Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 27 tháng 5 năm 2025

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 27 tháng 5 năm 2025

 

Tư duy mới cho nông nghiệp chuyển mình

Đông Anh đang từng bước chuyển mình với nông nghiệp công nghệ cao – hướng đi mới giúp giữ gìn bản sắc nông thôn, nâng tầm giá trị sản phẩm, phát triển kinh tế toàn diện và bền vững.

Nâng tầm giá trị nông sản bằng công nghệ cao

Trong bối cảnh đô thị hóa, biến đổi khí hậu và yêu cầu ngày càng cao từ thị trường, nông nghiệp công nghệ cao (NNCNC) đang trở thành hướng đi tất yếu nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng cho sản phẩm nông nghiệp.

Thay vì canh tác truyền thống, nhiều địa phương đã chuyển sang ứng dụng công nghệ 4.0 như cảm biến môi trường, hệ thống tưới tự động, chăn nuôi lạnh, truy xuất nguồn gốc bằng mã QR... để quản lý chặt chẽ chất lượng, tối ưu hóa quy trình sản xuất và giảm thiểu tác động đến môi trường.

Các chính sách khuyến khích từ Trung ương và địa phương như hỗ trợ vay vốn, đầu tư hạ tầng, xúc tiến thương mại đã giúp hàng loạt mô hình nông nghiệp công nghệ cao ra đời. Nhiều vùng nông thôn đã "thay da đổi thịt" khi chuyển đổi sang mô hình sản xuất hiện đại, góp phần chuyển dịch từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp – một nền nông nghiệp thích ứng linh hoạt với thị trường và bền vững với thời gian.

Thay vì canh tác truyền thống, nhiều địa phương đã chuyển sang ứng dụng công nghệ 4.0.

Nắm bắt xu hướng đó, huyện Đông Anh (Hà Nội) đã chủ động phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao, coi đây là nền tảng để giữ vững vị thế nông nghiệp trong giai đoạn đô thị hóa mạnh mẽ, dần thích ứng và chuyển đổi sang mô hình sản xuất nông nghiệp đô thị và đồng thời tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Dù diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp bởi các dự án đầu tư phát triển, Đông Anh vẫn quyết liệt bảo vệ không gian sản xuất nông nghiệp. Từ năm 2021 đến 2024, giá trị sản xuất ngành Nông – Lâm – Thủy sản tăng đều, từ 2.896 tỷ đồng lên 3.150 tỷ đồng. Giá trị canh tác trên mỗi hecta tăng từ 302 triệu đồng (năm 2021) lên 336 triệu đồng vào năm 2025.

Huyện đã khuyến khích nhân dân thực hiện chuyển đổi trên 200 ha đất trồng lúa, rau màu sang trồng hoa, cây cảnh, cây ăn quả và rau an toàn – những loại cây, con có giá trị kinh tế cao. Đến nay, Đông Anh duy trì và phát triển 11 mô hình sản xuất trồng trọt, 53 mô hình sản xuất chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao.

Các mô hình này không chỉ hiện đại hóa kỹ thuật sản xuất, mà còn mở rộng kết hợp làm dịch vụ, du lịch trải nghiệm, du lịch sinh thái, mang lại hiệu quả kép về kinh tế và quảng bá nông sản địa phương.

Đáng chú ý, Đông Anh là một trong những địa phương đi đầu trong xây dựng thương hiệu sản phẩm nông nghiệp gắn với Chương trình "Mỗi xã một sản phẩm" (OCOP). Toàn huyện đã có trên 200 sản phẩm OCOP được đánh giá, xếp hạng. Nhiều sản phẩm đặc trưng của địa phương từng bước có chỗ đứng vững chắc trên thị trường Thủ đô và cả nước.

Hướng đến hình ảnh người nông dân chuyên nghiệp

Không chỉ chú trọng sản xuất, Đông Anh còn đẩy mạnh mô hình kinh tế tập thể, hợp tác xã kiểu mới, tăng cường liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị. Nhiều hộ nông dân đã ứng dụng công nghệ số vào quản lý trang trại, bán hàng qua mạng xã hội, sàn thương mại điện tử.

Huyện cũng thường xuyên tổ chức hội chợ, triển lãm kết nối cung – cầu, xúc tiến tiêu thụ sản phẩm OCOP, sản phẩm làng nghề trong và ngoài Thành phố Hà Nội.

Công tác tuyên truyền, đào tạo, nâng cao trình độ sản xuất – kinh doanh nông nghiệp được chú trọng. Người nông dân được khuyến khích chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với nhu cầu thị trường, xây dựng hình ảnh "người nông dân chuyên nghiệp" trong thời đại mới.

Đông Anh đẩy mạnh mô hình kinh tế tập thể, hợp tác xã kiểu mới, tăng cường liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị.

Với định hướng rõ ràng, Đông Anh đang từng bước hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp xanh – sạch – thông minh – tuần hoàn. Trong đó, phát triển nông nghiệp không chỉ dừng lại ở sản xuất, mà còn tích hợp với các lĩnh vực dịch vụ, du lịch, giáo dục – tạo thành chuỗi giá trị khép kín và bền vững.

Từ nền nông nghiệp truyền thống, Đông Anh đã chuyển mình mạnh mẽ để thích ứng với thời đại. Những mô hình ứng dụng công nghệ cao không chỉ giúp tăng năng suất, hiệu quả mà còn góp phần xây dựng thương hiệu nông sản địa phương, tạo sinh kế bền vững cho người dân.

Trong quá trình xây dựng huyện nông thôn mới nâng cao, Đông Anh đã chú trọng phát triển kinh tế nông nghiệp toàn diện, gắn sản xuất với bảo vệ môi trường, đảm bảo an sinh xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa và đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của Thủ đô.

Nông nghiệp công nghệ cao vì thế không chỉ là giải pháp kỹ thuật, mà còn là động lực phát triển, là con đường để Đông Anh vừa hiện đại hóa, vừa gìn giữ được cốt lõi nông thôn trong quá trình trở thành đô thị thông minh trong tương lai gần.

Nguyễn Thị Thu Hương

 

Tiền Giang: Đẩy mạnh hỗ trợ các hợp tác xã nông nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh

Để các hợp tác xã (HTX) nông nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh, thời gian qua, Tiền Giang đã tạo điều kiện, tập trung đẩy mạnh hỗ trợ bằng nhiều chính sách cụ thể. Qua đó, hoạt động của các HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh ngày càng chuyển biến tích cực, hiệu quả hoạt động được nâng lên.ĐẨY MẠNH HỖ TRỢ

Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) tỉnh Tiền Giang, trong năm 2024, toàn tỉnh thành lập mới 8 HTX nông nghiệp. Đến nay, toàn tỉnh có 197 HTX nông nghiệp, với 46.840 thành viên và 2 chi nhánh HTX. Trong đó, có 190/197 HTX nông nghiệp được phân loại (10 HTX xếp loại tốt, chiếm 5,3%; 125 HTX xếp loại khá, chiếm 65,8%; 29 HTX xếp loại trung bình, chiếm 15,3%; 9 HTX xếp loại yếu, chiếm 4,7%; 17 HTX ngưng hoạt động, chiếm 8,9% và 7 HTX còn lại không đánh giá xếp loại do mới thành lập).

Tiền Giang tập trung hỗ trợ các HTX nông nghiệp phát triển bằng nhiều chính sách.

Trong năm 2024, ngành Nông nghiệp đã tăng cường công tác phối hợp với Liên minh HTX tỉnh Tiền Giang và các ngành, địa phương triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể (KTTT), HTX nông nghiệp.

Cụ thể, trong năm, ngành Nông nghiệp đã phối hợp Liên minh HTX tỉnh rà soát, củng cố, nâng chất tình hình hoạt động 50 lượt HTX nông nghiệp gắn với đánh giá thực hiện chỉ tiêu 13.1, 13.2 trong xây dựng nông thôn mới (NTM), NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu, HTX kiểu mới và gắn xây dựng mô hình điểm củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động trên địa bàn huyện Tân Phước, Tân Phú Đông, Cai Lậy, TX. Cai Lậy, Châu Thành, Gò Công Tây, Cái Bè, Chợ Gạo, TP. Gò Công, Gò Công Đông. Đồng thời, tổ chức 4 lớp/189 người tham dự bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ quản lý cho cán bộ HTX nông nghiệp năm 2024, với các chuyên đề về thuế, kế toán, quản lý chi phí, kỹ năng quản lý điều hành.

Thời gian qua, trên địa bàn tỉnh đã xuất hiện nhiều mô hình HTX nổi bật, điển hình với cách làm mới, sản xuất gắn với chuỗi giá trị, phát triển sản phẩm OCOP.

Cụ thể, trong sản xuất và tiêu thụ lúa có mô hình liên kết giữa HTX Dịch vụ nông nghiệp Mỹ Quới với Công ty TNHH Phước Lộc Thiên Hộ tại xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè thông qua việc lập dự án liên kết được phê duyệt theo Nghị quyết 07 của HĐND tỉnh. Quy mô liên kết 200 - 300 ha/năm với giống lúa ST24, Nàng hoa 9 và sản phẩm gạo đã được chứng nhận OCOP 4 sao.

Trong sản xuất trái cây, có mô hình của HTX Nông nghiệp sạch Hưng Thịnh Phát, HTX Mỹ Tịnh An (huyện Chợ Gạo) tổ chức cho thành viên sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn GlobalGAP.

Đồng thời, liên kết với với các công ty trong và ngoài tỉnh để tiêu thụ với sản lượng khoảng 3.000 tấn/năm; sản phẩm thanh long được chứng nhận OCOP 3 sao.

Trong lĩnh vực sản xuất rau an toàn (RAT) có một số HTX điển hình như: HTX Tân Đông (huyện Gò Công Đông), HTX RAT Thạnh Hưng, Phú Quới, Hòa Thạnh (huyện Gò Công Tây) ký kết hợp đồng liên kết tiêu thụ lâu dài ổn định với siêu thị Saigon COOP, Bách Hóa Xanh, Big C, các chợ đầu mối TP. Hồ Chí Minh và các nhà hàng, bếp ăn tập thể trên địa bàn tỉnh với sản lượng khoảng 5 - 7 tấn rau/ngày/HTX. Một số sản phẩm của các HTX được chứng nhận OCOP như: Cải dún, cải ngồng, cải thìa.

Trong chăn nuôi, có HTX Chăn nuôi - Thủy sản Gò Công liên kết với các nông dân sản xuất và cung cấp Gà ta Gò Công theo hợp đồng cho các công ty, siêu thị, nhà hàng tại TP. Hồ Chí Minh, trung bình khoảng 80 tấn/năm; sản phẩm được chứng nhận OCOP 3 sao.

Ngành Nông nghiệp đã phối hợp với Liên minh HTX tỉnh và các sở, ngành trong công tác triển khai, thẩm định hồ sơ đề nghị và trình phê duyệt danh mục hỗ trợ, kiểm tra, giám sát việc sử dụng đầu tư kết cấu hạ tầng được hỗ trợ của HTX nông nghiệp trên địa bàn.

Kết quả năm 2024, đã phân bổ vốn đầu tư kết cấu hạ tầng cho các HTX nông nghiệp, với tổng kinh phí thực hiện 10,72 tỷ đồng để đầu tư 9 hạng mục công trình nhà kho, xưởng sơ chế, kho lạnh và 10 máy móc, trang thiết bị phục vụ sản xuất cho 10 HTX.

Song song đó, ngành Nông nghiệp còn phối hợp với Liên minh HTX tỉnh và các sở, ngành trong công tác triển khai, thẩm định hồ sơ, kiểm tra, giám sát việc sử dụng lao động trẻ của HTX. Kết quả, đã thực hiện hỗ trợ có 61 lao động trẻ làm việc tại 41 HTX được hỗ trợ chi trả lương, với kinh phí hỗ trợ năm 2024 là trên 3,76 tỷ đồng.

Ngoài ra, ngành Nông nghiệp còn hỗ trợ các HTX tham gia các hội chợ/triển lãm/xây dựng nhãn hiệu sản phẩm đạt chứng nhận sản phẩm OCOP. Trong năm 2024, có 17 HTX được chứng nhận sản phẩm OCOP. Đến nay đã có 31 chủ thể là HTX với 41 sản phẩm được chứng nhận sản phẩm OCOP.

TIẾP TỤC ĐỒNG HÀNH

Theo Sở NN&MT, để tiếp tục hỗ trợ phát triển mô hình KTTT, HTX nông nghiệp, trong năm 2025, ngành Nông nghiệp sẽ phối hợp với các sở, ngành tham mưu UBND tỉnh, HĐND tỉnh ban hành Chương trình phát triển KTTT, cụ thể hóa các chính sách hỗ trợ HTX theo quy định tại Nghị định 113 ngày 12-9-2024 của Chính phủ; tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong triển khai chính sách hỗ trợ về đất đai, tín dụng.

Một trong những nội dung quan trọng là tiếp tục triển khai thực hiện Chương trình hỗ trợ phát triển KTTT, HTX trên địa bàn tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2021 - 2025 ban hành kèm theo Quyết định 2848 ngày 11-10-2022 của Chủ tịch UBND tỉnh Tiền Giang.

Trong đó, tập trung đẩy mạnh chính sách hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng cho HTX để nâng cao năng lực chế biến, bảo quản; hỗ trợ chi trả lương cho lao động trẻ về làm việc ở HTX; đào tạo, bồi dưỡng, cung cấp, cập nhật kiến thức, thông tin thị trường để nâng cao năng lực kinh doanh, kỹ năng quản lý cho HTX.

Ngành Nông nghiệp sẽ tiếp tục hỗ trợ xây dựng mô hình 5 HTX điểm hoạt động hiệu quả để nhân rộng mô hình HTX kiểu mới giai đoạn 2021 - 2025 theo Quyết định 3802 ngày 30-12-2021 của UBND tỉnh Tiền Giang và xây dựng 8 mô hình HTX điểm trong củng cố, nâng chất hoạt động từ trung bình lên khá, khá lên tốt.

Ngoài ra, ngành Nông nghiệp sẽ lồng ghép các chính sách của ngành để hỗ trợ HTX nông nghiệp phát triển sản xuất như: Chính sách sản xuất an toàn, hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao; xây dựng mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc; các đề án, dự án ngành Nông nghiệp đang triển khai; triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại để tăng cường tổ chức các hoạt động kết nối giữa các HTX và giữa HTX với doanh nghiệp thông qua các hội chợ, triển lãm, xây dựng, phát triển sản phẩm của HTX được công nhận sản phẩm OCOP.

ANH THƯ

 

Liệu robot diệt cỏ có thể thay thế thuốc trừ sâu?

Ngày nay quá trình hiện đại hóa nông nghiệp ngày càng được rút ngắn bằng sự giúp sức của những robot tân tiến.

Vào một ngày hè oi bức ở miền Trung Kansas (Mỹ), ông Clint Brauer chăm chú quan sát một đội robot sơn màu vàng đang miệt mài cắt bỏ bất kỳ loại cỏ dại nào cản đường chúng. Các robot này thậm chí còn chủ động tránh những cây nông nghiệp đang phát triển.

Những cỗ máy robot chạy bằng pin, dài 1,2 mét và rộng 0,6 mét, di chuyển trên cánh đồng một cách chính xác mà không cần con người hướng dẫn.

Ông Brauer coi robot là công cụ đắc lực giúp nông dân giảm phụ thuộc vào hóa chất, bảo vệ sức khỏe và môi trường sống. Brauer từng là cựu lãnh đạo công ty công nghệ có trụ sở tại California (Mỹ) nhưng đã chuyển về trang trại của gia đình ở trung tâm Kansas sau khi cha ông mắc bệnh parkinson.

Năm 2015, Brauer nhận thấy cỏ dại trên cánh đồng của mình bắt đầu kháng thuốc trừ sâu. Ông nghĩ đến việc cắt cỏ bằng tay, nhưng phương pháp này không còn phù hợp ở thế kỷ 21. Vì vậy ông lựa chọn robot. Brauer bắt đầu liên lạc với các chuyên gia phần mềm và máy móc để bắt tay vào thiết kế robot diệt cỏ.

Đến năm 2018, Braue thành lập công ty công nghệ nông nghiệp Greenfield. Braue hiện chế tạo và lập trình robot ngay trong nhà kho cuối trang trại cũ. Hai mươi nông dân đã đăng ký sử dụng robot của Greenfield trong vụ mùa và công ty hy vọng sẽ làm sạch cỏ dại trên 2.023ha đất trong năm nay.

"Câu trả lời chính là đây. Nó giải quyết nhiều vấn đề cho người nông dân", Braue chia sẻ.

Những người nông dân đã phải chiến đấu với cỏ dại trên cánh đồng của họ trong nhiều thế kỷ qua. Cỏ dại cạnh tranh với cây trồng để hút độ ẩm và chất dinh dưỡng trong đất. Chúng còn cản trở ánh nắng Mặt trời khiến cho cây trồng kém phát triển, làm giảm năng suất.

Trong hơn 50 năm qua, việc diệt cỏ dại bằng hóa chất là phương pháp tối ưu. Nông dân thường phun nhiều loại hóa chất diệt cỏ trên cánh đồng. Nhưng khi việc sử dụng hóa chất ngày càng phổ biến thì cũng xuất hiện bằng chứng khoa học cho thấy tiếp xúc với các chất độc hại trong thuốc diệt cỏ có thể gây hại cho sức khỏe con người.

Ví dụ glyphosate có liên quan đến bệnh ung thư, paraquat gây bệnh parkinson. Một loại thuốc diệt cỏ phổ biến khác là atrazine có thể gây hại cho sức khỏe sinh sản. Hóa chất diệt cỏ cũng có hại cho môi trường, tác động tiêu cực đến chất lượng đất đai và gây hại đối với các loài thụ phấn cũng như loài quan trọng khác.

Việc sử dụng thuốc diệt cỏ rộng rãi trong nông nghiệp đã làm tăng khả năng cỏ kháng thuốc, khiến nhiều nông dân gặp khó khăn trong kiểm soát cỏ dại trên cánh đồng ngay cả khi sử dụng thuốc diệt cỏ nhiều lần.

Nhiều nguồn hỗ trợ tài chính đang chảy nhiều vào các công ty sản xuất robot diệt cỏ. Theo Brauer, Greenfield đã huy động được khoảng 12 triệu USD vốn. Trong khi đó, công ty Aigen Robotics có trụ sở tại North Dakota (Mỹ) đã huy động được 19 triệu USD. Các robot nhỏ gọn của Aigen Robotics được cung cấp năng lượng từ các tấm pin Mặt trời. Aigen Robotics đang triển khai 50 robot trên các cánh đồng củ cải đường ở vùng Trung Tây nước Mỹ.

CEO của Aigen Robotics, ông Kenny Lee, trước đây làm việc trong lĩnh vực an ninh mạng, cho biết ông và đối tác Richard Wurden, người từng làm việc trong ngành xe điện, đang thực hiện "sứ mệnh cá nhân" là giảm việc sử dụng thuốc diệt cỏ trong nông nghiệp. Ông Kenny Lee đã vượt qua bệnh ung thư hạch không hodgkin, một căn bệnh mà Cơ quan Nghiên cứu ung thư Quốc tế phát hiện có thể do thuốc diệt cỏ dựa trên glyphosate gây ra.

Song nhiều nông dân và chuyên gia học thuật vẫn hoài nghi rằng robot nông nghiệp có thể tạo ra khác biệt đáng kể. Họ nói rằng đơn giản là có quá nhiều đất nông nghiệp và nhu cầu đa dạng cần được giải quyết trong khi robot vốn rất tốn kém để chế tạo ra và sử dụng.

