Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 24 tháng 4 năm 2025

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 24 tháng 4 năm 2025

 

Nâng tầm ngành nông nghiệp

Sau hơn 28 năm xây dựng và phát triển, nhờ khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế, nền kinh tế Bình Dương đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực. Trong những thành tựu đó, ngành nông nghiệp của tỉnh có nhiều dấu ấn tốt đẹp, hình thành nhiều khu nông nghiệp công nghệ cao, những vùng chuyên canh cây có múi, chăn nuôi công nghiệp tập trung quy mô lớn..., góp phần xây dựng Bình Dương trở thành tỉnh có nền công nghiệp, nông nghiệp hiện đại.

Lãnh đạo tỉnh Bình Dương khảo sát thực tế ở Hợp tác xã Nông nghiệp công nghệ cao Kim Long (huyện Phú Giáo)

Chuyển mạnh sang công nghệ cao

Mặc dù Bình Dương được biết đến là tỉnh công nghiệp, nông nghiệp hiện chỉ chiếm chưa đến 3% trong cơ cấu kinh tế nhưng giá trị đóng góp của ngành nông nghiệp mỗi năm khá lớn, 16.000 - 18.000 tỷ đồng, góp phần ổn định đời sống của người dân nông thôn. Có được kết quả này là nhờ tỉnh tập trung chỉ đạo triển khai nhiều giải pháp khắc phục khó khăn, chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang những cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao (CNC) trong sản xuất nông nghiệp; hình thành những vùng chuyên canh sản xuất sạch với những cây trồng có hiệu quả kinh tế… Cùng với đó, ngành nông nghiệp, các doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại, hộ nông dân năng động, sáng tạo, mạnh dạn thực hiện các mô hình nông nghiệp CNC phù hợp, thân thiện với môi trường…

Năm 1997 (năm tỉnh Sông Bé tách ra thành 2 tỉnh Bình Dương và Bình Phước), giá trị sản xuất nông nghiệp của Bình Dương đạt 935 tỷ đồng; giai đoạn 1997 - 2001 giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 7,6%/năm. Năm 2001, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 1.254 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 16,7% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Năm 2024, ngành nông nghiệp tuy chỉ chiếm gần 3% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh nhưng giá trị sản xuất tăng gấp 14,2 lần so với năm 1997.

Trong giai đoạn 2017- 2020, Bình Dương đã thực hiện cơ cấu lại ngành trồng trọt theo hướng phát triển các mô hình nông nghiệp đô thị, nông nghiệp ứng dụng CNC; phát triển các vùng chuyên canh cây cao su, cây ăn quả đặc sản, rau an toàn, gắn với chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị; ứng dụng các giống năng suất và chất lượng cao, chống chịu sâu bệnh cho các đối tượng cây trồng chủ lực như cao su, hồ tiêu, cam, quýt, bưởi da xanh, bưởi đường lá cam, măng cụt, rau, hoa... Đến nay, tổng diện tích gieo trồng ứng dụng CNC trong trồng trọt trên địa bàn tỉnh khoảng 8.418 ha; diện tích nông nghiệp đô thị khoảng 1.225,2 ha; khoảng 600 ha sản xuất trồng trọt theo hướng hữu cơ, trong đó có 171,5 ha/2 cơ sở đã được chứng nhận nông nghiệp hữu cơ.

Theo đánh giá của ngành nông nghiệp, việc ứng dụng CNC trong sản xuất các loại cây trồng có giá trị như dưa lưới, cây có múi, chuối được các tổ chức, cá nhân mạnh dạn đầu tư thâm canh, thiết kế hệ thống tưới phun tự động, nhỏ giọt, trồng cây theo phương pháp thủy canh, áp dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP đã đem lại năng suất, chất lượng sản phẩm cao. Đến nay, toàn tỉnh có gần 100 cơ sở sản xuất được cấp chứng nhận sản xuất theo quy trình VietGAP trong lĩnh vực trồng trọt với tổng diện tích khoảng 600 ha. Giá trị bình quân sản xuất nông nghiệp đạt hơn 100 triệu đồng/ha/năm; một số mô hình trồng bưởi ứng dụng công nghệ cao có thu nhập bình quân trên 1 tỷ đồng/ha.

Trong khi đó, lĩnh vực chăn nuôi cũng tăng trưởng ổn định theo hướng tập trung, quy mô lớn. Hiện nay, tổng số trang trại nông nghiệp của tỉnh đứng thứ 2 Đông Nam bộ và thứ 5 cả nước. Tỷ lệ chăn nuôi trang trại chiếm trên 90% tổng đàn gia súc, gia cầm toàn tỉnh. Bình Dương là địa phương đạt kết quả cao trong xây dựng vùng an toàn dịch bệnh động vật để hướng tới mục tiêu xuất khẩu.

Sản phẩm của Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao An Thái (Unifarm) đạt chất lượng cao, có mặt nhiều trên thị trường trong nước và quốc tế. Trong ảnh: Sơ chế, đóng gói chuối tại Unifarm

Tạo động lực bứt phá

Theo ông Phạm Văn Bông, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường, trong cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, Bình Dương rất chú trọng Chương trình «Mỗi xã một sản phẩm» (OCOP). Thông qua công tác tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa của OCOP; tổ chức đào tạo, tập huấn, bổ sung kiến thức cho các chủ thể OCOP về kỹ năng, năng lực quản trị doanh nghiệp, hợp tác xã, quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm, sở hữu trí tuệ, phát triển kinh tế xanh đã góp phần thúc đẩy các sản phẩm OCOP phát triển nhanh. Đến nay, toàn tỉnh có 219 sản phẩm OCOP 3, 4 sao, góp phần lan tỏa các mô hình sản xuất hiệu quả và giúp nông thôn có cuộc sống ổn định hơn.

Bước sang giai đoạn mới, ngành nông nghiệp Bình Dương xác định tiếp tục phát huy nền tảng đã có, vận dụng sáng tạo hơn nữa Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, gắn với định hướng mới của Đề án thành phố thông minh - vùng đổi mới sáng tạo Bình Dương mà Nghị Quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã đề ra. Trên cơ sở này, ngành nông nghiệp tỉnh tập trung khai thác và tận dụng tốt nhất lợi thế sẵn có, phát triển các mặt hàng nông sản có thế mạnh cạnh tranh; phát triển các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất giữa nông dân với nông dân và giữa nông dân với doanh nghiệp, hình thành các khu nông nghiệp công nghệ cao, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ. Ngành cũng xây dựng môi trường thuận lợi thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp; chuyển dịch cơ cấu lao động và kinh tế nông thôn.

Trong thời gian tới, ngành nông nghiệp Bình Dương đặt mục tiêu bứt phá trong chuyển đổi từ mô hình sản xuất nhỏ lẻ, gia công sang sản xuất chuyên nghiệp, ứng dụng CNC. Bình Dương tiếp tục phát huy tiềm lực, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong nông nghiệp… Những định hướng này nhằm đưa ngành nông nghiệp Bình Dương lên một tầm cao mới, góp phần vào sự phát triển bền vững của tỉnh và cả nước.

Ông Phạm Văn Bông, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường: Để thích ứng tốt với biến đổi khí hậu, biến động thị trường và biến chuyển xu thế tiêu dùng, mục tiêu của ngành nông nghiệp là tạo ra giá trị nhiều hơn từ việc sử dụng ít đầu vào hơn, ít sức lao động hơn và tạo ra giá trị cao bằng cách tận dụng thành tựu khoa học - công nghệ, hướng đến sự phát triển bền vững từ góc độ kỹ thuật đến tổ chức sản xuất. Thực hiện mục tiêu này, Bình Dương đã ban hành các đề án, kế hoạch hướng đến phát triển nông nghiệp sinh thái, kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp. Cùng với đó, nhiều đề án, kế hoạch phát triển nông nghiệp hữu cơ, cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển du lịch nông nghiệp, tăng cường liên kết chuỗi, sản phẩm OCOP gắn với xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu bền vững.

THOẠI PHƯƠNG - THANH TUYỀN

 

Từng bước khẳng định vị thế đầu tàu kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long

Địa bàn tỉnh Hậu Giang từng là vùng sâu vùng xa và là căn cứ cách mạng những năm tháng chiến tranh. Chia tách từ tỉnh Cần Thơ, Hậu Giang được thành lập năm 2004 với bao khó khăn. Tuy nhiên, từ một địa phương nông nghiệp truyền thống, Hậu Giang đang từng bước khẳng định vị thế là một trong những đầu tàu tăng trưởng kinh tế của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

Hậu Giang đang từng bước khẳng định vị thế là một trong những đầu tàu tăng trưởng kinh tế của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: baochinhphu.vn

Quý I năm 2025, Hậu Giang ghi dấu bước ngoặt quan trọng trong hành trình phát triển kinh tế của tỉnh, với tăng trưởng kinh tế lên đến 9,57%. Đây là mức tăng trưởng cao nhất toàn khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và xếp thứ 13 trong cả nước. Có được điều này, đó chính là tư duy lãnh đạo quyết liệt, khoa học và sát thực tiễn của cấp ủy, chính quyền địa phương cũng như sự linh hoạt trong điều hành và quyết tâm giữ vững ổn định sản xuất, cải thiện môi trường đầu tư, đồng thời đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án trọng điểm. Tỉnh cũng chú trọng thu hút doanh nghiệp, thúc đẩy công nghiệp, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, từng bước hình thành chuỗi liên kết bền vững suốt nhiều năm qua.

Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang Trần Văn Huyến nhiều lần gần đây luôn chỉ đạo các đơn vị, các ngành, các cấp rằng, đây là thời điểm mà tất cả cán bộ cần nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm, quyết tâm thực hiện tất cả nhiệm vụ đạt và vượt kế hoạch đề ra. Như đối với giải ngân vốn đầu tư công, mặc dù kế hoạch tỉnh đề ra trong năm 2025 là từ 95% nhưng Hậu Giang quyết tâm giải ngân vốn đầu tư công trong năm nay tiệm cận đạt 100%.

Cùng với bứt phá về kinh tế, Hậu Giang còn tạo dấu ấn mạnh mẽ trong cải cách hành chính để thu hút đầu tư, nâng cao chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hậu Giang Nguyễn Tuấn Anh cho biết, trong năm qua, chỉ số cải cách hành chính cấp tỉnh (PAR INDEX) của Hậu Giang đã tăng 1 bậc, xếp thứ 18/63 tỉnh, thành phố. Đặc biệt, chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công (PAPI) đã tăng vượt bậc 20 bậc, vươn lên xếp thứ 23/63. Đáng chú ý, chỉ số thành phần về thủ tục hành chính công của Hậu Giang đứng đầu cả nước, khẳng định rõ ràng quyết tâm của tỉnh cải cách vì dân, lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo.

Cả hệ thống chính trị tỉnh đã đồng bộ triển khai nhiều giải pháp như số hóa dịch vụ công, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục, ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác điều hành, hướng đến xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số hiện đại.

Theo ông Nguyễn Tuấn Anh, Hậu Giang đang là một trong địa phương đi đầu thực hiện chủ trương của Trung ương về sắp xếp, sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã. Đây là nhiệm vụ có tính chính trị cao, tác động đến tổ chức bộ máy và cả tâm tư của cán bộ, người dân. Tuy nhiên, với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, sự đồng thuận từ cơ sở và cách làm linh hoạt, Hậu Giang đã triển khai một cách khẩn trương, trách nhiệm và đúng tiến độ. Dịp này không chỉ là việc tổ chức lại bộ máy, việc sáp nhập còn được tỉnh xem như cơ hội để tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương, đồng thời tái phân bổ nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa bàn.

Cùng với đó là sự đóng góp bền bỉ, trách nhiệm và sáng tạo của đội ngũ cán bộ công đoàn, đoàn viên và người lao động. Trên các công trình trọng điểm, trong các khu công nghiệp, nhà máy, cánh đồng... hình ảnh người lao động cần mẫn, nhiệt huyết chính là minh chứng rõ ràng nhất cho sức sống mới của tỉnh. Những sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong sản xuất, tinh thần làm việc kỷ luật, đoàn kết của lực lượng lao động chính là nền tảng vững chắc để Hậu Giang vươn lên mạnh mẽ.

Từ năm 2004 đến nay, GRDP của tỉnh tăng hơn 10 lần, với mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011–2020 đạt 6,3%. Thu ngân sách nội địa tăng bình quân 1.000 tỷ đồng/năm, khu vực công nghiệp tăng trưởng mạnh mẽ, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh.

Hệ thống giao thông của tỉnh đến nay đã được đầu tư mạnh mẽ, đặc biệt là các tuyến cao tốc như Cần Thơ – Cà Mau và Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng, kết nối thuận lợi với các tỉnh trong khu vực. Cùng với đó là hệ thống đô thị phát triển nhanh chóng về số lượng và chất lượng, với diện mạo khang trang hơn tại các huyện, thị, thành phố.

Tỷ lệ hộ nghèo của Hậu Giang đã giảm mạnh từ 23,55% năm 2004 xuống còn chưa đến 1,5% năm 2024. Tỉnh đã xây dựng hàng ngàn căn nhà “Đại đoàn kết” cho người có công, hộ nghèo, hộ cận nghèo khó khăn về nhà ở, cũng như hoàn thành cơ bản xóa nhà tạm nhà dột nát trên địa bàn. Đến nay, trên địa bàn toàn tỉnh, 100% trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt gần 95%; gần 85% trường học đạt chuẩn Quốc gia.

Từ một tỉnh còn nhiều khó khăn sau khi chia tách địa giới hành chính, đến nay, Hậu Giang đã thực sự chuyển mình. Sự tăng tốc về kinh tế, sự cải thiện vượt bậc trong quản trị công, cùng tinh thần cải cách không ngừng nghỉ đang đưa Hậu Giang đến gần hơn với mục tiêu trở thành địa phương phát triển khá của vùng vào năm 2030.

Sông Hậu (TTXVN)

 

Để cánh đồng lớn không... bé dần

Mô hình cánh đồng lớn từng được kỳ vọng là 'chìa khóa' để phát triển nền nông nghiệp hàng hóa hiện đại, quy mô lớn tại Việt Nam. Tuy nhiên, sau hơn một thập kỷ triển khai, mô hình này vẫn chưa phát huy hết tiềm năng do còn nhiều nút thắt cần tháo gỡ, đặc biệt là vai trò và năng lực của các HTX trong chuỗi giá trị.

Theo tổng hợp từ các địa phương, nếu như năm 2011 có hơn 7.800ha cánh đồng lớn (CĐL) và tăng dần đến 2016 là 579.300ha, thì đến năm 2018 giảm còn 380.000ha, năm 2020 tiếp tục giảm còn 271.000ha và từ 2021 đến nay ước giảm chỉ còn hơn 100.000ha.

Nhiều kỳ vọng nhưng chưa bền vững

Những con số này cho thấy, những CĐL ở Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển, thậm chí dần bị thu hẹp. Trong khi, mô hình CĐL hướng đến tổ chức sản xuất quy mô lớn, áp dụng đồng bộ kỹ thuật, liên kết chặt chẽ giữa "4 nhà": nông dân, HTX, doanh nghiệp và Nhà nước. Dù được triển khai tại nhiều tỉnh thành, đặc biệt là ở Đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa lớn nhất cả nước, nhưng mô hình này còn thiếu bền vững.

Một trong những nguyên nhân chính là liên kết giữa nông dân, doanh nghiệp và HTX còn lỏng lẻo. Hợp đồng liên kết dễ bị phá vỡ khi giá thị trường biến động. Nông dân vẫn giữ tập quán sản xuất nhỏ lẻ, khó đồng bộ về giống, kỹ thuật, lịch thời vụ. Trong khi đó, doanh nghiệp thường gặp rủi ro khi không thu mua được đủ nguyên liệu đúng chuẩn chất lượng.

Ông Trần Văn Lô Ba, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX nông nghiệp Phú Thạnh (An Giang), cho biết một trong những mục tiêu quan trọng của CĐL là đảm bảo đầu ra ổn định cho sản phẩm. Vậy nhưng HTX vẫn gặp khó khăn trong việc tìm kiếm và duy trì các hợp đồng tiêu thụ dài hạn, ổn định với doanh nghiệp. Đi liền với đó, giá cả thường biến động theo thị trường, gây rủi ro cho cả HTX và nông dân.

Phát triển CĐL tạo thuận lợi cho cơ giới hóa đồng bộ.

Bên cạnh đó, các HTX đóng vai trò then chốt trong mô hình CĐL - là cầu nối tổ chức sản xuất, chuyển giao kỹ thuật, tiếp nhận đơn hàng từ doanh nghiệp và phân phối lại cho nông dân. Tuy nhiên, phần lớn HTX hiện nay hoạt động còn chưa đủ mạnh về năng lực tài chính lẫn tổ chức.

Nhiều HTX không đủ vốn đầu tư máy móc, hạ tầng; cán bộ quản lý HTX phần lớn chưa qua đào tạo bài bản về quản trị kinh tế nông nghiệp; thiếu nhân lực trẻ có chuyên môn. Mặt khác, cơ chế hỗ trợ HTX chưa thực sự hiệu quả, chưa tạo động lực thu hút nông dân tham gia lâu dài.

HTX Bình Thành (An Giang) đã mạnh dạn đầu tư cơ giới hóa đồng bộ, ứng dụng hệ thống tưới tiêu thông minh, sử dụng giống lúa chất lượng cao và tổ chức sản xuất theo tiêu chuẩn. Nhờ đó, HTX đã liên kết ổn định với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo.

Tuy nhiên, ngay cả một HTX được xem là điển hình như Bình Thành cũng chia sẻ rằng việc tiếp cận vốn vay ngân hàng để mở rộng vùng nguyên liệu hay đầu tư thêm máy móc vẫn còn rất khó khăn, do chưa có tài sản thế chấp hoặc thiếu cơ chế bảo lãnh tín dụng.

Hướng đi nào cho tương lai?

Việc phát triển CĐL là xu thế tất yếu nếu Việt Nam muốn nâng cao giá trị gia tăng, xây dựng thương hiệu lúa gạo quốc gia và hướng đến xuất khẩu bền vững.

Theo một chuyên gia nông nghiệp, những nước sản xuất nông nghiệp thành công, hiệu quả trên thế giới hiện nay đều chú trọng phát triển những CĐL, thậm chí là những cánh đồng rất lớn để thuận lợi trong đồng bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất, chất lượng.

Như ở Mỹ, để đầu tư cho ngành chăn nuôi, nước này đã phát triển những cánh đồng ngũ cốc, đậu tương quy mô lớn từ vài trăm ha đến hàng nghìn ha trở lên ở các vùng như Trung Tây và Tây nước Mỹ. Hiện, những trang trại quy mô gia đình ở Mỹ thường có diện tích từ 180-200ha; những trang trại lớn có diện tích trung bình 575 - 810ha.

Còn tại Úc, các trang trại trồng lúa mì, lúa mạch, cải dầu và chăn thả gia súc (bò thịt, cừu) thường rộng hàng nghìn hoặc thậm chí hàng chục nghìn ha. Ở những vùng xa xôi hơn, đặc biệt là ở Tây Úc và lãnh thổ phía Bắc, các trang trại (trang trại lớn) nhiều khi vượt quá 100.000 ha.

Theo vị chuyên gia này, nhiều quốc gia như Mỹ, Canada, Úc, Brazil có diện tích đất nông nghiệp rộng lớn, bằng phẳng và ít bị chia cắt bởi địa hình phức tạp như ở Việt Nam nên thuận lợi phát triển những CĐL hơn so với Việt Nam. Ngoài ra, các nước thường rất phát triển về khoa học, công nghệ, cơ giới hóa nên thúc đẩy phát triển những CĐL để tối ưu chi phí.

Một điều nữa đó là các chính sách liên quan đến phát triển CĐL ở các nước rất rõ ràng, thuận lợi, không giống như Việt Nam hiện nay. Các nước thường có quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp rõ ràng, tạo điều kiện cho người dân, HTX tích tụ đất đai và phát triển các vùng chuyên canh quy mô lớn. Nông dân và các tổ chức sản xuất nông nghiệp quy mô lớn thường được tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi, các chương trình trợ cấp, bảo hiểm nông nghiệp từ chính phủ.

Trong khi ở Việt Nam, vấn đề bảo hiểm nông nghiệp, tập trung đất đai dường như vẫn rất khó triển khai trong thực tiễn. Ông Trần Văn Phúc, Giám đốc HTX Minh Tâm (Tuyên Quang), cho biết HTX phải mất rất nhiều thời gian họp bàn, vận động từng thành viên, thậm chí phải thuê lại đất của một số thành viên không muốn tham gia, nhưng vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong mở rộng diện tích liền bờ, liền thửa. Điều này đồng nghĩa với việc HTX khó có thể đưa cơ giới hóa vào sản xuất, khó nâng cao năng suất, chất lượng nông sản và tăng lợi nhuận cho thành viên, người lao động.

Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NN&MT) cho biết các HTX ngày càng đóng vai trò trung tâm trong xây dựng vùng nguyên liệu, tổ chức sản xuất nông nghiệp theo tiêu chuẩn. Tổ chức sản xuất quy mô lớn, có liên kết và kiểm soát đồng bộ là điều kiện tiên quyết để đáp ứng yêu cầu của thị trường. Đây cũng là yêu cầu được đặt ra trong Luật HTX năm 2023, với định hướng HTX là đơn vị tổ chức sản xuất theo chuỗi, nâng cao giá trị và năng lực cạnh tranh cho sản phẩm.

Do đó, để mô hình CĐL phát huy hiệu quả, cần xem HTX là tổ chức kinh tế thực thụ, được hỗ trợ toàn diện như doanh nghiệp, có vai trò điều phối và chịu trách nhiệm rõ ràng trong chuỗi liên kết. Bài toán về tích tụ ruộng đất, cơ chế chính sách linh hoạt, đầu tư hạ tầng đồng bộ và nâng cao năng lực con người là những yếu tố then chốt để tháo gỡ các "nút thắt" đang cản bước mô hình CĐL tại Việt Nam.

Huyền Trang

 

Từ cây cà phê độc canh đến đa dạng nông sản (Bài 1): Bước ngoặt của nông dân, HTX ở Ea Tu

LTS: Trong nhiều năm qua, huyện Krông Pắc (Đắk Lắk) nổi tiếng là vùng đất của cây cà phê. Tuy nhiên, sự phụ thuộc vào một loại cây trồng duy nhất đã khiến người nông dân nơi đây đối mặt với nhiều rủi ro từ biến động thị trường, dịch bệnh và những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Nhận thức được điều này, các HTX nông nghiệp trên địa bàn đã tiên phong thực hiện cuộc chuyển đổi cây trồng mạnh mẽ, mang lại những 'trái ngọt' không chỉ về kinh tế mà còn góp phần giải quyết việc làm, nâng cao đời sống cho hàng trăm hộ nông dân.

Trong ký ức của nhiều người dân Krông Pắc, những triền đồi phủ một màu xanh bạt ngàn của cây cà phê đã trở thành biểu tượng. Cây cà phê từng là niềm tự hào, là nguồn sống chính, mang lại sự no ấm cho bao gia đình. Tuy nhiên, sự lệ thuộc quá lớn vào một loại cây trồng duy nhất cũng đặt người nông dân nơi đây vào thế khó, phải đối mặt với những rủi ro khó lường từ biến động giá cả thị trường, dịch bệnh và những hệ lụy của biến đổi khí hậu.

Những thay đổi rõ rệt

Cả đời gắn bó với nghề trồng cà phê ở xã Ea Tu (TP.Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk) và là thành viên của HTX nông nghiệp dịch vụ công bằng Eatu, ông Y Drin Niê bảo chưa bao giờ ông tưởng tượng được trồng cây ăn trái lại có thể thắng lớn như thời gian vừa qua. Đã qua tuổi lục tuần nên ông chỉ giữ lại khoảng 1 ha để tự sản xuất, còn phần lớn diện tích canh tác ông bàn giao cho các con. Trên diện tích không quá lớn, được sự hỗ trợ của HTX và chính quyền địa phương, ông mạnh dạn thực hiện chiến lược đa dạng cây trồng với cà phê, hồ tiêu, và sầu riêng.

Cây cà phê được xem là cây trồng chủ lực, mang lại nguồn thu lớn cho nông dân ở Đắk Lắk. Ảnh BĐL

Năm vừa qua, gia đình ông thắng lớn với vụ sầu riêng, bán được giá, thu nhập tăng, cuộc sống ngày một khấm khá. Ông bảo đó là thành quả của sự quyết tâm chuyển đổi, đa dạng hóa cây trồng, nếu chỉ chăm chăm vào mỗi cây cà phê thì khó ‘bứt’ lên được.

Vừa qua, giá cà phê “lên đỉnh”, khu trồng cà phê của gia đình ông Niê cho tổng thu nhập hơn 200 triệu đồng. “Hiện giá cà phê chạm ngưỡng hơn 130 nghìn đồng/kg, người trồng cà phê ở Ea Tu vui lắm, đứng ngồi không yên. Không chỉ các hộ sản xuất, lao động thời vụ cũng vui vì công thu hái, công cắt cành… cũng tăng”, ông Niê hồ hởi nói.

Hay như gia đình bà H’Yiam ở buôn Ko Tam, xã Ea Tu, TP. Buôn Ma Thuột có 3,4ha cà phê. Trước đây, canh tác theo tập quán cũ, sử dụng nhiều phân bón hóa học, năng suất cây trồng không cao. Không chỉ năng suất thấp, sử dụng nhiều chất hóa học còn ảnh hưởng đến đất, gây ô nhiễm môi trường.

Nhưng kể từ khi tham gia HTX Nông nghiệp, Dịch vụ Công Bằng Ea Tu, bà H’Yiam thường xuyên được tập huấn, hướng dẫn áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, năng suất cà phê cao hơn. Nếu như trước đây mỗi năm thu hoạch được khoảng 5 tấn cà phê nhân, thì nay cũng cùng diện tích, gia đình bà thu 7 tấn cà phê nhân.

“Liên kết với HTX cà phê bán giá cao hơn ngoài thị trường, gia đình tôi còn được hướng dẫn trồng xen canh hồ tiêu, sầu riêng trong vườn cà phê, hiệu quả sản xuất càng cao hơn”, bà H’Yiam chia sẻ.

Cùng với cà phê, cây hồ tiêu trên địa bàn Buôn Ma Thuột cũng đang mang lại giá trị cho người nông dân. Năm nay cũng liên tục tăng mạnh, giá tiêu thu mua trung bình tại các địa bàn trọng điểm là 157.700 đồng/kg, các nhà vườn có thể thu về 200-250 triệu đồng/ha.

Câu chuyện trồng xen canh thành công như gia đình ông Y Drin Niê hay bà H’Yiam không phải là hiếm ở Ea Tu, nhờ sự chuyển đổi cây trồng hiệu quả, đời sống của người dân Ea Tu đã có những thay đổi rõ rệt. Nhiều hộ gia đình đã xây được nhà cửa khang trang, mua sắm các trang thiết bị hiện đại phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Con cái của họ cũng có điều kiện học hành tốt hơn.

Quan trọng hơn, người nông dân đã không còn cảnh "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời" mà thu nhập vẫn bấp bênh. Thay vào đó, họ đã trở thành những người nông dân chuyên nghiệp, làm chủ được quy trình sản xuất và có thu nhập ổn định từ những loại cây trồng mới.

HTX "chắp cánh" cho nông dân Ea Tu làm giàu từ đa dạng nông sản

Vai trò của các HTX nông nghiệp ở Ea Tu trong quá trình chuyển đổi cây trồng như hai câu chuyện trên là vô cùng to lớn và không thể phủ nhận. Họ không chỉ là những tổ chức kinh tế đơn thuần mà còn là cầu nối, là người bạn đồng hành tin cậy của bà con nông dân trên con đường làm giàu.

Lãnh đạo một HTX cho biết, việc ‘chắp cánh’ thay đổi nhận thức bắt đầu từ việc định hướng và chuyển giao khoa học kỹ thuật. Theo đó, các HTX đã chủ động tìm hiểu, nghiên cứu và đánh giá tiềm năng của nhiều loại cây trồng khác nhau, từ các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như sầu riêng, bơ Booth, mít Thái, xoài cát Chu, đến các loại cây công nghiệp ngắn ngày như hồ tiêu, các loại rau màu chất lượng cao theo tiêu chuẩn VietGAP. HTX tổ chức các buổi tập huấn, hội thảo, mời các chuyên gia nông nghiệp về hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho từng loại cây, giúp người nông dân nắm vững quy trình canh tác tiên tiến, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.

Tiếp đó, các HTX còn đẩy mạnh hỗ trợ giống vốn và vật tư nông nghiệp, một trong những khó khăn lớn nhất của người nông dân khi chuyển đổi cây trồng là vấn đề về vốn và giống. Các HTX đã đứng ra tín chấp, tạo điều kiện cho các thành viên tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Đồng thời, HTX cũng tổ chức mua chung các loại giống cây trồng chất lượng, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật với giá cả hợp lý, giúp giảm chi phí đầu vào cho người nông dân.

Sau khi hỗ trợ người nông dân sản xuất, có sản phẩm, các HTX đứng ra thu mua và chế biến nông sản. Nếu như trước đây, người nông dân Ea Tu thường phải tự mình tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm, chịu nhiều rủi ro về giá cả và bị thương lái ép giá, thì nay, các HTX đã đảm nhận vai trò thu mua nông sản cho các thành viên với giá cả ổn định và cạnh tranh. Một số HTX còn mạnh dạn đầu tư vào hệ thống sơ chế, chế biến nông sản, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn, từ đó nâng cao thu nhập cho người nông dân.

Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn, “sức” của HTX có hạn nên việc thu mua sẽ bị hạn chế, nắm bắt được vấn đề này mà các HTX đã chủ động liên kết sản xuất và tiêu thụ. Theo đó, các HTX đã xây dựng các chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ bền vững với các doanh nghiệp, siêu thị, nhà phân phối trong và ngoài tỉnh. HTX đứng ra ký kết các hợp đồng bao tiêu sản phẩm, đảm bảo đầu ra ổn định cho người nông dân. Mô hình liên kết này không chỉ giúp người nông dân yên tâm sản xuất mà còn tạo ra sự minh bạch và công bằng trong quá trình tiêu thụ nông sản.

Ngoài ra, HTX còn là nơi để các thành viên chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau trong quá trình chuyển đổi cây trồng và phát triển kinh tế. Những mô hình thành công được nhân rộng, những khó khăn vướng mắc được cùng nhau tháo gỡ, tạo nên một cộng đồng nông dân đoàn kết, vững mạnh.

Nông dân đổi đời, làm giàu bền vững

Đắk Lắk hiện có khoảng 213.000ha cà phê. Trong đó, hơn 40% diện tích cà phê đã được người dân đa dạng hóa cây trồng. Tỉnh Đắk Lắk tiếp tục khuyến khích bà con đa dạng hóa các loại cây trồng trong vườn cà phê nhằm gia tăng nguồn thu nhập, bảo vệ môi trường, hướng tới nông nghiệp bền vững thích ứng biến đổi khí hậu.

Nhờ sự hỗ trợ toàn diện và hiệu quả của tỉnh, huyện và các HTX nông nghiệp, diện mạo nông nghiệp của xã Ea Tu đã có những thay đổi ngoạn mục. Những vườn cà phê độc canh dần được thay thế bởi những vườn sầu riêng trĩu quả, những nương bơ xanh mướt, những cánh đồng rau màu tươi tốt. Người nông dân Ea Tu không chỉ thoát khỏi cảnh khó khăn mà còn vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất của mình.

Nhiều hộ nông dân ở Ea Tu đã chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc trong thu nhập sau khi chuyển đổi sang các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao. Thay vì chỉ thu hoạch một vụ cà phê mỗi năm, họ có thể thu hoạch nhiều vụ trái cây, rau màu, mang lại nguồn thu nhập ổn định và cao hơn nhiều lần. Nhiều mô hình trồng sầu riêng, bơ Booth đã mang lại lợi nhuận hàng trăm triệu đồng, thậm chí cả tỷ đồng mỗi năm cho nhiều hộ gia đình.

Nhờ trồng sầu riêng xen canh hồ tiêu đã giúp nông dân thắng lớn, cuộc sống đổi thay từng ngày.

Đơn cử như hộ ông Lê Trọng Minh (huyện Krông Pắc) với diện tích 1,7 ha sầu riêng trồng xen trong cà-phê, gia đình ông Minh chủ yếu sử dụng các loại phân bón hữu cơ, các chế phẩm sinh học chứa thành phần nấm đối kháng để cung cấp dinh dưỡng, phát triển bộ rễ, tăng sức đề kháng tự nhiên của cây trồng đối với các loại sâu bệnh. Việc ghi nhật ký cũng trở thành thói quen, giúp ông kiểm soát tốt quy trình canh tác, theo dõi đặc điểm thời tiết, đặc tính sâu bệnh qua từng năm, củng cố thêm kiến thức, kinh nghiệm. Niên vụ này, vườn sầu riêng của gia đình ông đã cho thu hoạch 45 tấn, với 90% hàng loại A, bảo đảm các tiêu chí xuất khẩu.

Bên cạnh đó, việc các HTX đẩy mạnh hỗ trợ các thành viên đa dạng hóa cây trồng còn giúp tạo ra nhiều việc làm ổn định. Các công việc chăm sóc, thu hoạch, sơ chế các loại nông sản mới đã giải quyết tình trạng thiếu việc làm vào thời điểm nông nhàn, đặc biệt là cho phụ nữ và thanh niên.

Nhờ đó, đã nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, kinh tế phát triển đã giúp người dân Ea Tu có điều kiện xây dựng nhà cửa khang trang, mua sắm các trang thiết bị hiện đại phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Con cái của họ cũng có cơ hội được học hành tốt hơn, tiếp cận với những dịch vụ y tế chất lượng cao hơn.

Đặc biệt, sự chung tay hỗ trợ của các HTX đã giúp người dân có kế hoạch, tầm nhìn phát triển nông nghiệp bền vững. Việc chuyển đổi sang đa dạng cây trồng còn góp phần bảo vệ môi trường, cải tạo đất đai, giảm thiểu rủi ro từ sâu bệnh và biến đổi khí hậu. Các HTX cũng khuyến khích người dân áp dụng các quy trình sản xuất theo hướng hữu cơ, thân thiện với môi trường, hướng tới một nền nông nghiệp bền vững.

Câu chuyện thành công của Ea Tu là một minh chứng sinh động cho thấy sức mạnh của sự đoàn kết, tinh thần đổi mới sáng tạo và vai trò quan trọng của kinh tế tập thể, đặc biệt là các HTX nông nghiệp, trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống cho người nông dân. Từ những nương cà phê độc canh, Ea Tu đã vươn mình trở thành một vùng đất trù phú với đa dạng nông sản, nơi người nông dân không chỉ thoát nghèo mà còn vươn lên làm giàu một cách bền vững, góp phần xây dựng một tương lai tươi sáng cho quê hương.

Quốc Anh

Bài 2: Từ cây cà phê độc canh đến đa dạng nông sản: Hiệu quả kinh tế gắn liền với cơ hội việc làm

 

Chìa khóa thành công trên những cánh đồng công nghệ tiền tỷ ở Lâm Đồng

Lâm Đồng đang nổi lên như một điểm sáng trong việc ứng dụng công nghệ cao và chuyển đổi số vào sản xuất nông nghiệp. Tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm chi phí và tăng giá trị sản phẩm.

Ở vùng rau nổi tiếng ở xã Trạm Hành (TP. Đà Lạt), trong làn sương bảng lảng đặc trưng của vùng cao nguyên, những nhà kính giờ không còn xa lạ. Bên trong, hàng trăm luống rau xanh mướt được chăm sóc bằng hệ thống tưới nhỏ giọt tự động, được tính toán chính xác tới từng mili lít.

Bước đi vững chắc

Anh Nguyễn Văn Lực, chủ trang trại rộng hơn 1,5 ha tại Trạm Hành, khẳng định hiện tại làm nông không còn như xưa, muốn có lời phải đầu tư công nghệ, từ sản xuất đến tiêu thụ nhằm giảm công lao động, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh.

“Trước, tôi làm kiểu truyền thống, sâu bệnh nhiều, năng suất thấp, giá lại bấp bênh. Từ khi chuyển sang sản xuất theo hướng công nghệ cao, ứng dụng hệ thống IoT, cảm biến nhiệt độ - độ ẩm, hệ thống camera giám sát và nhật ký điện tử, mọi thứ thay đổi hẳn”, anh Lực chia sẻ.

Ứng dụng công nghệ là chìa khóa thu tiền tỷ của nông dân, HTX ở Lâm Đồng (Ảnh: BLĐ).

Với diện tích trồng rau thủy canh trong nhà kính, mỗi năm trang trại của anh Lực cho doanh thu hơn 5 tỷ đồng. Không chỉ đạt sản lượng ổn định, rau của anh còn được dán tem truy xuất nguồn gốc, nên vào được các hệ thống siêu thị lớn. “Không có chuyển đổi số, chắc giờ tôi vẫn đang còng lưng theo mấy luống cải”, anh Lực hồ hởi nói.

Theo số liệu từ ngành nông nghiệp tỉnh Lâm Đồng, toàn tỉnh hiện có gần 100 doanh nghiệp và HTX đang ứng dụng các giải pháp chuyển đổi số như phần mềm quản lý sản xuất, nhật ký điện tử, tem QR truy xuất nguồn gốc… Không ít HTX đang sử dụng máy bay không người lái để phun chế phẩm sinh học, vừa tiết kiệm công lao động, vừa đảm bảo an toàn sinh thái.

Điển hình như tại huyện Đức Trọng, nhiều mô hình trang trại hoa ứng dụng công nghệ cao đã đạt doanh thu lên tới 20 - 24 tỷ đồng/ha/năm. Ở đây, hệ thống nhà kính thông minh tự động điều chỉnh ánh sáng, độ ẩm và nhiệt độ theo thời tiết.

Những thành viên HTX, nông dân trên địa bàn huyện trước đây đơn thuần “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” giờ đã trở thành “kỹ sư” nông nghiệp số, vận hành cả cánh đồng bằng... điện thoại thông minh.

Được biết, toàn tỉnh có khoảng 90 HTX và hàng trăm hộ sản xuất nhỏ đang từng bước chuyển mình cùng công nghệ. Với chính sách hỗ trợ từ tỉnh, cùng tinh thần chủ động học hỏi, người nông dân Lâm Đồng đã bắt đầu làm chủ công nghệ thay vì e ngại như trước.

Điểm sáng giữa đại ngàn

Từ Trạm Hành ngược đường về phía Tây đến xã Phi Liêng, huyện Đam Rông – một vùng đất từng được xem là khó khăn nhất của Lâm Đồng, những năm qua cũng có thể thấy sự thay da đổi thịt trong sản xuất nông nghiệp của HTX, nông dân địa phương.

Điển hình như HTX Nông nghiệp Ứng dụng Công nghệ cao Phi Liêng do anh Phí Văn Thìn làm “thuyền trưởng”. Anh Thìn kể, trước đây gia đình anh làm rau theo phương pháp truyền thống, bán chợ địa phương, thu nhập bấp bênh.

Năm 2020, sau khi tiếp cận được một số mô hình ở Đà Lạt, anh quyết định vay vốn, đầu tư nhà màng, hệ thống tưới nhỏ giọt và quản lý sản xuất bằng phần mềm. “Lúc đầu, bà con còn ngại lắm, ai cũng bảo tôi liều. Nhưng làm rồi mới thấy, công nghệ giúp mình kiểm soát được mọi thứ, từ nước tưới, phân bón đến sâu bệnh”, anh Thìn chia sẻ.

Từ một hộ sản xuất đơn lẻ, anh Thìn vận động thêm các nông hộ khác cùng làm, rồi thành lập HTX. Đến nay, HTX Phi Liêng có 7 thành viên chính thức và liên kết sản xuất với hơn 30 hộ dân trong xã, quy mô hơn 16 ha. Trong đó, hơn 3 ha trồng rau theo mô hình bán thủy canh, kiểm soát hoàn toàn bằng hệ thống cảm biến.

Việc phát triển nông nghiệp công nghệ cao là mục tiêu trọng điểm của tỉnh Lâm Đồng (Ảnh: BLĐ).

“Chúng tôi không chỉ trồng rau sạch đạt chuẩn VietGAP mà còn liên kết với các công ty bao tiêu, đưa sản phẩm vào siêu thị, cửa hàng tiện lợi, mỗi tháng xuất đi hàng chục tấn rau với giá ổn định,” anh Thìn cho hay.

Không chỉ dừng lại ở sản xuất, HTX Phi Liêng còn mở các lớp tập huấn, chuyển giao kỹ thuật cho người dân địa phương. Nhờ đó, gần 150 lao động, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, có việc làm và thu nhập ổn định từ 6 – 8 triệu đồng/tháng.

Năm 2024, HTX được Liên minh HTX Việt Nam vinh danh là HTX tiêu biểu toàn quốc. Đây là một phần thưởng xứng đáng cho hành trình nỗ lực không ngừng nghỉ của những người nông dân hiện đại giữa vùng đất từng là “vùng trũng” về kinh tế.

Thêm điểm tựa hỗ trợ

Có thể thấy các HTX trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đang có những đóng góp tích cực trong quá trình chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ và sản xuất nông nghiệp tại các địa phương, tạo điểm tựa cho các hộ thành viên nâng cao hiệu quả canh tác.

Để có được những thành công hiện tại, trong những năm qua, Liên minh HTX Việt Nam cùng Liên minh HTX tỉnh Lâm Đồng đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ thiết thực trên địa bàn tỉnh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế hợp tác, nâng cao năng lực sản xuất và tạo việc làm ổn định cho hàng nghìn lao động nông thôn.

Cùng với đó, Liên minh HTX Việt Nam đã phối hợp với Liên minh HTX tỉnh triển khai nhiều chính sách, chương trình hỗ trợ đa dạng như: đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vay vốn từ Quỹ hỗ trợ phát triển HTX, xúc tiến thương mại và kết nối thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Đặc biệt, trong giai đoạn chuyển đổi số nông nghiệp, các HTX tại Lâm Đồng như HTX Nông nghiệp Thủy canh Trường Anh (TP. Đà Lạt), HTX Rau quả Tân Tiến (huyện Đơn Dương)… đã nhận được sự hỗ trợ tư vấn kỹ thuật, cung cấp phần mềm quản lý sản xuất, tem truy xuất nguồn gốc và ứng dụng công nghệ số trong bán hàng online từ các chương trình của Liên minh HTX Việt Nam.

Ngoài ra, Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Lâm Đồng còn hỗ trợ kết nối các HTX với hệ thống siêu thị, sàn thương mại điện tử, tổ chức hội chợ, triển lãm sản phẩm OCOP, giúp HTX quảng bá thương hiệu và mở rộng thị trường tiêu thụ…

Bên cạnh sự đồng hành của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Lâm Đồng, để thúc đẩy nông nghiệp số phát triển, trong thời gian tới, tỉnh Lâm Đồng dự kiến tiếp tục phát triển nông nghiệp toàn diện, bền vững và hiện đại. Trong đó, ưu tiên hỗ trợ nhân rộng các mô hình liên kết theo chuỗi giá trị sản xuất, chế biến và tiêu thụ đối với các sản phẩm chủ lực, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Đặc biệt, tỉnh sẽ thực hiện có hiệu quả Đề án Phát triển kinh tế hợp tác, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm”; lồng ghép các chương trình, dự án để hỗ trợ phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập của người dân trên địa bàn...

Tựu trung lại, từ những trang trại rau ở Trạm Hành đến mô hình HTX ở Phi Liêng, có thể thấy chuyển đổi số không chỉ là câu chuyện của máy móc hay phần mềm, mà là sự đổi mới về tư duy. Khi người nông dân được tiếp cận, được học hỏi và dám thay đổi, thì công nghệ trở thành công cụ để nâng tầm sản xuất.

Lâm Đồng đã và đang chứng minh rằng nếu đi đúng hướng, chuyển đổi số sẽ không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế, mà còn góp phần giải bài toán xóa đói, giảm nghèo, phát triển bền vững vùng nông thôn.

An Chi

 

Để nâng cao giá trị ngành hàng cà phê

Để nâng cao giá trị ngành hàng cà phê, ngành Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lâm Đồng tập trung mở rộng diện tích sản xuất, chế biến đạt các tiêu chuẩn chứng nhận an toàn thực phẩm, kết hợp triển khai các giải pháp sử dụng vật tư nông nghiệp đầu vào có trách nhiệm.

Các sản phẩm cà phê chất lượng an toàn thực phẩm ngày càng thu hút đông đảo khách hàng tin dùng

Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lâm Đồng, toàn tỉnh Lâm Đồng đang phát triển 165.000 ha cà phê vối và 11.000 ha cà phê chè, năng suất bình quân 3,4 tấn/ha/năm, trong đó có gần 170.000 ha cà phê kinh doanh. Từ các vùng nguyên liệu cà phê ổn định, toàn tỉnh có 170 cơ sở hoạt động chế biến, tổng sản phẩm tiêu thụ trên thị trường mỗi năm hơn 300 tấn cà phê hòa tan; 4.500 tấn cà phê bột rang xay. Đáng kể toàn tỉnh Lâm Đồng đạt hơn 50.000 tấn cà phê nhân xuất khẩu trong năm 2024, tương ứng với tổng giá trị kim ngạch khoảng 170 triệu USD.

“Lâm Đồng là một trong các tỉnh đạt năng suất cà phê cao nhất trong cả nước, đặc biệt sản phẩm cà phê chè được đánh giá đạt chất lượng cao hàng đầu trên thế giới. Trong những năm qua, để nâng cao giá trị ngành hàng cà phê, toàn tỉnh mở rộng diện tích sản xuất cà phê bền vững đạt các tiêu chuẩn chứng nhận hữu cơ, VietGAP, 4C hơn 86.000 ha…”, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Lâm Đồng Nguyễn Hoàng Phúc cho biết.

Điển hình như mô hình sản xuất cà phê bền vững của Bình Đông Farm (xã Lộc Ngãi, huyện Bảo Lâm) với tổng diện tích chuyên canh 90 ha và 2,5 ha diện tích nhà xưởng chế biến. “Toàn bộ cà phê trên diện tích rộng lớn của Bình Đông Farm được chăm sóc theo quy trình đồng nhất, dinh dưỡng cho cây được chọn lọc kĩ lưỡng, tạo ra những sản phẩm chất lượng nhất trên thị trường”, Bình Đông Farm cam kết. Qua đó, trong quy trình sơ chế cà phê, Bình Đông Farm tận dụng nguyên lý dòng chảy của lực nước để rửa, loại bỏ tạp chất và những hạt cà phê không đạt chất lượng. Sau sơ chế, Bình Đông Farm tận dụng vỏ cà phê kết hợp với các chế phẩm sinh học ủ thành sản phẩm phân hữu cơ cung cấp dinh dưỡng trở lại cho cây trồng. Ngoài ra, Bình Đông Farm xử lý hệ thống nước thải sau sơ chế cà phê thông qua 3 hồ lắng có sử dụng thêm các chủng men vi sinh, đạt các tiêu chuẩn an toàn môi trường trước khi dẫn ra hệ thống nguồn nước bên ngoài.

Cũng theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lâm Đồng Nguyễn Hoàng Phúc, bên cạnh giải pháp canh tác bền vững, toàn tỉnh Lâm Đồng còn tăng cường giải pháp sử dụng các loại vật tư nông nghiệp có trách nhiệm trong sản xuất, nâng cao giá trị ngành hàng cà phê trên địa bàn, cụ thể thu gom, xử lý bao bì, chai thuốc bảo vệ thực vật kịp thời, đúng quy định, đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường sinh thái. Đặc biệt, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Lâm Đồng đã ban hành Nghị quyết về phát triển nông nghiệp toàn diện, bền vững và hiện đại đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Kế hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp tuần hoàn, thích ứng với biến đổi khí hậu; thu gom, vận chuyển và xử lý bao gói thuốc bảo vệ thực vật trên địa bàn. Kết quả được đánh giá có nhiều chuyển biến tích cực, đảm bảo chất lượng nông sản đầu ra nói chung, sản phẩm cà phê nói riêng đạt yêu cầu xuất khẩu với tổng giá trị kim ngạch 170 triệu USD trong năm 2024 nói trên.

Tuy nhiên, theo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, ngành cà phê tỉnh Lâm Đồng nói riêng, cả nước nói chung vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình phát triển bền vững, nhất là trong quản lý chất thải và sử dụng vật tư nông nghiệp có trách nhiệm. Bởi vậy, để nâng cao giá trị ngành hàng cà phê, giải pháp thường xuyên và liên tục nâng cao nhận thức cho cán bộ khuyến nông, khuyến nông cộng đồng, nông dân, người sản xuất cà phê và các đối tác liên quan về thực trạng của việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hiện nay và ảnh hưởng đến môi trường. Tiếp theo cần tăng cường ứng dụng quản lý dịch hại tổng hợp, quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp, áp dụng các quy trình sản xuất an toàn để thay thế, giảm thiểu sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hóa học trong canh tác. Ngoài ra tập trung hướng dẫn nông dân nắm vững các biện pháp thu gom và quản lý chất thải trong sản xuất cà phê; nâng cao trách nhiệm sử dụng vật tư nông nghiệp đầu vào (giống, thuốc trừ sâu bệnh, thuốc diệt cỏ, phân bón, nước tưới,…) trong sản xuất cà phê góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng và bảo vệ môi trường sinh thái...

VĂN VIỆT

 

Mở 'cánh cửa mới' cho nông nghiệp từ chuyển đổi số

Hòa trong làn sóng chuyển đổi số (CĐS) đang lan rộng trên mọi lĩnh vực, nông nghiệp Gia Lai cũng dần thay đổi phương thức sản xuất và tiêu thụ.

Không chỉ mở rộng thị trường, tăng giá trị sản phẩm, việc đưa nông sản lên sàn thương mại điện tử (TMĐT) giúp người nông dân chủ động hơn, giảm sự lệ thuộc vào thương lái.

Chuyển đổi số giúp nhiều khách hàng thay đổi góc nhìn với nông sản Gia Lai. Ảnh: T.N

Xác định CĐS là “chìa khóa” để gia tăng giá trị nông sản, tỉnh đã tích cực thúc đẩy phát triển TMĐT trong lĩnh vực nông nghiệp. Nhiều hợp tác xã (HTX), hộ sản xuất và doanh nghiệp đang dần tiếp cận các nền tảng số, học cách livestream bán hàng, xây dựng thương hiệu cá nhân và mở rộng tệp khách hàng trên không gian mạng.

Tại huyện Kông Chro, HTX Nông nghiệp và dịch vụ Kông Yang là một trong những đơn vị điển hình trong việc tận dụng sàn TMĐT để tiêu thụ trái cây. Với sản phẩm nhãn T6 đạt chuẩn OCOP 3 sao, HTX từng bước loại bỏ khâu trung gian, bán trực tiếp trên sàn, tăng doanh thu lên hơn 2 tỷ đồng/năm, gấp 2-3 lần so với phương thức tiêu thụ truyền thống qua thương lái. Ông Trịnh Xuân Anh-Giám đốc HTX-chia sẻ: “Việc bán nông sản trên sàn TMĐT và qua các nền tảng mạng xã hội giúp các thành viên của HTX điều chỉnh kế hoạch sản xuất theo nhu cầu của thị trường và thị hiếu người tiêu dùng, vượt qua rào cản địa lý, tiết giảm chi phí”.

Không chỉ các HTX, nhiều hộ sản xuất cũng đã khởi động hành trình CĐS để thoát khỏi lối kinh doanh cũ. Đơn cử như cơ sở cây giống chanh dây của anh Bùi Thanh Ngọc-Giám đốc Công ty TNHH SX và TM Ngọc Thủy Tiên (làng Hăng Ring, thị trấn Chư Sê). Nhận thấy tiềm năng lớn từ thị trường ngoài tỉnh, năm 2023, anh Ngọc bắt đầu xây dựng thương hiệu cá nhân, chia sẻ các nội dung hướng dẫn kỹ thuật trồng chanh dây trên các nền tảng mạng xã hội như: TikTok, Facebook, YouTube… nhằm tiếp cận người mua một cách chủ động và chuyên nghiệp hơn. Mỗi năm, cơ sở của anh cung cấp khoảng 3.000-4.000 thùng giống chanh dây ra thị trường với 4 loại giống chủ lực: NTT One, NTT Gold, Summit và Đài Nông 1. Sản phẩm được tiêu thụ tại 5 tỉnh Tây Nguyên, mang về cho anh doanh thu hơn 4 tỷ đồng/năm, tăng 30-40% so với trước khi thực hiện CĐS.

“Chuyển đổi số không chỉ là xu hướng mà còn là lựa chọn sống còn với người làm nông nghiệp hiện nay. Tôi nhận thấy nếu chỉ bán cây giống trong tỉnh thì không thể phát huy hết tiềm năng. Muốn sản phẩm của mình đi xa hơn, đến với nhiều vùng đất khác, chúng ta không chỉ chờ khách tới mà phải chủ động đi tìm khách. Và CĐS là cách để tôi có thể làm được điều đó một cách dễ dàng”-anh Ngọc khẳng định.

Bán hàng qua các kênh thương mại điện tử giúp nông sản Gia Lai tiếp cận được nhiều khách hàng hơn. Ảnh: H.M

Trước thực tế CĐS còn mới mẻ với người dân nông thôn, Sở Công thương đã có nhiều hoạt động hỗ trợ. Theo đó, các chương trình tập huấn được tổ chức thường xuyên, qua đó hướng dẫn doanh nghiệp, HTX và hộ nông dân kỹ năng đưa sản phẩm lên sàn TMĐT, cách livestream bán hàng và tiếp cận thị trường online. Điển hình như phiên livestream vào tháng 9-2024 đã đưa gần 100 sản phẩm đặc trưng của Gia Lai như: Mật ong Phương Di, Muối chấm Cô Hai Tây Nguyên, Trà đậu đen Nam Phúc… tiếp cận tới gần 150.000 lượt xem, gần 800 đơn hàng được chốt.

Theo bà Đào Thị Thu Nguyệt-Phó Giám đốc Sở Công thương: “Muốn lên sàn TMĐT hiệu quả, sản phẩm nông sản phải đạt chuẩn, người bán phải có chiến lược rõ ràng về thị trường, đưa ra mức giá hợp lý và đảm bảo sản lượng”. Từ năm 2022 đến nay, Sở Công thương đã tổ chức nhiều lớp tập huấn kỹ năng số, hướng dẫn các nhóm giải pháp phát triển TMĐT, tiếp cận thông tin về xu hướng quảng cáo kỹ thuật số, sử dụng trí tuệ nhân tạo trong quá trình xử lý, chuyển đổi thông tin. Từ đó, hỗ trợ các đơn vị đưa sản phẩm lên sàn TMĐT, đào tạo livestream bán hàng và xây dựng thương hiệu cá nhân cho hàng ngàn nông dân, tiểu thương, hộ sản xuất.

“Thời gian tới, Sở Công thương tập trung hỗ trợ phát triển TMĐT tại các chợ truyền thống, đặc biệt là hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận, ứng dụng TMĐT trong sản xuất kinh doanh. Cùng với đó, tiếp tục nghiên cứu, kết nối với các sàn như Shopee, TikTok Shop... để xây dựng kênh phân phối mới, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm địa phương. Ngoài ra, Sở cũng hướng tới xây dựng chương trình ngày hội sản phẩm đặc sản Gia Lai, tuần lễ sản phẩm Gia Lai trên sàn TMĐT, kết nối tiêu thụ sản phẩm đặc trưng của từng huyện theo mùa...”-Phó Giám đốc Sở Công thương cho biết thêm.

Hiện trên địa bàn tỉnh có 213 thương nhân, 6 tổ chức, 84 cá nhân đã đăng ký website TMĐT/ứng dụng TMĐT/cung cấp dịch vụ TMĐT với Bộ Công thương tại địa chỉ: www.online.gov.vn. Trong đó, có 113 website TMĐT bán hàng, 3 website cung cấp dịch vụ TMĐT, 2 ứng dụng TMĐT bán hàng đã được Bộ Công thương xác nhận website đã đăng ký/thông báo thành công.

HOÀNG HOÀI

 

Chú trọng phát triển kinh tế nông nghiệp hiệu quả, bền vững ở thị xã Quảng Trị

Những năm qua, thị xã Quảng Trị huy động nhiều nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp. Nhờ vậy, địa phương đã có điều kiện tập trung xây dựng, sửa chữa, nâng cấp kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn khá đồng bộ, tỉ lệ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp ngày càng được nâng cao, các mô hình thích ứng với biến đổi khí hậu được triển khai áp dụng đồng bộ...Qua đó, góp phần tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích, nâng cao thu nhập cho người dân.

Một mô hình nuôi lươn không bùn trong bể xi măng hiệu quả ở xã Hải Lệ - Ảnh: N.T

Thực hiện Nghị quyết số19-NQ/TW, ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo liên quan của cấp trên, để phù hợp với điều kiện sản xuất của các địa phương, UBND thị xã Quảng Trị đã trình HĐND thị xã ra nghị quyết về việc ban hành đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp thị xã theo hướng nâng cao giá trị sản xuất và phát triển bền vững đến năm 2020, định hướng đến năm 2025.

Hằng năm, UBND thị xã ban hành các kế hoạch, chương trình nhằm cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp về thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp, khuyến khích các hợp tác xã, tổ hợp tác và người dân phát triển các mô hình kinh tế. Xây dựng kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực về nông nghiệp chất lượng cao.

Có chính sách thu hút, đào tạo và ưu đãi nguồn nhân lực có trình độ cao thuộc lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư sản xuất ở quy mô lớn và thương mại hóa các sản phẩm công nghệ sinh học được nghiên cứu.

Tập trung huy động nguồn lực lồng ghép các chương trình, dự án để đầu tư, phát triển hạ tầng nông nghiệp và phát triển các mô hình kinh tế cho các hợp tác xã, tổ hợp tác và người dân trên địa bàn.

Quy hoạch vùng sản xuất cây trồng, con nuôi phù hợp với điều kiện địa phương và ứng dụng cây trồng, vật nuôi mới vào sản xuất theo hướng chuỗi giá trị, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác quản lý quy hoạch.

Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động làm cho dân hiểu, dân tin, dân hưởng ứng bằng sự tham gia bàn bạc, hiến kế, đóng góp ngày công, kinh phí và chủ động thực hiện các chương trình, dự án trên địa bàn...

Trong giai đoạn 2022-2025, thị xã hỗ trợ hướng dẫn các hợp tác xã hoàn thiện dự án, đề xuất hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp cho các hợp tác xã với tổng nguồn vốn 1.202 triệu đồng; thực hiện chính sách hỗ trợ bảo vệ và phát triển đất trồng lúa theo Nghị định số 35/2015/NĐ-CP của Chính phủ giai đoạn 2015-2024 hơn 2.803,74 triệu đồng, hỗ trợ các hợp tác xã/ tổ hợp tác sản xuất nông nghiệp xây dựng và sửa chữa các tuyến kênh mương, hỗ trợ vật tư nông nghiệp cho người trồng lúa.

Khi có thiên tai xảy ra, UBND thị xã thành lập đoàn kiểm tra, đánh giá thiệt hại, đề xuất UBND tỉnh và các sở ngành hỗ trợ khôi phục hệ thống cơ sở hạ tầng trong sản xuất nông nghiệp và gia cốcác tuyến kè bị sạt lở, sụt lún.

Để phát triển các mô hình kinh tế trên địa bàn, từ nguồn hỗ trợ của trung ương, của tỉnh, thị xã triển khai các mô hình kinh tế; xây dựng 3 mô hình chăn nuôi bò chuyên thịt thâm canh với kinh phí hỗ trợ giai đoạn 2022-2024 là 300 triệu đồng; chỉ đạo UBND xã Hải Lệ triển khai đầu tư xây dựng công trình kiên cốhóa 3 tuyến kênh mương (năm 2024) với tổng kinh phí nhà nước hỗ trợ 240 triệu đồng; hỗ trợ 161 triệu đồng cho các chủ thể tham gia các dự án khoa học công nghệ; hỗ trợ 654,8 triệu đồng xây dựng các mô hình kinh tế và tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật trong trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản.

Ngoài ra, thị xã quan tâm hỗ trợ các tổ chức, cá nhân tiếp cận nguồn vốn vay của các ngân hàng để phát triển các mô hình kinh tế, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị và địa phương triển khai thực hiện tốt chính sách hỗ trợ thiên tai, dịch bệnh để khôi phục sản xuất sau thiên tai. Hằng năm, UBND thị xã quan tâm bốtrí kinh phí đầu tư nông nghiệp; bốtrí nguồn vốn đối ứng để thực hiện các chính sách của tỉnh và trung ương, đảm bảo tỉ lệ và hiệu quả sử dụng vốn.

Phát huy kết quả đạt được, thời gian tới, thị xã Quảng Trị tiếp tục ưu tiên nguồn lực để đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Rà soát, bổ sung, đổi mới cơ chế chính sách, tháo gỡ các điểm nghẽn, tạo động lực mới cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Ưu tiên bốtrí nguồn lực thực hiện các chính sách ưu đãi hỗ trợ khuyến khích, thu hút doanh nghiệp, kinh tế tư nhân liên doanh liên kết, xây dựng chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp.

Tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ tái cơ cấu nông nghiệp. Tiếp tục đổi mới, phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả. Duy trì, củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Xây dựng mô hình hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, hợp tác xã tham gia chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP).

Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo nghề, tạo nguồn nhân lực phục vụ tái cơ cấu nông nghiệp. Hỗ trợ hình thành các mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp, gắn sản xuất với tiêu thụ, xây dựng các chuỗi liên kết bền vững.

Tăng cường chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, thân thiện với môi trường.

Đẩy mạnh xây dựng thương hiệu, chuyển đổi sốtrong nông nghiệp; các hoạt động xúc tiến thương mại đảm bảo kết nối giữa sản xuất và tiêu thụ. Thực hiện tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên các lĩnh vực và trong từng lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp...

Ngọc Trang

 

Xây dựng nông thôn mới có điểm khởi đầu, không có điểm kết thúc - Bài 5

Với phương châm 'XDNTM có điểm khởi đầu, không có điểm kết thúc', trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới (XDNTM), đặc biệt đối với 02/02 địa phương được công nhận hoàn thành nhiệm vụ XDNTM: thị xã Duyên Hải và thành phố Trà Vinh, công nhận năm 2018 và 2020. Với đặc thù tại một số xã của 02 địa phương trên còn sản xuất kinh tế nông nghiệp; vì vậy, công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm được các địa phương quan tâm, tập trung triển khai đồng bộ gắn với kinh tế đặc thù của người dân thiết thực, hiệu quả…

Bài 5:

Đào tạo nghề và giải quyết việc làm gắn với phát triển kinh tế

 

Lãnh đạo Đảng ủy, cán bộ nông nghiệp xã Long Hữu, thị xã Duyên Hải thăm mô hình phát triển kinh tế nuôi gà lôi của cựu chiến binh Trần Văn Phú, Ấp 17.

Đồng chí Trần Thanh Phong, cán bộ phụ trách NTM- Phòng Nông nghiệp và Môi trường thị xã Duyên Hải cho biết: sau khi địa phương được công nhận hoàn thành XDNTM, Ban Chỉ đạo thị xã tập trung chỉ đạo các địa phương thực hiện các tiêu chí xã NTM, NTM nâng cao và NTM kiểu mẫu. Đến cuối năm 2024, có 05/05 xã NTM; trong đó, xã Long Hữu đạt NTM kiểu mẫu năm 2023, xã Dân Thành, Long Toàn, Trường Long Hòa đạt NTM nâng cao. Tuy nhiên, do các xã NTM chủ yếu dựa vào kinh tế nông nghiệp là chính, công tác giải quyết việc làm và đào nghề cho lao động nông thôn luôn được địa phương tập trung triển khai gắn với điều kiện phát triển kinh tế đặc trưng của từng xã.

Năm 2024, thu nhập bình quân đầu người tại 05 xã NTM của thị xã Duyên Hải đạt 81 triệu đồng/người/năm; trong đào tạo nghề lao động nông thôn gắn với nhu cầu thị trường đã tổ chức 04 lớp, có 86 học viên tham dự. Thực hiện liên kết chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp ứng dụng khoa học công nghệ gắn với du lịch nông thôn (vốn hơn 370 triệu đồng) tại 03 xã NTM Long Hữu, Trường Long Hòa và Dân Thành. Ngoài ra, thị xã Duyên Hải còn tập trung triển khai chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã công nhận 36 sản phẩm OCOP.

Năm 2024, thị xã Duyên Hải có 47 lao động đi lao động, học tập và làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, đạt 235% kế hoạch năm; tạo việc làm mới cho 1.645 lao động, đạt 149,55% kế hoạch và tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 86,54%/tổng số lao động trên địa bàn. Hiện trên địa bàn thị xã còn 35 hộ nghèo thuộc đối tượng bảo trợ xã hội và 193 hộ cận nghèo.

Ghi nhận trên địa bàn xã NTM kiểu mẫu Long Hữu, với hơn 85% hộ sinh sống dựa vào nông nghiệp, chủ yếu trồng màu, chăn nuôi và nuôi thủy sản. Giai đoạn 2015 - 2024, thực hiện chương trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp, qua đó, đã chuyển đổi 302ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng chuyên màu hoặc 01 vụ lúa + màu; góp phần tăng thu nhập kinh tế từ 03 - 04 lần so độc canh cây lúa.

Đồng chí Huỳnh Văn Màu, Bí thư Đảng ủy xã Long Hữu cho biết: trong giải quyết việc và đào tạo nghề nông thôn, địa phương luôn gắn kết và phát huy tối đa đặc điểm kinh tế của xã để khi lao động qua đào tạo nghề ngắn hạn như thú y, nuôi thủy sản, làm đẹp… sau khi về gia đình tham gia sản xuất, quản lý kinh tế hiệu quả. Mô hình trồng màu của địa phương luôn phát triển, đã góp phần tạo việc làm cho lao động nông nhàn khi vào mùa thu hoạch ớt, bí đỏ…

Nghề khai thác hải sản ở ấp Vĩnh Yên, xã Long Đức, TPTV góp phần tạo việc làm cho lao động thời vụ trong sửa chữa ngư lưới cụ sau mỗi chuyến ra khơi, thu nhập từ 200.000 - 250.000 đồng/ngày.

Theo kế hoạch năm 2025, thị xã Duyên Hải sẽ tập trung phấn đấu nâng tỷ lệ thu nhập bình quân đầu người vào cuối năm đạt 89,14 triệu đồng/người/năm. Trong phát triển kinh tế, sẽ tập trung đào tạo nghề cho lao động nông thôn, tổ chức chuyển giao khoa học - kỹ thuật lĩnh vực nông nghiệp; xây dựng các mô hình cây trồng, vật nuôi thích ứng biến đổi khí hậu và đồng bộ triển khai các chính sách của trung ương, địa phương đầu tư tái cơ cấu trong lĩnh vực nông nghiệp; hoàn thiện kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế nông thôn…

Cùng với đó, thành phố Trà Vinh (TPTV) có 10 đơn vị hành chính (09 phường và 01 xã), được UBND tỉnh chọn xã Long Đức làm điểm chỉ đạo XDNTM. Đến nay, TPTV đã hoàn thành nhiệm vụ XDNTM theo Quyết định số 454/QĐ-TTg, ngày 26/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ “Công nhận TPTV hoàn thành nhiệm vụ XDNTM năm 2020”; xã Long Đức được công nhận đạt chuẩn xã NTM kiểu mẫu về giáo dục năm 2021 và tiếp tục nâng chất NTM kiểu mẫu.

Hiện xã Long Đức có 51% diện tích đất canh tác nông nghiệp (tương đương 2.042ha), còn lại là đất phi nông nghiệp; trong năm 2024, giá trị sản xuất nông nghiệp của xã đạt 420,88 tỷ đồng (tăng 65,95 tỷ đồng so với năm 2023). Qua công tác phối hợp với các đoàn thể xã, Ban Nhân dân các ấp đã tập trung vận động nông dân đẩy mạnh phát triển sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển kinh tế hộ gia đình gắn với kinh tế hợp tác, xây dựng nhiều mô hình kinh tế làm ăn có hiệu quả như: Mô hình nuôi ếch, cá thác lác cườm, nuôi gà thịt, gà đẻ, nuôi bò sinh sản, nuôi dê sinh sản, trồng hoa kiểng, trồng dừa, thanh long, bưởi da xanh,... giá trị hàng năm đạt 160 tỷ đồng.

Đặc biệt, công tác giải quyết việc làm nâng cao thu nhập và giảm nghèo bền vững, qua đó, địa phương phối hợp với các đơn vị, ngành của tỉnh, thành phố tổ chức các lớp học nghề, giới thiệu việc làm cho thanh niên trong độ tuổi; tư vấn và giới thiệu việc làm mới 564 lượt lao động vào làm việc ở các công ty, doanh nghiệp trong nước và 12 người hợp tác đi lao động ở Nhật Bản. Hỗ trợ các nguồn vốn vay ủy thác, giải quyết cho 2.381 hộ vay vốn với số tiền 59,631 tỷ đồng, đầu tư phát triển sản xuất… góp phần nâng cao thu nhập, nâng mức thu nhập bình quân của xã năm 2024 đạt 79,74 triệu đồng/người/năm.

Năm 2024, thành phố Trà Vinh phối hợp Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh giới thiệu 2.051/1.550 lao động đi làm việc trong và ngoài tỉnh; vận động đưa lao động đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài 66 lao động, đạt 126,92%. Tỷ lệ giảm hộ nghèo 0,06% (từ 0,14% giảm còn 0,08%), vượt so với kế hoạch 238%, tương đương giảm 19 hộ nghèo.

Bài, ảnh: HỮU HUỆ

 

Việt Nam-Hy Lạp thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp

Vừa qua, Đại sứ Việt Nam tại Hy Lạp Phạm Thị Thu Hương đã có cuộc gặp, làm việc với Thứ trưởng Bộ Phát triển nông nghiệp và thực phẩm Hy Lạp Dionysios Stamentis.

Đại sứ Phạm Thị Thu Hương và Thứ trưởng Bộ Phát triển nông nghiệp và thực phẩm Hy Lạp Dionysios Stamentis.

Tại cuộc gặp, hai bên đã trao đổi về việc thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, nhất là đối với các các sản phẩm mà hai bên có thế mạnh và nhu cầu, như kiwi và hoa quả tươi theo mùa và các sản phẩm chế biến từ gia súc, gia cầm.

Thứ trưởng Dionysios Stamentis mong Đại sứ quán Việt Nam tiếp tục là cầu nối, hỗ trợ thúc đẩy hợp tác giữa hai nước cũng như sớm được đón đoàn công tác của Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam để trao đổi các nội dung hợp tác cụ thể.

Ngoài ra, tại cuộc gặp, hai bên cũng thảo luận về hợp tác trong lĩnh vực đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực trong lĩnh vực nông nghiệp.

Về phần mình, Đại sứ Phạm Thị Thu Hương khẳng định Đại sứ quán Việt Nam tại Hy Lạp sẵn sàng phối hợp chặt chẽ với Bộ Phát triển nông nghiệp và thực phẩm Hy Lạp cũng như các cơ quan chức năng của Việt Nam trong việc thúc đẩy hợp tác, xúc tiến mở rộng thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp của cả hai nước, qua đó góp phần đưa quan hệ Việt Nam-Hy Lạp đi vào phát triển thực chất hơn nữa, nhất là trong năm 2025 khi hai nước kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao.

(theo ĐSQ Việt Nam tại Hy Lạp)

 

Phát hiện về nhân tố thúc đẩy chuyển đổi nông nghiệp 8.000 năm trước

Một nghiên cứu mới cho thấy sự chuyển đổi của loài người sang canh tác nông nghiệp cách đây khoảng 8.000 năm có liên quan đến các hiện tượng cháy rừng và xói mòn đất do biến đổi khí hậu gây ra.

Ảnh minh họa. (Nguồn: AFP)

Một nghiên cứu mới của Israel cho thấy sự chuyển đổi của loài người sang canh tác nông nghiệp cách đây khoảng 8.000 năm tại phía Nam vùng Levant có liên quan đến các hiện tượng cháy rừng và xói mòn đất do biến đổi khí hậu gây ra.

Theo thông báo ngày 22/4 của trường đại học Hebrew University of Jerusalem, nghiên cứu này được công bố trên tạp chí The Journal of Soils and Sediments (tạm dịch là tạp chí Đất và Trầm tích), dựa trên phân tích mẫu than, đất và dữ liệu khí hậu.

Qua kết quả phân tích, các nhà khoa học phát hiện ra rằng vào khoảng 8.200 năm trước, sự thay đổi trong bức xạ Mặt Trời do biến động quỹ đạo Trái Đất đã gây ra các trận bão sét lớn, dẫn tới cháy thực vật và làm suy thoái đất đồi.

Đất phù sa màu mỡ sau đó bị cuốn trôi xuống thung lũng, buộc các nhóm bộ tộc săn bắt hái lượm khi đó tại phía Nam vùng Levant phải chuyển sang định cư và canh tác nông nghiệp.

Levant là thuật ngữ chỉ khu vực rộng lớn gồm Liban, Syria, Jordan, Israel và các vùng lãnh thổ của Palestine ngày nay.

Lâu nay, có giả thuyết cho rằng sự chuyển đổi từ săn bắt hái lượm sang hoạt động nông nghiệp theo hình thức định canh định cư là một quá trình thuần văn hóa.

Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, các tác giả cho rằng sụp đổ môi trường do khí hậu gây ra mới là yếu tố chính thúc đẩy quá trình nói trên.

Ngoài ra, các nhà khoa học cũng cho rằng mô hình nông nghiệp theo phương thức định canh định cư có thể đã hình thành từ nhu cầu sinh tồn, mà không hoàn toàn xuất phát từ những tiến bộ trong kỹ thuật tạo tác công cụ làm việc hay thuần hóa vật nuôi./.

(TTXVN/Vietnam+)

 

Indonesia từ chối đề nghị bán gạo cho Malaysia

Indonesia đã từ chối lời đề nghị mua gạo từ Malaysia. Bộ trưởng Nông nghiệp giải thích rằng Indonesia chưa thể xuất khẩu gạo thời điểm này vì vẫn đang trong giai đoạn đảm bảo dự trữ trong nước.

Indonesia từ chối đề nghị bán gạo cho Malaysia. Ảnh minh họa: thejakartapost

Theo phóng viên TTXVN tại Jakarta, Indonesia đã từ chối lời đề nghị mua gạo từ Malaysia. Bộ trưởng Nông nghiệp Andi Amran Sulaiman giải thích rằng Indonesia chưa thể xuất khẩu gạo vào thời điểm này vì vẫn đang trong giai đoạn cố gắng đảm bảo dự trữ trong nước. Lượng dự trữ gạo quốc gia (CBP) tại Cơ quan Hậu cần Nhà nước (Bulog) hiện ở mức 3,3 triệu tấn. Cơ quan này đặt mục tiêu tăng mức dự trữ lên 4 triệu tấn vào tháng Năm tới.

Bộ trưởng Sulaiman cho biết, Malaysia đã đề nghị nhập khẩu gạo từ Indonesia do nguồn cung trong nước không đủ. Tình trạng thiếu hụt nguồn cung đã đẩy giá gạo lên cao ở Malaysia và quốc gia này hiện chỉ có thể đáp ứng khoảng 40-50% nhu cầu gạo nội địa.

Trong khi đó, Bộ trưởng Nông nghiệp và An ninh lương thực Malaysia, ông Mohamad Bin Sabu, cho biết, mặc dù chưa có chỉ thị chính thức nào về việc nhập khẩu gạo từ Indonesia, nhưng Bộ sẽ thảo luận thêm về kế hoạch này.

Malaysia cũng bày tỏ mong muốn hợp tác với Indonesia để tăng sản lượng gạo trong nước thông qua trao đổi công nghệ nông nghiệp và đào tạo.

Ngoài Malaysia, Bộ trưởng Amran cho biết Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Nhật Bản cũng đang dự kiến sẽ đến Indonesia vào cuối tháng 4/2025 để thảo luận về nguồn cung cấp gạo. Giá gạo tại Nhật Bản đã tăng trong 15 tuần liên tiếp bất chấp nỗ lực của chính phủ nhằm ổn định thị trường bằng cách giải phóng nguồn cung dự trữ.

Dựa trên Khảo sát khung mẫu khu vực (KSA) tháng 2/2025 của Cục Thống kê Indonesia (BPS), tổng sản lượng lúa trong giai đoạn từ tháng 1-5/2025 ước tính đạt 34,47 triệu tấn. Theo chuyên gia nông nghiệp Khudori của Hiệp hội Kinh tế Chính trị Indonesia (AEPI), con số này tương đương với khoảng 16,62 triệu tấn gạo phục vụ nhu cầu tiêu dùng của người dân được sản xuất trong cùng kỳ, tăng 1,83 triệu tấn, tương đương 12,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Theo BPS, năm 2024 sản lượng gạo phục vụ nhu cầu lương thực của người dân đạt khoảng 30,62 triệu tấn, giảm 1,54% so với sản lượng năm 2023 là 31,1 triệu tấn.

Indonesia đang nỗ lực hướng đến mục tiêu tự chủ lương thực, sản lượng và dự trữ gạo trong nước đã tăng mạnh, cho phép nước này ngừng nhập khẩu gạo trong năm 2025.

Đỗ Quyên (P/v TTXVN tại Jakarta)

 

Bốn định hướng lớn của ngành nông nghiệp và môi trường để thu hút FDI

Việt Nam có 729 dự án FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường. Khu vực FDI đã tạo ra khoảng 500.000 việc làm trực tiếp và gián tiếp trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy vậy, các dự án FDI trong lĩnh vực này vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục…

Phát biểu tại Diễn đàn Nhịp cầu Phát triển Việt Nam 2025 (lần thứ 5) – Vietnam Connect Forum 2025, do Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược (Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương) và Tạp chí Kinh tế Việt Nam phối hợp tổ chức ngày 23/4/2025, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng cho biết Diễn đàn có ý nghĩa hết sức quan trọng, là nơi hội tụ những ý tưởng, chiến lược và định hướng phát triển trong bối cảnh mới.

“Sự kiện này không chỉ là dịp để chúng ta trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm mà còn là cơ hội để huy động các nguồn lực, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế”, Thứ trưởng phát biểu.

Thứ trưởng cho biết trong giai đoạn tới, lĩnh vực nông nghiệp và tài nguyên môi trường sẽ tiếp tục là một trong những trụ cột quan trọng, có tiềm năng và dư địa rất lớn để tổ chức thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Đây cũng là những lĩnh vực có nhiều cơ hội thu hút đầu tư từ doanh nghiệp trong và ngoài nước, đặc biệt là đầu tư FDI.

VIỆT NAM CÓ 729 DỰ ÁN FDI CÒN HIỆU LỰC TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP VÀ MÔI TRƯỜNG

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng số hóa, Việt Nam, với vị thế ngày càng được nâng cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu, cùng với nền nông nghiệp đa dạng, hệ sinh thái phong phú, dân số trên 100 triệu người, đặc biệt với phong tục tập quán, văn hóa rất đa dạng, là một không gian dư địa có thể tạo nên những giá trị đặc sắc trong chuỗi giá trị toàn cầu. Bên cạnh đó, việc Việt Nam đã ký các Hiệp định thương mại tự do là điều kiện thuận lợi để vươn lên trở thành trung tâm sản xuất, chế biến nông sản và môi trường xanh của khu vực, góp phần thu hút FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.

Tính đến cuối năm 2024, Việt Nam có 729 dự án FDI còn hiệu lực trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, với tổng vốn đăng ký gần 11,89 tỷ USD

Tính đến cuối năm 2024, Việt Nam có 729 dự án FDI còn hiệu lực trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, với tổng vốn đăng ký gần 11,89 tỷ USD. Trong tổng số 729 dự án FDI, có 537 dự án thuộc lĩnh vực nông nghiệp, 106 dự án khai khoáng và 86 dự án xử lý nước, rác thải và môi trường. Đây là những con số cho thấy tiềm năng lớn và sức hút ngày càng tăng của lĩnh vực nông nghiệp và môi trường tại Việt Nam đối với các nhà đầu tư quốc tế.

Ngoài ra, nếu tính thêm các ngành hỗ trợ như chế biến, vật tư, thương mại, thì tổng vốn FDI toàn ngành đạt hơn 26 tỷ USD, chiếm khoảng 6% tổng vốn FDI vào Việt Nam.

Khu vực FDI đã tạo ra khoảng 500.000 việc làm trực tiếp và gián tiếp trong lĩnh vực nông nghiệp, góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ, phát triển bền vững nguồn lực, đào tạo nông dân và hình thành các chuỗi cung ứng hiệu quả. Đây có lẽ cũng là một trong những giá trị then chốt, góp phần thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển bền vững trong những năm vừa qua. Đã có nhiều dự án mang lại hiệu quả tốt cả về kinh tế và môi trường. Nhiều tập đoàn hàng đầu thế giới đã chọn Việt Nam làm điểm đến chiến lược, điển hình như Nestlé (Thụy Sĩ), CP Group (Thái Lan), De Heus (Hà Lan), Cargill (Hoa Kỳ), Bayer (Đức) và Zoetis (Hoa Kỳ).

Thứ trưởng Võ Văn Hưng cho biết mới đây Nestlé đã kỷ niệm 30 năm thành lập kể từ khi chính thức bước vào thị trường Việt Nam từ năm 1995, đồng thời công bố kế hoạch đầu tư thêm 75 triệu USD để mở rộng nhà máy. “Câu chuyện của Nestlé là ví dụ điển hình cho thành công của FDI trong lĩnh vực nông nghiệp, bắt đầu chỉ từ các sản phẩm cà phê nhưng nay đã có mặt trong hầu hết các chuỗi cung ứng, gắn bó với cuộc sống thường nhật của người dân. Nestlé không chỉ tạo ra công ăn việc làm, mà còn chú trọng đến môi trường, phát triển bền vững, đào tạo nghề, ứng dụng công nghệ và hướng tới chuyển đổi số trong sản xuất”, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết.

NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CÁC DỰ ÁN FDI TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP VÀ MÔI TRƯỜNG

Tuy nhiên, Thứ trưởng cũng nhấn mạnh mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực, các dự án FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục.

Thứ nhất, phần lớn các dự án FDI có quy mô vừa và nhỏ. Theo thống kê, khoảng 23% số dự án có vốn đăng ký dưới 1 triệu USD, dẫn đến hiệu quả đầu tư chưa cao, khó tạo đột phá trong chuyển đổi mô hình sản xuất.

Thu hút FDI gắn với khí hậu, tăng trưởng xanh, an ninh sinh thái trong bối cảnh biến đổi khí hậu và yêu cầu giảm phát thải toàn cầu.

Thứ hai, phân bố đầu tư chưa đồng đều giữa các vùng. Phần lớn các dự án tập trung ở những khu vực thuận lợi, gần thị trường tiêu thụ, trong khi những vùng khó khăn, nơi có tiềm năng phát triển nông nghiệp bền vững lại chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư chiến lược. Thực tế ở Việt Nam cho thấy, các vùng có điều kiện hạ tầng, giao thông thuận lợi thường có nhiều dự án FDI, trong khi các vùng sâu, vùng xa, vùng núi lại bị hạn chế.

Thứ ba, liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, hợp tác xã, nông dân trong một số trường hợp còn yếu. Việc chuyển giao công nghệ, lan tỏa giá trị gia tăng, phát triển hệ sinh thái địa phương chưa thực sự hiệu quả.

Thứ tư, một số dự án FDI trong lĩnh vực môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu công nghệ xử lý hiện đại, gây tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm nếu không được kiểm soát tốt.

BỐN ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH NÔNG NGHIỆP VÀ MÔI TRƯỜNG NHẰM THU HÚT FDI

Từ những vấn đề trên cùng với các bài học kinh nghiệm và kết quả đạt được, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã đưa ra một số định hướng phát triển.

Một là, trong bối cảnh và yêu cầu nhiệm vụ mới, ngành nông nghiệp và môi trường đã xác lập các mục tiêu, chính sách mang tính chiến lược, như chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp.

“Trước đây, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích đáng kể, tuy nhiên hiện nay chúng ta cần tập trung mạnh mẽ hơn vào kinh tế nông nghiệp đa giá trị, thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện trong lĩnh vực này để tạo ra giá trị gia tăng cao hơn”, Thứ trưởng Võ Văn Hưng nhận định.

Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhấn mạnh đây là một trong những hướng đầu tư phát triển từ nay đến năm 2030 và 2050. Hiện nay, chương trình 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh tại Đồng bằng sông Cửu Long đã giúp cắt giảm khoảng 10 triệu tấn CO₂ mỗi năm. Theo Thứ trưởng, đây là một bài học rất thiết thực trong quá trình tổ chức phát triển, chuyển đổi số và hướng đến 1 triệu nông dân sản xuất, áp dụng công nghệ số trong truy xuất nguồn gốc và thương mại. Đặc biệt, ngành nông nghiệp đang hướng đến việc xây dựng chứng chỉ carbon của rừng và các nguồn tài nguyên khác.

Hai là, phát triển văn hóa và thương hiệu nông sản gắn với địa phương. “Đây có thể nói là một dư địa tiềm năng trong lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam và cũng là một dư địa tăng trưởng quan trọng của ngành, mang lại giá trị gia tăng”, Thứ trưởng cho biết.

Cụ thể, cơ quan chức năng sẽ hỗ trợ nâng cấp các sản phẩm OCOP. Tính đến 4/2025, cả nước đã có 16.286 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên (tăng 394 sản phẩm so với tháng 03/2025), 25,8% sản phẩm 4 sao, 79 sản phẩm 5 sao. Hàng trăm sản phẩm xuất khẩu có uy tín chất lượng quốc tế.

Phát triển văn hóa và thương hiệu nông sản gắn với địa phương là một dư địa tiềm năng trong lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam, và cũng là một dư địa tăng trưởng quan trọng của ngành, mang lại giá trị gia tăng.

Theo Thứ trưởng Võ Văn Hưng, quá trình phân tích cho thấy về số lượng, Việt Nam đã phát triển tương đối mạnh, nhưng vẫn còn một khoảng trống cần các nhà đầu tư FDI tập trung, đó là công tác chế biến và xây dựng các sản phẩm có thương hiệu, giúp đưa sản phẩm ra thị trường, kết nối thị trường và tập trung phát triển thương hiệu quốc gia cho các ngành hàng chủ lực như lúa gạo, cà phê, thủy sản, trái cây, thực phẩm, dược liệu.

Ba là, ưu tiên tài nguyên và môi trường, như xử lý nước thải, rác thải sinh hoạt, công nghiệp, ứng dụng công nghệ tái chế, hoàn nguyên môi trường, năng lượng tái tạo, cải tạo năng lượng sinh học phù hợp với nông nghiệp, cùng với các dự án phục hồi hệ sinh thái tự nhiên, phát triển thị trường carbon. Một vấn đề nữa là quản lý môi trường tự động, dữ liệu lớn và tài nguyên thiên nhiên.

Bốn là, thu hút FDI gắn với khí hậu, tăng trưởng xanh, an ninh sinh thái trong bối cảnh biến đổi khí hậu và yêu cầu giảm phát thải toàn cầu.

“FDI vào lĩnh vực môi trường không chỉ là nhu cầu phát triển mà còn là trách nhiệm và cơ hội. Trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng như các bộ, ngành liên quan rất lớn... Chúng tôi cam kết cùng với các nhà đầu tư và doanh nghiệp FDI tập trung tổ chức thực hiện trên cơ sở cải cách thủ tục hành chính, phát triển vùng nguyên liệu, ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số trong quá trình triển khai, đồng thời thúc đẩy kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, hợp tác xã để lan tỏa công nghệ, giá trị và sinh kế”, Thứ trưởng Võ Văn Hưng khẳng định.

Theo Thứ trưởng, FDI không chỉ là nguồn vốn mà còn là chất xúc tác cho đổi mới sáng tạo, nâng cao nội lực và chuyển đổi mô hình phát triển. Bộ Nông nghiệp và Môi trường không chỉ sẵn sàng chào đón các nhà đầu tư có trách nhiệm mà còn cam kết trở thành người bạn đồng hành tin cậy, cùng kiến tạo một Việt Nam sinh thái, thịnh vượng và bền vững.

Bảo Bình

 

ĐHĐCĐ PAN: Thuế quan của Mỹ không ảnh hưởng quá lớn đến lợi nhuận dù trong kịch bản xấu nhất

Tại ĐHĐCĐ 2025 được tổ chức chiều 23/4, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn PAN cho biết ngành nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ chốt trong chiến lược phát triển của Tập đoàn. Đồng thời khẳng định doanh nghiệp sẽ tiếp tục phát triển tốt trong bối cảnh thuế quan còn nhiều diễn biến khó lường.

Toàn cảnh ĐHĐCĐ Tập đoàn PAN 2025. Ảnh: PAN.

'Tỷ trọng xuất khẩu sang Mỹ của tập đoàn rất nhỏ'

Phát biểu khai mạc đại hội, ông Nguyễn Duy Hưng, Chủ tịch HĐQT PAN Group đánh giá: "Năm 2024 là một năm đầy biến động, không chỉ trên thế giới mà cả tại Việt Nam. Dù vậy, kinh tế Việt Nam vẫn phát triển, và Tập đoàn PAN cũng phát triển rất mạnh.

Ông Nguyễn Duy Hưng, Chủ tịch HĐQT PAN Group.

Ngành nông nghiệp tiếp tục tăng trưởng và giữ vai trò trụ cột khi kim ngạch xuất khẩu đạt gần 63 tỷ USD. Trong bối cảnh như vậy, kết quả kinh doanh của PAN là rất ấn tượng. Doanh thu đạt 16.000 tỷ đồng, tăng 22,5% so với kế hoạch; lợi nhuận sau thuế đạt 1.167 tỷ đồng, vượt 32% kế hoạch.

Sang năm 2025, PAN đặt mục tiêu doanh thu thuần hợp nhất 17.256 tỷ đồng và lãi sau thuế 1.210 tỷ đồng, tăng lần lượt 7% và 4% so với thực hiện 2024. Nếu đạt được, đây sẽ là năm thứ 2 liên tiếp lợi nhuận vượt mốc 1.000 tỷ đồng, đồng thời tiếp tục lập đỉnh mới.

Công ty tiếp tục đặt kế hoạch cổ tức bằng tiền mặt tối thiểu 5%.

Lãnh đạo PAN đánh giá năm 2025 sẽ là giai đoạn đầy thách thức với nhiều biến số khó lường, đặc biệt là với các hoạt động xuất khẩu. Lạm phát và lãi suất tại Mỹ có thể duy trì ở mức cao, gây áp lực lên tỷ giá và chi phí tài chính trong nước, trong khi thị trường nội địa vẫn phục hồi chậm dù được hỗ trợ bởi các chính sách kích cầu của Chính phủ. Dù vậy, ở kịch bản tích cực, PAN kỳ vọng thị trường xuất khẩu và nội địa sẽ thuận lợi hơn, các chính sách thuế của Mỹ không ảnh hưởng trọng yếu, từ đó mở ra cơ hội tăng trưởng vượt kế hoạch.

Trả lời cổ đông về tác động của chính sách thuế quan Mỹ đối với kết quả kinh doanh của Tập đoàn PAN cùng với chiến lược ứng phó của Tập đoàn, Chủ tịch Nguyễn Duy Hưng cho biết: “Tôi có thể khẳng định rằng tác động của thuế quan Mỹ đối với chúng tôi hiện tại là không lớn. Thực tế, tỷ trọng xuất khẩu sang Mỹ, ngay cả trong ngành tôm của Tập đoàn, cũng rất nhỏ. Ngoài việc xuất khẩu sang thị trường Mỹ, thì ảnh hưởng trực tiếp chủ yếu chỉ có xuất khẩu tôm. Mặc dù chúng tôi đã nhận thức vấn đề thuế quan Mỹ trong nhiều năm, nhưng đã chủ động chuẩn bị trước cho tình huống này.

Chúng tôi đã triển khai các chiến lược tìm kiếm và phát triển các thị trường thay thế, đồng thời tập trung vào các sản phẩm có giá trị gia tăng cao để đáp ứng nhu cầu của các thị trường khó tính như châu Âu và Trung Đông. Đặc biệt, đối với các sản phẩm chế biến sâu, các nhà mua hàng của chúng tôi đã chấp nhận trả thuế khi mua theo điều kiện FOB từ Việt Nam, vì vậy những sản phẩm này không bị ảnh hưởng bởi thuế".

Bổ sung thêm, Tổng Giám đốc Nguyễn Thị Trà My cho hay: "Từ sau đại dịch COVID-19, chúng tôi đã tái cấu trúc lại thị trường và sản phẩm. Chúng tôi tập trung vào các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, đặc biệt trong mảng tôm. Sau đại dịch, chúng tôi đã thực hiện việc tái cấu trúc và chuyển trọng tâm sang các sản phẩm có giá trị gia tăng cao để đáp ứng nhu cầu thị trường".

Theo bà Trà My, công ty con của PAN là Khang An hiện đang tập trung vào xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản và châu Âu, đặc biệt là Anh, đối với mảng tôm. Thị trường này đòi hỏi chất lượng rất cao, và PAN đã thành công trong việc đáp ứng yêu cầu về ESG.

"Các nhà nhập khẩu Mỹ, bao gồm cả Costco, đã kiểm tra rất cẩn thận sản phẩm của chúng tôi. Chúng tôi có một tin vui là Costco muốn nhập khẩu trực tiếp tôm vào Mỹ thông qua thương hiệu Kirkland Signature, với giá nhập cao hơn sản phẩm tương tự khoảng 20-25%. Hợp đồng 2.000 tấn đã được ký kết trong tuần trước.

Ngoài việc xuất khẩu sang Mỹ, chúng tôi cũng đã mở rộng hợp đồng với các siêu thị tại Anh, bao gồm cả Waitrose, một chuỗi siêu thị cao cấp hơn cả Tesco. Chiến lược của chúng tôi là tập trung vào các sản phẩm có giá trị gia tăng tối đa và tìm kiếm các thị trường cao cấp ở gần để giảm chi phí vận chuyển, đặc biệt là trong thời kỳ COVID-19 khi chi phí container rất cao", đại diện doanh nghiệp thông tin.

Cũng theo bà Trà My, về mặt lợi nhuận, margin của thị trường Mỹ là khá thấp so với các thị trường khác như Úc, châu Âu và Nhật. Do đó, tác động của thuế, dù trong kịch bản xấu nhất, cũng không ảnh hưởng quá lớn đến lợi nhuận của PAN, ít nhất là trong năm 2025. "Tổng giá trị xuất khẩu sang Mỹ năm 2024 chỉ chiếm 18% tổng giá trị xuất khẩu của chúng tôi, trong đó mảng tôm chiếm 13%. Những con số này nhỏ so với bức tranh doanh thu toàn diện của tập đoàn", lãnh đạo doanh nghiệp cho hay.

Về kế hoạch xuất khẩu trong quý II, PAN dự kiến sản lượng xuất khẩu sẽ đạt 80%. Cùng đó, tiếp tục tìm kiếm các thị trường mới và mở rộng hợp đồng với các khách hàng lớn. Trong những năm tới, tập đoàn tiếp tục tăng trưởng bền vững bằng cách tập trung vào các sản phẩm cao cấp và các thị trường gần để giảm thiểu chi phí vận chuyển.

Dự báo tình hình kinh doanh trong năm 2025 và thời gian tới, Chủ tịch Nguyễn Duy Hưng chia sẻ: “Kết quả kinh doanh quý I của PAN là rất khả quan. Tuy nhiên, tôi thừa nhận rằng môi trường kinh doanh luôn tiềm ẩn khó khăn và khó lường. Chưa bao giờ làm kinh doanh mà không khó khăn, chưa bao giờ ai dám nói chắc cái gì với những diễn biến của thị trường. Các diễn biến thay đổi liên tục khiến chúng tôi không thể dự đoán trước: Hôm nay thế này, ngày mai lại khác, trong ngày kia nó lại có vấn đề, không ai dám có thể dám nói trước được gì cả".

Tuy vậy, lãnh đạo PAN vẫn duy trì kế hoạch tăng trưởng trình ĐHĐCĐ vì kỳ vọng rằng PAN có thể hoàn thành tất cả những gì đã đặt ra. "Lại quay lại câu chuyện từ trước đến nay, tôi luôn luôn làm được những cái gì tôi nói", Chủ tịch PAN cam kết trước cổ đông.

Về biến động giá gạo, việc giảm giá gạo có thể ảnh hưởng ít nhiều đến kết quả kinh doanh của PAN, tuy nhiên lãnh đạo PAN cho rằng đây không phải là yếu tố trọng yếu tác động đến sự phát triển bền vững của tập đoàn. Vinaseed, công ty thành viên của PAN, sẽ tiếp tục tập trung vào việc làm các sản phẩm giá trị gia tăng làm thương hiệu. Đây là chiến lược giúp tập đoàn giảm thiểu tác động của biến động giá cả hàng hóa cơ bản.

Kế hoạch M&A những doanh nghiệp "trùng giấc mơ"

PAN hiện là tập đoàn nông nghiệp, thực phẩm lớn ở Việt Nam, kinh doanh ở nhiều lĩnh vực như: giống cây trồng, nuôi và chế biến tôm xuất khẩu, sở hữu thương hiệu bánh kẹo nội địa, nhà máy chế biến gạo… Do đó, các chiến lược M&A của tập đoàn cũng được nhà đầu tư đặc biệt quan tâm.

Chia sẻ về chiến lược M&A trong thời gian tới, chủ tịch Nguyễn Duy Hưng nhấn mạnh: “Tôi muốn nói rằng tập đoàn PAN có tầm nhìn xây dựng một tập đoàn về nông nghiệp, và chúng tôi mong muốn đóng góp vào việc nâng tầm nông nghiệp Việt Nam. Khi thực hiện M&A, tiêu chí đầu tiên là doanh nghiệp mục tiêu phải "trùng giấc mơ" với hệ sinh thái PAN. Quan trọng không kém là sự đồng hành của người đứng đầu doanh nghiệp mục tiêu, cùng mô hình kinh doanh phù hợp với tập đoàn.

Chúng tôi cũng phải đảm bảo cơ chế kiểm soát, tránh tình trạng nói một đằng làm một nẻo. Trong thực tế, đã có doanh nghiệp chúng tôi nghiên cứu sâu nhưng cuối cùng vẫn quyết định từ chối M&A vì không phù hợp”.

"Hệ sinh thái của chúng tôi có các công ty thành viên với văn hóa khác nhau. Tuy nhiên, nếu tất cả mọi người đều hướng về lợi ích chung, đó là xây dựng tổ chức mạnh mẽ hơn, thì những khác biệt văn hóa sẽ không phải là vấn đề lớn. Mâu thuẫn thường xảy ra khi lợi ích cá nhân không đồng nhất. Sự khác biệt văn hóa đôi khi chỉ là lý do để che đậy những xung đột lợi ích.

Chúng tôi ưu tiên xây dựng một cộng đồng chung minh bạch, nơi mọi người đều có thể hưởng lợi từ sự phát triển. Thành công của tập đoàn không phải là công cụ phục vụ lợi ích cá nhân. Tôi tin rằng, với sự minh bạch trong các quyết định và tỷ lệ cổ phần chiếm đa số, PAN chưa gặp phải những vướng mắc lớn về mâu thuẫn văn hóa hay lợi ích", vị lãnh đạo doanh nghiệp nói thêm.

PV

 

Hỗ trợ phân bón canh tác cà phê cho nông dân xã Chiềng Ngần

Ngày 23/4, Trung tâm Hỗ trợ Nông dân tỉnh Sơn La đã bàn giao 13 tấn phân bón sinh học, phân bón hữu cơ và hơn 10 lít phân bón lá sinh học cho 10 hộ hội viên nông dân bản Ka Láp, xã Chiềng Ngần, thành phố Sơn La.

Lãnh đạo Hội Nông dân tỉnh bàn giao phân bón cho các hộ nông dân bản Ka Láp, xã Chiềng Ngần.

Đây là các hộ đang tham gia mô hình thâm canh, cải tạo cà phê, được triển khai từ tháng 4/2024, với 10 nông dân tham gia, canh tác trên 6 ha cà phê. Qua mô hình, giúp các hộ nông dân ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị, thực hành sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ, tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP đáp ứng yêu cầu xuất khẩu, an toàn vệ sinh thực phẩm theo chuỗi giá trị, góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp an toàn bền vững, gắn với tiêu thụ sản phẩm.

Các hộ nông dân nhận vận chuyển phân bón phục vụ thâm canh, cải tạo cà phê.

Thời gian tới, Hội Nông dân tỉnh sẽ tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn, chuyển giao kỹ thuật canh tác cà phê theo hướng hữu cơ, hướng dẫn nông dân sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ đúng cách, nâng cao chất lượng cà phê Sơn La.

Lam Giang

 

HTX thu hút nông dân làm kinh tế kiểu mới để xóa đói, giảm nghèo

Thời gian qua, hoạt động của các hợp tác xã (HTX) nông nghiệp tại tỉnh Tiền Giang có nhiều chuyển biến tích cực. Mạng lưới các HTX nông nghiệp phát triển mạnh góp phần thu hút nông dân tham gia, tạo việc làm cho lao động nông nhàn, tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị, giải quyết đầu ra cho nông sản hàng hóa, nâng cao thu nhập cho các hộ thành viên.

Theo số liệu thống kê, đến nay tỉnh Tiền Giang có 190 HTX nông nghiệp với hơn 46 nghìn thành viên và hơn 2.000 lao động, tổng vốn hoạt động trên 189 tỷ đồng, bình quân 1 tỷ đồng/HTX. Hoạt động kinh doanh của các HTX nông nghiệp đã góp phần giảm nghèo, tạo việc làm, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các thành viên, tạo điều kiện cho các thành viên học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau để sản xuất; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, tham gia vào chuỗi liên kết sản xuất - chế biến - tiêu thụ sản phẩm.

Nông dân yên tâm sản xuất

Từ tổ hợp tác sản xuất rau an toàn ban đầu, HTX Rau an toàn Tân Đông (xã Tân Đông, huyện Gò Công Đông) đã mạnh dạn nâng lên thành HTX. Với những nỗ lực không ngừng, đến nay, hoạt động sản xuất, kinh doanh của HTX đã phát triển ổn định, bền vững.

Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường, HTX Rau an toàn Tân Đông không ngừng cải tiến công nghệ, áp dụng quy trình sản xuất tiên tiến vào trồng trọt để nâng cao chất lượng sản phẩm.

Hiện nay, HTX sản xuất và cung ứng 49 chủng rau loại rau, củ, quả các loại. Nhờ tuân thủ nghiêm ngặt ghi chép nhật ký sản xuất của thành viên đến ứng dụng bao bì, nhãn mác, địa chỉ truy xuất nguồn gốc mà HTX sớm có được uy tín, từng bước tạo lập thương hiệu.

HTX ký kết hợp đồng cung cấp sản phẩm cho các đối tác như: Siêu thị Co.opmart; Công ty Bách hóa xanh và một số bếp ăn tập thể của tập đoàn, công ty lớn trong và ngoài tỉnh với số lượng từ 1,5 đến 2 tấn mỗi ngày, với các mặt hàng chủ lực như: cải xanh, cải ngọt, cải thìa, mồng tơi, rau muống, rau dền và các mặt hàng rau ăn quả như: bầu, bí xanh, mướp, dưa leo, khổ qua, đậu bắp…

HTX Rau an toàn Tân Đông sản xuất và cung ứng 49 chủng rau loại rau, củ, quả các loại.

Ngoài ra, HTX còn xuất sang thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc khoảng 2 chuyến mỗi tuần với số lượng trên 1 tấn hàng mỗi chuyến, với các mặt hàng như: rau ngót, rau om, củ hành tím…

Với việc tìm kiếm được thị trường đầu ra ổn định, hiện HTX đã ký hợp đồng và bao tiêu sản phẩm cho tất cả các thành viên. Điều này giúp thành viên an tâm sản xuất, đồng hành cùng HTX phát triển. Trong năm 2024, HTX đã tiêu thụ sản phẩm do thành viên sản xuất trên 2.000 tấn rau, củ, quả các loại; doanh thu đạt trên 11 tỷ đồng, tạo thu nhập thường xuyên bình quân 5,5 triệu đồng/tháng/thành viên. Hiện nay, HTX có hơn 100 thành viên canh tác với diện tích khoảng 30 ha, trong đó có hàng chục thành viên sản xuất theo quy trình VietGAP và nhiều thành viên khác tham gia sản xuất rau an toàn.

Cũng như nhiều nông dân khác, trước đây anh Lê Văn Oanh, ấp Chùa Đất Đỏ, xã Tân Đông chỉ quen với sản xuất nông nghiệp theo kiểu truyền thống, 5 công đất trồng rau của anh đến đợt thu hoạch phải phụ thuộc vào thương lái ở chợ, giá cả thì liên tục bấp bênh theo thị trường. Đến khi anh tham gia vào HTX sản xuất Rau an toàn Tân Đông thì mọi chuyện đã khác.

“Từ khi tham gia vào HTX, gia đình tôi được hướng dẫn trồng rau an toàn, theo quy trình VietGAP. Rau đến kỳ thu hoạch sẽ được HTX Rau an toàn Tân Đông thu mua và xuất khẩu ra nước ngoài nên giá cao hơn nhiều so với bán cho thương lái ngoài chợ. Nhờ đó, gia đình tôi có nguồn thu nhập ổn định, có của ăn của để”, anh Oanh cho hay.

Thu hút thành viên nhờ hiệu quả sản xuất

Thời gian qua, hoạt động của các HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Tiền Giang có nhiều chuyển biến tích cực.

HTX Thương mại dịch vụ nông nghiệp sạch Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho được thành lập năm 2017, với 30 thành viên, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất rau màu. Sản phẩm chính là trái dưa lưới chiếm 80% sản lượng. Dưa được sản xuất theo mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đạt chất lượng, đảm bảo an toàn. Đặc biệt, năm 2022, sản phẩm được UBND tỉnh Tiền Giang công nhận đạt OCOP hạng 3 sao.

“Cây dưa lưới là cây trồng ưa sáng nên cần phải trồng ở những nơi có đầy đủ ánh sáng. Để có sản phẩm đạt chất lượng cao, người chăm sóc phải nắm bắt kỹ thuật tốt từ giai đoạn ươm hạt giống đến cung cấp dinh dưỡng, thụ phấn, chọn trái, chọn thời điểm thu hoạch”, chị Lê Thị Kim Chi, Giám đốc HTX cho hay.

Đến nay, số lượng thành viên đã tăng lên trên 100 thành viên chuyên sản xuất trái dưa lưới, có trên 100 nhà lưới. Ngay từ khi thành lập, HTX đã chú trọng sản xuất sản phẩm theo mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đạt chất lượng, đảm bảo an toàn.

Thành viên HTX Thương mại dịch vụ nông nghiệp sạch Mỹ Phong thu hoạch rau màu.

Liên minh HTX tỉnh Tiền Giang cho biết, HTX Nông nghiệp sạch Mỹ Phong là một trong những đơn vị sản xuất dưa lưới lớn nhất Tiền Giang với trên 100 nhà lưới (khoảng 1.000m2/căn), sản lượng từ 60 - 100 tấn/tháng. HTX Mỹ Phong trở thành một trong những HTX nông nghiệp hoạt động hiệu quả cao của tỉnh Tiền Giang với doanh thu hàng chục tỷ đồng mỗi năm, tạo công ăn việc làm ổn định cho hàng chục thành viên. Đồng thời, liên kết bao tiêu đầu ra cho nhiều hộ nông dân trong vùng.

Khi tham gia vào HTX, các thành viên được chuyển giao kỹ thuật trồng dưa lưới, được bao tiêu đầu ra với giá từ 25.000 -30.000 đồng/kg (tùy thời điểm). Hiện nay, đầu ra cho các sản phẩm của HTX rất thuận lợi, ổn định nhờ sự hợp tác được với đối tác lớn là chuỗi cửa hàng Bách Hóa Xanh.

Mỗi tháng, HTX cung cấp cho thị trường từ 60-100 tấn dưa lưới; trong hai năm 2023 – 2024, trung bình mỗi năm HTX đạt con số kỷ lục 1.091 tấn, đạt doanh thu gần 20 tỷ đồng.

Hoạt động của HTX Thương mại dịch vụ nông nghiệp sạch Mỹ Phong có hiệu quả, đời sống người nông dân ổn định và phát triển và còn đóng góp các công tác xã hội, xây dựng địa phương.

Nhân rộng nhiều mô hình HTX nông nghiệp kiểu mới

Liên minh HTX tỉnh Tiền Giang cho biết, ngoài HTX Rau an toàn Tân Đông và HTX Thương mại dịch vụ nông nghiệp sạch Mỹ Phong, tỉnh có nhiều mô hình HTX nông nghiệp kiểu mới hoạt động hiệu quả như: Mô hình HTX Mỹ Tịnh An sản xuất thanh long GlobalGAP xuất khẩu sang châu Âu, châu Mỹ; mô hình HTX nông nghiệp Hiệp Đức sản xuất sầu riêng theo chuỗi giá trị, xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc; mô hình HTX chăn nuôi và thủy sản Gò Công sản xuất gà ta Gò Công VietGAP với nhiều sản phẩm OCOP đạt chuẩn 3, 4 sao, chuyên cung cấp cho các chuỗi siêu thị, nhà hàng lớn; các mô hình sản xuất rau VietGAP ở huyện Gò Công Tây, thị xã Gò Công, huyện Gò Công Đông; mô hình chăn nuôi dê kết hợp với du lịch nông thôn của HTX nông nghiệp Đông Nghi...

Bên cạnh đó, tỉnh có 28 HTX nông nghiệp đã và đang chủ trì thực hiện dự án, kế hoạch liên kết tiêu thụ theo Nghị định số 98 về Chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Có 15 HTX với 22 sản phẩm được chứng nhận sản phẩm OCOP; 59 HTX đạt chứng nhận VietGAP, GlobalGAP.

Để các HTX nông nghiệp phát triển, tỉnh Tiền Giang đặt ra mục tiêu trong thời gian tới là tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đặc biệt là các đặc trưng, bản chất, vai trò của HTX kiểu mới trong bối cảnh hiện nay.

Bên cạnh đó, tỉnh tập trung triển khai thực hiện Chương trình Hỗ trợ HTX giai đoạn 2021 - 2025. Trong đó, tỉnh đẩy mạnh hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng cho HTX để nâng cao năng lực chế biến, bảo quản; đảm bảo hạ tầng logistics đồng bộ trong vùng sản xuất; tiếp tục triển khai chính sách hỗ trợ cán bộ trẻ về làm việc ở HTX; đào tạo, bồi dưỡng, cung cấp, cập nhật kiến thức, thông tin thị trường để nâng cao năng lực kinh doanh, kỹ năng quản lý cho HTX. Đồng thời, phát triển các mô hình HTX liên kết hợp tác và tiêu thụ nông sản với doanh nghiệp, từ đó phát triển các sản phẩm từ các chuỗi liên kết thành sản phẩm OCOP.

Mục tiêu là mỗi địa phương trong tỉnh Tiền Giang cần tập trung xây dựng, hỗ trợ hình thành 3-4 mô hình HTX nông nghiệp hoạt động hiệu quả, gắn với đặc trưng và lợi thế của từng khu vực để là mô hình điểm và nhân rộng như: Mô hình HTX phát triển gắn với du lịch nông thôn, hay mô hình HTX liên kết với doanh nghiệp hình thành chuỗi giá trị quy mô lớn, gắn với truy xuất nguồn gốc, xây dựng sản phẩm OCOP…

Hoàng Hà

 

Liên kết sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị: 'Chìa khóa' giảm nghèo bền vững

Huyện Kon Plông (Kon Tum) đang cho thấy những tín hiệu tích cực trong công cuộc giảm nghèo bền vững thông qua việc khuyến khích và hỗ trợ các HTX tăng cường liên kết sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị.

Mô hình này không chỉ thu hút đông đảo nông dân tham gia mà còn thúc đẩy ứng dụng khoa học kỹ thuật, tạo việc làm ổn định và mang lại nguồn thu nhập đáng kể, hình thành nên những vùng sản xuất hiệu quả kinh tế cao.

Những vùng sản xuất cho hiệu quả cao

Điển hình như HTX Chè sạch Đông Trường Sơn tại xã Hiếu, được thành lập từ năm 2020. Đến nay, HTX đã quy tụ 19 thành viên và liên kết với 46 hộ dân, mở rộng diện tích trồng chè lên đến hơn 60 ha. HTX hoạt động theo một quy trình khép kín, từ khâu sản xuất, thu mua, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo giá trị gia tăng cho cây chè.

Ngay từ những ngày đầu thành lập, ban lãnh đạo HTX đã đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng vùng nguyên liệu sạch, an toàn và chất lượng cao. HTX tích cực hướng dẫn các thành viên và hộ dân liên kết canh tác theo hướng bền vững, thông qua các buổi tập huấn về kỹ thuật canh tác hữu cơ, sử dụng biện pháp sinh học để kiểm soát sâu bệnh, nói không với thuốc trừ sâu và phân bón hóa học. Đồng thời, HTX cũng đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào quy trình trồng và chăm sóc cây chè.

Ngoài việc chuyển giao kỹ thuật, HTX còn hỗ trợ thành viên và người dân liên kết về cải tạo đất, cung cấp phân bón, cây giống, vật tư nông nghiệp và cam kết thu mua sản phẩm với giá cao hơn so với thị trường. Nhờ đó, người dân yên tâm sản xuất và có thu nhập ổn định hơn. HTX đang tạo việc làm thường xuyên cho 30 lao động tại xã Hiếu.

HTX Đông Trường Sơn hỗ trợ người dân phát triển kinh tế.

Các giống chè chủ lực mà HTX đang liên kết trồng như PH8, ô long kim tuyến, hương bắc sơn, shan tuyết đều là những giống có năng suất và chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của Kon Plông, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người trồng. Với giá chè tươi loại 1 (tôm 1 lá) hiện tại là 20.000 đồng/kg và loại 1 (tôm 2 lá) là 15.000 đồng/kg, trung bình mỗi héc ta chè 6-7 năm tuổi có thể mang về khoảng 200 triệu đồng mỗi năm.

Đặc biệt, nhiều hộ dân trong xã trước trồng mì nhưng hiệu quả kinh tế không cao, từ năm 2022, nhờ sự hỗ trợ của HTX Chè sạch Đông Trường Sơn đã chuyển đổi sang trồng chè. Sau 3 năm chăm sóc, vườn chè của các hộ gia đình bắt đầu cho thu hoạch. So với trồng mì, các hộ dân này nhận thấy trồng chè hiệu quả hơn hẳn. Cây chè có thể thu hoạch trong nhiều năm, và càng về sau sản lượng càng cao, mang lại nguồn thu nhập ổn định.

Không chỉ có mô hình trồng chè sạch, Kon Plông còn phát triển nhiều mô hình liên kết sản xuất nông nghiệp hiệu quả khác, tiêu biểu như mô hình trồng cà phê xứ lạnh của HTX cà phê xứ lạnh Măng Đen Forest tại xã Măng Cành.

Trước đây, người dân trồng cà phê theo phương pháp truyền thống, năng suất không cao. Từ khi tham gia HTX, nhiều hộ gia đình được hướng dẫn áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăm sóc, nhờ đó vườn cà phê đã đạt sản lượng hơn 3 tấn/ha, mang về nguồn thu khoảng 60 triệu đồng/ha. Thấy được hiệu quả kinh tế rõ rệt, hiện nhiều gia đình đã mạnh dạn mở rộng diện tích cà phê xứ lạnh.

HTX cà phê xứ lạnh Măng Đen Forest đang liên kết với 14 hộ dân đồng bào dân tộc thiểu số, với tổng diện tích khoảng 25 ha cà phê. Các hộ dân này được HTX hỗ trợ toàn diện từ cải tạo đất, cung cấp cây giống, phân bón, vật tư, hệ thống tưới nhỏ giọt công nghệ Israel đến hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc và bao tiêu sản phẩm.

Góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo

Còn tại HTX Rau hoa và Du lịch Thanh niên Măng Đen (thị trấn Măng Đen) không chỉ sản xuất rau hoa chất lượng cao theo hướng hữu cơ mà còn kết hợp phát triển du lịch trải nghiệm nông nghiệp. Các sản phẩm của HTX đã có mặt trên thị trường trong và ngoài tỉnh. Đặc biệt, nông sản của HTX đã có mặt ở hầu hết các siêu thị lớn tại TP.HCM như I-Mart, Big C, Aeon Mall, Vinmart…, Mỗi tháng, HTX cung cấp ra thị trường khoảng 10 tấn rau củ các loại với giá dao động khoảng 80 ngàn đồng/kg.

Đến nay, HTX Rau hoa và Du lịch Thanh niên Măng Đen đang sở hữu hệ sinh thái sản xuất sản phẩm hữu cơ với 6 mô hình trồng rau củ quả và thảo dược theo tiêu chuẩn hữu cơ tại TP.HCM, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đắk Lắk, Đắk Nông, Kon Tum nên không chỉ tạo việc làm và thu nhập cho người dân địa phương mà còn giúp người dân ở nhiều tỉnh, thành khác hưởng lợi từ mô hình sản xuất rau hữu cơ kết hợp du lịch.

Măng Đen có nhiều điểu kiện thuận lợi để người dân phát triển kinh tế từ trồng rau hữu cơ.

Theo đánh giá của huyện, Kon Plông có 35 HTX và 40 tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, với tổng số khoảng 900 thành viên. Hàng chục mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp, HTX, tổ hợp tác và người sản xuất đang được triển khai hiệu quả trên địa bàn.

Ngoài 3 HTX kể trên, huyện còn có nhiều HTX khác đang hoạt động trong các lĩnh vực như trồng lúa, cây ăn quả, dược liệu, chế biến nông sản, và du lịch cộng đồng, góp phần đa dạng hóa kinh tế và tạo việc làm cho người dân địa phương. Những mô hình này đã góp phần không nhỏ vào quá trình giảm nghèo của huyện.

Vào thời điểm cuối năm 2021, tổng số hộ nghèo trên địa bàn huyện Kon Plông còn 3.353 hộ (chiếm tỷ lệ 44,4% dân số toàn huyện). Đến cuối năm 2022, tổng số hộ nghèo của huyện giảm còn 2.744 hộ (chiếm tỷ lệ 36%). Cuối năm 2023, số hộ nghèo của huyện giảm còn 1.731 hộ (chiếm tỷ lệ 22,38%). Và đến cuối năm 2024, số lượng hộ nghèo giảm xuống còn 942 hộ (chiếm tỷ lệ 11,73%).

Đưa tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 7%

Nhận thấy rõ vai trò của mô hình HTX trong công tác giảm nghèo, huyện Kon Plông cũng chú trọng đến việc hỗ trợ các HTX tiếp cận vốn, đất đai và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.

Đặc biệt, dưới sự tư vấn, định hướng của Liên minh HTX Việt Nam kết hợp với chính quyền địa phương huyện, việc tập huấn, tư vấn thành lập, ứng dụng khoa học kỹ thuật, xúc tiến thương mại đã được chú trọng..

Một số HTX ở Kon Plông đã được hưởng lợi từ các chương trình, đề án hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, HTX của cả Trung ương và tỉnh.

Tiêu biểu như HTX nông nghiệp Tuyết Sơn được tạo điều kiện vay vốn để hỗ trợ mua sắm trang thiết bị đổi mới công nghệ phục vụ sản xuất kinh doanh. HTX Ánh Dương được hỗ trợ vốn để xây dựng trụ sở. Ngoài r,a còn một số HTX được thuê đất để hoạt động sản xuất kinh doanh, như: HTX nông lâm nghiệp, thương mại và dịch vụ Ngọc Tem, HTX nông nghiệp Tuyết Sơn Kon Plông; HTX Lan rừng Măng Đen, HTX Rau hoa và du lịch thanh niên Măng Đen...

Đặc biệt, từ chính sách ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới, Liên minh HTX Việt Nam hỗ trợ mua máy chiết xuất cao sâm và thảo dược cho HTX nông nghiệp Tuyết Sơn Kon Plông và mua máy sấy chuối cho HTX Ánh Dương…

Nhờ đó, ngày càng có nhiều hộ dân tích cực tham gia xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, ứng dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng nông sản và mang lại hiệu quả kinh tế bền vững, từng bước đẩy lùi đói nghèo.

Đây cũng là nền tảng vững chắc để huyện hoàn thành mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo dưới 7% vào cuối năm 2025.

Trí Chiến

 

Nông nghiệp công nghệ cao cần thêm nguồn lực từ doanh nghiệp

Dù được xem là trụ đỡ của nền kinh tế, nhưng nông nghiệp Việt Nam vẫn chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư. Chỉ 1 - 2% doanh nghiệp trong nước hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và chưa đến 3% trong số đó ứng dụng công nghệ cao.

Nút thắt từ đất đai, vốn và chính sách

Nhiều năm qua, xu hướng đầu tư vào nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp xanh và dịch vụ nông nghiệp đang dần trở nên rõ nét hơn trong chiến lược phát triển của một số doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo thống kê từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, số lượng doanh nghiệp thực sự “dấn thân” vào lĩnh vực này vẫn còn rất hạn chế, chỉ chiếm khoảng 1 - 2% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên cả nước.

Tính đến nay, Việt Nam có khoảng 50.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, trong tổng số hơn 900.000 doanh nghiệp toàn quốc. Trong số này, chưa đến 300 doanh nghiệp được xác định là có ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, và chỉ khoảng 50 doanh nghiệp đạt chứng nhận “nông nghiệp công nghệ cao”, tức là chưa đến 3% tổng số doanh nghiệp nông nghiệp.

Đây là nghịch lý nếu đặt trong bối cảnh nông nghiệp hiện đóng góp gần 15% GDP và vẫn là chỗ dựa vững chắc cho nền kinh tế trong bối cảnh biến động toàn cầu.

Nông nghiệp đóng góp gần 15% GDP quốc gia, là ngành kinh tế nền tảng đảm bảo an sinh xã hội, nhưng cũng là lĩnh vực chịu nhiều rủi ro.

Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến, rào cản lớn nhất hiện nay khiến doanh nghiệp không mặn mà đầu tư vào nông nghiệp là do thiếu quỹ đất quy mô lớn, thiếu vốn đầu tư và thiếu kết nối hiệu quả với các viện nghiên cứu, trường đại học và chuyên gia công nghệ.

Thứ trưởng Tiến chỉ rõ, bên cạnh các vấn đề hạ tầng yếu kém như giao thông, thủy lợi, năng lượng, thì chính sách khuyến khích đầu tư vẫn còn chồng chéo, thiếu nhất quán. Thêm vào đó, việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, một yếu tố sống còn trong các mô hình nông nghiệp công nghệ cao, cũng chưa được đảm bảo hiệu quả.

Dưới góc độ doanh nghiệp, ông Hoàng Quang Phòng, Phó chủ tịch thường trực Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhận định: “Chúng ta không thể yêu cầu doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nếu môi trường kinh doanh không thuận lợi”. Theo ông, các địa phương cần nhất quán về quy hoạch nông nghiệp, đồng thời tạo lập hành lang pháp lý ổn định, minh bạch, hướng đến phát triển bền vững và xanh hóa sản xuất.

Ông Phòng cũng nhấn mạnh vai trò của chính sách tài chính ưu đãi, từ đơn giản hóa thủ tục vay vốn, cấp vốn đầu tư ban đầu, đến triển khai các gói tín dụng xanh, nhằm giúp doanh nghiệp vượt qua rào cản ban đầu về tài chính, đây chính là yếu tố khiến không ít nhà đầu tư phải chùn bước.

Cần chính sách “mở đường”, hỗ trợ nghiên cứu và bảo vệ sản xuất

Ngoài việc hỗ trợ ban đầu, theo ông Đặng Kim Sơn, Phó chủ tịch thường trực Hiệp hội Doanh nghiệp Nông nghiệp Ứng dụng Công nghệ cao, điều quan trọng là hình thành các chuỗi giá trị hoàn chỉnh, nơi doanh nghiệp “đầu tàu” giữ vai trò chế biến sâu, nâng cao giá trị sản phẩm, dẫn dắt thị trường, đồng thời tạo động lực cho các doanh nghiệp vệ tinh, nông dân cùng tham gia.

Việc phát triển các cụm liên kết ngành, tổ hợp nông nghiệp công nghệ cao, khu công viên nông nghiệp công nghệ cao cũng được xem là hướng đi tất yếu, giúp ngành nông nghiệp chuyển mình thực sự thành một ngành kinh tế kỹ thuật, hiện đại và có năng suất cao.

Nhiều doanh nghiệp cũng đề xuất Chính phủ tăng cường chính sách hỗ trợ nghiên cứu - phát triển (R&D) trong lĩnh vực nông nghiệp, nhất là với công nghệ sinh học, tự động hóa và số hóa trong sản xuất. Bảo vệ thị trường nội dung từ hàng nhập vào, không rõ nguồn gốc, đồng thời tăng cường các giải pháp bảo vệ thương mại phòng là điều cấp thiết để giữ vững “sân nhà”.

Bên cạnh đó, các chuyên gia và nhà quản lý cho rằng cần khẩn trương mở rộng mô hình hợp tác công - tư (PPP) trong nông nghiệp. Đây được coi là chìa khóa để tạo sự liên kết bền chặt giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nông dân, hướng đến việc hình thành các vùng nguyên liệu ổn định.

Thực tế cho thấy, mô hình hợp tác công - tư (PPP) khi được triển khai đúng hướng đã mang lại hiệu quả rõ nét trong một số ngành hàng nông nghiệp chủ lực. Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tính đến cuối năm 2024, đã có 15 chuỗi ngành hàng thí điểm theo mô hình PPP, thu hút sự tham gia của hơn 60 doanh nghiệp trong nước và quốc tế, tập trung vào các lĩnh vực như cà phê, hồ tiêu, chè, gạo, rau quả và thủy sản.

Điển hình như chuỗi PPP ngành hàng cà phê tại Tây Nguyên với sự tham gia của các doanh nghiệp lớn như Nestlé, JDE (Jacobs Douwe Egberts) và Simexco đã giúp nâng cao năng suất cà phê lên 2,7 tấn/ha, cao hơn mức trung bình cả nước khoảng 30%. Ngoài ra, mô hình còn hỗ trợ nông dân tiếp cận kỹ thuật canh tác bền vững, bảo tồn tài nguyên đất và nước, đồng thời tạo điều kiện để cà phê Việt Nam tiếp cận sâu hơn vào các thị trường khó tính như EU và Nhật Bản.

Tương tự, mô hình PPP ngành hàng hồ tiêu tại Bình Phước và Đồng Nai đã góp phần tăng thu nhập cho nông dân từ 20 - 25% nhờ ứng dụng quy trình sản xuất sạch, kiểm soát dư lượng và liên kết với doanh nghiệp chế biến để nâng cao giá trị xuất khẩu.

Hiện, nông nghiệp đóng góp gần 15% GDP quốc gia, là ngành kinh tế nền tảng đảm bảo an sinh xã hội, nhưng cũng là lĩnh vực chịu nhiều rủi ro do biến đổi khí hậu, dịch bệnh, thị trường bấp bênh. Do đó, việc tạo điều kiện để doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào lĩnh vực này chính là lời giải cho bài toán tái cấu trúc ngành nông nghiệp, hướng tới hiện đại, xanh, số hóa và tuần hoàn.

Linh Nguyễn

 

ĐBSCL đối mặt với xâm nhập mặn nghiêm trọng mùa khô 2025

Mùa khô 2025, xâm nhập mặn tại ĐBSCL diễn biến phức tạp, ảnh hưởng sâu rộng đến sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người dân, đòi hỏi các biện pháp ứng phó kịp thời.

Xâm nhập mặn lan rộng

Trong mùa khô năm 2025, tình trạng xâm nhập mặn tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) diễn biến phức tạp và nghiêm trọng hơn so với trung bình nhiều năm. Theo Cục Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, từ cuối tháng 2 đến đầu tháng 3/2025, xâm nhập mặn bắt đầu tăng dần với ranh mặn 4g/l xâm nhập sâu vào các cửa sông Cửu Long.

Ảnh minh họa.

Đặc biệt, trong tháng 4/2025, khu vực ĐBSCL tiếp tục đối mặt với nguy cơ xâm nhập mặn sâu vào nội đồng, đặc biệt là ở các khu vực ven sông Hậu, Tiền và Vàm Cỏ Tây. Tình trạng này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống của người dân. Nhiều diện tích lúa và cây ăn trái bị thiệt hại do thiếu nước ngọt để tưới tiêu. Người dân ở các tỉnh như Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng.

Theo thống kê sơ bộ, toàn vùng có hơn 36.000 ha lúa vụ Đông Xuân bị ảnh hưởng bởi hạn mặn, trong đó hơn 12.000 ha bị thiệt hại trên 70%. Cùng với đó, khoảng 30.000 hộ dân đang phải sử dụng nước sinh hoạt được vận chuyển bằng xe bồn, tàu ghe từ các vùng trữ ngọt lân cận.

Nguyên nhân và các biện pháp ứng phó

Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng xâm nhập mặn nghiêm trọng trong mùa khô 2025 là do nền dòng chảy mùa khô ở ĐBSCL tiếp tục duy trì ở mức thấp, làm gia tăng nguy cơ xâm nhập mặn. Bên cạnh đó, hiện tượng El Nino kéo dài khiến lượng mưa giảm mạnh trong mùa mưa 2024, khiến lượng nước trữ trong các hồ chứa thượng nguồn sông Mê Kông bị sụt giảm đáng kể.

Ngoài ra, tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu khiến mực nước biển dâng cao, làm tăng áp lực nước mặn từ biển vào nội đồng. Tình trạng khai thác nước ngầm quá mức cũng góp phần làm sụt lún đất, giảm khả năng giữ nước ngọt và tăng tính dễ tổn thương trước xâm nhập mặn.

Trước tình hình này, các địa phương đã triển khai nhiều biện pháp ứng phó nhằm giảm thiểu thiệt hại. Các công trình thủy lợi như cống ngăn mặn, đập tạm được vận hành linh hoạt để kiểm soát mặn và trữ ngọt. Nhiều địa phương đã tổ chức đo mặn liên tục và thông báo kịp thời cho người dân để chủ động trong việc lấy nước.

Ngoài ra, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với điều kiện hạn mặn cũng được đẩy mạnh. Nhiều mô hình canh tác như tôm – lúa, trồng rau màu luân canh với cây ăn trái đã được áp dụng hiệu quả, giúp người dân thích nghi với điều kiện khắc nghiệt. Các tổ chức, viện nghiên cứu cũng tăng cường hỗ trợ giống cây trồng chịu mặn và giải pháp kỹ thuật để nâng cao năng suất trong điều kiện nước mặn.

Một số dự án lớn về kiểm soát xâm nhập mặn, như hệ thống cống Cái Lớn – Cái Bé, cũng đang được đẩy nhanh tiến độ để đưa vào vận hành trong năm 2025. Đây được xem là các công trình có ý nghĩa chiến lược nhằm bảo vệ vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp của cả nước.

Tình trạng xâm nhập mặn nghiêm trọng trong mùa khô 2025 tại ĐBSCL là lời cảnh báo về những tác động ngày càng rõ rệt của biến đổi khí hậu. Để bảo vệ sinh kế và đời sống của người dân, cần có những hành động quyết liệt và đồng bộ từ các cấp chính quyền, ngành chức năng và cộng đồng.

Việc đầu tư vào hạ tầng thủy lợi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nâng cao nhận thức cộng đồng và tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý tài nguyên nước là những giải pháp cần thiết để ĐBSCL có thể thích ứng và phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng.

Bích Ngọc

 

Doanh nhân Phạm Thị Kiều Oanh, Nhà sáng lập, Giám đốc điều hành Rueco: Làm nông nghiệp bằng sự tử tế

Không chỉ tiên phong với mô hình lúa - rươi tại Việt Nam, chị Phạm Thị Kiều Oanh còn dành trọn tâm huyết để gìn giữ những giá trị văn hóa ẩm thực truyền thống thông qua việc xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp sạch, lành và bền vững.

Mô hình lúa - rươi đầu tiên tại Việt Nam

Trước khi nông nghiệp sinh thái hay nông nghiệp xanh trở thành xu hướng, khái niệm “lúa - rươi” vẫn còn rất xa lạ. Ở Kiến Thụy (Hải Phòng) và Tứ Kỳ (Hải Dương), tại những cánh đồng rươi khi ấy, cây lúa chỉ được trồng lấy lệ, chủ yếu phục vụ làm thức ăn cho gia súc, gia cầm.

Xuất phát từ nỗi trăn trở về thực phẩm bẩn và khao khát tìm một loại gạo thực sự sạch cho chính mình và cộng đồng, năm 2017, chị Phạm Thị Kiều Oanh quyết định khởi nghiệp với mô hình lúa - rươi. Thời điểm đó, tại Việt Nam, mô hình này chưa từng được thử nghiệm một cách bài bản.

“Tôi tự đặt câu hỏi, tại sao không trồng các giống lúa tốt, để có gạo sạch cho chính mình và cho nhiều người khác, trong bối cảnh thực phẩm bẩn là vấn đề nhức nhối”, Nhà sáng lập, CEO Công ty cổ phần Sinh thái ruộng rươi (Rueco) chia sẻ về lý do khởi nghiệp.

Theo chị Oanh, rươi là loại sinh vật cực kỳ nhạy cảm với hóa chất, chỉ có thể tồn tại trong môi trường tự nhiên thuần khiết, hoàn toàn không có phân bón hóa học hay thuốc bảo vệ thực vật. Chính đặc điểm này khiến rươi trở thành “chứng nhận sống” cho những cánh đồng lúa được canh tác theo hướng sinh thái tự nhiên.

Để hiện thực hóa mô hình, chị Oanh một mình vào tận miền Nam tìm giống lúa ngon đem về trồng thử. Đồng thời, chị kiên trì thuyết phục bà con tại Kiến Thụy cùng canh tác lúa theo phương pháp mới. Vụ đầu tiên chỉ thu được khoảng 8 tấn lúa, nhưng đó là những hạt gạo mở đường cho một hướng đi hoàn toàn khác biệt. Chị thu mua và chủ động trả giá gấp đôi thị trường để khuyến khích bà con cùng chuyển đổi.

Chỉ canh tác 1 vụ mỗi năm (bắt đầu từ sau Tết Nguyên đán và thu hoạch vào tháng 6), lúa - rươi cho năng suất không cao. Nhưng bù lại, hạt gạo có hương thơm đặc trưng, mềm dẻo, giá trị dinh dưỡng vượt trội, nhờ được nuôi dưỡng trong hệ sinh thái cộng sinh độc đáo: lúa che nắng cho rươi, rươi làm đất tơi xốp và màu mỡ.

Sau mùa thu hoạch, thân lúa và trấu được hoàn trả về ruộng làm nguồn thức ăn tự nhiên cho rươi tiếp tục sinh trưởng. Mô hình này không chỉ sản xuất gạo sạch, mà còn góp phần tái tạo đất, duy trì đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường.

Cuối năm 2017, chị Oanh mang gạo ruộng rươi đi giới thiệu tại hội chợ nông sản Nhật Bản. Dù chưa thể xuất khẩu do sản lượng chưa đủ và rào cản thương mại của nước bạn, sản phẩm của Rueco vẫn được đón nhận nồng nhiệt. “Có một vị quản lý ăn thử cơm từ gạo ruộng rươi, thấy ngon quá, ông ấy lập tức gọi thêm nhiều người khác đến ăn cùng”, chị Oanh tự hào kể.

Phát triển hệ sản phẩm sinh thái và lành mạnh

Cùng với những hạt gạo ruộng rươi đầu tiên, Rueco từng bước mở rộng danh mục sản phẩm, từ rươi tươi đến các món chế biến như chả rươi, rươi kho, nem rươi… Các sản phẩm của Rueco hiện đã có mặt tại hơn 200 điểm bán, trong đó có nhiều chuỗi thực phẩm sạch uy tín như Sói Biển, Bác Tôm, Xanh Sẫm, Ecofood, Miền Xanh, Tâm Đạt, Homefood...

Không dừng lại ở đó, chị Oanh tiếp tục sứ mệnh kết nối sản xuất và tiêu dùng, nâng tầm nông sản bản địa, góp phần giữ gìn và lan tỏa văn hóa ẩm thực truyền thống. Rueco đang đồng hành cùng nhiều cộng đồng địa phương để phát triển vùng nguyên liệu đạt chuẩn sinh thái, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, giúp bà con ổn định thu nhập.

Tiêu biểu là tại bản Bướt (Vân Hồ, Sơn La) - nơi chưa có điện vào thời điểm Rueco khảo sát, năm 2019. Nhận thấy tiềm năng từ môi trường nguyên sơ và có được sự đồng thuận của người dân, Rueco đã đồng hành cùng 59 hộ dân phát triển mô hình canh tác hữu cơ theo tiêu chuẩn PGS (chứng nhận đảm bảo sản phẩm được sản xuất đúng quy trình, tuân thủ các quy định của sản xuất hữu cơ), với các giống bản địa như đậu xanh lòng vàng, đậu đen lòng xanh, vừng đen… Bên cạnh việc hỗ trợ tư vấn đóng gói sản phẩm và kết nối đầu ra, Rueco còn khuyến khích người dân phát triển du lịch sinh thái, làm homestay, tạo thêm nguồn sinh kế bền vững.

Rueco cũng đồng hành cùng bà con Giộc Sâu (Trùng Khánh, Cao Bằng) trong dự án tăng cường sinh kế cho vùng bảo tồn loài vượn Cao Vít - một trong những loài linh trưởng quý hiếm nhất thế giới. Rueco hỗ trợ bà con duy trì vùng nguyên liệu gạo nếp Ong và gạo tẻ bản địa, đồng thời kết nối tiêu thụ sản phẩm, giúp người dân sống được bằng nông nghiệp sinh thái, từ đó góp phần bảo tồn đa dạng sinh học.

“Muốn người dân yêu nông nghiệp, gắn bó với bản làng, thì trước hết, họ phải sống được từ đó. Nông nghiệp sinh thái không thể tách rời du lịch sinh thái và mô hình kinh tế cộng đồng”, chị Oanh chia sẻ.

Gìn giữ và lan tỏa ẩm thực truyền thống Việt Nam

Từ những vùng nguyên liệu đạt chuẩn, chị Oanh và đội ngũ Rueco tiếp tục phát triển các dòng sản phẩm chế biến sẵn mang đậm hồn Việt như kẹo lạc, kẹo vừng, kẹo dồi, mật mía… Rueco còn hợp tác với các làng nghề truyền thống, cung cấp nguyên liệu sạch để làm ra các sản phẩm như chè lam, bánh gio, bánh tẻ, bánh giò, bánh gai… Như vậy, sản phẩm vừa giữ được phương pháp chế biến cổ truyền, vừa đáp ứng các tiêu chuẩn vệ sinh, chất lượng hiện đại.

Trong bối cảnh thực phẩm ngoại nhập ngày càng lấn át, Nhà sáng lập xác định rõ sứ mệnh của Rueco là trở thành doanh nghiệp tiên phong trong việc bảo tồn và lan tỏa giá trị ẩm thực truyền thống Việt Nam - thông qua hệ sinh thái sản phẩm nông nghiệp lành mạnh, truy xuất được nguồn gốc, thân thiện với môi trường.

“Trước kia, Rueco là đơn vị đi đầu trong chuỗi sản phẩm lúa - rươi. Giờ đây, chúng tôi tái định vị là doanh nghiệp dẫn đầu trong chế biến, phân phối các sản phẩm sinh thái. Mong muốn lớn nhất của tôi là Rueco có thể đưa thực phẩm sạch, thực phẩm lành đến với cộng đồng, bằng sự tử tế”, chị Phạm Thị Kiều Oanh khẳng định.

Nhung Bùi

 

Hiếu Giang tổng hợp

 

 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop