Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 27 tháng 5 năm 2024

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 27 tháng 5 năm 2024

 

Nhãn trái vụ được giá

 

Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Thời điểm này, một số hộ nông dân trên địa bàn huyện Xuyên Mộc (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) đã thu hoạch nhãn trái vụ. Năm nay, do thời tiết nắng nóng, sản lượng giảm nhưng giá bán cao nên nông dân có thu nhập ổn định.

 

 

Nông dân xã Hòa Hiệp (huyện Xuyên Mộc) thu hoạch nhãn trái vụ.

Tại xã Hòa Hiệp, huyện Xuyên Mộc-địa phương có diện tích trồng nhãn xuồng xử lý trái vụ lớn của tỉnh, thời điểm này nhãn trái vụ đã bắt đầu cho thu hoạch.

Gia đình ông An Đình Doan (ấp Phú Sơn) đang thu hoạch trái vụ 1,3ha nhãn xuồng cơm vàng. Đây là năm thứ 8 gia đình ông làm nhãn trái vụ. Ông Doanh cho hay, năm nay, sản lượng nhãn chỉ đạt hơn 10 tấn, thấp hơn năm ngoái 10% do ảnh hưởng của thời tiết. Sản lượng giảm nhưng giá bán đang ở mức cao từ 39-40 ngàn đồng/kg, trong khi canh tác theo hướng hữu cơ nên sau khi trừ chi phí, ông còn lời khoảng 300 triệu đồng, cao gấp 2 lần so với nhãn chính vụ.

Vườn nhãn 2,5ha của ông Lê Văn Tường (ấp Phú Lâm) cũng đang vào mùa thu hoạch trái vụ, với sản lượng dự kiến 25 tấn. So với nhiều nhà vườn, lợi nhuận ông Tường thu về cao hơn do nhãn chủ yếu xuất bán cho hệ thống siêu thị của Co.op Mart với giá bán 55-57 ngàn đồng/kg. Ông Lê Văn Tường cho biết, dù vụ nhãn trái vụ năm nay làm sớm và khó khăn hơn do thời tiết nắng nóng, sản lượng giảm nhưng đầu ra ổn định, giá bán cao nên gia đình ông vẫn thu lời hơn 1 tỷ đồng, cao hơn nhiều so với nhãn chính vụ.

Xã Hòa Hiệp có gần 224ha nhãn, chủ yếu là xuồng cơm vàng và nhãn Thái Ido, tập trung ở các ấp: Phú Quý, Phú Sơn và Phú Lâm. Trong số đó, khoảng 50% diện tích nhãn được nông dân áp dụng kỹ thuật xử lý trái vụ. Theo Hội Nông dân xã, để có nhãn trái vụ sớm, nông dân phải xử lý từ tháng 10-12 năm ngoái bằng cách cắt cành, tỉa nhánh, bón phân giúp kích thích cho cây nhãn ra hoa-đậu trái. Với cách làm này, từ đầu tháng 5, nhãn đã cho thu hoạch.

Ông Nguyễn Phong Vũ, Chủ tịch Hội Nông dân xã Hòa Hiệp cho biết, năm nay dù thời tiết nắng nóng kéo dài nhưng nhiều nhà vườn chủ động được nguồn nước tưới, tập trung xử lý trái vụ nên sản phẩm có giá cao hơn. Hiện nay, nhãn trái vụ có giá bán khoảng 40-57 ngàn đồng/kg đối với nhãn xuồng cơm vàng; 30-35 ngàn đồng/kg nhãn Thái Ido, cao hơn 1-1,5 lần so với nhãn chính vụ, giúp nông dân tăng lợi nhuận.

“Với kỹ thuật xử lý trái vụ, cùng với việc chuyển dần canh tác sang hướng hữu cơ đã giúp nông dân giảm chi phí đầu tư, chăm sóc, nâng cao chất lượng trái nhãn, ổn định thu nhập, đồng thời giúp cây nhãn ngày càng khẳng định được vị thế cây trồng chủ lực tại địa phương”, ông Vũ thông tin.

Bài, ảnh: ĐÔNG HIẾU-PHONG VŨ

 

Làm giàu nhờ kiên trì với cây nhãn

 

Nguồn tin: Báo Bình Phước

Ấp Thanh An, xã Thanh Lương, thị xã Bình Long là vùng đất trồng nhãn có tiếng của tỉnh Bình Phước. Giai đoạn 2017-2019, diện tích trồng nhãn của ấp Thanh An là 450 ha. Sau khi dịch Covid-19 bùng phát, nông dân gặp khó khăn trong tiêu thụ trái nhãn do giá cả lên xuống không ổn định. Nhiều hộ dân chuyển đổi sang cây trồng khác, diện tích nhãn còn lại trên địa bàn xã hiện khoảng 70 ha. Tuy vậy, nhãn vẫn là cây trồng cho năng suất cao, mang lại thu nhập khá cho nhiều hộ nông dân.

THỦY CHUNG VỚI CÂY NHÃN

Những năm đầu đến lập nghiệp ở ấp Thanh An, gia đình ông Nguyễn Văn Tiến trồng 4 ha nhãn tiêu da bò. Giống nhãn này có đặc điểm cơm dày, hạt nhỏ như hạt tiêu, vỏ màu vàng như da bò, vị ngọt thanh được nhiều người ưa chuộng.

 

 

Vườn nhãn của hộ ông Nguyễn Văn Tiến ở ấp Thanh An, xã Thanh Lương đang ra hoa xổ nhụy

Do cây nhãn trồng 3 năm mới cho thu hoạch đợt trái đầu tiên nên khi cây còn nhỏ, ông Tiến trồng xen một số cây ngắn ngày như bắp, đậu để lấy ngắn nuôi dài. Đến nay, vườn nhãn của ông Tiến đã trồng 25 năm, gốc to cổ thụ, cây cao khoảng 8-9m. Khi mới trồng, cây còn nhỏ nên mật độ trồng 400 cây/ha. Những năm về sau, ông cưa bớt để cây xòe tán rộng, với mật độ 100 cây/ha. Ông Tiến cho biết, cây nhãn tiêu da bò cho năng suất cao hơn so với một số cây trồng khác, bình quân mỗi hécta cho thu hoạch từ 10-15 tấn. Tuy vậy, người trồng phải am hiểu kỹ thuật chăm sóc thì cây mới đạt năng suất cao.

Vào tháng 5, vườn nhãn của ông Tiến nở rộ hoa. Để vườn nhãn ra hoa đều, ông Tiến chăm sóc vườn ngay sau khi thu hoạch. Sau thu hoạch nhãn khoảng 1 tháng, ông thường cắt tỉa cành già, cành sát mặt đất cho khu vườn thông thoáng. Cây nhãn thường suy yếu sau một mùa mang trái. Trong giai đoạn này, cây cần được bón phân phục hồi, mỗi gốc bón từ 3-5kg lân để tạo bộ rễ mới, kết hợp tưới nước giữ ẩm. Vào tháng 2 hằng năm, ông phát cỏ cho khu vườn và để hoai mục tại chỗ làm phân hữu cơ.

Ông Tiến cho biết: “Trong vườn không nên phát cỏ quá sạch mà giữ một lớp thảm cỏ thực vật, lá khô quanh gốc. Mục đích giữ độ ẩm trong đất, giúp cây phát triển xanh tốt. Hạn chế dùng thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu trên vườn. Vì nếu làm cỏ sạch, côn trùng sẽ bay lên cây gây hại, còn xịt thuốc trừ sâu nhiều thì cây sẽ suy yếu”.

Mỗi năm, ông Tiến thường phát cỏ 2 lần vào đầu và cuối mùa mưa. Còn thuốc trừ sâu chỉ phun khi trái nhãn vào cơm, phòng ngừa sâu đục trái. Sau khi phát cỏ, ông Tiến xử lý kích thích cho cây nhãn bung đọt non. Thời điểm mùa khô nên tưới lần đầu cho vườn ướt đẫm. Những lần tưới tiếp theo cách nhau 3 ngày, lượng nước vừa đủ độ ẩm, kết hợp bón phân NPK cho cây hấp thụ dinh dưỡng.

Ông Tiến chia sẻ: “Khi xử lý cho cây bung đọt non thì bón phân hỗn hợp, với hàm lượng đạm cao. Còn xử lý cho cây ra hoa thì bón chủ yếu kali, hàm lượng chiếm 90% để kích thích bật mầm hoa. Khoảng 15 ngày sau khi bón phân kích thích ra hoa, cây nhãn được khoanh vỏ, siết nước, kích thích trổ hoa. Lưu ý chỉ nên khoanh khoảng từ 2/3 đến 3/4 số cành, phần còn lại để nuôi rễ”.

Tham quan vườn nhãn cổ thụ của ông Tiến, người có kinh nghiệm chỉ cần đếm số vết khoanh trên vỏ sẽ biết được độ tuổi của cây. Khi lá non chuyển sang xanh nhạt, tiếp tục bón phân hỗn hợp, tưới nước giữ ẩm cho đến khi cây ra hoa đều. Hiện vườn nhãn của ông Tiến đã ra hoa 90%. Dự kiến vụ mùa năm nay, vườn sẽ cho thu hoạch khoảng 40-45 tấn trái. Do có đủ nước tưới nên ông thường xử lý cây nhãn ra hoa đậu trái vào mùa nghịch. Vụ nhãn năm nay ông Tiến dự kiến sẽ thu hoạch vào tháng 7, thời điểm này có ít loại cây ăn trái vào vụ nên giá bán thường cao hơn nhãn chính vụ.

CÂY GIẢM NGHÈO

Nhờ chăm sóc đúng quy trình, vườn nhãn của ông Tiến luôn xanh tốt, ít sâu bệnh. Những năm trước, vườn cho thu hoạch từ 45-60 tấn/4 ha. Vụ mùa năm 2023, ông Tiến thu 45 tấn nhãn, giá bán bình quân 10 ngàn đồng/kg, sau khi trừ chi phí lãi khoảng 400 triệu đồng. Nhiều năm nay, gia đình ông phát triển kinh tế chủ yếu nhờ vào cây nhãn. Trước đại dịch Covid-19, giá nhãn từ 20-22 ngàn đồng/kg. Nhờ có thu nhập từ cây nhãn mà ông Tiến xây được nhà lớn kiên cố, mua xe ôtô, kinh tế ổn định.

Ông TRẦN TUẤN DŨNG, Trưởng ấp Thanh An, xã Thanh Lương, thị xã Bình Long: Ấp Thanh An có 900 ha cây ăn trái, trong đó nhãn là cây trồng chủ lực. Sau dịch Covid-19, nông dân gặp khó trong tiêu thụ do giá nhãn xuống thấp, trong khi giá vật tư phân bón tăng cao. Đầu mùa giá thu mua nhãn tại vườn từ 14-15 ngàn đồng/kg, nhưng cuối mùa chỉ còn 6-8 ngàn đồng/kg. Do giá không ổn định nên nhiều hộ dân đã chuyển sang trồng sầu riêng và một số cây ăn trái khác. Diện tích không còn nhiều như trước, nhưng nhãn vẫn là cây cho thu nhập ổn định, góp phần giảm nghèo tại địa phương.

Cũng như gia đình ông Tiến, ở ấp Thanh An, xã Thanh Lương còn có nhiều hộ làm kinh tế khấm khá nhờ trồng nhãn. Trải qua thăng trầm về giá cả, trong khi nhiều hộ chuyển đổi cây trồng, ông Tiến và nhiều gia đình trong ấp vẫn quyết tâm gắn bó với cây nhãn.

Vườn nhãn cổ thụ của hộ ông Tiến là mô hình điểm ở ấp Thanh An, được nhiều người dân trong vùng đến tham quan, học hỏi. Ngoài 4 ha nhãn, ông còn trồng nhiều loại cây khác và chăn nuôi heo. Nhờ đa dạng cây trồng, kết hợp chăn nuôi đã mang về cho gia đình ông thu nhập ổn định, mỗi năm hơn 1 tỷ đồng. Không chỉ là nông dân làm kinh tế giỏi, ông Tiến còn tận tình chia sẻ kinh nghiệm, kỹ thuật chăm sóc cây nhãn cho nhiều người.

Thùy Linh

 

Trồng bưởi da xanh thích ứng hạn mặn

 

Nguồn tin: Báo Đồng Khởi

Gần 20 năm, ông Vương Thành Công (Ba Công), 63 tuổi, ngụ Tổ nhân dân tự quản số 5, ấp Hòa Thanh, xã An Hiệp, huyện Châu Thành (tỉnh Bến Tre) đã gắn bó với cây bưởi da xanh. Cây trồng đạt hiệu quả, tạo thu nhập ổn định cho gia đình. Trước ảnh hưởng gay gắt của nắng nóng và hạn mặn, ông Ba Công đã triển khai những biện pháp bảo vệ cho bưởi da xanh hiệu quả.