Nhiều người cho rằng phương pháp hiệu quả hơn đó là nông dân phải thích ứng với thiên nhiên thay vì chống lại nó. Họ cho rằng mô hình nông nghiệp tái sinh - sử dụng nhiều chiến lược tập trung vào cải thiện sức khỏe của đất, bao gồm hạn chế thuốc trừ sâu, luân canh cây trồng, trồng các loại cây tạo lớp phủ mặt đất để ngăn chặn cỏ dại và tránh làm xáo trộn đất là phương án tốt hơn.

Giáo sư Adam Davis thuộc Đại học Illinois (Mỹ) cho biết: "Tôi nghĩ robot có thể là một công cụ hữu ích thuộc phương pháp làm cỏ tổng hợp. Nhưng nếu sử dụng robot như công cụ duy nhất có lẽ sẽ không hoạt động tốt như vậy".

Nông dân Ryan Erisman nói: "Robot làm cỏ đại diện cho một vòng khác trong cuộc "chạy đua vũ trang" chống lại thiên nhiên. Rất nhiều công cụ nông nghiệp của chúng ta thực chất là vũ khí. Khi ta tiếp tục gặp phải cùng một vấn đề năm này qua năm khác hoặc vụ mùa này sang vụ mùa khác, không phải là công cụ, kỹ thuật hay công nghệ của chúng ta cần thay đổi. Đó là do chúng ta không hiểu được hệ thống và mối quan hệ của chúng ta với nó".

Tuy nhiên, nông dân Torrey Ball ở Kansas vẫn chờ đợi để được sử dụng robot của Greenfield. Năm ngoái, robot của Greenfield đã làm sạch cỏ dại trên cánh đồng hoa hướng dương của ông. Tháng này họ sẽ làm cỏ tại khu vực trồng đậu tương.

Hiện tại ông Torrey Ball chỉ vận hành robot trên một phần nhỏ trong trang trại rộng 809ha của mình, nhưng hy vọng một ngày nào đó chúng có thể giúp ông thoát khỏi phụ thuộc vào hóa chất trên toàn bộ diện tích. "Nếu chúng ta có thể sử dụng ít hóa chất hơn thì tôi hoàn toàn ủng hộ", ông Ball nói thêm.

Đan Thùy

 

Tưới nước tiết kiệm - 'chìa khóa' mở cánh cửa nông nghiệp hiện đại

Khi nguồn nước ngày càng khan hiếm, chi phí sản xuất liên tục gia tăng, nhiều nông hộ đã tìm thấy lời giải từ những hệ thống tưới nước tiết kiệm (TNTK). Không chỉ giúp giảm công lao động, tiết kiệm phân bón và tối ưu lượng nước tưới, công nghệ này còn mở ra hướng đi mới cho sản xuất nông nghiệp hiệu quả, thông minh và bền vững. Những mô hình ứng dụng tưới nhỏ giọt, tưới tự động điều khiển từ xa đang dần thay đổi tư duy canh tác truyền thống, tạo bước đột phá trong hành trình chuyển đổi nông nghiệp công nghệ cao tại địa phương.

Tưới nước tiết kiệm giúp anh Lê Văn Long, xã Minh Sơn (Triệu Sơn) giảm 90% công lao động.

Theo thống kê từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh, toàn tỉnh hiện có trên 3.600ha diện tích trồng trọt được ứng dụng công nghệ TNTK; chủ yếu áp dụng trên cây ăn quả, cây mía, rau màu trong nhà màng, nhà lưới. Trong đó, tưới bằng công nghệ của Isarel chiếm gần 64% diện tích. Hiệu quả thực tế cho thấy, công nghệ TNTK giúp giảm từ 40 - 70% lượng nước sử dụng so với tưới truyền thống, tiết kiệm khoảng 70 - 80% công lao động nhờ tự động hóa quy trình vận hành. Đặc biệt, năng suất cây trồng tăng từ 20 - 40%, chất lượng sản phẩm được nâng cao, giúp nông dân dễ dàng liên kết tiêu thụ với các đơn vị, doanh nghiệp lớn. Một số mô hình còn ghi nhận mức tăng thu nhập tới 40% mỗi chu kỳ sản xuất... Công nghệ này không chỉ mang lại giá trị về kinh tế mà còn góp phần quan trọng trong bảo vệ môi trường, hạn chế xói mòn đất và chống ô nhiễm nguồn nước nhờ kiểm soát lượng nước tưới, phân bón hợp lý. Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng nền nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp công nghệ cao.

Tại thị trấn Vân Du (Thạch Thành), anh Lê Sơn Hải đã đầu tư phát triển mô hình trồng gừng theo hướng công nghệ cao trên diện tích 5ha của gia đình. Thay vì sử dụng phương pháp tưới truyền thống tốn công và nước, anh Hải đã đầu tư lắp đặt hệ thống TNTK với thiết kế các ống nhánh được bố trí sát gốc. Nhờ đó, chỉ cần vận hành hệ thống trong vòng một giờ, toàn bộ diện tích đất đều được tưới nước vừa đủ, tạo độ ẩm ổn định trong đất và đảm bảo dinh dưỡng được hấp thu hiệu quả hơn.

Một điểm nổi bật của hệ thống này là khả năng kết hợp tưới nước và bón phân cùng lúc. Phân bón được pha loãng trong nước, cho vào bình chứa, sau đó dẫn trực tiếp tới gốc cây thông qua hệ thống tưới. Cách làm này không chỉ giúp tiết kiệm phân bón (giảm đến 30% so với cách bón truyền thống) mà còn hạn chế tình trạng phân rơi vãi ra môi trường, tránh lãng phí và ô nhiễm. Ngoài ra, phương pháp tưới tập trung tại gốc giúp hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng củ, từ đó nâng cao năng suất cây trồng.

Đặc biệt, với hệ thống TNTK, công lao động giảm đến 80%, không còn cảnh kéo ống tưới thủ công, gánh nước từng thùng như trước. Người nông dân có thể chủ động tưới vào bất cứ thời điểm nào trong ngày mà không cần nhiều nhân lực hỗ trợ. Đồng thời, hệ thống cũng cho phép điều chỉnh linh hoạt vùng tưới, lượng nước và thời gian tưới theo từng giai đoạn sinh trưởng của cây.

Là một trong những người tiên phong ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm, anh Lê Văn Long, xã Minh Sơn (Triệu Sơn) đã đầu tư phát triển mô hình trồng rau màu và cây ăn quả trong nhà màng theo hướng công nghệ cao, ứng dụng đồng bộ hệ thống TNTK. Không chỉ lắp đặt đường ống tưới nhỏ giọt hiện đại theo công nghệ Israel, anh Long còn tích hợp thêm hệ thống cảm biến đo nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, từ đó hệ thống có thể tự động điều chỉnh chế độ tưới phù hợp với nhu cầu phát triển của cây trồng theo từng thời điểm. Một điểm tiện lợi nổi bật là toàn bộ hệ thống được kết nối với điện thoại thông minh. Anh có thể điều khiển máy bơm tưới từ xa, ở bất cứ đâu có internet, điều này đặc biệt hữu ích khi chủ vườn không thể trực tiếp có mặt tại khu sản xuất. Hệ thống tự động tưới giúp người nông dân tiết kiệm thời gian, công sức, mà vẫn đảm bảo cây trồng được chăm sóc đúng kỹ thuật và đúng thời điểm.

Tưới nước tiết kiệm giúp anh Lê Văn Long, xã Minh Sơn (Triệu Sơn) giảm 90% công lao động.

Anh Long cho biết: "Thực tế vận hành đã chứng minh hiệu quả vượt trội của mô hình: lượng nước sử dụng giảm tới 70% so với cách tưới truyền thống; sức lao động giảm tới 90%, gần như không cần can thiệp thủ công. Hơn thế, chi phí đầu tư ban đầu tuy có phần cao nhưng xét về dài hạn lại tiết kiệm đáng kể nhờ giảm chi phí vận hành, nhân công và tăng năng suất thu hoạch. “Ứng dụng nông nghiệp thông minh không chỉ là bước tiến về kỹ thuật mà còn là lời giải cho bài toán tiết kiệm tài nguyên, thích ứng với biến đổi khí hậu và nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp trong xu hướng sản xuất hàng hóa tập trung hiện nay”.

Dù đã có nhiều tín hiệu tích cực, nhưng trên thực tế, diện tích ứng dụng TNTK tại các địa phương vẫn chiếm tỷ lệ khiêm tốn trong tổng diện tích canh tác toàn tỉnh. Rào cản lớn nhất hiện nay là chi phí đầu tư ban đầu khá cao, dao động từ 100 - 200 triệu đồng/ha, vượt quá khả năng tài chính của nhiều hộ nông dân nhỏ lẻ. Để tháo gỡ khó khăn và mở rộng diện tích TNTK, tỉnh ta đã đẩy mạnh chính sách hỗ trợ đầu tư, thông qua các chương trình “Chuyển đổi số trong nông nghiệp”, “Phát triển vùng nguyên liệu” hay vốn từ Chương trình Mục tiêu quốc gia XDNTM... Một số địa phương như Yên Định, Triệu Sơn, Thạch Thành cũng chủ động ban hành cơ chế riêng khuyến khích người dân, HTX đầu tư vào TNTK. Cùng với đó, các trung tâm dịch vụ nông nghiệp cấp huyện đã tích cực phối hợp với doanh nghiệp cung ứng thiết bị và các tổ chức khuyến nông tổ chức các lớp tập huấn về lắp đặt, vận hành và bảo dưỡng hệ thống tưới tự động. Ngoài ra, ngành nông nghiệp và môi trường tăng cường truyền thông và xây dựng mô hình trình diễn. Nhiều mô hình điểm đã được đưa vào tập huấn, hội thảo nông nghiệp, giúp nông dân chứng kiến tận mắt sự vượt trội của TNTK so với cách làm truyền thống. Đây cũng là bước quan trọng để thay đổi tư duy sản xuất từ “tự phát” sang “có chiến lược”. TNTK sẽ không chỉ là giải pháp kỹ thuật, mà còn là sự đổi mới tư duy từ canh tác truyền thống sang nông nghiệp thông minh, bền vững, góp phần xây dựng nền nông nghiệp xanh - sạch - hiệu quả và thân thiện với thiên nhiên.

Bài và ảnh: Trần Hằng

 

Chuyển đổi số để nâng tầm giá trị nông sản

Cùng với đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, những năm gần đây, ngành Nông nghiệp Gia Lai đặc biệt chú trọng đến chuyển đổi số (CĐS) nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị và vị thế nông sản của địa phương trên thị trường.

Từng bước số hóa sản xuất nông nghiệp

Cà phê là một trong những cây trồng chủ lực của tỉnh. Những năm gần đây, giá cà phê liên tục tăng và xác lập nhiều kỷ lục mới đã mang lại nguồn thu nhập cao cho người nông dân. Chính vì thế, tư duy sản xuất cà phê theo kiểu truyền thống đã được thay đổi và ngày càng có nhiều người dân, hợp tác xã (HTX), doanh nghiệp chú trọng ứng dụng khoa học công nghệ, CĐS vào sản xuất để nâng cao chất lượng, giá trị nông sản chủ lực này.

Thời gian qua, bên cạnh đầu tư ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, HTX Nông nghiệp và dịch vụ Lam Anh (xã Glar, huyện Đak Đoa) đã đẩy mạnh CĐS nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất cũng như xây dựng thương hiệu cà phê đặc sản.

Theo Giám đốc HTX Lê Hữu Anh: Từ khi thành lập đến nay, HTX không ngừng liên kết với người dân để mở rộng vùng nguyên liệu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất theo hướng bền vững nhằm xây dựng sản phẩm đặc trưng của địa phương.

Cụ thể, HTX đã liên kết với 37 hộ cùng sản xuất cà phê theo tiêu chuẩn 4C, tạo vùng nguyên liệu ổn định để xây dựng sản phẩm cà phê mang thương hiệu Slar Land Coffee và được UBND tỉnh công nhận đạt OCOP 3 sao năm 2020.

Ngoài ra, HTX còn xây dựng thêm sản phẩm cà phê phin giấy được công nhận OCOP 4 sao. Đây là tiền đề quan trọng thúc đẩy người dân cùng HTX sản xuất, chế biến những sản phẩm cà phê sạch chất lượng cao để nâng tầm giá trị trên thị trường và tăng thu nhập.

Hợp tác xã Nông nghiệp và Dịch vụ Lam Anh (huyện Đak Đoa) đang liên kết với tổ hợp tác sản xuất cà phê 4C. Ảnh: V.T

“Bên cạnh chú trọng liên kết sản xuất theo các tiêu chuẩn, HTX còn đẩy mạnh ứng dụng CĐS trong các khâu sản xuất như sử dụng nhật ký điện tử để ghi chép quá trình sản xuất, truy xuất nguồn gốc sản phẩm…

Đồng thời, HTX hỗ trợ xây dựng cơ sở dữ liệu phần mềm cũng như tập huấn kỹ thuật cho 37 hộ liên kết áp dụng và công khai thông tin sản phẩm trên website của HTX, khách hàng chỉ cần truy cập vào sẽ biết nguồn gốc sản phẩm.

Ngoài ra, các hộ dân cũng đã chủ động sử dụng máy bay không người lái trong chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh bằng những chế phẩm sinh học hữu cơ với chi phí vừa rẻ, vừa đảm bảo sức khỏe, tiết kiệm so với cách làm truyền thống và nâng cao hiệu quả sản xuất”-Giám đốc HTX Nông nghiệp và dịch vụ Lam Anh thông tin.

Là một trong những hộ tham gia chuỗi liên kết, ông Uê (làng Tuơh Klah, xã Glar) cho biết: “Từ khi tham gia chuỗi liên kết sản xuất cà phê 4C, tôi được tập huấn ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, CĐS trong quá trình chăm sóc, theo dõi vườn cà phê rất khoa học. Nhờ đó, 2 ha cà phê của gia đình đạt năng suất 7-8 tấn/năm, giá bán luôn cao hơn thị trường 100-200 ngàn đồng/kg”.

Những năm gần đây, Công ty cổ phần Nông nghiệp AgriS Gia Lai (AgriS Gia Lai) đã chủ động triển khai các giải pháp CĐS trong vùng nguyên liệu từ khâu quản lý đến đầu tư, hướng dẫn người dân cách canh tác mía thông minh qua các ứng dụng phần mềm. Cụ thể, Công ty sử dụng phần mềm Map info để quản lý từng lô, thửa mía về ngày trồng, giống mía ở từng địa phương trong vùng nguyên liệu.

Bên cạnh đó, đến vụ thu hoạch, AgriS Gia Lai sử dụng phần mềm TMS quản lý xe vận chuyển mía nhằm kiểm soát chi phí, thu hoạch, vận chuyển đúng lô, thửa của những hộ trồng mía đã ký kết hợp đồng tiêu thụ.

Bà Trần Thị Lê-Phó Giám đốc Công ty cổ phần Nông nghiệp AgriS Gia Lai-chia sẻ: Chuyển đổi số là một trong những giải pháp được Công ty triển khai rộng rãi trong vùng nguyên liệu hơn 15.000 ha nhằm nâng cao năng suất, sản lượng và thu nhập cho người trồng mía.

Chúng tôi không ngừng cải tiến quy trình quản lý, giải pháp đầu tư thông qua các phần mềm theo dõi chặt chẽ từ ruộng mía, vốn đầu tư chăm sóc, kỹ thuật canh tác, thu hoạch, vận chuyển… nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích cho người trồng mía.

Công ty cổ phần Nông nghiệp AgriS Gia Lai ứng dụng drone để phun các chế phẩm sinh học kích thích cây mía phát triển (ảnh đơn vị cung cấp).

“Hiện nay, AgriS Gia Lai đang xây dựng bản đồ dinh dưỡng đất, tư vấn quản lý dinh dưỡng cây trồng, sử dụng các sản phẩm phân bón và quản lý, bảo vệ thực vật toàn diện cho đồng ruộng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất cho người trồng mía.

Công ty cũng đẩy mạnh áp dụng các giải pháp về cơ giới hóa trong nông nghiệp như: tưới, quản lý đồng ruộng bằng hồ sơ nông trường điện tử; thám sát đồng ruộng bằng công nghệ viễn thám”-Phó Giám đốc Công ty cổ phần Nông nghiệp AgriS Gia Lai khẳng định.

Kỳ vọng sàn thương mại điện tử

Toàn tỉnh hiện có 454 sản phẩm OCOP, trong đó, 1 sản phẩm OCOP 5 sao cấp quốc gia, 67 sản phẩm 4 sao và 386 sản phẩm 3 sao. Những năm gần đây, các chủ thể sản phẩm OCOP đã chú trọng đầu tư hoàn thiện sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh.

Đặc biệt, sản phẩm OCOP được các cấp, ngành quan tâm tạo điều kiện tham gia quảng bá, xúc tiến thương mại cũng như giới thiệu, bán trên các sàn giao dịch thương mại điện tử. Nhờ đó, thị trường tiêu thụ được mở rộng, hiệu quả sản xuất nâng lên rõ rệt.

Nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã trong tỉnh chú trọng ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số để nâng cao chất lượng cà phê. Ảnh: Đ.T

Chị Trần Thị Diễm Kiều-Phó Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Bò khô Huy Vũ (huyện Đak Đoa) cho hay: Các sản phẩm bò khô của Công ty đã được chứng nhận sản phẩm OCOP 4 sao. Ngoài tham gia các hội chợ xúc tiến thương mại, Công ty còn quảng bá sản phẩm trên các sàn giao dịch thương mại điện tử như Shopee, TikTok Shop…

Đặc biệt, Công ty cũng tham gia quảng bá sản phẩm tại gian hàng trực tuyến trên nền tảng công nghệ 3D. Nhờ đó, thị trường tiêu thụ ngày một mở rộng, không chỉ khách hàng lẻ mà nhiều nhà phân phối trên khắp cả nước cũng tìm đến đặt hàng.

Theo ông Nguyễn Kim Anh-Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Đak Đoa: Bên cạnh chú trọng đẩy mạnh CĐS trong ngành nông nghiệp, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao chất lượng nông sản, huyện chú trọng hỗ trợ người dân, HTX, doanh nghiệp xây dựng mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói, tem truy xuất nguồn gốc… nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường.

Đặc biệt, để mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm nông sản đặc trưng của địa phương, huyện cũng đã định kỳ tổ chức phiên chợ nông sản, xây dựng website giới thiệu các sản phẩm OCOP của địa phương và hướng dẫn chủ thể tham gia các sàn thương mại điện tử…

Chuyển đổi số giúp nhiều khách hàng thay đổi góc nhìn với nông sản Gia Lai. Ảnh: T.N

Trao đổi với P.V, ông Đoàn Ngọc Có-Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường-cho biết: Cùng với tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu hồ sơ số của ngành, Sở cũng được Bộ Nông nghiệp và Môi trường chuyển giao đồng bộ các hệ thống phần mềm quản lý về cây trồng, sâu bệnh gây hại, phòng cháy, chữa cháy rừng…

Cùng với đó, Sở cũng chú trọng hỗ trợ người dân, HTX, doanh nghiệp xây dựng mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói giúp truy xuất nguồn gốc, đảm bảo chất lượng sản phẩm và nâng cao uy tín cho nông sản Gia Lai trên thị trường. Tính đến nay, tỉnh đã cấp 227 mã số vùng trồng với tổng diện tích 9.668,7 ha và 38 mã số cơ sở đóng gói nông sản xuất khẩu với tổng công suất 1.550-1.700 tấn quả tươi/ngày.

“Thời gian tới, Sở Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục tuyên truyền, vận động người dân, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ trong sản xuất nông-lâm nghiệp; hướng dẫn áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc, gắn mã vùng trồng, mã cơ sở đóng gói đảm bảo yêu cầu tiêu thụ nông sản trong nước và xuất khẩu.

Đồng thời, xây dựng và phát triển các hình thức hợp tác liên kết sản xuất theo chuỗi khép kín với sự vào cuộc quyết liệt của 4 nhà (Nhà nước, doanh nghiệp, nhà khoa học, nông dân). Hướng dẫn, hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp đưa sản phẩm nông-lâm-thủy sản, đặc biệt là các sản phẩm chủ lực, sản phẩm đạt OCOP lên các sàn thương mại điện tử.

Cùng với đó, đẩy nhanh tiến độ xây dựng hệ thống dữ liệu nông nghiệp, bao gồm dữ liệu về đất đai, sản xuất nông-lâm nghiệp, cây trồng, vật nuôi, vùng nguyên liệu, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, cung ứng dịch vụ nông nghiệp, tạo điều kiện tương tác giữa doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp ở xa.

Ứng dụng các công nghệ mới, công nghệ cảm biến, công nghệ nano, tiết kiệm phân bón, công nghệ máy bay không người lái trong sản xuất và giám sát sản xuất nông nghiệp”-Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường nêu giải pháp.

NGUYỄN DIỆP

 

Nông nghiệp 4.0 và Tài nguyên số: 'Đòn bẩy' cho sự phát triển

Trong xu thế tất yếu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số (CĐS) không còn là xu hướng mà đã trở thành yêu cầu cấp thiết, là động lực quan trọng cho sự phát triển toàn diện của mỗi địa phương, mỗi ngành. Hòa chung vào công cuộc CĐS, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Long An đã đạt kết quả ấn tượng. Những nỗ lực không ngừng này không chỉ góp phần hiện đại hóa công tác quản lý, nâng cao chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp (DN) mà còn tạo nền tảng vững chắc cho cải cách hành chính, thu hút đầu tư và thúc đẩy KT-XH, đặc biệt trong xây dựng nông thôn mới (NTM) thông minh.

Phó Chủ tịch HĐND tỉnh - Đặng Thị Ngọc Mai giám sát chuyển đổi số tại Sở Nông nghiệp và Môi trường, thúc đẩy nông nghiệp số, quản lý tài nguyên thông minh, vì một Long An số hóa toàn diện

Đổi mới quản lý, cải cách hành chính

Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc lấy người dân và DN làm trung tâm, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Long An đặt trọng tâm vào việc đổi mới công tác quản lý và đẩy mạnh cải cách hành chính thông qua ứng dụng công nghệ số. Đến nay, Sở cung cấp 212 thủ tục hành chính (TTHC) trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của tỉnh, trong đó có 67 thủ tục được cung cấp toàn trình.

Đáng chú ý, 100% thành phần hồ sơ và kết quả giải quyết tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh đều được số hóa, lưu trữ và theo dõi qua hệ thống Một cửa điện tử. Kết quả này đã đưa Sở Nông nghiệp và Môi trường được xếp loại “Tốt” về chất lượng phục vụ người dân, DN trong giải quyết TTHC (tính đến ngày 31/12/2024).

Việc 100% văn bản hành chính được ký số và xử lý, gửi, nhận qua không gian mạng, cùng với việc cấp 378 tài khoản email công vụ, đã rút ngắn đáng kể thời gian xử lý công việc, giảm chi phí và nâng cao hiệu quả làm việc.

Hệ thống cơ sở dữ liệu đất đai (VBDLIS) với 1.812.036 thửa đất không gian và 1.603.993 thửa đất thuộc tính (tính đến ngày 28/4/2025) được duy trì ổn định, phục vụ đắc lực cho công tác giải quyết TTHC về đất đai, minh bạch hóa thông tin và tạo thuận lợi cho người dân.

Nông nghiệp thông minh, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường

Chuyển đổi số trong nông nghiệp - bước đột phá đưa công nghệ 4.0 vào đồng ruộng, từ cánh đồng thông minh đến nhà kính hiện đại, nâng tầm giá trị nông sản và cải thiện đời sống nông dân

Ứng dụng công nghệ số trong nông nghiệp được xem là khâu đột phá, giúp nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cho nông sản. Sở tích cực hỗ trợ truy xuất nguồn gốc nông sản với 2.061.000 tem điện tử truy xuất nguồn gốc qua mã QR được cấp cho 17 cơ sở chuỗi cung cấp thực phẩm an toàn và 247 sản phẩm OCOP (trong đó có 51 sản phẩm 4 sao).

Thương mại điện tử cho nông sản cũng ghi nhận những bước tiến đáng kể. Hơn 800 cơ sở đã được hướng dẫn tạo tài khoản trên sàn nongsanantoanlongan.vn và hơn 350 cơ sở đã đăng tải sản phẩm. Toàn tỉnh có 66.426 tổ chức, cá nhân bán hàng trên các sàn Postmart.vn và Voso.vn với 8.385 sản phẩm, cùng 180 gian hàng với 478 sản phẩm trên sàn longantrade.com.

Các mô hình nông nghiệp công nghệ cao như Canh tác lúa thông minh sử dụng phần mềm Rynan Mekong, ứng dụng Agritask ghi chép nhật ký đồng ruộng, hệ thống giám sát sâu rầy thông minh, hay mô hình Nuôi tôm thẻ chân trắng 2 giai đoạn ứng dụng công nghệ 4.0 đang dần khẳng định hiệu quả, mở ra hướng đi mới cho nông dân. Đặc biệt, việc xây dựng phần mềm quản lý và tiêu thụ sản phẩm sầu riêng đã hỗ trợ hiệu quả từ khâu sản xuất, truy xuất nguồn gốc đến kết nối thị trường.

Công tác quản lý tài nguyên và môi trường cũng chứng kiến sự đổi mới mạnh mẽ nhờ CĐS. Sở đã vận hành hiệu quả 3 trạm quan trắc không khí, 3 trạm quan trắc nước mặt tự động, cùng 35 trạm đo mực nước và 13 trạm đo độ mặn tự động.

Các trạm này cung cấp dữ liệu liên tục, giúp cảnh báo sớm, phục vụ công tác giám sát, dự báo thủy văn, điều tiết công trình thủy lợi và bảo vệ môi trường. Dữ liệu từ 12 trạm quan trắc chất lượng nước mặt, nước dưới đất và không khí được gửi nhận liên tục trên phần mềm Envisoft và chuyển tiếp về Bộ Nông nghiệp và Môi trường, góp phần vào hệ thống quản lý môi trường quốc gia.

Việc triển khai Dự án “Hệ thống công khai thông tin tài nguyên và môi trường” và thí điểm mô hình CĐS trong quản lý chất thải trên địa bàn TP.Tân An hứa hẹn sẽ nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực quan trọng này.

Đặc biệt, chương trình CĐS trong xây dựng NTM, hướng tới NTM thông minh đang được triển khai mạnh mẽ với 3 trụ cột: Chính quyền số, kinh tế số và xã hội số ở nông thôn. Đến nay, tỉnh đã triển khai mô hình ấp NTM thông minh trên 7 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu với các ứng dụng thiết thực như điều khiển tưới tiết kiệm nước bằng điện thoại, camera an ninh và phủ sóng wifi/4G/5G.

Việc công khai quy hoạch sử dụng đất đến từng thửa đất trên Internet và điện thoại thông minh đối với 15 huyện, thị xã, thành phố cũng là một bước tiến lớn, phục vụ trực tiếp lợi ích của người dân.

Tỉnh phấn đấu chuyển đổi số trong quản lý đất đai: Từ bản đồ giấy truyền thống đến hình ảnh vệ tinh hiện đại, tạo nền tảng cho quy hoạch hiệu quả và phát triển xanh

Phát huy những kết quả đạt được, Sở Nông nghiệp và Môi trường xác định sẽ tập trung vào việc hoàn thiện các cơ sở dữ liệu chuyên ngành, bảo đảm tính kết nối, liên thông và chia sẻ dữ liệu hiệu quả với hệ thống dữ liệu dùng chung của tỉnh. Việc nâng cấp hệ thống công khai thông tin tài nguyên nước và môi trường, tiếp tục triển khai các ứng dụng phục vụ quản lý ngành là những nhiệm vụ trọng tâm.

Bên cạnh đó, Sở cũng kiến nghị tỉnh nghiên cứu xây dựng và ban hành các chính sách đặc thù để thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS, đặc biệt là cơ chế thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao về công nghệ thông tin và an toàn thông tin. Việc nâng cao nhận thức và kỹ năng số cho cán bộ, người dân và DN, khắc phục tâm lý e ngại khi sử dụng dịch vụ công trực tuyến và thanh toán trực tuyến cũng sẽ được chú trọng.

Hành trình CĐS của Sở Nông nghiệp và Môi trường đã và đang mang lại những giá trị thiết thực, không chỉ thay đổi phương thức làm việc, nâng cao hiệu quả quản lý mà quan trọng hơn là phục vụ ngày một tốt hơn nhu cầu của người dân và DN, đóng góp vào sự phát triển bền vững của tỉnh./.

Bách Việt

 

Xúc tiến thương mại mở lối cho dưa lưới công nghệ cao

Từ vùng đất cát nắng gió, dưa lưới Bình Thuận đang khẳng định vị thế sản phẩm nông nghiệp chủ lực thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại bài bản.

Những lực cản cần vượt qua

Bình Thuận, vùng đất khô hạn bậc nhất Nam Trung Bộ tưởng chừng khó có thể phát triển nông nghiệp, lại đang chứng kiến một làn sóng đổi mới mạnh mẽ trong sản xuất nông sản, với điểm sáng là dưa lưới công nghệ cao.

Trong những năm gần đây, các mô hình trồng dưa lưới trong nhà màng tại huyện Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Nam... đã phát triển mạnh mẽ, mở ra hướng đi mới cho nền nông nghiệp địa phương. Sản phẩm không chỉ đạt năng suất cao mà còn đảm bảo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, nhờ ứng dụng đồng bộ các công nghệ tiên tiến như tưới nhỏ giọt Israel, hệ thống kiểm soát nhiệt, ẩm, ánh sáng tự động, sử dụng chế phẩm sinh học.

Một trong những điểm sáng là Hợp tác xã Nông nghiệp công nghệ cao Thiện An (huyện Tuy Phong), do nhóm thanh niên trẻ thành lập. Với hơn 2,5ha diện tích nhà màng, sản lượng đạt trung bình 5-6 tấn/sào mỗi vụ, HTX đã khẳng định chất lượng dưa lưới bằng việc đạt chứng nhận VietGAP và OCOP 3 sao cấp huyện. Sản phẩm hiện có mặt tại các siêu thị, chuỗi cửa hàng nông sản an toàn ở TP.Hồ Chí Minh, Hà Nội, Lâm Đồng…

Các mô hình trồng dưa lưới trong nhà màng tại huyện Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Nam... đã phát triển mạnh mẽ. Ảnh: Ngọc Hoa

Tuy nhiên, để dưa lưới Bình Thuận không chỉ “ngon” mà còn “nổi tiếng”, việc thúc đẩy xúc tiến thương mại là yêu cầu cấp thiết. Dù chất lượng sản phẩm đã được minh chứng, nhưng theo nhiều hợp tác xã và nông hộ sản xuất dưa lưới tại Bình Thuận, đầu ra cho sản phẩm vẫn gặp khó khăn. Nhiều lô hàng phải bán qua thương lái, giá cả bấp bênh, chịu áp lực cạnh tranh từ dưa lưới nhập khẩu hoặc các vùng trồng có thương hiệu mạnh như Lâm Đồng, Ninh Thuận.

Dù khởi đầu đầy triển vọng, nhưng hành trình của HTX Thiện An cũng như nhiều mô hình trồng dưa lưới khác tại Bình Thuận vẫn gặp không ít rào cản trên bước đường phát triển.

Trước hết là bài toán vốn, mỗi nhà màng tiêu chuẩn phục vụ trồng dưa lưới cần đầu tư từ 350 đến 400 triệu đồng cho 1.000m², một con số không nhỏ với nông dân khởi nghiệp. Trong khi đó, việc tiếp cận các gói vay ưu đãi lại vướng nhiều rào cản, do HTX chưa đủ điều kiện thế chấp tài sản hoặc chưa hoàn thiện hồ sơ pháp lý. “Lúc mới thành lập, chúng tôi phải vay mượn từ người thân, xoay xở từng đồng để dựng nhà màng. Có giai đoạn bị mưa lớn làm sập giàn, cả HTX tưởng chừng không gượng dậy nổi”, ông Lê Minh Thạch, Phó Giám đốc HTX Thiện An chia sẻ.

Bên cạnh đó, khó khăn lớn nhất hiện nay là đầu ra cho sản phẩm. Dù dưa lưới của HTX đã đạt chuẩn VietGAP, có mã vùng trồng và mẫu mã đẹp, nhưng việc thâm nhập các hệ thống phân phối lớn vẫn còn xa vời. “Chúng tôi rất muốn xây dựng thương hiệu lâu dài, có bao bì, truy xuất nguồn gốc bài bản, nhưng kinh phí hạn hẹp. Một số hệ thống siêu thị yêu cầu khắt khe về quy cách đóng gói, nhãn mác, số lượng ổn định mà HTX còn chưa đáp ứng được”, ông Thạch cho biết thêm.

Thực tế này phản ánh một “điểm nghẽn” không chỉ của riêng HTX Thiện An mà còn là bài toán chung của nông sản sạch Việt Nam: sản xuất tốt nhưng chưa gắn chặt với thị trường. Thiếu kỹ năng tiếp thị, quảng bá sản phẩm, thiếu liên kết với các doanh nghiệp phân phối chuyên nghiệp khiến sản phẩm dù tiềm năng vẫn chưa thể bứt phá.

Tỉnh Bình Thuận đang đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại thông qua các chương trình kết nối cung cầu. Ảnh: NVCC

Mở đường cho thương hiệu dưa lưới Bình Thuận

Nhận diện được tiềm năng và thách thức, tỉnh Bình Thuận đã có nhiều động thái tích cực nhằm xúc tiến thương mại cho dưa lưới nói riêng và nông sản công nghệ cao nói chung.

Theo Sở Công Thương tỉnh Bình Thuận cho biết, tỉnh đang đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại thông qua các chương trình kết nối cung cầu, hỗ trợ HTX tham gia hội chợ nông sản vùng miền, tổ chức gian hàng trên sàn thương mại điện tử và kết nối với các doanh nghiệp logistics, phân phối tại TP.Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà Nội.

Song song với đó, chính quyền địa phương còn hỗ trợ cấp mã vùng trồng, mã cơ sở đóng gói, chứng nhận an toàn thực phẩm, tư vấn xây dựng thương hiệu, tem truy xuất nguồn gốc QR Code… giúp các cơ sở sản xuất đủ điều kiện để gia nhập chuỗi cung ứng hiện đại.

Riêng tại huyện Tuy Phong, chính quyền cũng phối hợp với các ngân hàng để triển khai gói vay ưu đãi cho HTX nông nghiệp công nghệ cao, đồng thời hướng dẫn lập hồ sơ tham gia chương trình OCOP, tạo điều kiện cho dưa lưới trở thành sản phẩm đặc trưng của địa phương.

Sản phẩm dưa lưới của HTX nông nghiệp công nghệ cao Thiện An. Ảnh: Ngọc Hoa

Trong bối cảnh thị trường trong nước ngày càng khắt khe, việc định hướng xuất khẩu dưa lưới cũng đã được tính đến. Bình Thuận đang phối hợp với Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) để xây dựng các phiên kết nối giao thương trực tuyến với thị trường Hàn Quốc, UAE, Singapore… Đồng thời, một số HTX tiên phong như Thiện An, Đông Giang cũng đang xúc tiến thủ tục đạt chuẩn GlobalGAP để tiếp cận các thị trường cao cấp.

Về lâu dài, việc hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, có liên kết chuỗi từ sản xuất, chế biến, tiêu thụ sẽ là chìa khóa giúp dưa lưới Bình Thuận vươn ra thị trường thế giới một cách bài bản, thay vì nhỏ lẻ và tự phát.

Dưa lưới công nghệ cao không chỉ là thành quả của nông nghiệp đổi mới, mà còn là biểu tượng cho tư duy làm ăn hiện đại của người nông dân Bình Thuận. Tuy nhiên, để những quả dưa ngọt ấy không chỉ chín trên đồng mà còn “chín” trên thị trường, sự vào cuộc của hệ thống xúc tiến thương mại, sự đồng hành của chính quyền và doanh nghiệp là điều kiện tiên quyết.

Một chiến lược xúc tiến thương mại bài bản từ xây dựng thương hiệu, chuẩn hóa bao bì, quảng bá số hóa cho đến kết nối chuỗi sẽ là bệ phóng để dưa lưới Bình Thuận không chỉ vươn ra siêu thị mà còn tiến vào các thị trường xuất khẩu đầy tiềm năng.

Tuy Phong (Bình Thuận) là vùng đất khô hạn đặc trưng, tưởng chừng chỉ thích hợp với những cây trồng chịu hạn. Nhưng chính nơi đây, nhờ ứng dụng mô hình nhà màng và công nghệ tưới nhỏ giọt, những trái dưa lưới ngọt thanh, giòn mát đã ra đời, mở ra hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao cho vùng đất đầy nắng và gió.

Dưa được trồng theo quy trình kiểm soát dinh dưỡng và độ ẩm nghiêm ngặt, cho năng suất cao và chất lượng đồng đều, đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và dần hướng đến xuất khẩu. Mô hình này không chỉ giúp ổn định thu nhập cho nông dân mà còn góp phần thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp truyền thống tại địa phương.

Ngọc Hoa - Đăng Khoa

 

Hội thảo khoa học giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn

Sáng 27/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (gọi tắt là Liên hiệp hội) đã chủ trì, phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiệp Thanh Hóa tổ chức hội thảo khoa học 'Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ'.

Các đại biểu dự hội thảo.

Thanh Hóa là tỉnh có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, có vai trò kết nối vùng đồng bằng sông Hồng, Tây Bắc với Bắc Trung bộ, là tỉnh có dân số đông, nguồn lao động dồi dào, đứng thứ 3 cả nước, với 3,76 triệu người. Dân số trong độ tuổi lao động trên 2,2 triệu người, trong đó lao động nông thôn chiếm khoảng 78,5% (tương ứng 46,1% dân số của tỉnh). Lao động đang làm việc trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp là 632.400 người, chiếm tỷ lệ 30,3% tổng số lao động của tỉnh.

Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa Nguyễn Văn Phát phát biểu tại hội thảo.

Theo Thông báo số 488-TB/VPTU ngày 12/11/2024 về kết luận của Thường trực Tỉnh ủy tại Hội nghị tiếp xúc, gặp gỡ, tham vấn và đối thoại giữa lãnh đạo tỉnh với đội ngũ trí thức trên địa bàn tỉnh năm 2024, Liên hiệp hội và các sở, ban, ngành có liên quan được giao tham mưu, đề xuất, hiến kế để tỉnh giải quyết các vấn đề trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

Trong đó, giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ được xác định là nhiệm vụ cấp bách trong giai đoạn hiện nay.

Các đại biểu chủ trì hội thảo.

Nhằm triển khai nhiệm vụ trên, Hội thảo được tổ chức nhằm đề xuất các giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay ghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ. Đồng thời, đáp ứng yêu cầu phát triển nông hiệp trong giai đoạn mới theo tinh thần Nghị quyết số 58-NQ/TW của Bộ Chính trị, cụ thể là “Tập trung ưu tiên phát triển ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững gắn xây dựng nông thôn mới; ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, thông minh, để hình thành các vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao; hình thành và phát triển các chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ”.

Toàn cảnh hội thảo.

Các tham luận tại hội thảo đã tập trung làm rõ một số nội dung như: Chuyển dịch lao động nông nghiệp, xu hướng và những vấn đề xã hội ở nông thôn cần được tháo gỡ; thực trạng và giải pháp giải quyết nhu cầu thiếu lao động có tay nghề cao trong phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh; giải pháp cho thiếu hụt nhân lực lĩnh vực nông nghiệp chất lượng cao; thực trạng và đề xuất giải pháp giải quyết việc làm cho một số vùng sản xuất nông nghiệp công nghiệp cao, nông nghiệp hữu cơ tại Thanh Hóa...

Các đại biểu cũng đã thảo luận một số nội dung như tiềm năng, lợi thế của ngành nông nghiệp Thanh Hóa hiện nay, cơ cấu phát triển ngành nông nghiệp trong giai đoạn mới; cơ cấu lao động trong nông nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ...

Nguyễn Đạt

 

Huyện Phú Giáo: Tập huấn quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp theo VietGAP

Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Phú Giáo phối hợp với Công ty Cổ phần Chứng nhận và kiểm nghiệm FAO vừa tổ chức lớp tập huấn quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp theo tiêu chuẩn VietGAP cho các hộ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện.

Tại lớp tập huấn, các hộ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện được hướng dẫn ứng dụng quy trình về sản xuất theo hướng VietGAP; các mối nguy an toàn thực phẩm trong sản xuất; quản lý thuốc bảo vệ thực vật và hóa chất theo tiêu chuẩn VietGAP; cách thức ghi chép sổ nhật ký sản xuất VietGAP; đồng thời nắm rõ về lợi ích của việc sản xuất theo quy trình VietGAP đối với xã hội, người sản xuất, người tiêu dùng và khuyến khích các tổ chức, cá nhân đăng ký tham gia đánh giá chứng nhận mở rộng sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP.

Qua lớp tập huấn giúp các hộ sản xuất nông nghiệp nắm bắt những kiến thức cơ bản trong sản xuất nông nghiệp an toàn, về an toàn thực phẩm trong sản xuất rau củ quả...

H.ANH

 

Điểm sáng trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ

Hợp tác xã Hữu cơ Trung Hiếu, bản Búc, xã Chiềng Sung, huyện Mai Sơn đang liên doanh, liên kết chặt chẽ với nhân dân, thành viên HTX phát triển trồng ngô, rau màu và là điểm sáng trong phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ, bền vững.

Kỹ thuật viên HTX Hữu cơ Trung Hiếu kiểm tra sự sinh trưởng của cây ngô.

Tháng 7/2018, Hợp tác xã Hữu cơ Trung Hiếu thành lập, ban đầu chỉ có 15 thành viên, trồng hơn 150 ha ngô ngọt và rau màu. Đến nay, HTX phát triển lên 59 thành viên, liên kết với 719 hộ tại các huyện Mai Sơn, Mường La, Yên Châu, canh tác 400 ha ngô ngọt, 450 ha đậu tương rau, cho sản lượng hơn 10.000 tấn/năm.

Bà Đoàn Thị Thủy, Giám đốc HTX vừa dẫn chúng tôi thăm vùng trồng ngô ngọt vừa giới thiệu quy trình canh tác: Sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ phải thực hiện ngay từ khâu làm đất, đến chọn giống, bón phân, lắp đặt hệ thống tưới tự động, tất cả đều phải đồng bộ. Trong quá trình trồng, chăm sóc ngô và rau, đến khi thu hoạch và sơ chế, các thành viên và người lao động được đội ngũ kỹ thuật của HTX hướng dẫn, giám sát nghiêm ngặt theo quy trình sản xuất an toàn, đúng tiêu chuẩn.

Anh Lèo Mai Đông, Đội trưởng Đội kỹ thuật, cho biết thêm: Chúng tôi có nhiệm vụ theo dõi sát quá trình gieo trồng ngô ngọt, đậu tương rau, thường xuyên kiểm tra từng khu đất, hướng dẫn hộ dân chăm sóc đúng kỹ thuật. Gần đến kỳ thu hoạch, Đội liên tục kiểm tra chất lượng sản phẩm, đảm bảo đúng kích cỡ, hàm lượng dinh dưỡng theo quy định mới cho thu hoạch.

Kỹ thuật viên HTX Hữu cơ Trung Hiếu kiểm tra chất đất trồng ngô.

Hiện nay, sản phẩm của HTX được cung cấp theo đơn đặt hàng cho nhiều nhà máy chế biến lớn, như: Trung tâm chế biến rau quả Doveco Sơn La, Công ty CP XNK thực phẩm Đồng Giao (Ninh Bình), Công ty CP thực phẩm XNK Toàn Cầu (Bắc Giang)...

Anh Kiều Đức Tâm, bản Búc, xã Chiềng Sung, là thành viên HTX, cho biết: Tôi được tập huấn, chia sẻ kỹ thuật mới trong trồng, chăm sóc và sau thu hoạch các loại cây, như: Ngô, đậu tương, rau... Nhờ đó, cây trồng đạt năng suất, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu doanh nghiệp chế biến. Riêng 4 ha ngô ngọt đạt hơn 80 tấn/vụ, doanh thu gần 400 triệu đồng.

Việc mở rộng sản xuất theo hướng hữu cơ, xây dựng chuỗi liên kết tiêu thụ, giúp HTX khai thác hiệu quả tiềm năng địa phương, hình thành vùng chuyên canh tập trung, hạn chế sản xuất nhỏ lẻ, tạo ra sản phẩm chất lượng, có sức cạnh tranh. Từ khi thành lập, HTX và cùng các hộ liên kết đã sản xuất, tiêu thụ mỗi năm hơn 6.000 tấn ngô ngọt, 4.000 tấn đậu tương rau cho các nhà máy chế biến, doanh thu gần 80 tỷ đồng/năm.

Với mô hình sản xuất hữu cơ hiệu quả, HTX Hữu cơ Trung Hiếu đã và đang góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Bài, ảnh: Minh Tuấn

 

Xây dựng chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm cam Lục Ngạn: Nền tảng phát triển nông sản đặc thù và bền vững

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng, việc xây dựng chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm nông nghiệp không chỉ giúp bảo vệ thương hiệu mà còn là công cụ hiệu quả nâng cao giá trị và năng lực cạnh tranh cho nông sản Việt. Cam Lục Ngạn là một trong những sản phẩm chủ lực của 'thủ phủ cây ăn trái miền Bắc' vừa chính thức được cấp giấy Chứng nhận chỉ dẫn địa lý. Từ đây mở ra hướng đi mới cho phát triển nông nghiệp bền vững tại Bắc Giang.

Cam Lục Ngạn – Lợi thế cần được khẳng định bằng chất lượng

Cam Lục Ngạn là một trong những cây ăn quả chủ lực của huyện (đứng thứ 2 sau vải thiều), có thời điểm đạt trên 4.100 ha, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân. Trong bối cảnh diện tích cam cả nước tăng nhanh (trung bình 12%/năm về diện tích, hơn 10% về sản lượng), hiện tượng cung vượt cầu và rớt giá là điều khó tránh khỏi. Do đó, định vị lại sản phẩm theo hướng chất lượng đặc thù là chiến lược cần thiết để cam Lục Ngạn cạnh tranh với sản phẩm nội địa và nhập khẩu.

Dấu mốc quan trọng từ một đề tài khoa học công nghệ

Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết nêu trên, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Hệ thống Nông nghiệp đã chủ trì thực hiện đề tài khoa học và công nghệ “Xây dựng, phát triển chỉ dẫn địa lý ‘Lục Ngạn’ dùng cho sản phẩm cam của huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang” theo Quyết định số 581/QĐ-UBND ngày 07/6/2021 của UBND tỉnh Bắc Giang.

Sau gần 4 năm triển khai, nhóm thực hiện đã hoàn thành các nội dung quan trọng:

. Khảo sát thực trạng sản xuất kinh doanh cam Lục Ngạn;

. Thu thập tài liệu về danh tiếng, lịch sử sản phẩm;

. Đánh giá điều kiện pháp lý và khả năng bảo hộ chỉ dẫn địa lý;

. Phân tích đặc tính cảm quan và lý hóa của cam Lục Ngạn (ngọt, hàm lượng đường tổng số cao), so sánh với cam Cao Phong (Hòa Bình), cam Hà Giang;

. Xác định điều kiện tự nhiên – kỹ thuật tạo nên chất lượng đặc thù;

. Xây dựng quy trình sản xuất và công cụ quản lý chỉ dẫn địa lý;

. Đăng ký bảo hộ mẫu nhãn hiệu (logo), hoàn thiện phần mềm quản lý chỉ dẫn địa lý, cấp quyền sử dụng cho 6 chủ thể kinh tế tiêu biểu;

. Vận hành thử nghiệm, đào tạo sử dụng, in ấn hệ thống nhận diện cho các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý.

Chính thức được bảo hộ, mở ra nhiều kỳ vọng

Ngày 2/4/2025, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) đã ban hành Quyết định số 252/QĐ-SHTT cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý “Lục Ngạn” cho các sản phẩm cam đặc sản của huyện Lục Ngạn và thị xã Chũ, tỉnh Bắc Giang gồm: Cam lòng vàng, cam ngọt và cam V2.

Việc được bảo hộ chỉ dẫn địa lý không chỉ khẳng định uy tín và chất lượng sản phẩm cam Lục Ngạn trên thị trường, mà còn là "tấm hộ chiếu thương mại" giúp sản phẩm vươn xa hơn ở các thị trường trong và ngoài nước. Đây cũng là cơ hội lớn để quảng bá hình ảnh vùng đất Lục Ngạn – Bắc Giang, thúc đẩy phát triển du lịch nông nghiệp và gia tăng thu nhập cho người trồng cam.

Hướng tới phát triển bền vững

Cam Lục Ngạn sẽ không chỉ dừng lại ở việc được bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Thách thức lớn hơn là duy trì, giám sát và bảo vệ chất lượng sản phẩm gắn với vùng trồng, truy xuất nguồn gốc minh bạch và xây dựng thương hiệu bền vững. Sự đồng hành của chính quyền địa phương, doanh nghiệp, hợp tác xã và người nông dân là điều kiện tiên quyết để chỉ dẫn địa lý thực sự phát huy hiệu quả.

Đến nay, cam Lục Ngạn đã có “tấm vé vàng” để chinh phục thị trường. Điều cần thiết tiếp theo là một chiến lược bài bản để bảo tồn chất lượng, mở rộng thị trường và khai thác tối đa giá trị gia tăng từ nông sản đặc thù địa phương.

PV

 

Bớt cảnh 'được mùa, mất giá' nhờ chuyển đổi số trong nông nghiệp

Nhờ chuyển đổi số trong nông nghiệp đã giúp người nông dân chủ động được thời vụ, kiểm soát được chất lượng nông sản, đáp ứng nhu cầu của thị trường... giúp tăng năng suất và giảm thiểu rủi ro, bớt cảnh 'được mùa mất rớt giá'.

Các cán bộ được tập huấn về lý thuyết và thực hành điều khiển thiết bị bay theo sơ đồ bố trí khảo nghiệm tại ruộng lúa thuộc xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội. Ảnh: Bích Hồng/TTXVN

Hiện nay, nhiều địa phương trên địa bàn Hà Nội đang tích cực đẩy mạnh chuyển đổi số trong nông nghiệp, ứng dụng công nghệ sinh học, bigdata (dữ liệu lớn)…

Trong những năm gần đây, UBND thành phố Hà Nội đã đẩy mạnh hỗ trợ người dân chuyển đổi số trong nông nghiệp như mua máy móc, thiết bị, phun thuốc bảo vệ thực vật bằng thiết bị bay không người lái... nhằm khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, sạch, bảo vệ môi trường trị giá hàng chục tỷ đồng.

Cụ thể, năm 2024 thực hiện tại thị xã Sơn Tây và các huyện: Thanh Oai, Ba Vì, Mê Linh, Sóc Sơn, Gia Lâm, Quốc Oai được hỗ trợ về máy móc, thiết bị để chuyển đổi số trong nông nghiệp. Năm 2025, dự kiến thực hiện tại các huyện: Thạch Thất, Sơn Tây, Thanh Oai, Ba Vì, Mê Linh, Sóc Sơn, Quốc Oai. 49 cơ sở sẽ nhận được hỗ trợ của UBND thành phố Hà Nội. Dự kiến kinh phí hỗ trợ là 6,551 tỷ đồng.

Trong 2 năm 2024-2025, UBND thành phố Hà Nội bố trí khoảng 11 tỷ đồng để thực hiện chính sách hỗ trợ kinh phí phun thuốc bảo vệ thực vật bằng thiết bị bay không người lái (Drone/UAV) cho các tổ chức, cá nhân.

Thiết bị bay không người lái sẽ thay thế người nông dân thực hiện phun thuốc bảo vệ thực vật trên đồng ruộng. Cụ thể, trong năm 2024, Hà Nội thực hiện tại các huyện: Mỹ Đức, Thạch Thất, Thanh Oai, Phúc Thọ, Mê Linh, Chương Mỹ, Thường Tín, Ứng Hòa, Sóc Sơn, Phú Xuyên, Quốc Oai. Diện tích hỗ trợ 24.972 ha, với tổng kinh phí 6,243 tỷ đồng.

Năm 2025, thực hiện tại các huyện: Mỹ Đức, Thạch Thất, Sơn Tây, Mê Linh, Chương Mỹ, Thường Tín, Ứng Hòa, Sóc Sơn, Quốc Oai, Phú Xuyên. Dự kiến diện tích thực hiện là 18.959 ha. Tổng kinh phí hỗ trợ là 4,74 tỷ đồng.

Drone/UAV nông nghiệp là thiết bị bay không người lái sử dụng trong canh tác nhằm giám sát sự tăng trưởng của cây trồng giúp cho tìm biện pháp chăm bón để tăng sản lượng.

Thông qua việc sử dụng các cảm biến tiên tiến và máy chụp ảnh kỹ thuật số đặt trên thiết bị bay không người lái nông dân có thể thu thập hình ảnh phong phú hơn về các cánh đồng rộng lớn của mình. Thông tin thu được từ các thiết bị như vậy rất hữu ích trong việc chọn lựa cách thức tưới và chăm bón, nâng cao hiệu quả diện tích gieo trồng.

Hệ thống máy đo thời tiết khí hậu ở khu vực sản xuất rau Việt Gap (Hà Nội). Ảnh: KNHN

Tại nhiều cơ sở sản xuất, người nông dân đã mạnh dạn chuyển đổi quy trình chăm sóc, theo dõi, quản lý cây trồng, vật nuôi bằng công nghệ thông tin với máy tính, điện thoại thông minh. Những ứng dụng này giúp giảm 50% lượng khí thải nhà kính, tăng khoảng 30% năng suất, từ đó mang lại thu nhập cao hơn.

Tại Hà Nội, hiện có hơn 900ha diện tích trồng trọt được người nông dân áp dụng công nghệ số. Theo chia sẻ của anh Vũ Văn Trường ở Thường Tín (Hà Nội), từ khi gia đình anh sử dụng công nghệ số trong sản xuất nông nghiệp đã giúp tiết kiệm được lượng phân bón, kiểm soát được nhiệt độ, ánh sáng... giúp cây trồng tăng trưởng tốt, tăng năng suất. Đặc biệt, nhờ kỹ thuật số việc sản xuất nông nghiệp của gia đình anh chủ động được đơn hàng theo yêu cầu của khách hàng, không còn cảnh lo lắng "được mùa rớt giá" nữa.

Đồng quan điểm này, anh Tạ Văn Quang, chủ vườn lan ở huyện Mê Linh (Hà Nội) cho biết, nhờ đưa công nghệ số vào quy trình trồng lan, gồm: Quan trắc độ ẩm, nhiệt độ, ánh sáng, quản lý sinh trưởng... mà gia đình anh có thể chủ động kế hoạch sản xuất để có hoa thu hoạch quanh năm hay điều khiển hệ thống tưới, bảo đảm dinh dưỡng cho cây trồng, tiết kiệm phân bón và nhân công...

Sau sản xuất, thay vì phụ thuộc thương lái, chuyển đổi số giúp nông dân đa dạng hóa kênh tiêu thụ sản phẩm trên các nền tảng số, kênh thương mại điện tử, mạng xã hội... Ông Nguyễn Đình Hoa, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội cho biết, để giúp người dân quảng bá sản phẩm và đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng thời gian qua, Hà Nội có nhiều hoạt động hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp đưa nông lâm thủy sản lên các nền tảng thương mại điện tử.

Năm 2024, số lượng nông sản giao dịch trên các sàn thương mại điện tử tăng 30% so với năm trước. Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nông lâm thủy sản trên địa bàn thành phố Hà Nội đã triển khai, ứng dụng marketing số để quảng bá sản phẩm, xây dựng thương hiệu thông qua mạng xã hội (Facebook, TikTok, Zalo…), website, ứng dụng di động, qua đó tăng cường nhận diện, thu hút khách hàng từ nhiều thị trường trong và ngoài nước.

Sản xuất nông nghiệp trong các nhà màng ở huyện Hoài Đức - Hà Nội. Ảnh: Hoàng Hà/TTXVN

Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ số trong sản xuất nông nghiệp hiện nay còn khó khăn do cơ sở hạ tầng số chưa hiệu quả, nhận thức và kỹ năng sử dụng thiết bị thông minh của nông dân còn hạn chế… Tiến sĩ khoa học Nguyễn Hữu Cường chuyên gia nông nghiệp cho biết, hiệu quả từ chuyển đổi số trong nông nghiệp là rất rõ ràng và là hướng đi tất yếu trong tương lai.

Tuy nhiên, để người dân tiếp cận được với chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do chuyển đổi số vẫn còn lạ lẫm với người dân, lại chưa có quy chuẩn, quy định cụ thể nên người dân còn lúng túng. Bên cạnh đó, do diện tích canh tác còn nhỏ lẻ, manh mún nên việc ứng dụng công nghệ chuyển đổi số trong trồng trọt, chăn nuôi, chế biến, tiêu thụ thực phẩm nông lâm thủy sản như áp dụng IoT, cảm biến trong tối ưu hóa hoạt động sản xuất chưa nhiều...

"Chuyển đổi số nông nghiệp không chỉ đòi hỏi đầu tư nguồn lực lớn, lâu dài mà còn cần nỗ lực của tất cả chủ thể trong chuỗi giá trị. Chuyển đổi số một cách đồng bộ, đáp ứng năng lực, nhu cầu của các chủ thể đang là thách thức không nhỏ…", Tiến sĩ khoa học Nguyễn Hữu Cường thông tin.

Để chuyển đổi số hiệu quả, các ngành chức năng cần đồng bộ công cụ phục vụ chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp; đẩy mạnh xúc tiến thương mại, hỗ trợ hợp tác xã sản xuất sản phẩm chủ lực, OCOP lên sàn thương mại điện tử; hỗ trợ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ trong quảng bá, giới thiệu sản phẩm, bán hàng qua các website, mạng xã hội…

Nam Giang (TTXVN)

 

HTX gặp khó khi muốn tập trung đất trồng lúa

Các HTX nông nghiệp được kỳ vọng sẽ trở thành lời giải cho bài toán duy trì và phát triển sản xuất lúa hiệu quả trong bối cảnh đất đai còn manh mún, nhỏ lẻ thông qua việc tập trung đất sản xuất. Tuy nhiên, trên thực tế, con đường này còn đầy chông gai, mà câu chuyện của nhiều HTX trồng lúa tại vùng Đồng bằng sông Hồng là một minh chứng rõ nét.

Đồng bằng sông Hồng được xem là vựa lúa lớn thứ hai của Việt Nam. Thế nhưng nông dân, HTX nơi đây đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm, hình thành những diện tích đất lớn để phát triển trồng lúa hàng hóa.

Những rào cản khó gỡ

Theo các HTX, việc tập trung đất đai không chỉ đơn thuần là gộp các thửa ruộng nhỏ lẻ thành những cánh đồng mẫu lớn, mà còn là một quá trình phức tạp liên quan đến nhiều yếu tố kinh tế, xã hội và pháp lý.

Tại Hưng Yên, HTX nông nghiệp Tùng Hải (thị xã Mỹ Hào) dù có ý định trong việc dồn điền đổi thửa, gom đất để áp dụng cơ giới hóa và sản xuất theo quy mô lớn, nhưng các thành viên HTX vẫn vấp phải những rào cản tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô cùng khó gỡ.

Đầu tiên phải kể đến tình trạng đất đai manh mún, nhỏ lẻ. Mỗi hộ nông dân thường sở hữu vài ba thửa ruộng nằm rải rác ở nhiều vị trí khác nhau. Việc thuyết phục họ giao đất cho HTX để quản lý tập trung không hề dễ dàng. Nông dân vẫn còn tâm lý bám trụ đất đai, lo ngại mất quyền sử dụng hoặc giảm thu nhập nếu HTX quản lý không hiệu quả.

Bên cạnh đó, ảnh hưởng bởi quá trình đô thị hóa, diện tích đất phục vụ sản xuất nông nghiệp, trong đó có diện tích đất cho trồng lúa ngày càng bị thu hẹp, phân nhỏ. Điều này gây khó khăn rất lớn cho việc cơ giới hóa, áp dụng khoa học kỹ thuật đồng bộ, và quản lý sản xuất theo quy mô lớn.

Sản xuất trên diện tích lớn sẽ giúp HTX thuận lợi áp dụng cơ giới hóa và nâng cao năng suất, chất lượng lúa gạo.

Đi liền với đó, thiếu vốn đầu tư và năng lực quản lý cũng là rào cản lớn. Để tập trung đất hiệu quả, HTX cần có nguồn vốn dồi dào để đầu tư vào cơ sở hạ tầng như hệ thống thủy lợi, giao thông nội đồng, hay mua sắm máy móc thiết bị hiện đại. Nhưng trên thực tế, không chỉ HTX Tùng Hải mà phần lớn các HTX ở Đồng bằng sông Hồng đều có quy mô vốn nhỏ, nguồn vốn tự có hạn chế, và khả năng tiếp cận các nguồn vay ưu đãi còn nhiều khó khăn. Thêm vào đó, năng lực quản lý, điều hành và ứng dụng khoa học kỹ thuật của đội ngũ cán bộ HTX chưa đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất quy mô lớn và ứng dụng công nghệ cao.

HTX Sản xuất kinh doanh nông nghiệp Đoàn Kết (Ứng Hòa, Hà Nội) cũng là một trong những đơn vị gặp khó khăn trong tích tụ đất đai dù có hỗ trợ về vốn và cơ sở hạ tầng. Nguyên nhân là nhiều hộ nông dân không sản xuất nhưng không lại muốn cho thuê vì sợ mất đất. Đất công ích thì phải đấu giá với giá cao khiến HTX muốn mở rộng diện tích cũng không dễ dàng.

Đi liền với đó, mặc dù Nhà nước đã có các chính sách khuyến khích tích tụ, tập trung đất nông nghiệp, nhưng việc triển khai trên thực tế lại gặp nhiều vướng mắc. Chính sách chưa đủ mạnh và thiếu linh hoạt khiến các HTX khó có thể mạnh dạn thực hiện. Các quy định về thời hạn thuê đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hay cơ chế hỗ trợ tài chính cho HTX tham gia tích tụ đất còn khá cứng nhắc, chưa thực sự thông thoáng và hấp dẫn để khuyến khích nông dân và HTX mạnh dạn tham gia.

Những hỗ trợ nào là cần thiết để HTX vượt khó?

Tại Hội thảo “Thực trạng và giải pháp hỗ trợ HTX nông nghiệp tập trung đất sản xuất lúa vùng Đồng bằng sông Hồng” do Viện Kinh tế Hợp tác (Liên minh HTX Việt Nam) tổ chức cuối tuần qua, các chuyên gia cho rằng cốt lõi của việc tập trung đất sản xuất lúa là hướng tới lợi thế kinh tế nhờ quy mô.

Khi đất đai được tập trung trên quy mô lớn, việc áp dụng cơ giới hóa đồng bộ từ khâu làm đất, gieo cấy, chăm sóc đến thu hoạch trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn. Máy móc lớn có thể hoạt động tối ưu, giảm chi phí nhân công và nhiên liệu trên một đơn vị diện tích. Điều này dẫn đến giảm giá thành sản phẩm, tăng năng suất lao động, và nâng cao sức cạnh tranh của nông sản.

Trong khi Luật Hợp tác xã đã khẳng định, HTX là tổ chức kinh tế tập thể, hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, tự chủ và tự chịu trách nhiệm. HTX đóng vai trò quan trọng trong việc tập hợp sức mạnh của các hộ nông dân nhỏ lẻ, giải quyết những hạn chế mà từng hộ không thể tự làm được.

Cơ sở lý luận này nhấn mạnh HTX không chỉ là nơi chia sẻ rủi ro, mà còn là cầu nối giúp nông dân tiếp cận thị trường, công nghệ, vốn và thông tin một cách hiệu quả hơn. Trong bối cảnh tập trung đất, HTX có thể trở thành chủ thể đứng ra thuê, nhận góp vốn quyền sử dụng đất của nông dân, sau đó tổ chức sản xuất tập trung theo quy trình chuẩn, ứng dụng công nghệ, và liên kết với doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm. Vai trò này giúp HTX tạo ra giá trị gia tăng cao hơn cho hạt gạo, đảm bảo đầu ra ổn định và nâng cao thu nhập cho thành viên.

TS Phạm Minh Sơn cho rằng đối với nông nghiệp, các chính sách về đất đai, tín dụng, thuế, đầu tư công, và hỗ trợ khoa học công nghệ đóng vai trò kiến tạo môi trường thuận lợi hoặc cản trở cho quá trình tích tụ đất.

Do đó, Nhà nước cần ban hành các chính sách khuyến khích tích tụ, tập trung đất đai linh hoạt, minh bạch, đảm bảo quyền lợi của nông dân và tạo động lực cho HTX. Đồng thời, chính sách cũng cần giải quyết các vấn đề về rủi ro, thông tin bất cân xứng và chi phí giao dịch cao trong quá trình tập trung đất.

Ngay như pháp lý về đất đai dù đã được thông thoáng hơn nhưng hiện vẫn có những vướng mắc nhất định. Luật Đất đai (cũ) chưa có quy định giao đất cho HTX để sản xuất nông nghiệp, mà chỉ cho thuê đất. Điều này gây khó khăn trong việc HTX được chủ động về đất đai. Luật Đất đai 2024 mới có những thay đổi cho phép cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp được nhận chuyển nhượng đất trồng lúa, nhưng điều này lại tiềm ẩn nguy cơ đất nông nghiệp bị chia nhỏ thêm hoặc bị các nhà đầu tư lớn thu gom, tạo áp lực cho HTX.

Vấn đề đất công ích (5% của xã) thường được cho thuê ngắn hạn (5 năm một lần), gây khó khăn cho HTX khi muốn đầu tư lâu dài vào hạ tầng, cải tạo đất. Việc đấu thầu đất công ích đôi khi cũng bị đẩy giá lên cao, làm giảm hiệu quả sản xuất và gây bất lợi cho HTX.

Song song đó, chính sách ưu đãi về tín dụng và thuế cần được áp dụng mạnh mẽ hơn. Ưu tiên các HTX tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi với lãi suất thấp, thời gian vay dài hạn để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, mua sắm máy móc thiết bị.

Theo các chuyên gia, việc tập trung đất sản xuất lúa là xu hướng tất yếu để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, đặc biệt tại Đồng bằng sông Hồng. Các HTX nông nghiệp đóng vai trò then chốt trong quá trình này. Tuy nhiên, để vượt qua những khó khăn hiện tại, các HTX rất cần sự hỗ trợ toàn diện từ Nhà nước về cơ chế, chính sách, nguồn lực tài chính, đào tạo và định hướng thị trường. Chỉ khi đó, HTX mới thực sự trở thành động lực để xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, bền vững trên quy mô lớn.

Huyền Trang

 

Nông dân Hiếu Liêm thu 'lợi kép' với du lịch nông nghiệp

Không chỉ mở hướng kinh doanh mới, mô hình nông nghiệp xanh gắn với du lịch sinh thái, trải nghiệm đang thổi 'làn gió mới' vào tiến trình phát triển kinh tế xã hội của xã Hiếu Liêm, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Chính nhờ hoạt động du lịch khởi sắc đã giúp nâng cao giá trị nông sản do nông dân, thành viên HTX làm ra, đồng thời tạo thêm nhiều công ăn việc làm với mức thu nhập ổn định, góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững của địa phương.

Có thể nói, với thế mạnh về tự nhiên, xã Hiếu Liêm có không gian, điều kiện thích hợp để phát triển du lịch cộng đồng - một loại hình du lịch được du khách ưa chuộng hiện nay. Đặc biệt, với sự đồng hành của các cấp, các ngành, hoạt động sản xuất, canh tác nông nghiệp, đặc biệt là vùng cây ăn trái trên địa bàn xã đang phát triển theo quy mô lớn, thân thiện môi trường, nhiều trang trại, gia trại, HTX hoạt động hiệu quả.

Sức lan tỏa từ những “điểm sáng”

Không chỉ chủ động khai thác tiềm năng, lợi thế, tìm hướng đi mới nhằm nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp, nông dân xã Hiếu Liêm còn gây ấn tượng với mô hình trồng trọt hữu cơ gắn với hoạt động du lịch trải nghiệm.

Mô hình nông nghiệp xanh gắn với du lịch sinh thái, trải nghiệm đang thổi “làn gió mới” vào quá trình phát triển kinh tế của xã Hiếu Liêm.

“Sol Retreat Farm” rộng trên 10ha của chị Nguyễn Thị Xuân Thu mỗi năm thu hút hàng ngàn lượt du khách đến trải nghiệm, doanh thu đạt hàng tỷ đồng từ hoạt động sản xuất và du lịch.

Thời gian qua, trang trại mở cửa đón khách vào khu trồng dược liệu, với các hoạt động trải nghiệm thực tế quy trình trồng trọt theo tiêu chuẩn hữu cơ, thu hoạch sản phẩm, chế biến các loại hương liệu có nguồn gốc tự nhiên, thân thiện môi trường. Hiện tại, chị Thu nâng tầm hoạt động trải nghiệm sang khu trồng cây ăn trái, du khách sẽ được trải nghiệm thực tế hoạt động canh tác, trực tiếp thưởng thức các loại trái cây chất lượng cao.

Chị Thu chia sẻ, để phát triển kinh tế vườn gắn với du lịch, những năm qua, chị chủ động triển khai canh tác theo quy trình VietGAP, hữu cơ, nói không với hóa chất, phân bón, thuốc trừ sâu độc hại; ưu tiên sử dụng các hợp chất hữu cơ, thân thiện môi trường. Khách du lịch đến trải nghiệm cũng được khuyến cáo không xả rác bừa bãi để bảo vệ môi trường. Các loại rác thải phát sinh được thu gom, tập trung và xử lý đúng theo quy định, bảo đảm môi trường xanh - sạch - đẹp.

Trên địa bàn xã Hiếu Liêm, ông Lâm Thành Thương được đánh giá là người tiên phong trồng cây ăn trái có múi (cam, quýt, bưởi), áp dụng kỹ thuật cao để cây cam, cây quýt ra trái quanh năm. Ông Thương cũng là người đầu tiên trên địa bàn áp dụng phương pháp ép cây ra quả trái vụ, bằng cách phủ bạt nhựa lên các liếp cam. Cách làm này là một trong những bí quyết nhằm tạo khô hạn tạm thời cho vườn cây. Nhiều nông dân nhận thấy cách làm này hiệu quả nên học hỏi, thực hiện. Mô hình này cho năng suất trung bình hơn 50 tấn/ha; giải quyết việc làm thường xuyên cho nhiều lao động tại địa phương.

Không dừng lại ở đó, vài năm gần đây, ông Thương đã đưa hơn 10ha quýt hồng của gia đình vào phục vụ du lịch nhằm tạo sự mới lạ, thu hút du khách đến vùng đất chuyên canh cây có múi. Ông Thương cũng liên kết với các nhà vườn để tạo thành chuỗi cung ứng dịch vụ nghỉ dưỡng, tham quan, du lịch.

Ông Thương cho biết: “Khi phát triển mạnh, mô hình du lịch nông nghiệp không chỉ giải quyết thêm việc làm, tạo ra thương hiệu cho vùng đất, cây trái ở Hiếu Liêm mà còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn”.

“Mắt xích” vững chắc kinh tế hợp tác

Thời gian tới, để phát triển, phát huy hiệu quả các điểm đến du lịch trải nghiệm nông nghiệp sinh thái, xã Hiếu Liêm sẽ tiếp tục đẩy mạnh hỗ trợ, khuyến khích người dân đầu tư mô hình trang trại, mua sắm trang thiết bị phục vụ du khách tham quan, nâng tầm du lịch sinh thái địa phương…

Du lịch sinh thái, trải nghiệm giúp nâng cao giá trị nông sản do nông dân, thành viên HTX làm ra.

Theo thống kê, tính đến đầu năm 2025, toàn xã có 10 công ty, trang trại chăn nuôi và 30 trang trại trồng trọt, trong đó có 21 trang trại được cấp giấy chứng nhận VietGAP và hữu cơ, có 27 sản phẩm được cấp chứng nhận xếp hạng OCOP. Trên địa bàn xã có 5 HTX với 39 thành viên và 4 tổ hợp tác với 12 thành viên.

Có thể kể đến HTX Nhân Đức (ấp Cây Dâu), có tổng diện tích trồng cây ăn trái có múi 80ha. Hàng năm, HTX tạo việc làm thường xuyên cho 35-50 nhân công tại địa phương. Mục tiêu của HTX là trồng cây ăn trái hữu cơ. Hiện nay, năng suất vườn cây của HTX đạt 50-60 tấn/ha, mang lại thu nhập hàng tỷ đồng cho các thành viên. Đồng thời, HTX đã trồng thành công 26ha mít Thái, mang lại thu nhập khá cao.

Giám đốc HTX Nhân Đức Trần Thành Có cho biết, giá bán sản phẩm trồng theo phương thức hữu cơ cao gấp 2-3 lần so với sản phẩm cùng loại trồng theo cách bình thường, đồng thời giảm được 60% chi phí so với cách làm cũ. Những năm qua, HTX luôn đồng hành, hỗ trợ kỹ thuật nên các thành viên HTX có điều kiện chuyển đổi trồng trọt theo phương thức hữu cơ, loại bỏ tình trạng lạm dụng thuốc trừ sâu, chú trọng vào sản xuất sạch để tạo ra những sản phẩm chất lượng, bảo đảm giá bán ổn định.

Hiện nay, trên địa bàn xã Hiếu Liêm có nhiều nông dân phát triển mô hình HTX, nông nghiệp xanh thành công, như gia đình chị Bùi Thúy Hằng, trang trại ông Võ Quan Huy, ông Lâm Thành Thắm, ông Lâm Thành Thương… Các nông dân chuyên trồng cây ăn trái có múi, doanh thu hàng tỷ đồng mỗi năm, góp phần “nâng chất” nông thôn mới (NTM) tại địa phương.

Cuộc sống đổi thay cùng nông thôn mới

Tháng 1/2025 đánh dấu chặng đường 20 năm xã Hiếu Liêm được thành lập. Nhờ triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới, ngày nay, nông thôn Hiếu Liêm như khoác trên mình “chiếc áo mới”. Minh chứng cho sự “thay da đổi thịt” từng ngày ấy là tháng 8/2024, xã đã đón nhận quyết định công nhận xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu năm 2023 của UBND tỉnh. Đây là xã đầu tiên của huyện Bắc Tân Uyên đạt chuẩn NTM kiểu mẫu.

Đặc biệt, xã Hiếu Liêm đã có nhiều cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả; là xã đầu tiên của huyện thực hiện thí điểm phát triển vùng chuyên trồng cây ăn trái có múi với tổng diện tích khoảng 1.365 ha, hình thành vùng sản xuất quy mô lớn, tạo ra các sản phẩm chất lượng, an toàn, thân thiện môi trường; là địa phương có nhiều sản phẩm OCOP đặc trưng của huyện. Tính đến đầu năm nay, xã có 27 sản phẩm được cấp chứng nhận xếp hạng OCOP. Thu nhập bình quân đầu người tăng bình quân hơn 9%/năm.

Đại diện xã Hiếu Liêm cho biết, thực hiện chương trình mục tiêu NTM, chính quyền địa phương luôn đồng hành, hỗ trợ tối đa cho kinh tế tập thể nói chung, các HTX nói riêng phát triển, đề ra và thực hiện hiệu quả các giải pháp tháo gỡ khó khăn, rào cản để HTX chủ động thích ứng với tình hình mới, ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Từ đó nâng cao thu nhập của các thành viên và hộ dân liên kết, góp phần vào mục tiêu giảm nghèo bền vững của tỉnh Bình Dương.

Một trong những giải pháp hiệu quả đó là các ban ngành của tỉnh và huyện, xã đã phối hợp với các cơ quan ở trung ương và địa phương, trong đó có Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Bình Dương triển khai giới thiệu, dành nguồn vốn tín dụng ưu đãi đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của các HTX; thực hiện đơn giản hóa thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi nâng cao khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng để khơi thông nguồn lực phục vụ phát triển HTX. Bên cạnh đó, các HTX, tổ hợp tác trên địa bàn huyện thường xuyên được tập huấn những kiến thức, quy định mới liên quan; được hỗ trợ quảng bá sản phẩm, kết nối với các doanh nghiệp ngoài tỉnh…

Theo đánh giá của Sở NN&MT tỉnh Bình Dương, hiện nay, hầu hết các trang trại, HTX trên địa bàn tỉnh đang ngày càng chú trọng nhiều hơn đến sản xuất hữu cơ, đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn an toàn nông sản. Sử dụng phân bón hữu cơ trong sản xuất cũng là lựa chọn thay thế hàng đầu cho phân hóa học, vừa mang lại hiệu quả cao hơn vừa không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Phân bón hữu cơ vi sinh chứa nhiều vi sinh vật có lợi cho cây trồng, giúp đất tơi xốp, giữ được độ ẩm, không làm bạc màu đất. Ngoài ra, phân bón hữu cơ vi sinh còn cung cấp gần như đầy đủ chất dinh dưỡng, tăng khả năng miễn dịch của cây trồng, giúp năng suất tăng thêm 20% so với khi sử dụng phân bón vô cơ.

Sở Sở NN&MT đang tăng cường, đa dạng các hình thức tuyên truyền, đào tạo nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, người dân về tầm quan trọng của sản xuất nông nghiệp sạch; khuyến khích nông dân thay đổi tập quán sản xuất từ thủ công sang ứng dụng công nghệ. Sở Nông nghiệp và Môi trường đề nghị các cơ sở sản xuất nông nghiệp cần có hệ thống xử lý chất thải công nghiệp, nông nghiệp chuyên biệt và khép kín nhằm tạo ra mô hình sản xuất, kinh doanh thân thiện với môi trường.

Phương Linh

 

Vượt bão El Nino, nông dân Bà Rịa - Vũng Tàu làm giàu nhờ công nghệ và cây trồng chủ lực

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, đặc biệt là tác động nghiêm trọng từ hiện tượng El Nino, nhiều vùng nông nghiệp của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phải đối mặt với thách thức lớn. Tuy nhiên, vượt lên nghịch cảnh, người nông dân nơi đây đang từng bước chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mạnh dạn ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất, tạo nên những vùng chuyên canh hiệu quả cao.

Trong dòng chảy đó, các HTX nông nghiệp trở thành hạt nhân thúc đẩy sự đổi mới, trở thành điểm tựa giúp thành viên phát triển chuỗi liên kết, nâng cao giá trị sản xuất, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, với sự hỗ trợ tích cực từ Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh.

“Ép” mùa, thắng giá – câu chuyện từ vườn thanh long

Những ngày tháng 5 rực nắng, vườn thanh long ruột đỏ hơn 1 ha của ông Trần Văn Thiện, thành viên Tổ hợp tác trồng thanh long xã Bưng Riềng, ở xã Bưng Riềng (huyện Xuyên Mộc) vẫn tỏa sắc hoa trắng trong đêm.

Nhờ áp dụng kỹ thuật xông đèn để “ép” thanh long ra trái nghịch vụ, ông Thiện dự kiến thu lãi trên dưới 150 triệu đồng dù thời tiết cực đoan khiến năng suất giảm. “Từ cuối tháng 3, thanh long ruột đỏ bán được 30.000 – 35.000 đồng/kg. Nhờ nghịch vụ mà giá lên cao, bù lại năng suất giảm do hạn hán”, ông Thiện chia sẻ.

Ứng dụng khoa học công nghệ "ép" thanh long ra quả trái vụ là chìa khóa giúp nông dân Bà Rịa - Vũng Tàu giải bài toán thị trường.

Không chỉ xông đèn, gia đình ông Thiện còn đầu tư cho công nghệ cao với hệ thống tưới tự động nhỏ giọt, giúp quá trình chăm sóc vườn thanh long tiết kiệm nước và phân bón, đảm bảo cây phát triển đều, cho quả chất lượng cao.

Đáng chú ý, chuyển đổi sang sản xuất theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, ông Thiện và các hộ dân trong Tổ hợp tác trồng thanh long xã Bưng Riềng đã mở ra hướng đi mới: không còn phụ thuộc vào thời tiết, mùa vụ mà chủ động sản xuất, nâng cao giá trị nông sản. Đây cũng là cách người nông dân Bà Rịa - Vũng Tàu “vượt bão El Nino” để giữ vững thu nhập và làm giàu từ mảnh vườn của mình.

Không chỉ có thanh long, những năm gần đây, cây nhãn cũng trở thành điểm sáng trong tái cơ cấu nông nghiệp tại tỉnh. Tại xã Hòa Hiệp (huyện Xuyên Mộc), HTX dịch vụ Nhân Tâm là minh chứng rõ nét cho hiệu quả của sản xuất theo chuỗi giá trị gắn với khoa học công nghệ.

Cây trồng chủ lực vươn tầm xuất khẩu

“Trước kia, người dân bị ép giá, mua vật tư đắt đỏ, khó xuất khẩu. Nhưng từ khi HTX ra đời, chúng tôi tổ chức sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, đầu tư bao bì, truy xuất nguồn gốc nên sản phẩm đã có mặt tại nhiều hệ thống siêu thị lớn, đạt doanh thu hơn 1,3 tỷ đồng/năm”, ông Phạm Thế Hoành – Giám đốc HTX Nhân Tâm chia sẻ.

Hiện nay, HTX sở hữu 13,9 ha nhãn VietGAP, trong đó vùng trồng đã được cấp mã số xuất khẩu sang Nhật Bản, cung cấp trung bình 12 tấn nhãn tươi/tháng. Theo ông Hoành, để đạt chuẩn, HTX đã ứng dụng hệ thống cảm biến độ ẩm, sử dụng phần mềm quản lý canh tác và thiết lập quy trình phòng trừ sâu bệnh sinh học thay cho hóa chất.

Sự phát triển của HTX Nhân Tâm không chỉ là thành công đơn lẻ mà còn là điển hình để nhiều HTX khác trên địa bàn học hỏi. Tính riêng huyện Xuyên Mộc, hiện đã có hơn 10 HTX nông nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp… với hàng trăm thành viên, hàng nghìn lao động tham gia.

Thanh long, nhãn chỉ là hai trong số hàng loạt cây trồng đã và đang khẳng định giá trị kinh tế tại Bà Rịa - Vũng Tàu. Trên địa bàn tỉnh, các vùng trồng cây có múi, sầu riêng, hồ tiêu, măng cụt… đang được quy hoạch, đầu tư bài bản theo hướng ứng dụng công nghệ cao.

Đặc biệt, các địa phương như Châu Đức, Long Điền, Đất Đỏ... đã hình thành những vùng chuyên canh lớn, hướng đến xuất khẩu sang các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu.

Thành công trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở Bà Rịa - Vũng Tàu có dấu ấn đậm nét của các HTX.

Một điểm đáng chú ý là người dân và HTX tại Bà Rịa - Vũng Tàu không chỉ sản xuất giỏi mà còn đi đầu trong xây dựng mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc, đóng gói đạt chuẩn quốc tế. Nông nghiệp không còn bị “được mùa mất giá”, mà là chuỗi sản xuất hiện đại, có chiến lược tiếp cận thị trường bài bản.

Những giống nhãn nổi tiếng như xuồng cơm vàng, nhãn tiêu da bò, nhãn bắp cải… với giá bán từ 25.000 - 150.000 đồng/kg cũng đang góp phần quan trọng vào thu nhập của nông dân, giúp nhiều gia đình vươn lên thoát nghèo, làm giàu.

Hướng tới nông nghiệp bền vững và sinh thái

Phía sau những thành công của các HTX, tổ hợp tác ở Bà Rịa - Vũng Tàu là sự hỗ trợ rất quan trọng của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh.

Thông qua các chương trình đào tạo, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ vốn vay ưu đãi, xúc tiến thương mại và xây dựng thương hiệu, Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh đã giúp các HTX tại Bà Rịa - Vũng Tàu chuyển mình mạnh mẽ.

Gần đây, Liên minh HTX Việt Nam đã phối hợp với tỉnh triển khai các chương trình đào tạo quản trị HTX theo chuẩn quốc tế, hỗ trợ các HTX tiếp cận công nghệ tưới nhỏ giọt Israel, thiết lập hệ thống số hóa quản lý vùng trồng, truy xuất nguồn gốc qua mã QR... Qua đó, từng bước hình thành các HTX kiểu mới – vừa là trung tâm sản xuất, vừa là đơn vị dẫn dắt thị trường cho nông dân.

Song song với đó, Liên minh HTX Việt Nam còn hỗ trợ các HTX tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi thông qua Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX, giúp nhiều đơn vị có điều kiện đầu tư hệ thống tưới tiết kiệm, nhà màng, nhà lưới, máy sấy, kho bảo quản nông sản… Điển hình, HTX Nhân Tâm (huyện Xuyên Mộc) đã được hỗ trợ đầu tư hệ thống đóng gói và truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm nhãn VietGAP, góp phần nâng cao giá trị nông sản và mở rộng thị trường tiêu thụ.

Đặc biệt, Liên minh HTX Việt Nam còn triển khai các chương trình xúc tiến thương mại, kết nối cung – cầu, đưa nông sản của các HTX tại Bà Rịa - Vũng Tàu vào hệ thống siêu thị lớn và sàn thương mại điện tử. Các hoạt động này không chỉ giúp HTX tiêu thụ sản phẩm bền vững mà còn góp phần xây dựng thương hiệu nông sản địa phương.

Trong chiến lược phát triển nông nghiệp giai đoạn tới, Bà Rịa - Vũng Tàu xác định sẽ tiếp tục đẩy mạnh nông nghiệp công nghệ cao gắn với phát triển du lịch nông nghiệp, tạo ra các mô hình vừa sản xuất, vừa trải nghiệm để gia tăng giá trị trên một đơn vị diện tích đất.

Tỉnh cũng đang khuyến khích đầu tư vào hạ tầng nông nghiệp, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và liên kết HTX – doanh nghiệp – nông dân để sản xuất theo chuỗi.

Giữa những thách thức từ biến đổi khí hậu và thị trường, người nông dân Bà Rịa - Vũng Tàu đang chứng minh rằng sự chủ động thay đổi tư duy, cùng với sức bật từ khoa học công nghệ và tổ chức sản xuất hiện đại sẽ là con đường bền vững để phát triển nông nghiệp. Trong hành trình ấy, các HTX chính là lực đẩy, còn Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh là “người bạn đồng hành” không thể thiếu.

Sáu Ngạn

 

Ứng phó với thời tiết ngày càng cực đoan, bất thường: Tạo điều kiện để tư nhân và cộng đồng đầu tư vào thích ứng khí hậu

Tại các tỉnh, thành miền Bắc và Bắc Trung Bộ, hiện tượng nắng nóng gay gắt xen kẽ với những đợt mưa cực đoan trong một thời gian ngắn đang gây nên áp lực lớn lên đời sống hàng ngày của người dân. Hệ sinh thái tự nhiên và đặc biệt là sản xuất nông nghiệp cũng khó thể thích ứng kịp.

Mưa lớn bất thường xen kẽ nắng nóng đang gây áp lực lớn đến đời sống người dân, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. (Ảnh minh họa: Báo Hà Tĩnh, Báo Lào Cai)

Thực tế này đòi hỏi các nỗ lực tăng trưởng cần hướng tới phát triển xanh hơn, đồng thời cần lồng ghép ứng phó với biến đổi khí hậu trong mọi chiến lược kinh tế - xã hội.

Nắng nóng xen kẽ mưa lớn cực đoan bất thường

Tỉnh Hà Tĩnh đã và đang ghi nhận thiệt hại nặng sau trận mưa lũ đầu mùa vào cuối tuần qua. Cụ thể, theo Đài Khí tượng Thủy văn Hà Tĩnh, từ nửa đêm 24 đến 5h sáng 25/5, địa bàn mưa to, lượng mưa tại một số nơi vượt 300mm như thị trấn Cẩm Xuyên, hồ Kẻ Gỗ, Thạch Xuân, hồ Thượng Sông Trí, Kỳ Bắc...

Diễn biến bất ngờ khiến nhiều người dân chỉ kịp sơ tán đi nơi khác tránh trú. Thống kê sơ bộ của cơ quan chức năng về thiệt hại vật chất, mưa lớn kèm lũ quét khiến hơn 2.000 tấn lúa đã thu hoạch ngấm nước, hơn 2.200ha lúa xuân bị ngập, gần 12.000 gia cầm và gia súc tại nhiều huyện bị cuốn trôi.

Trước đó, tại một số tỉnh như Yên Bái, Tuyên Quang, Lào Cai, mưa lớn đã gây ngập úng, sạt lở, ảnh hưởng tới đời sống của người dân. Theo cơ quan dự báo thời tiết, nền đất ở vùng núi phía Bắc đã bão hòa nước do ảnh hưởng của mưa lớn trước đó; do vậy chỉ cần mưa cường độ cao trong thời gian ngắn cũng đủ để gây ra các trận lũ quét hoặc sạt lở đất nghiêm trọng.

Theo đó, các địa phương như Bắc Kạn, Lào Cai, Lai Châu, Yên Bái, Hà Giang và Tuyên Quang đều đang đứng trước nguy cơ cao xảy ra trượt lở đất, lũ quét bất ngờ, nhất là tại các tuyến đường đèo dốc, khu vực ven sông, suối. Không chỉ riêng miền núi, các đô thị tại khu vực đồng bằng và ven biển Bắc Bộ như Hải Phòng, Quảng Ninh cũng có nguy cơ xảy ra tình trạng ngập úng khi mưa lớn bất thường.

Những đợt mưa lớn này một lần nữa cho thấy tác động ngày càng rõ nét của biến đổi khí hậu. Mưa không còn phân bố đều theo mùa mà xuất hiện bất ngờ, dồn dập với cường độ lớn, gây khó khăn cho sản xuất và phòng, chống thiên tai. Nắng nóng xen kẽ với mưa lớn khiến môi trường tự nhiên và hoạt động nông nghiệp khó thích nghi.

Các chuyên gia kêu gọi cần sớm quy hoạch lại hạ tầng phòng, chống thiên tai, đặc biệt tại miền núi phía Bắc; đồng thời tăng cường tập huấn cộng đồng, triển khai hệ thống cảnh báo sớm và nâng cao vai trò của chính quyền cơ sở trong hỗ trợ ứng phó thiên tai. Trong bối cảnh thời tiết ngày càng cực đoan, sự chủ động và chuẩn bị kỹ lưỡng là yếu tố then chốt để giảm thiểu thiệt hại cho người dân và cộng đồng.

Chính sách đóng vai trò trung tâm trong nỗ lực ứng phó

Theo Báo cáo mới nhất của Ngân hàng Thế giới (WB) - “Việt Nam 2045 - Tăng trưởng xanh hơn: Con đường hướng tới tương lai bền vững” - biến đổi khí hậu có thể làm giảm ít nhất 12,5% GDP của Việt Nam vào năm 2050 nếu không có các biện pháp thích ứng mạnh mẽ. Tác động này đe dọa nghiêm trọng đến mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045.

WB đã phân tích 3 kênh tác động chính có thể định lượng được: tổn thất năng suất lao động do căng thẳng nhiệt, thiệt hại cơ sở hạ tầng và ảnh hưởng đến nông nghiệp. Trong đó, khảo sát năm 2024 chỉ ra rằng khoảng 75% doanh nghiệp trong ngành may mặc và điện tử - hai lĩnh vực xuất khẩu chủ lực, hoạt động tại các khu vực thường xuyên có nhiệt độ cao.

Điều này khiến 1,3 triệu lao động rơi vào nhóm dễ bị tổn thương. Dù trong kịch bản phát thải khí nhà kính trung bình RCP4.5 - khi lượng phát thải toàn cầu đạt đỉnh vào khoảng năm 2040 rồi giảm dần - Việt Nam vẫn được dự báo sẽ mất 9,1% GDP vào năm 2035 và 12,5% vào năm 2050 chỉ từ ba kênh tác động trên.

Ngoài ra, các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lũ lụt và nước dâng do bão ngày càng mạnh hơn và thường xuyên hơn, phá hủy nghiêm trọng cơ sở hạ tầng và tài sản. Thiên tai có thể khiến Việt Nam mất thêm khoảng 1% GDP mỗi năm và gây thiệt hại đến 2,5% GDP.

Tại Đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa lớn nhất nước - mực nước biển có thể dâng 75 - 100cm vào năm 2050, khiến gần một nửa diện tích khu vực bị ngập. Điều này sẽ ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất nông nghiệp, làm giảm thu nhập và kìm hãm quá trình giảm nghèo, trong bối cảnh hiện tại khoảng 25% dân số nơi đây vẫn đang sống dưới ngưỡng nghèo.

Để đối phó với các tác động này, WB ước tính Việt Nam cần đầu tư tăng thêm khoảng 233 tỷ USD trong giai đoạn 2025 - 2050, tương đương khoảng 0,75% GDP mỗi năm. Nếu thực hiện tốt các khoản đầu tư thích ứng trong quản lý rủi ro thiên tai, đô thị, giao thông và nông nghiệp, tổn thất GDP vào năm 2050 có thể giảm từ 12,5% xuống còn 6,7%. Bà Mariam J. Sherman - Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam,

Campuchia và Lào nhận định: “Việt Nam hoàn toàn có thể triển khai nhiều biện pháp ngay từ bây giờ để bảo vệ cộng đồng, đất đai và hạ tầng trước các cú sốc khí hậu. Điều then chốt là phải xây dựng chính sách phù hợp, khuyến khích doanh nghiệp và người dân chủ động thích ứng”.

Báo cáo của WB khuyến nghị, giai đoạn 2026 - 2030, Chính phủ Việt Nam nên đóng vai trò xây dựng khung chính sách thuận lợi, tạo điều kiện để khu vực tư nhân và cộng đồng đầu tư vào thích ứng khí hậu. Các giải pháp nên hướng tới những lợi ích tổng hợp: giảm thiểu rủi ro thiên tai, nâng cao năng suất lao động, cải thiện môi trường sống và tăng khả năng chống chịu xã hội.

Đỗ Trang

 

Nông dân Ninh Bình bắt nhịp chuyển đổi số

Trong kỷ nguyên số, nông nghiệp không còn là câu chuyện của những thửa ruộng bao la và đôi tay lấm bùn. Tại Ninh Bình, khi những người nông dân dần làm quen và làm chủ các công nghệ hiện đại, đã viết nên câu chuyện 'Nông dân thời công nghệ số' đầy triển vọng. Những tín hiệu tích cực từ các mô hình ứng dụng chuyển đổi số (CĐS) trên địa bàn tỉnh đã minh chứng cho sự nỗ lực thay đổi tư duy, cách làm, mở ra hướng đi mới cho nền nông nghiệp địa phương, hướng tới quản lý hiệu quả và sản xuất nông sản chất lượng cao.

Anh Đinh Văn Hợp, Chủ trang trại dưa lưới ở thôn 3, xã Phú Long (Nho Quan) quảng bá bán sản phẩm dưa trên mạng xã hội.

Những “nông dân số” tạo dựng giá trị cao cho nông sản

Câu chuyện khởi nghiệp thành công của anh Đinh Văn Hợp, Chủ trang trại dưa lưới ở thôn 3, xã Phú Long (Nho Quan) là một điển hình cho sự chuyển mình này. Với 7 năm theo đuổi đam mê nông nghiệp hiện đại và kiên trì với mô hình trồng dưa lưới vàng công nghệ cao, anh Hợp không chỉ tạo việc làm cho lao động địa phương mà còn thu lợi nhuận gần 1 tỷ đồng mỗi năm.

Bí quyết của anh nằm ở sự nhạy bén với khoa học công nghệ, dám đầu tư và ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất. Từ việc kiểm soát nhiệt độ, độ ẩm, dinh dưỡng cho cây trồng, tưới tự động đến quản lý sâu bệnh đều được anh Hợp thực hiện một cách khoa học và chính xác nhờ các thiết bị và phần mềm hỗ trợ. Cùng với đó, việc bán hàng qua mạng xã hội khi dưa đến kỳ thu hoạch giúp trang trại tiêu thụ sản phẩm được nhanh hơn, người tiêu dùng được sử dụng dưa tươi, an toàn.

Anh Đinh Văn Hợp chia sẻ: Ứng dụng công nghệ số giúp tôi quản lý trang trại một cách tối ưu, giảm thiểu rủi ro và nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Đây là con đường tất yếu để nông nghiệp phát triển bền vững trong thời đại ngày nay.

Anh Đoàn Văn Ba, Chi hội trưởng Chi hội nghề nghiệp trồng và chế biến tinh bột sắn dây an toàn, xã Yên Sơn (thành phố Tam Điệp) cũng đã nhanh nhạy bắt nhịp công nghệ số về dán tem truy xuất nguồn gốc trong sản xuất, bán hàng qua mạng xã hội cho sản phẩm sắn dây ta củ dài, lá to-một loại nông sản tiêu biểu của địa phương, mang lại giá trị cao, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Ngoài bán sản phẩm của gia đình, anh Ba còn hỗ trợ thu mua sắn thương phẩm của các hộ nông dân trong xã về chế biến và tiêu thụ. Mỗi năm, anh Ba bán khoảng 17 tấn bột sắn dây, trừ chi phí thu lãi trên 300 triệu đồng.

Anh Đoàn Văn Ba cho biết: Việc ứng dụng tem truy xuất nguồn gốc đã giúp sản phẩm sắn dây của chúng tôi tạo được uy tín trên thị trường, người tiêu dùng dễ dàng kiểm tra được nguồn gốc và chất lượng sản phẩm. Không riêng anh Hợp, anh Ba, nhiều doanh nghiệp, HTX và người dân trên địa bàn tỉnh đang chủ động ứng dụng CĐS vào sản xuất nông nghiệp. Toàn tỉnh có 348 HTX (212 HTX dịch vụ nông nghiệp và 136 HTX chuyên ngành); 323 tổ hợp tác lĩnh vực nông nghiệp. Một số HTX đã ứng dụng công nghệ cao, liên kết hoạt động chế biến, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp.

Tuy nhiên chưa có nhiều mô hình nông nghiệp công nghệ cao được triển khai ứng dụng. Phần lớn các HTX chưa quan tâm, tích cực, chủ động tiếp cận, ứng dụng công nghệ số, các nền tảng số phục vụ CĐS trong ngành nông nghiệp. Những kết quả ban đầu đã cho thấy sự thay đổi tích cực trong nhận thức và hành động, tạo tiền đề quan trọng cho sự phát triển của nền nông nghiệp công nghệ cao tại Ninh Bình.

Nỗ lực “số hóa” tư duy cho nông dân

Nhận thức rõ tầm quan trọng của CĐS, tỉnh đã triển khai nhiều chương trình, kế hoạch hành động cụ thể. Bên cạnh các chính sách hỗ trợ từ Trung ương, tỉnh đã ban hành các chính sách đặc thù như hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) giai đoạn 2021- 2025.

Đến nay, 100% huyện, thành phố đã kiện toàn bộ máy và tổ chức đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP theo quy định, cho thấy sự quyết tâm trong việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại. Các chính sách hỗ trợ ứng dụng công nghệ số như tem truy xuất nguồn gốc, xây dựng mô hình khoa học kỹ thuật cũng được triển khai mạnh mẽ.

Đặc biệt, chính sách hỗ trợ sản phẩm OCOP xếp hạng sao theo Nghị quyết số 32/2022/NQ-HĐND ngày 15/7/2022 của HĐND tỉnh, mức hỗ trợ đối với sản phẩm 3 sao là 75 triệu đồng/sản phẩm, 4 sao là 85 triệu đồng/sản phẩm, 5 sao là 100 triệu đồng/sản phẩm, đã tạo động lực lớn cho các chủ thể sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm và ứng dụng công nghệ vào quy trình sản xuất. Đến hết năm 2024, toàn tỉnh có 209 sản phẩm OCOP thuộc 130 chủ thể được xếp hạng, trong đó có 142 sản phẩm hạng 3 sao, 67 sản phẩm hạng 4 sao, vượt mục tiêu đến năm 2025 đã đề ra.

Để đưa công nghệ số đến gần hơn với người nông dân, các cấp Hội Nông dân trong tỉnh đóng vai trò nòng cốt trong công tác tuyên truyền và vận động.

Đồng chí Lê Văn Vượng, Chủ tịch Hội Nông dân xã Yên Sơn (thành phố Tam Điệp) chia sẻ: Hội Nông dân xã Yên Sơn xác định CĐS là nhiệm vụ then chốt để nâng cao đời sống và thu nhập cho nông dân. Chúng tôi đã triển khai nhiều hoạt động như tuyên truyền trực tiếp tại các buổi sinh hoạt chi hội, tổ chức các lớp tập huấn về ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp, tận dụng các kênh truyền thông như hệ thống truyền thanh, mạng xã hội để lan tỏa thông tin.

Chúng tôi cũng khuyến khích các mô hình nông dân sản xuất giỏi đi đầu trong ứng dụng công nghệ số để làm gương cho những người khác. Tuy nhiên, trình độ nhận thức và kỹ năng sử dụng công nghệ của một bộ phận bà con còn hạn chế, cùng với tâm lý ngại thay đổi và chi phí đầu tư ban đầu cao là những rào cản không nhỏ. Để vượt qua, chúng tôi tập trung tuyên truyền dễ hiểu, “cầm tay chỉ việc”, đồng thời tìm kiếm các nguồn hỗ trợ để giảm bớt gánh nặng chi phí cho nông dân.

Bên cạnh đó, tỉnh cũng chú trọng xây dựng hạ tầng số và hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý nguồn gốc, chất lượng, an toàn thực phẩm và kết nối cung cầu nông sản; cấp mã số vùng trồng cho các sản phẩm chủ lực; phối hợp tổ chức giới thiệu và sử dụng các ứng dụng của sàn thương mại điện tử nhằm cung cấp cho HTX, tổ hợp tác, hộ nông dân, hộ sản xuất, kinh doanh công cụ bán hàng tập trung, kết nối đa kênh, tương tác nhiều chiều nhằm giải quyết các vấn đề khó khăn trong tiêu thụ nông sản, giúp bà con nông dân kết nối sản phẩm tới tận tay người tiêu dùng với giá cả hợp lý và mang lại lợi nhuận cao; tổ chức tập huấn cho cán bộ Hội, HTX, tổ hợp tác, chi, tổ hội nghề nghiệp, hộ gia đình về phương thức kinh doanh qua thương mại điện tử, công nghệ thông tin...

Đây là những bước đi quan trọng để xây dựng một nền nông nghiệp minh bạch, an toàn và có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự chủ động của người nông dân và những chính sách hỗ trợ kịp thời, Ninh Bình đang vững bước trên hành trình xây dựng một nền nông nghiệp thông minh, hiện đại, xứng tầm với thời đại công nghệ số, góp phần nâng cao giá trị nông sản và đời sống của người nông dân.

Bài, ảnh: Phương Anh

 

Bước chuyển trong nông nghiệp của xã Long Hưng khi đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao

Long Hưng là xã thuần nông của huyện Mỹ Tú (Sóc Trăng). Địa phương này xác định, xây dựng nông thôn mới (NTM) là nhiệm vụ trọng tâm, toàn diện, lâu dài trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, là quá trình thường xuyên và liên tục, hướng tới mục tiêu phát triển nông thôn bền vững. Theo đó, sau khi đạt chuẩn xã NTM vào năm 2014, xã Long Hưng đã tích cực triển khai việc nâng chất và hoàn thành các chỉ tiêu, tiêu chí xây dựng xã NTM nâng cao. Sau 10 năm thực hiện, xã Long Hưng đã được công nhận đạt chuẩn xã NTM nâng cao.

Điểm nổi bật của xã Long Hưng ngoài việc đã hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ đi lại, giao thương hàng hóa, chăm sóc sức khỏe nhân dân, thì sản xuất nông nghiệp cũng được xem là điểm sáng của xã. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển, có nhiều mô hình phát triển kinh tế nông thôn hiệu quả theo hướng tích hợp đa giá trị được duy trì và nhân rộng. Xã đã phân 5 vùng sản xuất trên cây lúa, bao gồm vùng sản xuất lúa cao sản, chất lượng cao; vùng sản xuất lúa kết hợp nuôi vịt; vùng sản xuất lúa đặc sản hữu cơ; vùng sản xuất lúa theo mô hình 3 cây, 1 con; vùng sản xuất 2 vụ lúa kết hợp 1 vụ cá; phát triển vùng sản xuất lúa và dứa. Diện tích sản xuất lúa có liên kết bao tiêu 550ha/vụ; diện tích sản xuất lúa theo hướng hữu cơ kết hợp nuôi cá đồng và trồng cây ăn trái 90ha.

Mô hình trồng dứa MD2 đem lại nguồn thu nhập rất tốt cho hộ dân xã Long Hưng, huyện Mỹ Tú (Sóc Trăng). Ảnh: THÚY LIỄU

Ông Nguyễn Văn Hai, ấp Tân Hòa B, xã Long Hưng bộc bạch: "Từ khi xã nhà đạt chuẩn NTM nâng cao, tôi thấy việc sản xuất nông nghiệp thuận lợi hơn, đặc biệt là khi xã có hợp tác xã chuyên canh lúa, được các ngành chuyên môn thường xuyên đến tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật. Nhờ đó, năng suất lúa tăng cao và được các công ty, doanh nghiệp liên kết thu mua lúa sau thu hoạch. Thực tế trong các năm qua, không chỉ riêng hợp tác xã sử dụng các giống lúa chất lượng cao để canh tác, mà hầu hết nông dân ngoài hợp tác xã cũng dùng các giống đặc sản, cao sản gieo sạ nên thu nhập của hộ dân sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã đều tăng cao, có đời sống ổn định".

Ngoài cây lúa, cây dứa MD2 phát triển mạnh với diện tích hiện nay 25ha, được cấp giấy xác nhận mã số vùng trồng. Mô hình này đã thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần tăng giá trị sản phẩm thu hoạch/ha đất trồng trọt. Thông qua việc hình thành các vùng sản xuất, giá trị sản xuất nông nghiệp của xã tăng lên khá cao, ước thu nhập 1ha đất sản xuất nông nghiệp đạt hơn 145 triệu đồng.

Đồng chí Nguyễn Văn Ngoan - Chủ tịch UBND xã Long Hưng cho biết, nhằm tiếp tục kiện toàn, giữ vững, nâng chất để hoàn thiện 19/19 tiêu chí NTM nâng cao, hướng đến xây dựng xã NTM kiểu mẫu, xã Long Hưng sẽ tập trung khai thác và huy động triệt để các nguồn lực huy động sức mạnh tổng hợp, lồng ghép Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM gắn với chương trình mục tiêu khác và giải quyết tốt vấn đề an sinh xã hội. Phát huy vai trò, trách nhiệm chỉ đạo điều hành của người đứng đầu. Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhân dân đăng ký và đóng góp vốn trong xây dựng NTM. Chủ động rà soát, duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí đã đạt được, nhất là đối với các tiêu chí đã đạt nhưng còn thấp, các tiêu chí chưa ổn định, dễ biến động (môi trường, thu nhập, an ninh trật tự…).

Tạo môi trường thuận lợi, hỗ trợ nông dân và cư dân nông thôn nâng cao năng lực quản trị, phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo sinh kế, việc làm ổn định, tiếp cận các nguồn lực, tiến bộ khoa học - công nghệ; chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, sang sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị. Ứng dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, chuyển đổi số, đáp ứng yêu cầu cơ cấu lại nông nghiệp, xây dựng NTM. Đồng thời, xác định lại những nội dung chưa hài lòng của người dân về kết quả thực hiện xây dựng NTM nâng cao trên địa bàn xã để khắc phục, tạo niềm tin cho nhân dân tiếp tục tham gia xây dựng NTM. Trên cơ sở đó, xây dựng lộ trình phấn đấu xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu trong thời gian sớm nhất.

THÚY LIỄU

 

Dự kiến tổ chức Hội nghị tổng kết các chương trình lớn trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn

UBND tỉnh vừa ban hành Kế hoạch số 184/KH-UBND tổ chức Hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM), phong trào thi đua 'Toàn tỉnh chung sức xây NTM', chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Phong trào thi đua 'Vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau' và chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

Các sản phẩm OCOP của tỉnh tham gia chương trình xúc tiến thương mại tại thành phố Biên Hòa. Ảnh: B.Nguyên

Mục tiêu tổ chức hội nghị này nhằm đánh giá toàn diện kết quả và tác động của 5 năm thực hiện Kết luận số 279-KL/TU ngày 18-10-2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 5-9-2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa X) về huy động nguồn lực xây dựng và phát triển NTM giai đoạn 2021-2025; Chỉ thị số 12-CT/TU ngày 22-9-2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương trình xây dựng NTM tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2021-2025; Chỉ thị số 46-CT/TU ngày 27-6-2019 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc triển khai chương trình OCOP...

Tổng kết, đánh giá quá trình tổ chức triển khai thực hiện và kết quả của các chương trình, phong trào trên với tinh thần nghiêm túc, đúng thực tế, khách quan, rút ra những mặt đạt được, bài học kinh nghiệm; những mặt chưa đạt được và nguyên nhân.

Kế hoạch phân công trách nhiệm cho các sở, ngành, tổ chức liên quan trong công tác phối hợp thực hiện hội nghị. Dự kiến hội nghị sẽ diễn ra trước ngày 10-6-2025.

Bình Nguyên

 

Nam Trung bộ - Tây Nguyên đẩy mạnh chuyển đổi số hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp

Thực hiện Nghị quyết 57 về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, các ngành, địa phương tại Nam Trung bộ và Tây Nguyên đang đẩy mạnh chuyển đổi số từ cấp cơ sở đến cấp tỉnh, kết nối đồng bộ với các lĩnh vực kinh tế – xã hội, đặc biệt là nông nghiệp, du lịch và công nghiệp chế biến.

Nhờ đó, các doanh nghiệp được tiếp cận nguồn vốn và dự án sâu rộng, minh bạch và hiệu quả hơn, tạo động lực quan trọng cho sự phát triển bền vững của vùng.

Việc đưa dịch vụ ngân hàng đến gần dân không còn là khẩu hiệu, mà đang hiện diện cụ thể trên từng nẻo đường đất đỏ Tây Nguyên. Những chiếc xe ngân hàng lưu động, được trang bị đầy đủ máy tính, máy in, máy đếm tiền và kết nối mạng hiện đại len lỏi vào sâu trong các thôn, buôn vùng xa của Tây Nguyên, mở ra cơ hội tiếp cận dịch vụ ngân hàng thuận tiện và minh bạch cho người dân nơi đây.

Xe vay vốn lưu động cung ứng dịch vụ đến vùng sâu, vùng xa

Thay vì phải đi hàng chục cây số xuống trung tâm huyện, bà con giờ đây dễ dàng làm hồ sơ vay vốn, nhận tiền, nộp lãi hay gửi tiết kiệm ngay tại xã mình. Mỗi điểm giao dịch lưu động được tổ chức bài bản, ứng dụng công nghệ tiên tiến, vừa đảm bảo an toàn giao dịch, vừa rút ngắn thời gian xử lý thủ tục. Tại Tây Nguyên, hoạt động của các tổ vay vốn và xe giao dịch lưu động đã đưa hàng nghìn tỷ đồng tín dụng chính sách đến với người dân vùng dân tộc thiểu số, góp phần hỗ trợ sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế hộ gia đình. Tại tỉnh Đắk Lắk, đến nay, Agribank đạt dư nợ 21.700 tỷ đồng, trong đó 63% dành cho nông nghiệp nông thôn với hơn 34.000 khách hàng vay vốn.

Ông Võ Tiến Nam, Phó Giám đốc Agribank Chi nhánh tỉnh Đắk Lắk cho biết: “Tổ cho vay lưu động đến các vùng sâu, vùng xa, giúp bà con đi lại với khoảng cách rất xa. Như từ Nam Ca đến thị trấn Liên Sơn, huyện Lắk rất xa đến 50km. Khi chúng tôi bố trí phương tiện giải ngân tại các điểm lưu động, bà con nông dân sắp xếp thời gian, giải ngân vốn vay thuận tiện hơn. Tuy nhiên, vẫn còn khó khăn khi đi vào vùng sâu, vùng xa thì hạ tầng công nghệ chưa đáp ứng kịp”, ông Nam nói.

Không chỉ ở cấp cơ sở, hay lĩnh vực tín dụng, ứng dụng công nghệ đang được mở rộng, kết nối đồng bộ với các lĩnh vực khác của nền kinh tế. UBND tỉnh Khánh Hòa vừa ra mắt Trung tâm Giám sát, Điều hành Thông minh, đây là một bước tiến quan trọng trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ và chuyển đổi số quốc gia, cũng như Nghị quyết số 68 về phát triển kinh tế tư nhân.

Lãnh đạo tỉnh Khánh Hòa trải nghiệm ứng dụng của Trung tâm Giám sát, Điều hành Thông minh

Trung tâm này tích hợp 7 phần mềm, 15 dịch vụ và 22 bộ tiêu chí, cho phép kết nối đồng bộ giữa người dân, doanh nghiệp và chính quyền các cấp. Các dữ liệu về quy hoạch, đất đai, dự án kêu gọi đầu tư được công khai minh bạch, giúp doanh nghiệp tra cứu thông tin một cách dễ dàng, nhanh chóng.

Ông Nguyễn Tấn Tuân, Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa cho biết, việc số hóa quản trị không chỉ góp phần cải cách hành chính mà còn là tiền đề nâng cao tính minh bạch trong đầu tư, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng.“Rõ ràng chúng tôi sẽ không tiếp cận riêng từng doanh nghiệp mà tiếp cận trên hệ thống mạng, do đó, tránh được việc quen biết hay có những việc này, khác. Chúng tôi thấy đây là hệ thống rất minh bạch cho các doanh nghiệp, mọi doanh nghiệp đều bình đẳng khi tham gia đầu tư trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa.”

Năm 2025 là năm “tăng tốc, bứt phá về đích” của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021–2025, ngành ngân hàng được giao trọng trách kép: vừa giữ ổn định kinh tế vĩ mô, vừa tạo lực đẩy tín dụng cho tăng trưởng.

Hiện nay, các tỉnh Nam Trung bộ và Tây Nguyên đang được giao nhiệm vụ tăng trưởng GRDP từ 8-13%. Ngân hàng Nhà nước đã sớm triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược. Ngân hàng Nhà nước định hướng giảm lãi suất điều hành, đồng thời yêu cầu các ngân hàng thương mại tiết giảm chi phí để hạ lãi suất cho vay một cách thực chất. Nguồn vốn tín dụng cũng được cơ cấu lại, ưu tiên cho các lĩnh vực thiết yếu như sản xuất, xuất khẩu, công nghiệp phụ trợ và doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cùng với đó là triển khai các chương trình tín dụng ưu đãi theo chính sách của Nhà nước, hướng đến các lĩnh vực ưu tiên như phát triển nông nghiệp và nông thôn.

Nguồn vốn tín dụng ưu đãi hỗ trợ nông dân các tỉnh Tây Nguyên an tâm sản xuất

Ông Đào Minh Tú, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết, Ngành ngân hàng xác định rõ vai trò then chốt trong ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và tạo động lực tăng trưởng. Với sự kết hợp giữa công nghệ, chính sách hợp lý và tinh thần chủ động, hệ thống ngân hàng sẽ tiếp tục đồng hành với người dân và doanh nghiệp, góp phần đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên phát triển số, hiện đại và bền vững.

“Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong cung ứng dịch vụ ngân hàng – một xu hướng tất yếu của thời đại, đây là cuộc cách mạng đòi hỏi rất quyết liệt. Ngành ngân hàng càng phải nhìn thấy rõ điều đó. Ngân hàng đã và đang triển khai phải ứng dụng công nghệ làm sao càng tích cực, thuận lợi sẽ càng giảm được chi phí không cần thiết cho doanh nghiệp. Đó là chi phí đi lại, chi phí hồ sơ…liên quan các khoản vay, sẽ giúp cung ứng những dịch vụ hết sức hữu ích, chi phí rất thấp”, ông Đào Minh Tú cho biết.

Thái Bình/ VOV-Miền Trung

 

Người tiêu dùng sẵn sàng chi tiền, nông nghiệp hữu cơ có đà bứt phá?

Sự thay đổi thói quen của người tiêu dùng từ thực phẩm thường sang thực phẩm hữu cơ không chỉ phản ánh mối quan tâm tới sức khỏe, mà còn mở ra cơ hội phát triển bền vững cho ngành nông nghiệp hữu cơ.

Thời gian gần đây, trong khi cơ quan chức năng liên tục phát hiện số lượng lớn thực phẩm kém chất lượng thì tại các siêu thị, nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm an toàn, đặc biệt là thực phẩm hữu cơ gia tăng mạnh mẽ.

Thực phẩm hữu cơ, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng ngày càng được người tiêu dùng quan tâm. Ảnh: TB

Chỉ vài năm trước, thực phẩm hữu cơ còn là mặt hàng ít phổ biến, chủ yếu phục vụ phân khúc khách hàng thu nhập cao hoặc thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều hệ thống siêu thị tại Hà Nội đã dành vị trí nổi bật ngay lối vào để trưng bày các mặt hàng như rau hữu cơ, thịt lợn hữu cơ, hoa quả hữu cơ hay tôm sinh thái… Mức giá của những sản phẩm này cao gấp 1,5 – 3 lần so với hàng thông thường, nhưng vẫn tiêu thụ mạnh.

Bà Lê Hạnh, Giám đốc thương mại chuỗi siêu thị thực phẩm sạch tại đường Trần Duy Hưng, Hà Nội cho biết: “Lượng tiêu thụ thực phẩm hữu cơ tăng tới 30% liên tục trong 1 tháng qua. Người tiêu dùng ngày càng ưu tiên chất lượng, đây cũng chính là động lực để nhà bán lẻ mở rộng nhóm hàng hữu cơ. Thực phẩm hữu cơ trong hệ thống của chúng tôi tháng 4 và nửa đầu tháng 5 gần như luôn cháy hàng”.

“Sự thay đổi hành vi tiêu dùng này không phải là hiện tượng nhất thời. Theo khảo sát của AC Nielsen, 24% người tiêu dùng Việt sử dụng thực phẩm hữu cơ hàng ngày, 16% sử dụng 4–5 lần mỗi tuần và 21% dùng từ 2–3 lần/tuần. Đáng chú ý, dù gần 90% người được khảo sát cho rằng sản phẩm hữu cơ đắt đỏ nhưng tôi thấy hiện nay nhiều người vẫn chấp nhận chi thêm tiền để đổi lấy sự an tâm về sức khỏe”, bà Hạnh cho biết thêm.

Chị Phương Anh (quận Cầu Giấy, Hà Nội) đã chuyển hoàn toàn sang sử dụng thực phẩm hữu cơ thay thực phẩm thông thường. Chị cho biết: “Giá dù cao hơn rất nhiều nhưng tôi chọn ăn ít hơn và ưu tiên mua sản phẩm hữu cơ cho cả gia đình. Tôi coi đây là khoản đầu tư xứng đáng vì sức khỏe lâu dài của cả nhà”.

Nếu trước đây nông sản hữu cơ chủ yếu dành cho xuất khẩu thì hiện nay, không ít doanh nghiệp đang quay về phát triển thị trường nội địa như một hướng đi chủ lực.

Ông Vũ Anh Minh, Giám đốc một công ty thực phẩm hữu cơ tại Hà Nội cho biết: “Trước đây, 100% sản phẩm gà hữu cơ, gia vị hữu cơ của công ty được xuất khẩu. Tuy nhiên, hiện nay các mặt hàng này chúng tôi đã đưa được vào nhiều căn bếp Việt Nam. Trước xu hướng tiêu dùng mới, chúng tôi quyết định mở rộng hệ thống phân phối nội địa để cuối năm 2025 đạt mức tăng trưởng 2 con số”.

Bà Ngô Ánh, đại diện nông trại hữu cơ tại Sóc Sơn, Hà Nội cho biết: “Chúng tôi từng e dè mở rộng vì giá thành cao, sản phẩm kén khách. Nhưng hiện tại, trước làn sóng người tiêu dùng chuyển hướng sang tiêu dùng bền vững, công ty đã quyết định đầu tư thêm để truyền thông và mở rộng diện tích canh tác. Ngoài Ba Vì, Sóc Sơn, chúng tôi sẽ mở rộng sang Hà Nam, Vĩnh Phúc”.

Theo bà Ánh, phương pháp sản xuất hữu cơ với việc sử dụng các nguyên liệu tự nhiên như tỏi, ớt để phòng trừ sâu bệnh và thu hoạch thủ công khiến chi phí cao gấp nhiều lần. Tuy nhiên, đây cũng là yếu tố tạo nên giá trị cốt lõi, giúp doanh nghiệp xây dựng lòng tin với người tiêu dùng.

Không còn là phân khúc nhỏ lẻ, thị trường thực phẩm hữu cơ tại Việt Nam đang dần định hình là một lĩnh vực đầu tư dài hạn với nhiều dư địa tăng trưởng. “Việt Nam hiện có gần 200.000 ha đất canh tác hữu cơ, đứng thứ ba trong ASEAN. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm hữu cơ đạt khoảng 400 triệu USD mỗi năm, tới hơn 180 thị trường. Dự kiến đến năm 2025, Việt Nam có khoảng 25 triệu người thuộc tầng lớp trung lưu. Đây sẽ là nhóm tiêu dùng chủ lực cho thực phẩm hữu cơ trong tương lai gần. Từ các dữ liệu trên tôi cho rằng đây chính là thời điểm vàng để chúng tôi mở rộng tệp khách hàng nội địa”, ông Phạm Viết Anh, Giám đốc đơn vị chuyên phân phối thực phẩm hữu cơ tại miền Bắc phân tích.

Tại Lễ hội thực phẩm hữu cơ hồi giữa tháng 5, ông Hà Phúc Mịch, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam cho biết, mức tiêu thụ sản phẩm hữu cơ trong nước tăng trung bình 15% mỗi năm, một con số đủ sức hấp dẫn để doanh nghiệp điều chỉnh hướng đầu tư.

Còn ông Vũ Tuấn Đạt, điều phối viên dự án NGO phát triển nông nghiệp sạch Tây Bắc, một chuyên gia lâu năm trong ngành cho rằng: “Trong bối cảnh toàn cầu ngày càng hướng đến tiêu dùng xanh, sạch và bền vững, thực phẩm hữu cơ không chỉ là lựa chọn cá nhân mà còn là xu hướng phát triển quốc gia. Đầu tư vào nông nghiệp hữu cơ không đơn thuần là một chiến lược kinh doanh, mà còn là nền tảng xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, có trách nhiệm và hài hòa với môi trường. Dù cơ hội thị trường đang mở rộng, doanh nghiệp vẫn cần thận trọng khi đầu tư vào lĩnh vực hữu cơ. Việc canh tác hữu cơ đòi hỏi vốn lớn, thời gian hoàn vốn kéo dài, trong khi tiếp cận đất đai, tín dụng ưu đãi và quy trình chứng nhận còn phức tạp”.

Thanh Bình

 

Việt Nam-Australia: Cùng hợp tác phát triển nông nghiệp bền vững

Việc hợp tác phát triển bền vững, trong đó khoa học nông nghiệp là một trong những nền tảng quan trọng, được Việt Nam-Australia ưu tiên thúc đẩy.

Những nhánh rau sạch tại nông trại Công ty Orla (vốn đầu tư và công nghệ Australia) ở xã Đạ Sar, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng. (Ảnh: Việt Đức/TTXVN)

Trong khuôn khổ Đối tác Chiến lược Toàn diện, việc hợp tác phát triển bền vững, trong đó khoa học nông nghiệp là một trong những nền tảng quan trọng, được Việt Nam-Australia ưu tiên thúc đẩy.

Ươm mầm phát triển những “giống xanh”

Với sự “tiếp sức” mạnh mẽ từ khuôn khổ Đối tác Chiến lược Toàn diện được xác lập tháng 3/2024, những nhà khoa học, doanh nhân, người dân hai nước đã và đang chung tay, góp sức để “ươm mầm,” phát triển những “giống xanh” hiện thực hóa khát vọng một Việt Nam xanh, gia tăng hàm lượng tri thức, khoa học vào nông nghiệp - trụ đỡ của nền kinh tế, mang đến cuộc sống, sinh kế bền vững cho người dân, cũng như đóng góp vào nỗ lực chung trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu.

Nằm trên độ cao hơn 1.000m so với mực nước biển, Trạm sản xuất và thực nghiệm Đơn Dương (huyện Đơn Dương, Lâm Đồng) là một vườn ươm lai tạo những giống sắn chất lượng cao không chỉ cho Việt Nam mà còn xuất khẩu sang các nước láng giềng.

Từ hỗ trợ tài chính và kỹ thuật của Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp quốc tế Australia (ACIAR), thông qua dự án “Các hệ thống sản xuất kháng bệnh bền vững ở khu vực Mekong” (2023-2028), các chuyên gia, nhà khoa học của Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới quốc tế (CIAT) và đội ngũ của Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm nông nghiệp Hưng Lộc (1 trong 8 trung tâm nghiên cứu thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (IAS) - Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đang cùng nghiên cứu lai tạo những giống sắn mới có tính bền vững cao, khả năng kháng các loại sâu bệnh, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, đồng thời đáp ứng chất lượng về tinh bột cũng như về năng suất...

“Cây sắn có đặc điểm không có khả năng phân cành để có thể ra hoa ở môi trường dưới thấp. Để cho cây sắn giống có thể phân cành và ra hoa thụ phấn được thì cần phải mang lên vùng cao. Chính vì thế, Lâm Đồng là nơi phù hợp để tạo vườn lai sắn. Tại vườn lai của chúng tôi, có hơn 100 dòng giống sắn khác nhau, bao gồm những giống chất lượng tốt của Việt Nam và châu Á, những giống có gene kháng bệnh khảm lá và những giống tốt từ châu Phi,” bà Cù Thị Lệ Thủy, Quản lý chương trình lai tạo giống sắn thuộc CIAT thông tin với phóng viên.

Bà Lệ Thủy và các cộng sự luôn mong muốn tạo ra được những giống sắn bền vững, giúp người nông dân bớt vất vả, gặt hái nhiều thành quả. “Một giống sắn bền vững là khi trồng năm này sang năm khác, nếu giống đó kháng bệnh thì năm nào nó cũng có khả năng kháng bệnh, chứ không phải năm nay kháng bệnh, sang năm lại không, như vậy người nông dân sẽ bị mất hết. Bên cạnh đó, giống sắn đó có khả năng duy trì được dinh dưỡng cho đất, đồng thời phù hợp với điều kiện đầu tư, canh tác của người dân,” bà Thủy chia sẻ.

Cây sắn giống được ươm trồng tại Trạm sản xuất và thực nghiệm Đơn Dương (huyện Đơn Dương, Lâm Đồng). (Ảnh: Việt Đức/TTXVN)

Thể hiện sự vui mừng với những kết quả đã đạt được của dự án, cộng sự của bà Cù Thị Lệ Thủy, bà Phạm Thị Nhạn, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm nông nghiệp Hưng Lộc chia sẻ: “Chúng tôi đã thành công trong việc kích thích ra hoa sớm ở các giống sắn thân thẳng, không phân nhánh bằng cách chiếu sáng và cắt tỉa bằng ánh sáng đỏ, kết hợp với việc thiết lập các vườn nhân giống chiến lược ở các vùng có độ cao trung bình của Lâm Đồng. Bước đột phá này rút ngắn đáng kể chu kỳ nhân giống và nâng cao hiệu quả nhân giống.”

Với nỗ lực, tâm huyết nghiên cứu và giàu khát vọng vì một nền nông nghiệp Việt Nam bền vững của bà Thủy, bà Nhạn và các cộng sự, đến nay dự án “Các hệ thống sản xuất kháng bệnh bền vững ở khu vực Mekong” đã đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển bền vững của ngành trồng sắn trong khu vực Mekong, với việc chọn lọc được 9 dòng sắn lai ưu tú và đang tích cực chia sẻ nguồn gene quý giá này với Lào và Campuchia.

Dự án cũng đóng góp trực tiếp vào các trụ cột của khuôn khổ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Australia là: Tăng cường gắn kết kinh tế; hỗ trợ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; tăng cường hợp tác khu vực và quốc tế.

Cùng với dự án “Các hệ thống sản xuất kháng bệnh bền vững ở khu vực Mekong,” thông qua ACIAR, Australia còn hỗ trợ phát triển bền vững ngành nông nghiệp Việt Nam qua các dự án như: “Giải quyết các rào cản kỹ thuật trong chuỗi cung ứng cá mú” giai đoạn 2024-2027, với kinh phí khoảng 2,6 triệu đô la Australia (AUD); dự án “Nâng cao năng lực sản xuất và kỹ thuật nuôi hải sâm ở Việt Nam và Philippines” với kinh phí tài trợ gần 2,6 triệu AUD trong giai đoạn 2016-2024; dự án “Nâng cao tính bền vững, năng suất và giá trị kinh tế của các hệ thống canh tác và chuỗi giá trị càphê - hồ tiêu ở Tây Nguyên” (V-SCOPE), kinh phí tài trợ khoảng 3,5 triệu AUD trong giai đoạn 2021-2025.

Được xem là "thần dược" xứ biển, "nhân sâm" của biển cả, hải sâm được biết đến là món ăn bổ dưỡng, có giá trị kinh tế cao và Việt Nam là quốc gia có nhiều điều kiện thuận lợi để nuôi, phát triển loài hải sản đặc biệt này.

Tiến sỹ Nguyễn Đình Quang Duy, Phó Giám đốc Trung tâm Quốc gia giống hải sản miền Trung, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 3 (RIA 3), người được cộng đồng khoa học quốc tế đánh giá là chuyên gia hải sâm hàng đầu thế giới cho biết, tại Việt Nam, nguồn lợi hải sâm bị khai thác quá mức dẫn đến tuyệt chủng.

Hải sâm nuôi tại Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 3 (RIA 3), Khánh Hòa với sự hợp tác hỗ trợ từ Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp quốc tế Australia (ACIAR). (Ảnh: Việt Đức/TTXVN)

Một trong những mục tiêu của dự án “Nâng cao năng lực sản xuất và kỹ thuật nuôi hải sâm ở Việt Nam và Philippines” là sản xuất giống và nghiên cứu nuôi cũng như bảo tồn một số giống loài hải sâm quý hiếm tại Việt Nam.

Dự án đã kết thúc vào năm 2024 với một số kết quả khả quan, nhân rộng mô hình nuôi hải sâm ra khu vực miền Trung, qua đó tạo sinh kế bền vững cho người nông dân, đồng thời góp phần cải tạo môi trường nước, giảm thiểu ô nhiễm và dịch bệnh cho các loài hải sản nuôi kết hợp.

Có được những kết quả này, Tiến sỹ Nguyễn Đình Quang Duy cho rằng, cùng với sự quan tâm, định hướng từ Chính phủ, ngành nông nghiệp Việt Nam thì sự hợp tác hỗ trợ từ các đối tác Australia đóng một vai trò quan trọng, góp phần để ông và các nhà khoa học Việt Nam duy trì mạch nghiên cứu bảo tồn, phát triển giống hải sâm ở Việt Nam trong hơn 20 năm qua.

Đến chia sẻ kiến thức về làm nông nghiệp sạch

Đánh giá về hợp tác phát triển bền vững giữa hai nước qua các dự án nông nghiệp bền vững, Đại sứ Australia tại Việt Nam Gillian Bird cho rằng, quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Australia đang ngày càng được củng cố thông qua hợp tác sâu rộng trên nhiều lĩnh vực quan trọng đối với cả hai quốc gia. Trong đó, hợp tác nghiên cứu nông nghiệp do ACIAR dẫn dắt là một minh chứng rõ nét.

“Thông qua ACIAR, Australia tự hào đồng hành cùng Việt Nam thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp và phát triển nông thôn - hỗ trợ nông hộ nhỏ, cải thiện sinh kế và tăng cường khả năng chống chịu để hướng tới một tương lai bền vững,” Đại sứ cho hay.

Không chỉ có các dự án hợp tác nghiên cứu nông nghiệp qua ACIAR hỗ trợ, ngày càng nhiều những doanh nghiệp, nhà khoa học Australia có tình cảm với Việt Nam đã trực tiếp đến đây, chung tay với người nông dân Việt Nam hình thành, phát triển các mô hình nông nghiệp sạch, công nghệ cao, có giá trị kinh tế cao.

Nữ doanh nhân Amanda Cornelissen và người bạn là Tiến sỹ Lyndal Hugo, Đại học Sydney (Australia) là những người như vậy. Với nhiều năm kinh nghiệm làm nông nghiệp công nghệ cao, ứng dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp, hai người phụ nữ Australia đến với Việt Nam với ước muốn tạo ra những sản phẩm nông nghiệp sạch, bền vững và cung cấp sản phẩm rau, quả hữu cơ cho người tiêu dùng Việt Nam, đồng thời tạo cảm hứng và lan tỏa tinh thần làm nông nghiệp công nghệ cao trong cộng đồng sản xuất nông nghiệp sở tại.

Khác với các mô hình canh tác trong nhà khác, trang trại trồng rau xanh thẳng đứng có diện tích 1,6 ha ở xã Đạ Sar, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng, của Công ty Orla do hai bà Amanda Cornelissen và Lyndal Hugo đồng sáng lập, sử dụng một loại đá đặc biệt, được coi là “chìa khóa” hiện thực hóa ước nguyện của hai người phụ nữ này là cung cấp nhiều loại rau chất lượng cho mọi gia đình.

Tiến sỹ Nguyễn Đình Quang Duy, Phó Giám đốc Trung tâm Quốc gia giống hải sản miền Trung, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 3 (RIA 3) chia sẻ về cách nuôi con giống hải sâm. (Ảnh: Việt Đức/TTXVN)

Với phương pháp xử lý bí mật - “Orlarock” - tên của loại đá đặc biệt có thể hấp thụ tất cả các chất dinh dưỡng bổ sung, chống lại bệnh tật, giữ lại lượng nước tối ưu, do đó cây phát triển bình thường mà không bị bệnh. Phương pháp này cho phép các sản phẩm rau, quả của công ty Orla không chứa các chất gây ô nhiễm thường có trong đất.

Làm quản lý nông trại tại Orlar, bà Bùi Thị Bích Hạnh cho biết bà đã học hỏi được rất nhiều kiến thức nông nghiệp sạch khi làm việc ở đây, như công nghệ, kỹ thuật trồng trọt hay các loại giống cây, rau mới. Bà Hạnh cho rằng, người nông dân Việt Nam hoàn toàn có thể tiếp cận những công nghệ sản xuất nông nghiệp sạch.

Từ các dự án nghiên cứu nông nghiệp bền vững do ACIAR tài trợ đến dự án nông nghiệp sạch của nông trại Orlar, đây là những minh chứng rõ nét cho thấy hợp tác phát triển bền vững, trong đó có nghiên cứu khoa học nông nghiệp bền vững là một trong những lĩnh vực chiến lược và giàu tiềm năng giữa Việt Nam và Australia. Sự hợp tác này góp phần đưa quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện giữa hai nước đi vào thực chất, hiệu quả, cũng như cùng nhau thực hiện các cam kết toàn cầu vì một thế giới xanh và bền vững./.

(TTXVN/Vietnam+)

 

Hiếu Giang tổng hợp

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop