được nguồn phân hữu cơ thường xuyên, giảm chi phí sản xuất, hạn chế phân bón hóa học”.
Nông dân ở phường 7, thành phố Sóc Trăng (Sóc Trăng) thực hiện ủ rơm rạ, phân chuồng làm phân bón hữu cơ. Ảnh: XUÂN THANH
Theo Hội Nông dân phường 7, với nguồn phế phẩm có sẵn của địa phương, Viện Cây ăn quả Miền Nam cũng đã hỗ trợ cho 8 hộ trong Tổ hợp tác Trồng ngò gai của phường 7 gần 5 tấn nguyên liệu để trộn phân hữu cơ thực hiện trên diện tích 2ha. Trong gần 2 tháng qua, các hộ nông dân trồng ngò gai tích cực ứng dụng kỹ thuật ủ phân hữu cơ theo đúng quy trình, sản xuất thành công phân bón hữu cơ bón cho ngò gai, giúp cho loại rau màu này phát triển tốt. Việc ứng dụng mô hình ủ phân hữu cơ theo định hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp sẽ góp phần tăng giá trị trên một đơn vị diện tích canh tác, đồng thời tận dụng nguồn phụ phẩm nông nghiệp sẵn có tại địa phương như rơm rạ, tàn dư thực vật, phân chuồng… hạn chế ô nhiễm môi trường. Mô hình này rất thích hợp vào mùa khô, vì phân hữu cơ giữ được độ ẩm trong đất, giúp ngò gai phát triển tốt, tăng năng suất.
Theo Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ Sóc Trăng, các phụ, phế phẩm nông nghiệp ngoài việc được dùng sản xuất phân bón hữu cơ còn có thể sản xuất thức ăn cho gia cầm, gia súc. Vừa qua, đơn vị đã phối hợp với Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện Thạnh Trị hướng dẫn người dân triển khai mô hình sử dụng chế phẩm sinh học ủ chua thân cây bắp, cỏ làm thức ăn cho bò tại ấp Trà Do, xã Lâm Kiết. Sau 1 tháng thực nghiệm, thành phẩm thức ăn cho bò được tạo từ phụ phẩm nông nghiệp có lượng dinh dưỡng cao, kích thích đàn bò ăn khỏe, tiêu hóa tốt. Trong thời gian tới, mô hình này sẽ được nhân rộng tại địa phương, góp phần giúp cho người dân đa dạng nguồn thức ăn trong chăn nuôi, tiết kiệm được chi phí.
Có thể thấy, mô hình canh tác tạo ra sản phẩm sạch, an toàn đang là xu hướng phát triển mạnh trong nền nông nghiệp hữu cơ trong thời gian gần đây. Trong đó, nguồn phụ, phế phẩm nông nghiệp có tiềm năng lớn trong việc sản xuất phân bón hữu cơ, thức ăn trong chăn nuôi. Nếu biết tận dụng khai thác hợp lý không chỉ mang lại lợi ích cho nông dân, mà còn góp phần giảm thiểu rác thải sinh hoạt ra môi trường ở các vùng nông thôn, tạo cảnh quan xanh, sạch, đẹp.
Hướng đến sản xuất nông sản sạch, an toàn, bền vững, năm 2022, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Sóc Trăng đã triển khai thực hiện Đề án Phát triển nông nghiệp hữu cơ tỉnh Sóc Trăng, giai đoạn 2022 - 2025 và định hướng đến năm 2030. Theo đó, đề án được triển khai thực hiện tại 11 huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh với đối tượng sản xuất là cây trồng, vật nuôi và thủy sản tại các hợp tác xã, tổ hợp tác, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân sản xuất hữu cơ. Định hướng đến năm 2025 xây dựng 32 điểm mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ có chứng nhận đạt tiêu chuẩn hữu cơ trong nước hoặc quốc tế, diện tích đất sản xuất hữu cơ đạt khoảng trên 210ha; định hướng đến năm 2030 diện tích đất sản xuất hữu cơ đạt trên 400ha, trong đó, diện tích sản xuất hữu cơ được chứng nhận hữu cơ khoảng 370ha, giá trị sản phẩm trên 1ha đất trồng trọt hữu cơ có chứng nhận cao gấp 1,5 - 1,8 lần so với sản xuất phi hữu cơ, 100% sản phẩm sản xuất hữu cơ được quảng bá, bao tiêu… Mục đích của đề án còn nhằm góp phần thay đổi tư duy, nâng cao nhận thức của người dân về nông nghiệp hữu cơ, hướng đến nông nghiệp bền vững, thân thiện với môi trường, gắn với kinh tế nông nghiệp tuần hoàn, giúp nông dân tiếp cận, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế.
XUÂN THANH
Vĩnh Long: Thu hồi 16 mã số vùng trồng do hiệu quả thấp
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Năm 2023, ngành nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long đã phối hợp với các đơn vị có liên quan tiến hành kiểm tra, rà soát các mã số vùng trồng (MSVT) đã cấp trên địa bàn tỉnh và có báo cáo kết quả giám sát gửi Cục BVTV hủy mã số đối với vùng trồng đã chuyển sang cây trồng khác hoặc các mã số không còn hoạt động; thu hồi mã số đối với vùng trồng không tuân thủ các quy định của nước nhập khẩu về yêu cầu cấp MSVT.
Theo đó, năm 2023, đã thu hồi 16 MSVT, nguyên nhân do các MSVT này hiệu quả thấp, chuyển đổi cây trồng khác.
Cụ thể, thực hiện 6 đợt kiểm tra, giám sát định kỳ, đánh giá và tái cấp MSVT, kiểm tra giám sát đột xuất. Trong đó, kiểm tra giám sát định kỳ 27 MSVT khoai lang; 27 vùng trồng đã được cấp mã số. Kiểm tra việc duy trì mã số theo quy định nhằm giúp các vùng trồng nắm lại diện tích cũng như quy định về MSVT xuất khẩu.
Đồng thời, triển khai công tác liên hệ và trao đổi việc duy trì mã số của 16 vùng trồng thanh long; các vùng trồng thanh long đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng, một số vùng trồng không còn đủ diện tích để duy trì, xin hủy. Tăng cường công tác phối hợp với Trung tâm Kiểm dịch thực vật sau nhập khẩu II kiểm tra giám sát 4 cơ sở đóng gói và 16 vùng trồng các loại nông sản như khoai lang, mít, sầu riêng, nhãn, bưởi, chôm chôm.
Kết quả, đa số các vùng trồng và cơ sở đóng gói thực hiện hồ sơ lưu tại vùng trồng đầy đủ các quy định của một vùng trồng xuất khẩu, còn 1 cơ sở đóng gói sầu riêng chưa thực hiện tốt.
NGUYÊN KHANG
Nuôi gà bằng dược liệu: Hướng đi mới nhiều triển vọng
Nguồn tin: Báo Thái Nguyên
Với nguồn dược liệu sẵn có của gia đình, cộng với việc học hỏi kiến thức thông qua nhiều kênh khác nhau, một số hộ dân trên địa bàn tỉnh đã mạnh dạn đầu tư chăn nuôi gà bằng dược liệu. Qua đó bước đầu mang lại hiệu quả nhất định và xây dựng được mô hình chăn nuôi gà theo hướng an toàn.
Anh Nông Trọng Sơn, ở xóm Minh Tiến, xã Minh Lập (Đồng Hỷ) cho gà uống nước được đun từ các loại cây dược liệu.
Anh Nông Trọng Sơn, ở xóm Minh Tiến, xã Minh Lập (Đồng Hỷ, Thái Nguyên) không chỉ được nhiều người biết đến với việc sản xuất các sản phẩm từ cây dược liệu mà còn nổi tiếng với mô hình nuôi gà bằng dược liệu. Khi chúng tôi đến thăm, đàn gà của gia đình anh Sơn mới xuất bán và anh vừa vào lứa mới được hơn 1 tháng, với số lượng trên 1.000 con gà ri Lạc Thủy, để phục vụ thị trường dịp Tết Nguyên đán 2024.
Trong câu chuyện với anh Sơn, chúng tôi được biết: Trước đây khi làm nghề lái xe, anh có nghe một người bạn làm cùng nói về mô hình nuôi gà bằng dược liệu. Với mong muốn nuôi gà theo hướng an toàn, ngay sau đó anh Sơn đã tìm hiểu về mô hình này trên mạng intenet và có đến tham quan, học hỏi kỹ thuật tại một số mô hình ở ngoài tỉnh, được các hộ dân hướng dẫn tận tình. Khi đã có kiến thức, đầu năm 2023, anh quyết định chuyển từ mô hình nuôi gà công nghiệp sang nuôi gà bằng dược liệu.
Chia sẻ về kỹ thuật nuôi gà bằng dược liệu, anh Sơn cho biết: Yếu tố đầu tiên để phát triển mô hình này là phải có diện tích đất rộng để vừa có chỗ xây dựng chuồng trại, vừa có chỗ thả gà. Còn trong quá trình chăn nuôi thì khi gà dưới 1 tháng tuổi tôi vẫn cho ăn cám công nghiệp và uống vắc-xin phòng dịch như nuôi gà bình thường. Khi gà được trên 1 tháng tuổi thì sẽ không dùng cám công nghiệp và các loại thuốc thú y nữa, thay vào đó là dùng cám ngô, ngô nghiền nhỏ, ngô hạt được phối trộn theo một tỷ lệ nhất định với bột các loại cây dược liệu nghiền nhỏ (như: Sâm bố chính, xuyến chi, kim ngân, tỏi...).
Cây dược liệu được gia đình tôi tự trồng, còn ngô thì mua của các hộ trong và ngoài xã. Với việc sử dụng cây dược liệu, từ khi nuôi đến khi xuất bán gà, tôi không dùng bất cứ loại kháng sinh nào nữa.
Tương tự anh Sơn, tận dụng nguồn dược liệu có sẵn từ sản xuất cao dược liệu của gia đình, anh Nguyễn Quốc Hoàng, ở xóm Bài Kịnh, xã Yên Trạch (Phú Lương) cũng đầu tư chăn nuôi gà bằng dược liệu từ 3 năm nay. Hiện nay, anh Hoàng đang nuôi 1.000 con gà Mẫu Sơn và Tiên Yên. Anh cho biết: Khi sử dụng thức ăn được chế biến từ ngô, cám gạo có trộn lẫn với các loại cây dược liệu, gà rất khỏe mạnh, có khả năng chống chịu dịch bệnh và thời tiết khắc nghiệt cao. Sau 5 tháng chăn thả, gà có cân nặng trung bình từ 3kg/con trở lên và có thể được xuất bán, thịt gà chắc, da vàng, thơm ngon...
Để có đầu ra cho sản phẩm gà, ngoài việc bán cho những người quen biết, anh Sơn và anh Hoàng còn cung cấp cho các nhà hàng, quán ăn trong và ngoài tỉnh. Mặc dù thời gian chăn thả kéo dài hơn so với nuôi theo hướng công nghiệp từ 1,5 tháng trở lên nhưng giá bán gà luôn giữ ở mức 100.000-120.000 đồng/kg và không bị biến động theo giá thị trường. Với mức giá trên thì với 100 con gà được xuất bán, sau khi trừ chi phí còn có lãi khoảng 30 triệu đồng.
Mô hình nuôi gà bằng cây dược liệu của anh Sơn, anh Hoàng hiện nay chưa có nhiều trên địa bàn tỉnh và được coi là một trong những cách làm mới trong phát triển chăn nuôi. Mô hình này không chỉ mở ra hướng phát triển các sản phẩm an toàn trong chăn nuôi mà còn phù hợp với điều kiện của nhiều hộ dân, nhất là ở vùng miền núi, nơi có nguồn dược liệu và thức ăn chăn nuôi dồi dào.
Ông Nguyễn Văn Biểu, Chủ tịch UBND xã Yên Trạch, cho biết: Thời gian qua, việc chăn nuôi gà của người dân trong xã gặp không ít khó khăn do giá thức ăn, thuốc thú y tăng cao. Vì vậy, chúng tôi sẽ tuyên truyền, vận động bà con tích cực áp dụng mô hình chăn nuôi gà bằng cây dược liệu để giảm giá thành, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Vũ Công
Giải pháp xử lý nước thải cho hộ chăn nuôi heo quy mô nhỏ
Nguồn tin: Báo Bình Định
Ðề tài “Nghiên cứu, đề xuất giải pháp xử lý nước thải chăn nuôi heo quy mô nhỏ từ 50 - 100 con, chi phí thấp” đã và đang được triển khai thực hiện tại một số địa phương trong tỉnh Bình Định. Người chăn nuôi heo theo diện nông hộ tham gia đề tài được hướng dẫn, hỗ trợ các biện pháp xử lý nước thải tiên tiến, bước đầu đạt hiệu quả trong giảm mùi hôi, góp phần bảo vệ môi trường.
Từ tháng 12.2022 đến nay, Trường ĐH Văn Lang phối hợp với các sở, ngành liên quan và chính quyền một số địa phương trong tỉnh thực hiện đề tài “Nghiên cứu, đề xuất giải pháp xử lý nước thải chăn nuôi heo quy mô nhỏ từ 50 - 100 con, chi phí thấp”. Nhóm thực hiện đề tài tập trung đánh giá thực trạng chăn nuôi heo trên địa bàn tỉnh thông qua khảo sát, điều tra thông tin về hoạt động chăn nuôi, các phương án xử lý chất thải chăn nuôi…
Hệ thống máy bơm lọc sinh học, bơm hồ thu, máy thổi khí liên tục vận hành để xử lý nước và chất thải chăn nuôi heo; giúp giảm tối đa mùi hôi và nước thải xả ra môi trường đảm bảo tiêu chuẩn cho phép. Ảnh: V.L
Qua đó, nhóm thực hiện đề tài phân tích và đánh giá chất lượng môi trường xung quanh tại các hộ chăn nuôi heo quy mô nhỏ trên địa bàn tỉnh. Đề xuất giải pháp giảm thiểu nồng độ các chất ô nhiễm trong nước thải chăn nuôi heo. Ngoài ra, lựa chọn một số hộ chăn nuôi heo quy mô nhỏ thực hiện thí điểm các mô hình xử lý nước thải, như: Xử lý bằng phương pháp sinh học đơn giản (bằng hầm biogas kết hợp phương pháp lắng); xử lý bằng công nghệ sinh học (kỵ khí, hiếu khí) kết hợp ủ phân hữu cơ (compost); xử lý bằng công nghệ wetland và bằng công nghệ lọc sinh học tuần hoàn.
Theo TS Nguyễn Thúy Lan Chi (Trường ĐH Văn Lang), Chủ nhiệm đề tài, chuồng trại chăn nuôi ở nông hộ với quy mô nhỏ từ 50 - 100 con chủ yếu là loại chuồng đơn giản, chưa được đầu tư đúng mức, gây khó khăn cho công tác vệ sinh, xử lý chất thải. Mặt khác, tỷ lệ cơ sở chăn nuôi có khu xử lý chất thải còn thấp, với phương thức xử lý thô sơ, chủ yếu là ủ phân tươi và phân lỏng xử lý bằng hầm biogas. Những thông số ô nhiễm sau các công đoạn xử lý có giảm, nhưng vẫn cao hơn so với tiêu chuẩn xả thải; ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường xung quanh.
Trước thực trạng này, đề tài “Nghiên cứu, đề xuất giải pháp xử lý nước thải chăn nuôi heo quy mô nhỏ từ 50 - 100 con, chi phí thấp” được xây dựng nhằm giúp các hộ chăn nuôi heo nắm được biện pháp kiểm soát ô nhiễm trong quá trình chăn nuôi; đảm bảo chất thải được kiểm soát và giảm thiểu tại nguồn, mang lại lợi ích kinh tế cho gia đình.
Gia đình ông Nguyễn Văn Bình, ở đội 9, thôn Phú Thuận, xã Ân Đức (huyện Hoài Ân), thường xuyên nuôi từ 100 - 150 con heo gồm heo nái và heo thịt, được chọn thí điểm xây dựng mô hình xử lý nước thải chăn nuôi bằng phương pháp sinh học đơn giản. Phương pháp này thực hiện việc tách cặn chất thải thông qua hệ thống bể lắng kết với hầm biogas. Ngoài ra, nước và chất thải còn được xử lý qua hệ thống máy bơm lọc sinh học, bơm hồ thu, máy thổi khí. Chất thải sau khi tách nước được ủ làm phân vi sinh để bón cho cây trồng rất hiệu quả. Ông Bình cho biết: “Áp dụng mô hình này, mùi hôi phát sinh từ quá trình chăn nuôi heo gần như không còn; nước thải sau khi xử lý cũng không còn ô nhiễm như trước kia. Gần 1 năm nay, hàng xóm ở gần nhà tôi không còn phàn nàn về mùi hôi nữa”.
Còn hộ ông Nguyễn Văn Kỳ (thôn Phú Thuận, xã Ân Đức) được chọn thí điểm xây dựng mô hình xử lý nước thải chăn nuôi heo bằng công nghệ wetland. Mô hình này tương tự như mô hình xử lý bằng phương pháp sinh học đơn giản. Chỉ khác ở việc nước thải sau khi qua các công đoạn xử lý được cho vào hệ thống bạt ny lông để trồng cây thủy canh như môn, bèo, rau muống… làm thức ăn bổ sung cho heo.
Từ đầu năm 2023 đến nay, sau khi áp dụng mô hình xử lý nước thải mới này, dù trong chuồng của gia đình ông Kỳ lúc nào cũng hơn 100 con heo, nhưng không hề phát sinh mùi hôi. Nếu không vào bên trong vườn nhà ông Kỳ và nhìn thấy chuồng thì rất khó biết gia đình ông có chăn nuôi heo.
TS Nguyễn Việt Cường, Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ môi trường (Sở TN&MT), nhìn nhận: Các biện pháp có tính khả thi cao, được ưu tiên áp dụng tại các hộ chăn nuôi heo quy mô nhỏ từ 50 - 100 con là tách phân khô; thay thế máng ăn; vòi uống; dùng vòi phun nước áp lực cao để rửa chuồng; tách riêng nước tắm giải nhiệt, nước rửa khu vực khử trùng không lẫn chất thải. Các giải pháp này thật sự cần thiết và mang lại lợi ích lớn không chỉ cho hộ dân, môi trường xung quanh mà còn vì sức khỏe cộng đồng. Bởi mùi hôi giảm gần như tối đa và lượng nước thải sau khi xử lý xả ra môi trường đảm bảo tiêu chuẩn cho phép, không gây ô nhiễm môi trường.
VĂN LỰC
Nuôi bò sữa, mô hình xóa nghèo bền vững ở vùng đồng bào Khmer
Nguồn tin: Báo Sóc Trăng
Nuôi bò sữa đã đem lại nguồn thu nhập bền vững cho hộ dân tại nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, đặc biệt là đối với đồng bào Khmer. Nhờ nuôi bò sữa mà nhiều hộ thoát nghèo, vươn lên có đời sống ấm no, sung túc.
Chúng tôi ghé thăm gia đình ông Lý Song, ấp Bố Liên 2, xã Thuận Hưng, huyện Mỹ Tú (Sóc Trăng) đúng lúc ông đang cho đàn bò sữa ăn. Ông Lý Song phấn khởi chia sẻ: "Con bò sữa đã giúp gia đình tôi thoát nghèo và có nguồn thu nhập ổn định trong nhiều năm qua. Trước đây, tôi đi làm thuê, thu nhập bấp bênh. Năm 2014, tôi được Dự án Heifer hỗ trợ 2 con bò sữa. Từ 2 con bò sữa ban đầu, tôi nuôi dưỡng và tiến hành nhân số lượng đàn bò lấy sữa tăng lên theo từng năm. Ngoài ra, tôi còn được Ban Quản lý Dự án Phát triển chăn nuôi bò sữa tỉnh Sóc Trăng hỗ trợ tiền xây dựng chuồng. Hiện tại, nhà tôi nuôi 15 con, có 5 con đang lấy sữa, còn lại là bò hậu bị và bê. Mỗi ngày, gia đình tôi thu được 50kg sữa tươi, giá sữa 13.500 đồng/kg, trừ chi phí lợi nhuận hơn 400.000 đồng. So với làm ruộng hay chăn nuôi các vật nuôi khác thì nuôi bò sữa nhàn hơn và thu nhập cũng rất ổn".
Ông Lý Song, ấp Bố Liên 2, xã Thuận Hưng, huyện Mỹ Tú (Sóc Trăng) bên đàn bò sữa đã được ông nuôi hơn chục năm qua. Ảnh: THÚY LIỄU
Để chủ động nguồn thức ăn cho đàn bò sữa, ông Lý Song đã chuyển đổi đất canh tác lúa của gia đình và thuê thêm đất trồng cỏ, với diện tích 8.000m2. Ngoài ra, trong các tháng mùa khô, ông Song còn dự trữ thêm rơm khô nhằm đảm bảo cung cấp đầy đủ lượng thức ăn hằng ngày cho bò, giúp bò cho sản lượng sữa cao, đạt chất lượng, giá bán tốt. Từ nguồn tiền bán sữa bò, ông có vốn kinh doanh mua bán, lo cho con cái học hành.
“Hơn 10 năm gắn bó cùng con bò sữa, đời sống của gia đình tôi khá hơn. Lúc đầu, tôi chỉ nuôi 4 con, sau đó được Ban Quản lý Dự án Phát triển chăn nuôi bò sữa tỉnh Sóc Trăng cho vay 75 triệu đồng để mua thêm 2 con bò sữa và làm chuồng. Hiện tôi nuôi 20 con, trong đó 10 con đang cho sữa, số còn lại là bò đang chửa, bò hậu bị. Với 10 con bò sữa, hằng ngày tôi thu về 170 - 180kg sữa, giá bán sữa tươi 15.500 đồng/kg, sau khi trừ chi phí còn lợi nhuận hơn 10 triệu đồng/tuần. Tôi thấy bò sữa nuôi dễ, nhẹ công chăm sóc. Ngoài việc cho bò ăn đầy đủ cần bổ sung các loại vitamin cần thiết giúp bò có sức đề kháng tốt, cho sữa nhiều đạt chất lượng, và bán được giá tốt. Để chủ động thức ăn cho bò, tôi dành hẳn 2ha đất lúa chuyển sang trồng cỏ để đàn bò có đủ thức ăn, sinh trưởng tốt, cho sữa nhiều. Sắp tới, tôi sẽ mở rộng thêm chuồng trại chăn nuôi, cũng như phát triển đàn bò lên 30 - 40 con”, ông Sơn Đức, ấp Tâm Lộc, xã Đại Tâm, huyện Mỹ Xuyên cho biết.
Tại xã Tham Đôn, huyện Mỹ Xuyên, nhiều hộ đồng bào Khmer ăn nên làm ra nhờ nuôi bò sữa. Đồng chí Chung Ngọc Long - Phó Chủ tịch UBND xã Tham Đôn thông tin: “Mô hình nuôi bò sữa phát triển tại xã từ những năm 1998. Lúc bấy giờ, hầu hết hộ nuôi bò sữa có đời sống khó khăn. Từ các chương trình, dự án hỗ trợ về con giống, thức ăn, chuồng trại chăn nuôi, tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật… hộ dân đã nắm bắt cách chăm sóc bò nuôi tại hộ nên bò phát triển rất tốt, đặc biệt là cho sữa đạt chất lượng cao, được công ty thu mua giá tốt, sữa tươi có giá bán từ 14.000 - 16.000 đồng/kg. Theo thống kê, số lượng đàn bò sữa trên địa bàn xã hơn 800 con. Có nhiều hộ thoát nghèo, đời sống gia đình khấm khá từ việc chăn nuôi bò sữa”.
Đồng chí Đào Văn Bảy - Phó Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y Sóc Trăng thông tin, nuôi bò sữa mang lại nguồn thu nhập ổn định cho nhiều nông hộ. Để đạt được hiệu quả tốt từ việc nuôi bò sữa, hộ nuôi nên cơ cấu đàn bò phù hợp với tình hình thực tế khi giá các loại thức ăn tăng, nhằm đảm bảo lợi nhuận tốt khi nuôi bò. Đặc biệt là cần quan tâm đến chất lượng con giống, phải lựa chọn giống bò có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Đối với chuồng trại chăn nuôi, bò sữa có nguồn gốc từ xứ lạnh, trong khi điều kiện khí hậu của tỉnh ta là nóng và ẩm; do đó, cần tạo khí hậu chuồng nuôi phù hợp, bằng cách sử dụng tấm cách nhiệt ở mái chuồng, sử dụng quạt, tốt nhất là có hệ thống phun sương. Cùng với đó, để bò cho sản lượng sữa tốt, cần cung cấp đầy đủ lượng nước uống sạch cho bò mỗi ngày và bổ sung đầy đủ các chất dinh dưỡng, phần ăn phù hợp cho bò theo từng giai đoạn khai thác…
THÚY LIỄU
Hiếu Giang tổng hợp