 

 

Ông Vương Thành Công bên cạnh ao trữ nước ngọt cung cấp hiệu quả cho vườn bưởi da xanh trong mùa hạn mặn.

Hiện tại, ông Ba Công canh tác 1,1ha bưởi da xanh và đang cho thu hoạch trung bình 2 tấn/công/năm. Bưởi da xanh do ông Ba Công trồng được thương lái tiêu thụ với giá 20 ngàn đồng/kg, cho thu nhập gần 500 triệu đồng/năm.

Ông Vương Thành Công chia sẻ: “Hàng năm, tôi chủ động các giải pháp ứng phó trong và sau mùa hạn mặn. Từ đó, duy trì sự sinh trưởng ổn định cho cây trồng vượt qua mùa hạn mặn; hạn chế tối đa thiệt hại cho cây trồng. Đặc biệt, tôi tuyệt đối không cho cây bưởi da xanh ra hoa và tạo trái vào mùa hạn mặn”.

Trước mùa hạn mặn, ông Vương Thành Công tiến hành cho vét bùn để tạo sự thông thoáng trong ao, mương và bồi gốc cho bưởi da xanh; đậy tàu lá dừa quanh gốc; tưới nước vào chiều mát và rải phân hữu cơ, tạo tơi xốp cho đất cũng như dưỡng cỏ để tạo độ ẩm cho cây bưởi. Trong mùa hạn mặn, hạn chế tối đa rải phân cho cây trồng (đặc biệt là phân đạm); cắt tỉa bớt nhánh cây mang trái để chuyển toàn bộ dinh dưỡng được cung cấp sang nuôi thân, góp phần duy trì sự sống cho cây trồng; phun phân bón lá...

“Khi cây bưởi da xanh ruột hồng đã được duy trì sự sống và vượt qua hạn mặn thành công, nhà vườn cần tiến hành rửa mặn và phèn khi có đủ lượng nước ngọt phục vụ cho sản xuất. Rải phân hữu cơ và kiểm tra độ PH của đất, từ 5‰ trở lên thì cây có thể hấp thụ và sinh trưởng tốt. Hoàn tất những công đoạn đấy, tôi bắt đầu cung cấp phân NPK cho bưởi và tiếp tục quá trình canh tác bình thường để cây trồng ra hoa, kết trái”, ông Ba Công bộc bạch.

Thạc sĩ Lê Trí Nhân - Phó trưởng phòng Tư vấn dịch vụ nông nghiệp thuộc Trung tâm Khuyến nông và Tư vấn dịch vụ nông nghiệp tỉnh cho biết: Giai đoạn hạn mặn năm 2024, trung tâm đã phối hợp với địa phương tăng cường công tác tuyên truyền và tập trung biên soạn tài liệu liên quan đến trồng trọt, chăn nuôi. Từ đó, truyền đạt các tài liệu này đến địa phương thông qua Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện, UBND, Hội Nông dân và Tổ Khuyến nông cộng đồng xã, thị trấn kịp thời truyền tải đến nông dân tham khảo cũng như triển khai ứng dụng các biện pháp ứng phó trong trồng trọt và chăn nuôi hiệu quả trong thời gian diễn ra hạn mặn ở địa phương.

Bài, ảnh: Lê Đệ

 

Bà Rịa - Vũng Tàu: Sầu riêng được giá, nông dân Châu Đức thu lãi cao

 

Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Huyện Châu Đức (Bà Rịa - Vũng Tàu) đang vào mùa thu hoạch sầu riêng. Thương lái thu mua từ 52-68 ngàn đồng/kg, tăng hơn 10% so với cùng kỳ năm 2023 nên nhiều nông dân thu lãi cao.

 

 

Giám đốc HTX Sầu riêng Liên Đức Đoàn Đức Hòa (phải), hỗ trợ việc thu hoạch sầu riêng tại vườn nhà ông Nguyễn Văn Thư, thành viên HTX.

Dù chiều tối 20/5 trời mưa to, đất đỏ ướt trơn trượt nhưng sáng 21/5, ông Nguyễn Văn Thư cùng các thành viên HTX Sầu riêng Liên Đức (xã Xà Bang) vẫn tranh thủ ra vườn cùng thương lái hái sầu riêng.

Ông Thư cho biết, với 1,5ha sầu riêng, năm nay dự kiến thu hoạch khoảng 15 tấn trái. Sầu riêng được HTX đưa thương lái đến hái và mua tận vườn nên việc thu hoạch rất khỏe. Giá bán hiện nay từ 52-54 ngàn đồng/kg sầu riêng Ri 6 và 68 ngàn đồng/kg đối với sầu riêng Thái. Sau khi trừ các khoản chi phí, gia đình thu lợi nhuận trên 60% tổng doanh thu.

Cách vườn nhà ông Thư không xa, nông dân Nguyễn Văn Minh cũng đang tất bật thu hái sầu riêng. Với 3 sào sầu riêng 7 năm tuổi, vụ này ông Minh thu hoạch khoảng 6 tấn. Đây cũng là năm thứ hai gia đình ông liên kết sản xuất theo mã vùng trồng sầu riêng nên đầu ra ổn định, lợi nhuận cao.

Xà Bang được xem là vựa sầu riêng lớn của huyện, với 746ha cây ăn trái, chủ yếu là sầu riêng. Hơn nửa tháng qua, xe container, xe tải nườm nượp ra vào các nhà vườn vận chuyển, thu mua sầu riêng.

Theo ông Đoàn Đức Hòa, Giám đốc HTX Sầu riêng Liên Đức, hiện nay 87ha sầu riêng Ri 6 và sầu riêng Thái (đã được cấp mã vùng trồng xuất khẩu) của 38 hộ thành viên trên địa bàn xã Xà Bang đã rộ mùa thu hoạch. Giá sầu riêng thời gian qua tăng mạnh nhờ được chấp nhận xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc và nhiều nước trên thế giới.

“Ngay từ đầu vụ, HTX đã liên kết với các DN trên Bình Phước và TP.Hồ Chí Minh xuống thu mua sầu riêng tại vườn. Do sầu riêng canh tác theo phương pháp hữu cơ nên giá bán rất tốt, mang lại niềm vui chung cho nông dân chuyên canh sầu riêng”, ông Hòa cho biết thêm.

Huyện Châu Đức có 124ha sầu riêng đã được cấp mã số vùng trồng, tập trung chủ yếu tại xã Xà Bang và Láng Lớn. Đây là cơ hội để nông sản huyện Châu Đức xuất khẩu theo đường chính ngạch.

Năm 2024, huyện Châu Đức đã và đang hỗ trợ nông dân, HTX xây dựng thêm các mã số vùng trồng sầu riêng xuất khẩu tại xã Kim Long và Xà Bang với diện tích khoảng 50ha. “Phòng NN&PTNT tiếp tục tham mưu các sở ngành của tỉnh và UBND huyện để có chính sách hỗ trợ cho những mã vùng này, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị và chất lượng nông sản để giữ vững thị trường tiêu thụ”, Trưởng Phòng NN&PTNT huyện Châu Đức Đỗ Chí Khởi thông tin thêm.

Bài, ảnh: ĐINH HÙNG

 

Ra mắt Hội quán mãng cầu Tây Ninh

 

Nguồn tin:  Báo Tây Ninh

Ngày 19.5, Hợp tác xã Nông nghiệp dịch vụ Minh Trung (xã Tân Hưng, huyện Tân Châu, Tây Ninh) tổ chức lễ ra mắt Hội quán Mãng cầu Tây Ninh.

 

 

Đại biểu tham quan khu trưng bày sản phẩm OCOP Tây Ninh của Hợp tác xã Nông nghiệp dịch vụ Minh Trung.

Hội quán Mãng cầu Tây Ninh trực thuộc Hợp tác xã Nông nghiệp dịch vụ Minh Trung, là tổ chức hội nghề nghiệp mang tính tự nguyện của những nông dân có cùng nghề nghiệp trồng, chăm sóc và kinh doanh mãng cầu.

Hội quán là nơi nông dân chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm sản xuất, mô hình hiệu quả, đồng thời là kênh trao đổi giữa nông dân với chính quyền, đoàn thể, nhà khoa học, doanh nghiệp; giúp hội viên, nông dân nắm bắt, tiếp cận thông tin về khoa học kỹ thuật, những vấn đề kinh tế - xã hội ở địa phương.

Hội quán có hơn 150 thành viên là nông hộ đang canh tác cây mãng cầu trên địa bàn tỉnh, do ông Lê Minh Trung làm chủ nhiệm.

Phát biểu tại buổi lễ, ông Lê Viết Bình- Phó Chánh văn phòng Bộ, Trưởng cơ quan đại diện phía Nam, Bộ NN&PTNT gửi lời chúc mừng của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan đến Hội quán Mãng cầu Tây Ninh.

Ông Bình cho biết, sự thành lập và đưa vào hoạt động mô hình Hội quán là khởi nguồn cho sự thay đổi lớn trong liên kết, hợp tác của nông dân trên một nền thiết chế cộng đồng mới. Ông Lê Viết Bình đề nghị lãnh đạo Sở NN&PTNT, chính quyền địa phương quan tâm, đồng hành cùng Hội quán và có những định hướng, giải pháp để cộng đồng chung tay phát huy mô hình này.

Vũ Nguyệt – Nhật Quang

 

Nông dân năng động, sản phẩm có thị trường ổn định

 

Nguồn tin:  Báo Bình Dương

Bắt nhịp cùng thị trường, bên cạnh việc nâng cấp chất lượng sản phẩm, nông dân huyện Phú Giáo (tỉnh Bình Dương) còn linh hoạt, chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ theo những phương thức mới, hiện đại, chuyên nghiệp hơn; đồng thời tăng cường xúc tiến thương mại.

 

 

Nông dân huyện Phú Giáo tích cực tham gia hoạt động xúc tiến thương mại để tìm đầu ra cho sản phẩm. Trong ảnh: Thành viên Tổ hợp tác dưa lưới Hùng Hoa tham gia trưng bày sản phẩm tại hội nghị kết nối cung cầu do huyện tổ chức

Chủ động tìm đối tác, kênh tiêu thụ

Ông Nguyễn Hồng Quyết, Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp công nghệ cao Kim Long (xã An Bình) vốn là kỹ sư cơ khí nhưng lại bén duyên với ngành nông nghiệp, đặc biệt là cây dưa lưới. HTX được ông đứng ra thành lập từ năm 2016 đến nay quy mô lên tới 83 thành viên, hàng năm cung cấp ra thị trường khoảng hơn 2.000 tấn dưa lưới.

Thời gian đầu thành lập, HTX Nông nghiệp công nghệ cao Kim Long gặp không ít khó khăn, nhất là thị trường tiêu thụ. Nhưng với sự năng động, kiên trì, đi đúng hướng, ông Quyết đã giúp các thành viên có đầu ra ổn định. Hiện nay, HTX đang cung cấp sản phẩm cho hệ thống siêu thị Metro, Big C, Co.opmart... với giá cả ổn định. “Tuy nhiên hàng năm cũng có những thời điểm khó khăn. Tôi đã chủ động tìm hiểu, tham gia các hội nghị, hội chợ kết nối cung cầu để có nhiều đối tác, đơn hàng lớn, ổn định đầu ra để thành viên yên tâm sản xuất cũng như có những hướng đi bền vững cho HTX. Hiện nay, có một số hộ trên địa bàn trồng dưa lưới nhưng không phải thành viên HTX. Nếu có đơn hàng, hợp đồng mới, chúng tôi sẽ kết nạp thêm thành viên để mở rộng quy mô sản xuất”, ông Quyết cho biết thêm.

Cũng theo ông Quyết, thông qua đối tác trung gian, năm 2023 HTX Nông nghiệp công nghệ cao Kim Long đã ký kết được hợp đồng xuất khẩu dưa lưới cấp đông sang thị trường Nhật Bản trong vòng 1 năm, sản lượng khoảng 400 tấn. Đến thời điểm hiện nay HTX đã thực hiện được 1/3 hợp đồng, khoảng hơn 100 tấn.

Ông Lê Văn Thuận, Giám đốc HTX Nông nghiệp Bình Dương, lại năng động trong việc sử dụng nền tảng mạng xã hội để quảng bá, bán sản phẩm. Theo ông Thuận, HTX đã tham gia các nền tảng như Facebook, YouTube, TikTok... và có một trang web riêng. Thông qua mạng xã hội HTX thu hút khách hàng nhiều hơn. Hiện nay, kênh tiêu thụ thông qua mạng xã hội đạt 75% sản lượng, chủ yếu là các cửa hàng cao cấp. Từ mạng xã hội đã kéo khách hàng mua trực tiếp tăng lên. Trong tháng 5, HTX sẽ thu hoạch khoảng 10 tấn na dứa Đài Loan, cuối năm khoảng 100 tấn, các thành viên được bao tiêu sản phẩm.

Ông Thuận cho biết thêm, HTX sản xuất loại trái cây đặc thù, độc lạ như: Na dứa Đài Loan (mãng cầu), chà là Trung Đông, vú sữa Hoàng Kim... Đây là những loại cây rất “khó tính” nên không sản xuất đại trà mà có kế hoạch sản xuất sản lượng phù hợp để không bị tồn đọng. HTX Nông nghiệp Bình Dương cũng đang tiến hành liên kết với một số HTX ở Đà Lạt để tiêu thụ sản phẩm sấy khô như mãng cầu sấy và dự định sẽ bán hàng qua các sàn thương mại điện tử như: Lazada, Shopee, Alibaba...

Tăng cường liên kết

Theo xu thế phát triển chung, huyện Phú Giáo đã và đang tiếp tục cơ cấu lại ngành nông nghiệp, khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của địa phương; tiếp tục đẩy mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, an toàn và thân thiện với môi trường trong sản xuất, tạo ra những sản phẩm mang thương hiệu địa phương, từ đó nâng cao giá trị nông sản, cải thiện thu nhập của nông dân.

Ông Trần Đức Dũng, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Phú Giáo, cho biết hiện nay trên địa bàn huyện các loại cây như sầu riêng, cam, bưởi, dưa lưới... phát triển mạnh. Nông dân tích cực tìm kiếm các kênh tiêu thụ như chợ truyền thống, siêu thị, cửa hàng tiện lợi. Đặc biệt, nông dân tích cực tham gia các hội nghị, hội chợ kết nối cung cầu từ đó có thể liên kết với các doanh nghiệp xuất khẩu để đưa sản phẩm ra thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó, nông dân còn tham gia vào các hợp tác xã, chi hội nghề nghiệp, tổ hợp tác để được hỗ trợ tìm kiếm thị trường, xúc tiến thương mại và quảng bá sản phẩm...

Chị Hoàng Thị Hoa, Tổ trưởng Tổ hợp tác dưa lưới Hùng Hoa (thị trấn Phước Vĩnh), cho biết: “Tham gia tổ hợp tác giúp thành viên yên tâm sản xuất, hỗ trợ nhau tiêu thụ sản phẩm. Các thành viên nhỏ lẻ liên kết với nhau thành mô hình kinh tế tập thể sẽ đáp ứng được nhu cầu về số lượng cho đơn vị thu mua. Hội nghị kết nối cung cầu sản phẩm do huyện tổ chức mới đây là dịp để chúng tôi tìm kiếm đối tác mới”.

Có thể nhận thấy tùy đặc thù sản phẩm, quy mô sản xuất, người nông dân huyện Phú Giáo hiện nay đang tích cực tham gia vào nhiều kênh kết nối tiêu thụ khác nhau để tìm kiếm thị trường đầu ra cho sản phẩm nông sản. Đây là xu hướng tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và thu nhập cho người dân.

Theo ông Đoàn Văn Đồng, Chủ tịch UBND huyện Phú Giáo, để việc tiêu thụ sản phẩm của địa phương hiệu quả hơn, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, người nông dân phải nhận thức rõ về tầm quan trọng của các hoạt động xúc tiến thương mại, tự tin và chủ động, tích cực tham gia các hoạt động giao thương, kết nối cung cầu, quảng bá, tìm kiếm đối tác mở rộng thị trường; đồng thời, cần tiếp tục đổi mới phương thức sản xuất kinh doanh, tích cực ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chế biến, xây dựng các sản phẩm có chất lượng, thương hiệu.

TIẾN HẠNH

 

Bến Tre: Câu lạc bộ Nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao xã Thạnh Trị họp lệ kỳ tháng 5-2024

 

Nguồn tin:  Báo Đồng Khởi

Ngày 24-5-2024, Câu lạc bộ (CLB) Nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao xã Thạnh Trị (Bến Tre) tổ chức họp lệ kỳ tháng 5-2024, tại xã Thạnh Trị, huyện Bình Đại, nhằm trao đổi đánh giá tình hình, kết quả nuôi tháng qua và định hướng trong tháng tới. Đến dự họp có Phó chủ tịch Hội Nông dân huyện Đặng Văn Vũ, Chủ tịch UBND xã Thạnh Trị Lê Minh Vũ, cùng đại diện Chi cục Thủy sản tỉnh.

 

 

Công ty TNHH Đầu tư Thương mại Hoàng Huy Bến Tre tặng 50 phần quà cho hội viên Hội Nông dân huyện và thành viên câu lạc bộ.

CLB được Hội Nông dân huyện Bình Đại tổ chức thành lập ngày 20-10-2022, với 16 thành viên ban đầu, diện tích 44ha. Đến nay, CLB có 23 thành viên, diện tích 66,1ha. Chủ nhiệm CLB là ông Đặng Văn Vũ - Phó chủ tịch Hội Nông dân huyện.

Trong buổi họp lệ kỳ, các thành viên CLB đã chia sẻ các kinh nghiệm, giải pháp hiệu quả về phòng chống dịch bệnh, chăm sóc tôm nuôi hiệu quả, cách thức cho ăn vừa tiết kiệm vừa an toàn cho tôm. Các doanh nghiệp kinh doanh con giống, thuốc thức ăn thủy sản cũng đã tư vấn kỹ thuật, chính sách hỗ trợ cho thành viên CLB và tổ hợp tác.

Tháng 4-2024, Tổ hợp tác Nuôi tôm thâm canh xã Thạnh Trị được sự hỗ trợ nguồn vốn Quỹ Hỗ trợ nông dân của Trung ương, với mức hỗ trợ cho vay 60 triệu đồng/hộ. Qua kết quả thẩm định xét hỗ trợ cho vay, tổ hợp tác có 10 hộ được hỗ trợ.

Lồng ghép với hoạt động của CLB, dịp này, Công ty TNHH Đầu tư Thương mại Hoàng Huy Bến Tre đã ký kết sẵn sàng hỗ trợ 10 hộ nuôi trong tổ hợp tác về con giống, kỹ thuật và cam kết hỗ trợ 100% trong thời gian đầu thả nuôi (1 tháng). Đồng thời, Công ty TNHH Đầu tư Thương mại Hoàng Huy Bến Tre trao tặng 50 phần quà cho hội viên Hội Nông dân huyện và thành viên CLB.

Thời gian tới, CLB Nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao xã Thạnh Trị kiến nghị các ngành chức năng cần quản lý nguồn tôm giống có chất lượng để hạn chế rủi ro cho hộ nuôi; duy trì thông tin cho thành viên CLB nuôi tôm về kết quả quan trắc môi trường, giá tôm thịt; sớm nạo vét các tuyến kênh đã bị cạn và cung cấp điện cho khu nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao…

Tin, ảnh: Cẩm Trúc

 

Hiệu quả từ chuyển đổi phương thức chăn nuôi

 

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

 

 

Việc chuyển đổi phương thức chăn nuôi đã và đang mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ảnh: NGUYÊN KHANG

Tỉnh Vĩnh Long có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển chăn nuôi (CN) gia súc, gia cầm. Thi hành Luật CN năm 2018, thời gian qua, ngành CN của tỉnh không ngừng chuyển đổi phương thức CN, đã và đang mang lại hiệu quả kinh tế to lớn cho người CN và cải thiện môi trường.

Trước đây, CN gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh phổ biến là hình thức CN nông hộ, quy mô nhỏ lẻ, thường phát sinh nhiều dịch bệnh, ô nhiễm môi trường. Để ngành CN phát triển, đủ sức chống chịu dịch bệnh diễn biến phức tạp và tránh rủi ro trước sức cạnh tranh trên thị trường, ngành nông nghiệp của tỉnh đã hỗ trợ, khuyến khích người CN từng bước chuyển dần sang CN tập trung, trang trại quy mô lớn, CN theo chuỗi khép kín, an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh và thực hành nuôi tốt- VietGAP.

Đồng thời hình thành các mô hình CN tiên tiến, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị để tăng lợi nhuận của cơ sở, hộ CN, góp phần tăng giá trị sản xuất ngành CN và thúc đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cũng như cơ cấu lại ngành sản xuất nông nghiệp của tỉnh. CN theo hình thức này giúp người CN vừa tiết kiệm được nhiều chi phí sản xuất, chủ động trong tiêm phòng, giảm thiểu dịch bệnh, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và phát triển CN theo hướng bền vững hơn.

Theo Chi cục Chăn nuôi Thú y và Thủy sản tỉnh, từ năm 2020, sau khi áp dụng Luật CN năm 2018 về quy mô trang trại, trên địa bàn tỉnh có 645 cơ sở CN đạt tiêu chuẩn quy mô trang trại. Đến cuối năm 2023, số lượng trang trại tăng lên 1.074 cơ sở. Trong khi đó, CN nhỏ lẻ có xu hướng giảm dần theo từng năm: năm 2022, số lượng CN nông hộ là 73.974 hộ, đến cuối năm 2023 còn 63.233 hộ (giảm 15%).

Đặc biệt, CN trang trại đã và đang phát triển theo hướng CN an toàn thực phẩm và an toàn dịch bệnh. Tính từ năm 2016 đến nay, toàn tỉnh có 27 cơ sở được chứng nhận an toàn dịch bệnh và có 70 trang trại, trại nuôi gà thịt (sản lượng 7.974 tấn/năm), 9 trại nuôi heo (sản lượng 2.948 tấn/năm) được chứng nhận VietGAP và tương đương.

Ngoài ra, CN theo hình thức này còn giúp cho các hoạt động liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm CN giữa các trang trại CN- doanh nghiệp chế biến thức ăn- cơ sở chế biến trong tỉnh được đẩy mạnh, giúp cho các doanh nghiệp, cơ sở CN và nông hộ thuận lợi hơn trong sản xuất. Trong năm 2023, tỉnh có 9 cơ sở nuôi heo và 100 cơ sở nuôi gia cầm liên kết với các doanh nghiệp sản xuất, tiêu thụ với sản lượng 19.500 con heo/lứa và gần 3 triệu con gia cầm/lứa.

Nhằm đảm bảo cho việc chuyển đổi CN theo hướng phát triển bền vững, công tác quản lý và giám sát dịch bệnh CN rất được tỉnh quan tâm. Ngành nông nghiệp của tỉnh đã kiện toàn mạng lưới thú y cơ sở; đầu tư phương tiện, thiết bị cho cán bộ nông nghiệp xã và đặc biệt là triển khai thực hiện có hiệu quả các biện pháp phòng dịch, như: tăng cường công tác tuyên truyền, tập trung giám sát để phát hiện sớm, khống chế kịp thời không để lây lan diện rộng, kết hợp với đẩy mạnh tiêu độc sát trùng môi trường CN.

Nhờ đó, tình hình dịch bệnh trên gia súc, gia cầm được kiểm soát tốt. Các loại bệnh như dịch tả heo châu Phi, cúm gia cầm giảm, từ đầu năm 2024 đến nay trong tỉnh không xảy ra bệnh lở mồm long móng, bệnh viêm da nổi cục trên gia súc.

Song song đó, thời gian qua, ngành nông nghiệp tỉnh đã vận động các cơ sở, hộ CN đầu tư xây dựng những mô hình xử lý chất thải, CN an toàn sinh học bảo vệ môi trường khá tốt, đặc biệt là xây dựng công trình khí sinh học biogas, mang lại nhiều lợi ích kinh tế lẫn môi trường.

Hiện 1.074 trang trại CN trong tỉnh đa số đều thực hiện các biện pháp xử lý môi trường bằng HPDE, hầm biogas và công trình khí sinh học bằng chất liệu composite, giúp cho người CN an toàn trong công tác phòng, chống dịch được đảm bảo, an tâm trong hoạt động sản xuất không gây ô nhiễm về vấn đề môi trường.

Ở nông thôn trong tỉnh, những hộ CN quy mô tương đối lớn đã xây dựng công trình để sử dụng khí biogas như túi nilon và xây dựng công trình kiên cố bằng gạch xây, bê tông cốt thép.

Ngoài ra, các địa phương trong tỉnh cũng quản lý chặt chất lượng nguồn giống, thức ăn, kiểm soát vận chuyển, giết mổ, bảo quản và chế biến sản phẩm CN; vận động người CN sử dụng giống có chất lượng và khai thác, tận dụng triệt để thức ăn tại chỗ, sẵn có để giảm chi phí CN... Nhờ vậy, đã góp phần thay đổi cách nghĩ, cách làm của người CN trong phát triển CN, nhiều hộ đã mạnh dạn đầu tư mở rộng quy mô trong CN gia súc, gia cầm.

Hiện tổng đàn heo của tỉnh hơn 88.300 con; đàn bò hơn 75.000 con, đàn gia cầm (không kể vịt chạy đồng) gần 12 triệu con.

Quy hoạch tỉnh Vĩnh Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 xác định, tổng đàn vật nuôi trong tỉnh đến năm 2030 là: đàn heo 350.000 con, đàn bò 85.000 con, đàn gia cầm duy trì ở mức 10 triệu con, xây dựng được ít nhất 25 cơ sở CN an toàn dịch bệnh; duy trì và phát triển 5 chuỗi liên kết, tiêu thụ sản phẩm CN… và tiếp tục phát triển CN theo hướng an toàn sinh học, giữ ổn định tổng đàn gia cầm, phát triển CN heo và bò ở mức hợp lý.

Trong quy hoạch này, tỉnh Vĩnh Long sẽ tiếp tục ban hành các chính sách hỗ trợ, khuyến khích hộ gia đình, thu hút các doanh nghiệp đầu tư phát triển các mô hình CN gia súc, gia cầm (nhất là heo, gà) đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh ứng dụng công nghệ cao, gắn với liên kết sản xuất- tiêu thụ sản phẩm tại các huyện: Mang Thít, Tam Bình, Long Hồ, Trà Ôn, Bình Tân và Vũng Liêm nhằm thúc đẩy hình thức CN theo hướng mới (CN trang trại, an toàn sinh học, an toàn thực phẩm) phát triển hơn nữa, góp phần tăng nhanh giá trị sản xuất của ngành CN nói riêng, ngành nông nghiệp của tỉnh nói chung trong thời gian tới.

Bài, ảnh: MỸ TRUNG

 

Thoát nghèo nhờ khéo chăn nuôi

 

Nguồn tin: Báo Cà Mau

Cẩn thận lượm từng quả trứng bỏ vào rổ, nông dân Lâm Văn Hùng, ấp Ô Rô, xã Tân Ân (Cà Mau), phấn khởi: “Bầy vịt 150 con đẻ mỗi ngày từ 90-100 trứng, bán với giá 35 ngàn đồng/chục, cũng đủ trang trải sinh hoạt. Thấy nuôi hiệu quả, đầu tháng 3 rồi, gia đình đã mạnh dạn gầy đàn thêm 100 con gồm vịt đẻ trứng và vịt thịt. Mong rằng vụ nuôi thuận lợi để kinh tế gia đình ổn định hơn”.

Cuối năm 2022, gia đình ông Hùng được địa phương hỗ trợ 50 con vịt giống Hoà Lan mắt xéo từ nguồn vốn giảm nghèo. Sau hơn 5 tháng nuôi, vịt bắt đầu cho trứng, tạo nguồn thu nhập. Thấy hiệu quả, ông Hùng mạnh dạn lên Bạc Liêu mua thêm 100 con vịt giống cùng loại để phát triển đàn.

Ngoài thức ăn chính là lúa, ông Hùng tận dụng thêm các loại thức ăn sẵn có tại địa phương như: cá tạp, cá phân, rau xanh, chuối cây băm nhuyễn... độn thêm cho vịt ăn. Nhờ đó, tiết kiệm chi phí chăn nuôi, vịt cũng chắc thịt, cho trứng to, lòng đỏ nhiều hơn nên bà con địa phương rất ưa chuộng.

Ông Hùng cho biết: “Giống vịt này dễ nuôi, mau lớn, bự con, đẻ trứng sai và to hơn giống khác. Do vịt nuôi tại địa phương, cho ăn thức ăn sạch nên bà con yên tâm tiêu dùng. Vịt đẻ trứng ra ngày nào là bán hết ngày nấy, thậm chí không đủ nguồn cung. Riêng vịt thịt thì bán lai rai cho bà con gần nhà, cộng thêm cung cấp cho các mối lái ở chợ, cứ cách tầm 3-5 ngày là đem đi giao 1 đợt, không lo về đầu ra”.

Theo tính toán của ông Hùng, hiện tổng đàn vịt nhà ông lên đến 250 con. Nuôi vịt vừa bán trứng, vừa bán thịt, mỗi tháng ông bỏ túi từ 4-5 triệu đồng. Mức thu này khá ổn định và rất lý tưởng đối với hộ ít đất sản xuất, lớn tuổi, không nghề nghiệp ổn định như ông. Nhờ nuôi vịt, đến cuối năm rồi, gia đình ông đã vươn lên thoát nghèo, không phải “tha phương cầu thực” như trước đây.

 

 

Bầy vịt đẻ mỗi ngày từ 90-100 trứng, bán với giá 35 ngàn đồng/chục, giúp gia đình ông Hùng có nguồn thu nhập khá.

Cũng như ông Hùng, nông dân Ngô Minh Thuỳ, ấp Nhà Diệu, xã Tân Ân, đã vượt khó vươn lên từ mô hình kết hợp giữa đặt rượu và nuôi heo. Ông Thuỳ trải lòng, trước đây ít đất sản xuất, gia đình chủ yếu trông chờ vào việc ông đi bạn cho các chủ ghe đóng đáy, ghe lưới cá khoai, cào ốc gần nhà. Thu nhập bấp bênh, gia đình chuyển sang đặt rượu, tận dụng hèm rượu để nuôi heo với hy vọng thoát nghèo.

Theo ông Thuỳ, lúc đầu việc chăn nuôi gặp khó do thiếu kinh nghiệm, kỹ thuật nên heo chậm lớn, hay nhiễm bệnh, thường bị lỗ hoặc huề vốn chứ ít khi có lời. Không đầu hàng trước cái khó, ông đã dành nhiều thời gian tham gia các lớp tập huấn chuyển giao khoa học - kỹ thuật do địa phương tổ chức. Ðồng thời, học hỏi trên báo, đài, đúc rút kinh nghiệm từ những người nuôi hiệu quả trên địa bàn. Trong quá trình nuôi, ông Thuỳ luôn tuân thủ các kỹ thuật chăn nuôi, tiêm ngừa đầy đủ và thường xuyên khử trùng, vệ sinh chuồng trại để hạn chế phát sinh dịch bệnh. Nhờ siêng năng, chịu khó học hỏi, chỉ sau thất bại vài lứa heo đầu, liên tiếp hơn 17 năm qua, ông Thuỳ đã có những vụ nuôi thành công, kinh tế ổn định, lo cho 2 người con ăn học đến nơi đến chốn.

Theo kinh nghiệm của ông Thuỳ, hèm rượu có giá trị dinh dưỡng cao, kích thích tiêu hoá, giúp heo ăn mau lớn. Tuy nhiên, cũng cần trộn thêm các loại thức ăn xanh như cám gạo và rau muống để heo ăn khoẻ, ít bị bệnh, đạt chất lượng thịt tốt. Mỗi năm, ông Thuỳ nuôi 2 lứa heo, mỗi lứa từ 15-20 con, khi xuất bán có thương lái tìm mua tận nhà. Hiện nay, chuồng heo nhà ông Thuỳ có gần 20 con heo thịt, trọng lượng từ 60-70 kg, khoảng 2 tháng nữa tới lứa xuất chuồng. Ông Thuỳ nhẩm tính, trừ chi phí con giống, thuốc men, gia đình ông bỏ túi hơn 60 triệu đồng.

Ông Nguyễn Ðăng Khoa, Phó chủ tịch UBND xã Tân Ân, thông tin: “Toàn xã có hơn 150 hộ chăn nuôi, tập trung ở các ấp Nhà Diệu, Ô Rô, Rạch Gốc. Ðiều đáng mừng là, nhiều hộ chăn nuôi lâu năm, có kinh nghiệm xử lý, phòng ngừa dịch bệnh, tận dụng thức ăn xanh để giảm chi phí chăn nuôi, tạo ra sản phẩm sạch, chất lượng cung cấp cho thị trường. Nhờ đó, đầu ra và giá cả ổn định, giúp nhiều nông dân tăng thu nhập, thoát nghèo, phát triển kinh tế”.

Ông Lê Hoài Phương, Phó trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện, cho biết, thời gian tới, huyện tăng cường tuyên truyền, tổ chức các buổi tập huấn, nâng cao kiến thức, kỹ thuật chăn nuôi cho người dân. Trong đó, tập trung hướng dẫn người dân các biện pháp phòng, chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi; cách tận dụng các phế phẩm nông nghiệp làm thức ăn, nói không với chất cấm, kháng sinh trong chăn nuôi; hướng dẫn bà con xây dựng chuồng nuôi kiên cố, an toàn sinh học; triển khai tiêm phòng, phun khử trùng, tiêu độc. Ðồng thời, lồng ghép nguồn vốn các chương trình, dự án và các nguồn vốn vay để hỗ trợ người dân, nhất là hộ nghèo, cận nghèo để bà con có điều kiện phát triển kinh tế./.

Trúc Linh - Huỳnh Tứ

 

Bến Tre: Hỗ trợ di dời 559 hộ chăn nuôi ra khỏi khu vực không được phép chăn nuôi

 

Nguồn tin: Báo Chính Phủ

Năm 2023, tỉnh Bến Tre đã hỗ trợ di dời 559 hộ chăn nuôi ra khỏi khu vực không được phép chăn nuôi. Toàn tỉnh hiện có 1.661 hộ chăn nuôi thuộc đối tượng ưu tiên hỗ trợ đã hoàn chỉnh hồ sơ thực hiện di dời, với tổng kinh phí dự kiến hỗ trợ hơn 57 tỷ đồng.

 

 

UBND tỉnh Bến Tre họp về chính sách hỗ trợ di dời cơ sở chăn nuôi ra khỏi khu vực không được phép chăn nuôi - Ảnh: Báo Đồng Khởi

Ngày 23/5, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre Nguyễn Minh Cảnh chủ trì cuộc làm việc với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND các huyện, thành phố về tình hình thực hiện Nghị quyết số 30/2020/NQ-HĐND của HĐND tỉnh về việc quy định khu vực không được phép chăn nuôi và chính sách hỗ trợ di dời cơ sở chăn nuôi ra khỏi khu vực không được phép chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Bến Tre.

Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2023, toàn tỉnh đã giải ngân cho 559 hộ, tổng kinh phí hơn 18,2 tỷ đồng. Riêng huyện Thạnh Phú và Châu Thành chưa hỗ trợ di dời, do còn một số xã đang thực hiện điều chỉnh quy hoạch hoặc quy hoạch mới chưa được phê duyệt, nên việc xác định khu vực không được phép chăn nuôi còn chậm, làm ảnh hưởng đến công tác lập hồ sơ hỗ trợ di dời.

Theo số liệu tổng hợp từ các huyện, thành phố (còn huyện Mỏ Cày Nam đang chờ bổ sung), toàn tỉnh hiện có 1.661 hộ chăn nuôi thuộc đối tượng ưu tiên hỗ trợ (các khu dân cư hiện hữu; các công trình công cộng như: trạm xá, trường học, trụ sở, nhà văn hóa; các cơ sở gây ô nhiễm…) đã hoàn chỉnh hồ sơ thực hiện di dời, với tổng kinh phí dự kiến hỗ trợ hơn 57 tỷ đồng. Được biết, năm 2024 là năm cuối thực hiện chính sách hỗ trợ di dời.

Số cơ sở thuộc diện di dời theo Nghị quyết số 30/2020/NQ-HĐND của HĐND tỉnh nhưng không thuộc diện ưu tiên hỗ trợ (năm 2024) là 1.096 hộ.

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bến Tre cho biết, khó khăn hiện nay là nhiều hộ dân nằm trong khu vực không được phép chăn nuôi nhưng không có đất để di dời hoặc nếu muốn chăn nuôi tiếp phải thuê đất, nhưng hiện nay giá thuê đất khá cao. Khi người dân tự di dời chuồng trại ra địa điểm chăn nuôi mới thì chủ yếu di dời ra khu vực đất trồng lúa gây khó khăn cho địa phương trong quản lý quy hoạch sử dụng đất lúa. Các hộ có quy mô chăn nuôi lớn khi thực hiện di dời đến khu vực được phép chăn nuôi thì phải xây dựng lại cơ sở chăn nuôi từ đầu nên cần nguồn vốn để đầu tư.

Tại buổi làm việc, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Minh Cảnh chỉ đạo, việc thực hiện di dời và hỗ trợ di dời phải dứt điểm theo từng khu vực. Có kiểm soát, quản lý sau khi thực hiện di dời, tránh để xảy ra tái nuôi, có xử lý vi phạm và thu hồi kinh phí hỗ trợ đối với những trường hợp tái nuôi. Trong quá trình triển khai thực hiện di dời, hỗ trợ phải đúng theo hướng dẫn, quy định tại Nghị quyết số 30 của HĐND tỉnh, trong đó Thạnh Phú rà soát, thống kê lại số hộ chăn nuôi cần thực hiện di dời đúng với Nghị quyết này.

NT

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop