Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và các Phó Chủ tịch Quốc hội tại phiên họp. (Ảnh: DUY LINH)
Dự kiến miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp 7.500 tỷ đồng/năm
Chiều 26/6, tiếp tục chương trình , Quốc hội khóa XV tiến hành biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Kết quả biểu quyết điện tử cho thấy, với đa số đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội đã chính thức thông qua nghị quyết kéo dài thời gian miễn thuế đất nông nghiệp.
Nghị quyết chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2026. Theo đó, Quốc hội quyết nghị kéo dài thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp được quy định tại Nghị quyết 55/2010 của Quốc hội về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết 28/2016 và Nghị quyết 107/2020 đến hết ngày 31/12/2030.
Theo báo cáo của Cơ quan chủ trì soạn thảo, với đề xuất kéo dài thời gian miễn thuế như quy định hiện hành , số thuế sử dụng đất nông nghiệp được miễn khoảng 7.500 tỷ đồng/năm.
Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp. (Ảnh: DUY LINH)
Trước khi các đại biểu tiến hành bấm nút thông qua, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi đã trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo nghị quyết.
Nêu quan điểm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về ý kiến một số đại biểu đề nghị sửa đổi toàn diện Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp, ông Mãi cho biết, việc sửa đổi toàn diện luật này cần được đặt trong tổng thể công tác tổng kết, đánh giá toàn bộ các chính sách thuế và phí liên quan đến sử dụng đất.
Ông nêu rõ, hiện Chính phủ chưa triển khai đánh giá tổng thể các vấn đề nêu trên để có thể báo cáo các cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Đồng tình với quan điểm trước mắt tiếp tục ban hành Nghị quyết về việc kéo dài thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp như đề nghị của Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ triển khai tổng kết, đánh giá chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp qua thời gian dài thực hiện.
Cùng với đó, đánh giá tổng thể các chính sách về thuế, phí đối với đất đai nói chung để đề xuất các chính sách về thuế và phí áp dụng với việc sử dụng đất, trong đó có đất nông nghiệp một cách phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi. (Ảnh: DUY LINH)
Trường hợp cần thiết, nghiên cứu đề xuất sửa đổi Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp cho phù hợp với thực tiễn và yêu cầu quản lý trong giai đoạn mới, đáp ứng các yêu cầu đã được nêu trong các kết luận, nghị quyết của Đảng, ông Mãi nêu quan điểm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Ngoài ra, ông cũng cho hay, một số ý kiến đề nghị không miễn thuế đối với trường hợp để đất bỏ hoang, không sản xuất, sử dụng không đúng mục đích.
Không mở rộng đối tượng miễn thuế
Một số ý kiến đề nghị quy định nguyên tắc và điều kiện, tiêu chí cụ thể để được miễn thuế, đồng thời có chế tài xử lý các trường hợp lợi dụng chính sách để sử dụng đất sai mục đích hoặc tích tụ đất đai và để đất hoang hóa.
Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, thực tế tình trạng sử dụng đất sai mục đích, đất hoang hóa, gây lãng phí nguồn lực vẫn diễn ra khá phổ biến.
Tuy nhiên, việc quy định cụ thể các tiêu chí để xác định đúng đối tượng được miễn thuế, không miễn thuế đối với đất bỏ hoang, sử dụng không đúng mục đích cần có thời gian nghiên cứu, chuẩn bị một cách phù hợp. Dự án Nghị quyết về việc tiếp tục miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp của Chính phủ trình Quốc hội vào thời điểm này chưa giải quyết được các vấn đề nêu trên.
Bên cạnh đó, Luật Đất đai năm 2024 đã có một số quy định nhằm góp phần khắc phục tình trạng bỏ hoang đất nông nghiệp. Đồng thời, pháp luật về đất đai đã quy định thẩm quyền của các cơ quan liên quan trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai, áp dụng các chế tài xử lý vi phạm về sử dụng đất.
Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin giữ như dự thảo nghị quyết về đối tượng được áp dụng việc miễn thuế để nghị quyết có thể được ban hành kịp thời, tránh ngắt quãng trong thực hiện chính sách.
Tuy nhiên, cơ quan thường trực của Quốc hội cũng đề nghị Chính phủ triển khai đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện về thực trạng và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp thời gian qua, hiệu quả của chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, đời sống nông dân để xây dựng các giải pháp chính sách phù hợp.
Trước mắt, đề nghị Chính phủ lưu ý hướng dẫn đầy đủ các quy định của Luật Đất đai và có các giải pháp thiết thực để bảo đảm không xảy ra tình trạng hoang hóa, lãng phí nguồn lực đất đai, phòng tránh và xử lý các trường hợp lợi dụng chính sách, nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất nói chung, đất nông nghiệp nói riêng, ông Mãi nhấn mạnh.
Về ý kiến đề nghị xem xét, mở rộng đối tượng được miễn thuế, theo ông Mãi, phạm vi áp dụng chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp theo quy định hiện hành là các hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức trực tiếp sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp, trừ phần diện tích đất nông nghiệp nhà nước giao cho tổ chức quản lý nhưng không trực tiếp sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp mà giao cho tổ chức, cá nhân khác nhận thầu theo hợp đồng để sản xuất nông nghiệp thì phải nộp 100% thuế sử dụng đất nông nghiệp trong thời gian nhà nước chưa thu hồi đất.
Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị giữ như dự thảo nghị quyết, không mở rộng đối tượng được hưởng chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Ổn định thị trường sản xuất lúa gạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Theo khuyến cáo của ngành nông nghiệp các địa phương, doanh nghiệp và nông dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long cần tập trung nghiên cứu, cải thiện cơ cấu sản xuất và chất lượng, tập trung vào các giống lúa có chất lượng và giá trị cao.
Nông dân tất bật thu hoạch lúa hè thu.
Nhất là ứng dụng công nghệ hiện đại, tăng cường chế biến sâu, nhằm nâng cao khả năng lưu chứa, dự trữ, bảo quản gạo phục vụ ổn định thị trường bền vững và thân thiện môi trường.
Bến Tre chuyển mình, tạo đà phát triển kinh tế, thương mại và du lịch bền vững
Bến Tre đang từng bước đánh thức tiềm năng, phát huy lợi thế về kinh tế biển, du lịch sinh thái, nông nghiệp công nghệ cao và thương mại hiện đại, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.
Phát huy thế mạnh vùng đất xứ Dừa
Nằm ở cửa ngõ hạ lưu sông Mekong, tỉnh Bến Tre sở hữu địa hình sông nước đặc trưng, hệ sinh thái đa dạng, cùng truyền thống văn hóa lịch sử lâu đời.
Với lợi thế đó, Bến Tre xác định tập trung khai thác mạnh mẽ tiềm năng 3 trụ cột là kinh tế biển - công nghiệp chế biến - du lịch sinh thái. Mục tiêu trong năm 2025, Bến Tre đạt tốc độ tăng trưởng GRDP từ 6 - 6,5%, thu hút ngày càng nhiều dự án đầu tư lớn, hiện đại và bền vững.
Nguồn ảnh: Cổng TTĐT Bến Tre
Với hệ thống sông ngòi chằng chịt, cảnh quan tươi đẹp và nét văn hóa miệt vườn đặc trưng, Bến Tre có nhiều tiềm năng lớn để phát triển du lịch sông nước - một loại hình đang ngày càng được du khách trong và ngoài nước yêu thích.
Những trải nghiệm độc đáo như chèo xuồng len lỏi qua rạch nhỏ, thưởng thức đờn ca tài tử trên ghe, hay tham quan làng nghề truyền thống gắn với cây dừa... không chỉ mang đến cảm giác thư giãn, gần gũi thiên nhiên mà còn giúp du khách hiểu sâu sắc hơn về đời sống, con người xứ Dừa.
Bằng việc quy hoạch bền vững, đầu tư hạ tầng du lịch xanh và nâng cao chất lượng dịch vụ, Bến Tre đang từng bước biến tiềm năng sông nước trở thành thế mạnh, góp phần đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Năm 2024, Bến Tre đón trên 2 triệu lượt khách du lịch, trong đó có hơn 600.000 lượt khách quốc tế. Tổng doanh thu toàn ngành đạt khoảng 2.500 tỷ đồng. Đây là những con số tích cực, cho thấy du lịch đang dần trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
Các điểm đến tiêu biểu như Cồn Phụng, Cồn Qui, Cồn Bà Tư, Khu lưu niệm Nguyễn Đình Chiểu, Làng hoa kiểng Chợ Lách… thu hút ngày càng nhiều du khách nhờ sản phẩm du lịch cộng đồng gắn với nông nghiệp, sinh thái và văn hóa bản địa. Tỉnh cũng triển khai chiến lược “Du lịch xanh Bến Tre”, chú trọng bảo tồn thiên nhiên, giảm thiểu rác thải nhựa và nâng cao nhận thức cộng đồng.
Tăng tốc chuyển đổi số và xúc tiến thương hiệu
Để bắt kịp xu thế mới, Bến Tre đẩy mạnh chuyển đổi số trong du lịch, xây dựng bản đồ số du lịch, ứng dụng công nghệ thực tế ảo, mã QR giới thiệu điểm đến. Đồng thời, Bến Tre cũng tích cực xúc tiến thương hiệu du lịch thông qua các sự kiện lớn, kết nối với các thị trường trọng điểm như TP.HCM, Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ... Trong năm 2025, ngành du lịch Bến Tre đặt mục tiêu đón 2,82 triệu lượt khách, tổng thu từ du lịch sẽ đạt 3.800 tỷ đồng.
Hiện nay, Bến Tre có 7 cụm công nghiệp đã thành lập với tổng diện tích 268,4 ha. Bến Tre cũng hướng tới phát triển hệ thống logistics dọc theo tuyến đường ven biển mới, tạo đòn bẩy kết nối kinh tế vùng với TP.HCM, Đồng Tháp, Trà Vinh và Vĩnh Long.
Một góc Bến Tre. Ảnh: Cổng TTĐT Bến Tre
Bên cạnh hạ tầng công nghiệp, tỉnh đầu tư mạnh vào phát triển hệ thống trung tâm thương mại, siêu thị, chợ đầu mối và sàn thương mại điện tử địa phương. Đặc biệt, Bến Tre triển khai hiệu quả chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP), góp phần tạo đầu ra ổn định cho nông sản, sản phẩm thủ công truyền thống và đặc sản địa phương.
Bến Tre cam kết tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi thông qua cải cách hành chính, áp dụng chính quyền số và các chính sách hỗ trợ ưu đãi cho nhà đầu tư. Cổng dịch vụ công trực tuyến của tỉnh hoạt động hiệu quả, giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận thông tin quy hoạch, thủ tục đầu tư, đấu thầu, thuê đất...
Bến Tre cũng duy trì thường xuyên các buổi đối thoại, gặp gỡ nhà đầu tư, doanh nghiệp nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn và nắm bắt nhu cầu phát triển của từng ngành nghề cụ thể.
Với mục tiêu phát triển bền vững, Bến Tre đặc biệt chú trọng đến đào tạo nhân lực có tay nghề cao, đẩy mạnh hợp tác với các trường đại học, cao đẳng và doanh nghiệp trong công tác đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ và khởi nghiệp sáng tạo. Đồng thời, chú trọng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu của nền hành chính hiện đại.
Trong thời gian tới, việc sáp nhập Bến Tre - Trà Vinh và Vĩnh Long hứa hẹn mở ra không gian phát triển kinh tế rộng lớn, tạo lợi thế về vị trí địa lý, hạ tầng giao thông, cảng biển và nguồn lực lao động. Sự hợp nhất này giúp hình thành vùng kinh tế liên kết chặt chẽ, thuận lợi thu hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp chế biến, nông nghiệp công nghệ cao, du lịch và logistics. Đồng thời, đây là cơ hội để tối ưu hóa quản lý, phát triển đồng bộ hạ tầng và nâng cao năng lực cạnh tranh toàn vùng trong tiến trình phát triển bền vững.
Cung ứng trên 5.700 tấn phân bón trả chậm cho nông dân
Trong những năm qua, các cấp Hội Nông dân trong tỉnh đã triển khai chương trình cung ứng phân bón trả chậm cho hội viên nông dân thông qua liên kết với các doanh nghiệp sản xuất phân bón. Đây là một trong những hoạt động hiệu quả, tạo điều kiện cho nhiều hộ nông dân có vật tư sản xuất kịp thời vụ, đồng thời được tiếp cận và sử dụng vật tư nông nghiệp bảo đảm chất lượng, góp phần đẩy mạnh sản xuất.
Công ty Cổ phần Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao tham gia giới thiệu các sản phẩm phân bón tại Phiên chợ quảng bá, xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu sản phẩm tại huyện Thanh Sơn.
Từ đầu năm 2025 đến nay, các cấp Hội Nông dân trong tỉnh đã phối hợp với ngành nông nghiệp, Trường Đại học Hùng Vương, Công ty Cổ phần Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao, các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản cho 17.600 lượt cán bộ, hội viên nông dân. Xây dựng 62 mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật; cung ứng 5.700 tấn phân bón chậm trả NPK Lâm Thao, trị giá trên 39,6 tỷ đồng; cung ứng 23 tấn giống, 23 tấn thuốc bảo vệ thực vật, 6.925 tấn thức ăn chăn nuôi các loại, giá trị 13 tỷ đồng; cung ứng 11 chiếc máy nông nghiệp, giá trị 315 triệu đồng, giúp nông dân đầu tư sản xuất, nâng cao hiệu quả canh tác, tăng thu nhập.
Cùng với đó các cấp Hội tổ chức tốt các hoạt động tương trợ giúp đỡ trong nội bộ nông dân, thông qua phổ biến kinh nghiệm, kỹ thuật sản xuất, cho mượn vốn, đổi công, cung cấp cây, con giống, vật tư, lương thực... với tổng giá trị trên 1,2 tỷ đồng, hỗ trợ 4.270 ngày công. Số vật tư như cây, con giống, lương thực... được giúp đỡ trị giá trên 1,4 tỷ đồng; trực tiếp và phối hợp giúp đỡ hội viên nông dân thoát nghèo được 282 hộ. Nhiều hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi đã ủng hộ, đóng góp hàng chục triệu đồng cho các quỹ ở địa phương, trở thành hạt nhân uy tín trong cộng đồng cư dân nông thôn.
Cơ chế 'mở đường' để nông dân làm chủ nông nghiệp hiện đại
Ứng dụng công nghệ trong sản xuất tạo ra những đột phá, mang lại diện mạo mới cho ngành nông nghiệp. Tại Thanh Hóa, với vùng nguyên liệu 9.500 ha, từ năm 2022, Công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn đã vận hành hệ thống 'mắt thông minh' (Smart Eye) tích hợp AI, drone và IoT. Hệ thống này giúp theo dõi độ ẩm đất, quản lý tưới tiêu, dinh dưỡng và phát hiện sớm sâu bệnh. Công ty cũng dùng bản đồ quản lý vùng nguyên liệu GIS kết hợp AI để phân tích quy trình canh tác và cảnh báo thời tiết. Nhờ đó, cán bộ kỹ thuật có thể theo dõi sát sao toàn bộ vùng nguyên liệu, giúp tăng đáng kể sản lượng và chất lượng mía.
Diện mạo mới, cơ hội mới
Năm 2024, sản lượng của công ty đạt 563.000 tấn, chất lượng mía tăng 10-15%. Đến tháng 4/2025, sản lượng tiếp tục lên 660.000 tấn. Trên cơ sở đó, công ty đặt mục tiêu đến năm 2026 sẽ mở rộng diện tích trồng mía lên 10.000 ha, với sản lượng ước đạt 750.000-800.000 tấn. Còn tại Bến Tre, tổng sản lượng nuôi tôm nước lợ ứng dụng công nghệ cao 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 38.400 tấn, năng suất bình quân 50 tấn/ha, giá bán cao hơn thị trường từ 2.000 - 10.000 đồng/kg. Để có được kết quả trên, tỉnh đã lắp đặt 14 trạm quan trắc môi trường tự động, giúp theo dõi 14 thông số nước phục vụ cảnh báo sớm, hỗ trợ người nuôi điều chỉnh quy trình sản xuất theo thời gian thực. Các ứng dụng công nghệ thông minh, như AI, dữ liệu lớn (Big Data), cũng đang được ngành nông nghiệp tỉnh phối hợp triển khai để nâng cao năng lực giám sát dịch bệnh và quản lý thức ăn.
Thành công của nông nghiệp công nghệ cao không chỉ nằm ở con số về diện tích, sản lượng hay giá trị kinh tế, mà quan trọng hơn, là thể hiện bước chuyển căn bản về tư duy sản xuất, từ nhỏ lẻ sang liên kết, từ truyền thống sang hiện đại.
Nông dân, doanh nghiệp và nhà khoa học phải cùng nhau tạo nên hệ sinh thái nông nghiệp đổi mới sáng tạo
Làm gì để khai thác hết tiềm năng?
Tuy nhiên, ông Phạm Đức Nghiệm, Phó Cục trưởng Cục Khởi nghiệp và Doanh nghiệp công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) chia sẻ một thực tế, hiện nhiều dự án nông nghiệp thông minh lại đang phát triển theo hướng “đóng kín”, chỉ phù hợp với doanh nghiệp lớn. Các công ty này đầu tư hệ thống nhà kính, nhà màng, tự động hóa từ gieo trồng đến thu hoạch, mà không cần tới sự tham gia của người nông dân. Những mô hình như vậy thường có chi phí đầu tư rất cao, đòi hỏi trình độ quản lý hiện đại, trong khi đại đa số nông dân không thể có điều kiện về cả tài chính lẫn kỹ thuật.
Bên cạnh đó, Việt Nam hiện phải nhập khẩu 80-90% hạt giống các loại rau như bắp cải, su hào, cà rốt, hành tây, dưa chuột, dưa lê... Ước tính mỗi năm, Việt Nam phải chi hơn 200 triệu USD cho hoạt động này. Trong khi đó, không ít công nghệ vẫn đang “kẹt” trong phòng thí nghiệm do thiếu chính sách thúc đẩy phù hợp, điển hình như công nghệ chọn tạo giống rau lai F1. Hiện Việt Nam gần như chưa làm chủ được giống rau lai F1 - yếu tố được ví như “nền móng” của nền nông nghiệp công nghệ cao vì quyết định năng suất, chất lượng và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu.
Đánh giá về vấn đề này, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Sơn, Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho rằng, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp hiện nay còn manh mún, thiếu vườn ươm khởi nghiệp nông nghiệp công nghệ cao quy mô vùng để thử nghiệm mô hình mới trước khi nhân rộng. Công nghệ nội địa còn yếu, chủ yếu phụ thuộc thiết bị, giống, phần mềm từ nước ngoài. Còn thiếu liên kết chặt chẽ giữa viện nghiên cứu - doanh nghiệp - nông dân để chuyển giao tri thức và công nghệ một cách hiệu quả, bền vững.
Do đó, để phát triển nông nghiệp công nghệ cao, điều đầu tiên là phải thay đổi cách tiếp cận chính sách, chuyển từ “khuyến khích” sang “kiến tạo” với cơ chế “mở đường”, chia sẻ rủi ro và thúc đẩy hợp tác nhiều bên... Khi Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi, người dân, doanh nghiệp và nhà khoa học sẽ cùng nhau tạo nên hệ sinh thái nông nghiệp đổi mới sáng tạo.
Để giải quyết những thách thức này, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Sơn gợi mở nhiều hơn đến vai trò của người nông dân. Họ phải là người đồng kiến tạo và hưởng lợi bền vững, phải thật sự làm chủ. Muốn vậy, người nông dân cần trở thành chủ thể tri thức, phải được đào tạo về công nghệ số, thị trường, quản lý kinh tế nông trại; cần xây dựng các chương trình đào tạo thực hành tại chỗ, có sự tham gia của nhà khoa học và doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các mô hình công nghệ cao cũng cần tạo cơ chế hợp tác công bằng, trong đó nông dân góp đất, góp công, cùng vận hành và chia sẻ lợi ích với doanh nghiệp. Hợp tác xã kiểu mới, tổ hợp tác sản xuất ứng dụng công nghệ cao nên được ưu tiên tiếp cận đất đai, tín dụng và kỹ thuật. Hệ thống chuyển giao khoa học, công nghệ phải thân thiện và phù hợp với thực tiễn, thông qua các trạm dịch vụ nông nghiệp cấp xã, huyện... PGS.TS. Nguyễn Ngọc Sơn nhấn mạnh.
Từ 1/7, cơ quan chuyên môn về nông nghiệp và môi trường cấp xã sẽ hoạt động tại Phòng Kinh tế
Theo quy định mới tại Thông tư số 19 do Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành, kể từ ngày 1/7, cơ quan chuyên môn về nông nghiệp và môi trường cấp xã sẽ được tổ chức và đặt trụ sở tại Phòng Kinh tế thuộc UBND xã, phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp.
Thông tư 19 hướng dẫn cụ thể về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan chuyên môn về nông nghiệp và môi trường tại UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng như cấp xã, phường và các đặc khu.
Tại cấp xã, bao gồm các đặc khu hành chính, cơ quan chuyên môn này sẽ trực thuộc và làm việc tại Phòng Kinh tế. Đối với các phường và đặc khu như Phú Quốc, cơ quan tương ứng sẽ là Phòng Kinh tế, Hạ tầng và Đô thị.
Cơ quan chuyên môn về nông nghiệp và môi trường có trách nhiệm tham mưu, hỗ trợ UBND cấp xã trong công tác quản lý nhà nước tại địa phương đối với các lĩnh vực: đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, bảo vệ môi trường, quản lý biển và hải đảo; phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, thủy lợi; phòng chống thiên tai; phát triển nông thôn và giảm nghèo bền vững; bảo đảm an toàn thực phẩm nông sản; phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại và bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống.
Ngoài ra, Phòng Kinh tế (hoặc Phòng Kinh tế, Hạ tầng và Đô thị) sẽ đảm nhận việc tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án và dự án liên quan, cũng như triển khai áp dụng các tiêu chuẩn quốc gia trong lĩnh vực chuyên môn.
Riêng đối với lĩnh vực quản lý đất đai, Phòng Kinh tế (hoặc tương đương) có trách nhiệm tham mưu và hỗ trợ UBND cấp xã trong việc đóng góp ý kiến về quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh, đồng thời tham mưu cho Chủ tịch UBND cấp xã trong các quyết định liên quan đến thu hồi đất, phương án bồi thường - hỗ trợ - tái định cư, xác định giá đất cụ thể, cũng như việc giao đất hoặc cho thuê đất.
Việc kiện toàn tổ chức và xác định rõ chức năng của cơ quan chuyên môn về nông nghiệp và môi trường cấp xã theo Thông tư 19 được kỳ vọng sẽ nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, thúc đẩy phát triển bền vững và đồng bộ từ cơ sở.
Để hình thành các vùng nông thôn giàu đẹp, đáng sống
Trước khi có Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) của Chính phủ, Đồng Nai đã nằm trong tốp đầu cả nước về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Cụ thể, tỉnh đã đầu tư, hỗ trợ các địa phương trong triển khai, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất nông nghiệp để tăng năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Vì vậy, thu nhập của nông dân từ chăn nuôi, trồng trọt liên tục tăng và đời sống của người dân vùng nông thôn được nâng cao.
Khi Chính phủ ban hành Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng NTM, Đồng Nai đã chọn khâu đột phá từ sản xuất nông nghiệp. Theo đó, tỉnh đã yêu cầu mỗi địa phương tùy theo điều kiện về đất đai, khí hậu chọn ra các cây trồng, vật nuôi chủ lực để ưu tiên đầu tư, ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất, khuyến khích nông dân tham gia đổi mới sáng tạo. Vì vậy, nhiều địa phương đã tìm ra được những mô hình, giải pháp hay trong sản xuất. Đơn cử, huyện Định Quán đã đưa điện ra đồng, giúp nông dân chủ động nguồn nước tưới để tăng vụ. Nếu như trước đây nông dân chỉ sản xuất 1-2 vụ/năm và dựa vào nước mưa thì khi có điện ra đồng, nông dân sản xuất 3 vụ/năm, lợi nhuận tăng gấp 1,5-3 lần. Có thu nhập cao, nông dân cùng nhau đóng góp xây dựng hạ tầng kỹ thuật nên đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện. Từ đó, hình thành các miền quê xanh, sạch, giàu, đẹp.
Tương tự, từ một địa phương khó khăn, huyện Xuân Lộc đã chọn đột phá từ phát triển nông nghiệp. Huyện đã đồng hành cùng nông dân trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nhân rộng những mô hình sản xuất hay, hiệu quả cao. Nông dân đã sử dụng giống mới năng suất cao, nhiều khâu trong sản xuất đã được cơ giới hóa giảm công lao động. Vì thế, doanh thu từ sản xuất nông nghiệp tăng cao, có nhiều nông dân thu từ 200-400 triệu đồng/hécta/năm. Xuân Lộc cũng nổi tiếng cả nước vì có những mô hình hay như trồng bắp cho năng suất 10 tấn/hécta/năm, tiêu 8 tấn/hécta/năm… Có những nông dân được mệnh danh là “vua bắp, vua tiêu”. Đây là nền móng cho Xuân Lộc luôn đi đầu tỉnh, cả nước trong xây dựng NTM, NTM nâng cao và NTM kiểu mẫu.
Riêng giai đoạn 2021-2025, Đồng Nai đã đầu tư hơn 170 ngàn tỷ đồng vào phát triển sản xuất nông nghiệp để hình thành các vùng sản xuất hàng hóa, đủ điều kiện xuất khẩu. Có những mô hình nông nghiệp ở Đồng Nai cho thu nhập 600-800 triệu đồng/hécta/năm. Nông nghiệp luôn là một trong những trụ đỡ quan trọng trong phát triển kinh tế nên tỉnh Đồng Nai mới sẽ tiếp tục ưu tiên đầu tư để hình thành các vùng nông thôn giàu đẹp, đáng sống.
Đẩy mạnh liên kết để xóa đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp xanh ở Tuyên Quang
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp và áp lực cạnh tranh thị trường ngày càng khốc liệt, mô hình HTX tại tỉnh Tuyên Quang đang khẳng định vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy liên kết sản xuất, tạo việc làm bền vững và xóa đói giảm nghèo.
Với hơn 600 HTX hoạt động trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là nông nghiệp, kinh tế hợp tác đang trở thành trụ cột trong tiến trình phát triển nông thôn mới và xây dựng nền nông nghiệp xanh, tuần hoàn, có giá trị gia tăng cao tại nhiều địa phương tỉnh Tuyên Quang.
Liên kết sản xuất – chìa khóa vượt nghèo
Toàn tỉnh Tuyên Quang hiện có 615 HTX với hơn 13.000 thành viên, vốn điều lệ trên 2.400 tỷ đồng. Thu nhập bình quân của thành viên và người lao động đạt khoảng 54 triệu đồng/người/năm.
Trong số đó, nhiều HTX đang phát triển theo hướng liên kết chuỗi, đẩy mạnh cơ giới hóa, chế biến sâu và tiêu thụ nông sản theo hợp đồng – bước chuyển mạnh từ sản xuất manh mún sang làm kinh tế hàng hóa.
Liên kết trong sản xuất giúp nông dân, HTX ở Tuyên Quang nâng cao nội lực, gia tăng thu nhập.
Một ví dụ tiêu biểu là HTX Nông sản hữu cơ Bình Minh (xã Tứ Quận, huyện Yên Sơn) do anh Trần Việt Côi sáng lập. Với tầm nhìn phát triển bền vững, HTX đã lựa chọn trồng cây dược liệu và cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như ba kích, cà gai leo, khôi nhung, xạ đen...
Trên diện tích khoảng 21 ha, HTX không chỉ tổ chức sản xuất mà còn đẩy mạnh chế biến. Nhờ nguồn hỗ trợ 100 triệu đồng từ Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp tỉnh, năm 2023 HTX đầu tư dây chuyền sản xuất trà túi lọc từ hạt đậu đen – sản phẩm đã tìm được chỗ đứng trên thị trường.
HTX đã tạo việc làm ổn định cho 15 lao động, thu nhập bình quân 5–7 triệu đồng/tháng, đồng thời hỗ trợ hàng chục hộ trồng đậu đen, cây dược liệu tại Tứ Quận và các xã lân cận với tổng doanh thu hàng năm khoảng 7 tỷ đồng.
Lợi nhuận sau thuế của HTX đạt bình quân trên 900 triệu đồng, đóng góp ngân sách trên 700 triệu đồng mỗi năm – một minh chứng cho hiệu quả của mô hình kinh tế hợp tác, HTX khi được định hướng đúng đắn.
Sản xuất xanh – hướng đi tất yếu
Trong khi đó, tại huyện Sơn Dương, HTX Chăn nuôi và sản xuất giống gia cầm Minh Tâm (xã Tú Thịnh) cũng đang triển khai mô hình chuỗi kép, gồm liên kết sản xuất giống gia cầm và tiêu thụ dưa chuột.
Giám đốc HTX Trần Văn Phúc cho biết, từ quy mô ban đầu 16 thành viên, hiện HTX đã mở rộng liên kết với trên 1.200 hộ trồng dưa chuột tại 170 ha, cung ứng giống, phân bón, kỹ thuật và bao tiêu toàn bộ sản phẩm. Nhờ chuỗi giá trị khép kín, mỗi năm HTX mang lại doanh thu trên 2,8 tỷ đồng, lãi ròng hơn 1 tỷ đồng – giúp hàng trăm hộ dân thoát nghèo bền vững.
Không chỉ tập trung vào sản xuất hàng hóa, các HTX ở Tuyên Quang đang chủ động thích ứng với xu hướng sản xuất xanh và tuần hoàn, nhằm tạo ra giá trị gia tăng cao mà vẫn bảo vệ được môi trường sinh thái. Đi đầu xu hướng này là HTX Dịch vụ sản xuất nông nghiệp Sử Anh (xã Mỹ Bằng, huyện Yên Sơn).
HTX do ông Nguyễn Công Sử sáng lập hiện đã nâng diện tích sản xuất chè lên gần 100 ha, toàn bộ áp dụng tiêu chuẩn VietGAP, liên kết sản xuất với hơn 100 hộ tại các huyện Yên Sơn, Sơn Dương, Hàm Yên và thành phố Tuyên Quang.
HTX cũng tiên phong đưa các giống chè cao cấp như Ngọc Thúy, Bát Tiên vào trồng thay thế chè truyền thống, hướng đến sản xuất hữu cơ và chinh phục phân khúc thị trường cao cấp.
Với việc đầu tư bài bản, HTX Sử Anh không chỉ nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế, mà còn tạo việc làm ổn định cho hơn 30 lao động tại địa phương. Đây là điển hình về cách chuyển đổi xanh gắn liền với mục tiêu xóa đói giảm nghèo một cách bền vững.
Cùng với thúc đẩy liên kết, ngành nông nghiệp Tuyên Quang định hướng phát triển theo hướng an toàn sinh thái.
Cũng đạt được những thành công ấn tượng, HTX Sản xuất thực phẩm an toàn Sáng Nhung (huyện Sơn Dương) đang phát triển mô hình sản xuất tuần hoàn.
Giám đốc Nguyễn Ngọc Sáng cho biết HTX hợp tác với một doanh nghiệp Hàn Quốc để sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh từ chất thải chăn nuôi. Phân bón này sẽ được sử dụng để trồng rau củ quả, sau đó HTX tiếp tục thu mua, chế biến thức ăn chăn nuôi từ chính nguồn nguyên liệu này, khép kín chuỗi giá trị.
Dự án có mức đầu tư lên tới 30 tỷ đồng, công suất 30 tấn/ngày – khi đi vào hoạt động sẽ là mô hình kinh tế tuần hoàn quy mô đầu tiên của tỉnh. HTX cũng đặt mục tiêu đưa sản phẩm thịt lợn thảo dược lên chuẩn OCOP 5 sao, tiếp cận thị trường cao cấp trong và ngoài nước.
Đồng hành từ chính sách đến hành động
Đằng sau thành công của các HTX tiêu biểu là sự đồng hành từ các cấp chính quyền, đặc biệt là Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Tuyên Quang.
Trong thời gian qua, nhiều chương trình hỗ trợ vốn vay ưu đãi, đào tạo nghề, chuyển giao khoa học kỹ thuật, xúc tiến thương mại từ Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Tuyên Quang đã được triển khai đồng bộ. Các HTX tại Tuyên Quang liên tục được tham gia hội chợ, kết nối cung cầu, định hướng xây dựng sản phẩm đạt chuẩn OCOP, VietGAP, hữu cơ…
Bên cạnh đó, nhiều chương trình tập huấn, hội thảo nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ HTX, chủ hộ kinh doanh cũng được Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Tuyên Quang triển khai đều đặn. Những nội dung như xây dựng tour tuyến, marketing du lịch nông nghiệp, ứng dụng công nghệ số, quản trị nhân lực... đang giúp các HTX chuyển đổi tư duy từ sản xuất nhỏ lẻ sang cách làm chuyên nghiệp.
Không dừng lại ở đó, Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Tuyên Quang còn đẩy mạnh tổ chức các buổi đối thoại, tháo gỡ khó khăn về cơ chế, chính sách cho HTX, đặc biệt là trong lĩnh vực du lịch nông thôn – một lĩnh vực còn tương đối mới và thiếu hành lang pháp lý rõ ràng.
Có thể thấy, liên kết sản xuất không chỉ tạo ra chuỗi giá trị hiệu quả, mà còn là con đường ngắn nhất để người nông dân Tuyên Quang vươn lên thoát nghèo, làm giàu. Những mô hình như HTX Bình Minh, Minh Tâm, Sử Anh hay Sáng Nhung đang cho thấy vai trò dẫn dắt của HTX trong kiến tạo sinh kế, đổi mới nông nghiệp và xây dựng nông thôn hiện đại, xanh, thân thiện với môi trường.
Khi chính sách đã rộng mở và thực tiễn đang tạo đà bứt phá, kỳ vọng về một diện mạo nông thôn mới tại Tuyên Quang – nơi nông dân không chỉ đủ ăn, đủ mặc mà còn làm chủ thị trường – không còn là điều quá xa vời.
Nông nghiệp tạo không gian sống chất lượng cao
Trong bối cảnh tốc độ đô thị hóa nhanh, diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, Thủ đô Hà Nội không đặt mục tiêu phát triển nông nghiệp theo số lượng, mà hướng đến những giá trị bền vững, đặc trưng, hài hòa với quy hoạch đô thị và mục tiêu bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng sống của người dân...
Mô hình trồng rau tại Nông trại hữu cơ Gen Xanh (xã Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ) cho hiệu quả kinh tế cao.
Hiệu quả từ những mô hình sản xuất sạch
Tại xã Hiệp Thuận (huyện Phúc Thọ), mô hình Nông trại hữu cơ Gen Xanh là minh chứng rõ nét cho hướng đi bền vững của nông nghiệp Thủ đô. Trang trại không chỉ cung cấp các loại rau hữu cơ chất lượng cao, mà còn tạo niềm tin với người tiêu dùng đến mức luôn trong tình trạng “cung không đủ cầu”. Ông Nguyễn Đức Chinh, người sáng lập nông trại chia sẻ: “Ổi hữu cơ của chúng tôi có giá 40.000 đồng/kg, giá bán cao gấp nhiều lần so với sản phẩm thông thường ngoài chợ, nhưng khách vẫn đặt hàng trước cả tuần. Với mô hình hữu cơ, chúng tôi không phụ thuộc giá thị trường bởi rau củ, trái cây sạch ngày càng được ưu tiên lựa chọn vì sức khỏe”.
Cũng sản xuất theo hướng hữu cơ, Nông trại hữu cơ Tuệ Viên (quận Long Biên) trồng rau theo phương pháp tự nhiên, sử dụng phân hữu cơ từ rơm rạ, vỏ trấu, phụ phẩm chăn nuôi. Chị Nguyễn Thanh Phương, phụ trách kinh doanh trang trại cho biết, với diện tích rộng hơn 2ha, chúng tôi chuyên trồng rau củ theo mùa. Quá trình canh tác hoàn toàn không sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu hóa học… Đáng chú ý, nắm bắt xu hướng sống xanh, khai thác lợi thế có vùng sản xuất sạch nằm ngay trung tâm thành phố, những năm gần đây, trang trại đã mở dịch vụ đón khách tham quan, trải nghiệm sản xuất nông nghiệp. Hiện, mỗi tháng, trang trại đón hàng chục đoàn khách chủ yếu là học sinh mầm non, tiểu học các trường trên địa bàn Hà Nội và các gia đình sống ở trung tâm thành phố.
Theo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội Nguyễn Xuân Đại, tuy chỉ chiếm khoảng 2% trong cơ cấu kinh tế của Thủ đô, nhưng nông nghiệp Hà Nội luôn nằm trong tốp đầu cả nước về quy mô, giá trị sản xuất và mức độ phát triển. Đặc biệt, gần đây, định hướng nông nghiệp của Hà Nội đã có bước chuyển mạnh mẽ sang mô hình xanh - tuần hoàn, phục vụ nhóm người tiêu dùng có yêu cầu cao về chất lượng và truy xuất nguồn gốc thực phẩm. “Thay vì hướng tới đáp ứng toàn bộ nhu cầu về thực phẩm, Hà Nội xác định liên kết vùng để bổ trợ cho nông sản (thịt lợn, bò, trâu...); chủ động sản xuất các mặt hàng thế mạnh như trứng gà, rau sạch, gạo đặc sản, cây cảnh... đáp ứng nhu cầu của thành phố và xuất khẩu”, ông Nguyễn Xuân Đại cho biết.
Tạo không gian xanh cho đô thị
Mới đây, báo cáo với Đoàn thẩm định của Trung ương về kết quả xây dựng nông thôn mới của Thủ đô, Phó Chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Mạnh Quyền thông tin, Hà Nội phấn đấu đến năm 2025, tỷ lệ sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm khoảng 70% tổng sản phẩm nông nghiệp toàn thành phố. Tuy nhiên, với quan điểm thận trọng và bền vững, thành phố đã điều chỉnh theo hướng cân bằng giữa hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường, chú trọng đến giá trị sinh thái, cảnh quan và nhu cầu tiêu dùng xanh của cư dân đô thị... “Nếu phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao sẽ phải xây dựng các nhà màng, nhà lưới, trong khi bài học tại tỉnh Lâm Đồng cho thấy, mô hình này ảnh hưởng không tốt cho môi trường, khí hậu. Để hạn chế điều này, Hà Nội lựa chọn một số khu vực phù hợp để phát triển nhà màng, nhà kính; còn lại chuyển hướng ưu tiên cho nông nghiệp sinh thái - hữu cơ gắn với du lịch”, Phó Chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Mạnh Quyền nhấn mạnh.
Cũng theo Phó Chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Mạnh Quyền, thay vì tập trung tăng năng suất và sản lượng, Hà Nội chú trọng phát triển nông nghiệp sinh thái - hữu cơ - "mùa nào thức ấy" kết hợp du lịch trải nghiệm để gia tăng giá trị. Đây là lựa chọn phù hợp cho đô thị đặc biệt như Hà Nội - nơi người dân nội đô và du khách có nhu cầu rất lớn về du lịch nghỉ dưỡng cuối tuần. Phát triển các mô hình nông nghiệp xanh, tuần hoàn, sử dụng phụ phẩm nông nghiệp làm phân hữu cơ, giảm phát thải carbon, tái sử dụng tài nguyên cũng là hướng đi phù hợp với xu thế toàn cầu và mục tiêu phát triển bền vững của Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Theo đó, Hà Nội quy hoạch 7 vùng trồng lúa với diện tích từ 200ha đến 500ha mỗi vùng, phục vụ nghiên cứu và phát triển giống lúa đặc sản, trong đó, phối hợp với Học viện Nông nghiệp Việt Nam nghiên cứu sản xuất giống lúa cho hạt gạo không khiến người dùng tăng cân, không ảnh hưởng đến đường huyết, hướng đến phân khúc tiêu dùng cao cấp. Thành phố hiện có khoảng 5.000ha trồng lúa kém hiệu quả do khó khăn về thủy lợi, đang được chuyển đổi sang mô hình trồng cây ăn quả, hoa, cây đô thị để phục vụ cảnh quan, dịch vụ. Những vùng trũng, khó tưới tiêu sẽ được quy hoạch điều hòa nước, tạo không gian xanh cho phát triển đô thị.
Hà Nội phấn đấu, nông nghiệp không chỉ là nơi sản xuất lương thực, thực phẩm mà còn tạo không gian sống chất lượng cao, gia tăng giá trị và góp phần định hình bản sắc sống xanh cho Thủ đô.
Triển khai đề án trồng trọt phát thải thấp giai đoạn mới
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xây dựng đề án trồng trọt phát thải thấp giai đoạn 2025–2030, hướng đến giảm phát thải và phát triển nền nông nghiệp bền vững.
Ảnh minh họa.
Ngày 26/6, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung đã chủ trì buổi làm việc nhằm thảo luận về Đề án sản xuất trồng trọt phát thải thấp trong giai đoạn 2025–2030.
Đề án được xây dựng nhằm định hướng triển khai cho các cơ quan trung ương và địa phương, với trọng tâm là áp dụng các quy trình canh tác giảm phát thải và thiết lập hệ thống công cụ đo đếm phát thải hiệu quả. Đây được xem là hai yếu tố cốt lõi trong việc hiện thực hóa mục tiêu trồng trọt thân thiện với môi trường.
Theo bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt – Bảo vệ thực vật, một số mục tiêu đang được đề xuất trong dự thảo đề án bao gồm: đến năm 2030, ngành trồng trọt sẽ giảm được 30% lượng khí metan (CH₄) và ít nhất 10% tổng lượng phát thải khí nhà kính so với mức phát thải năm 2020. Kết quả này được kỳ vọng đạt được thông qua việc áp dụng các giải pháp kỹ thuật phù hợp với từng vùng sinh thái và nhóm cây trồng cụ thể.
Ngoài ra, diện tích trồng trọt áp dụng các biện pháp canh tác giảm phát thải sẽ đạt tối thiểu 2,5 triệu ha, ưu tiên tại những vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Đề án cũng đặt mục tiêu hình thành cơ sở dữ liệu về phát thải khí nhà kính theo từng loại cây trồng, vùng sinh thái và biện pháp kỹ thuật nhằm phục vụ công tác kiểm kê và phát triển thị trường carbon trong tương lai.
Song song đó, hệ thống tài liệu truyền thông và phổ biến kiến thức sẽ được xây dựng nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi hành vi sản xuất của nông dân theo hướng giảm phát thải. Các lớp tập huấn, đào tạo kỹ thuật, chính sách và phương pháp đo phát thải sẽ được tổ chức rộng rãi cho cán bộ kỹ thuật, khuyến nông và người dân trên phạm vi cả nước.
Phát biểu tại buổi làm việc, Thứ trưởng Hoàng Trung nhấn mạnh rằng phát triển sản xuất trồng trọt theo hướng giảm phát thải là một phần trong mục tiêu quốc gia đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Tuy nhiên, hiện nay lĩnh vực này mới chỉ được triển khai thông qua một số chương trình và dự án nhỏ, chưa thực sự có tính hệ thống và chiều sâu.
Một trong những trở ngại lớn hiện nay, theo lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, là việc thiếu hành lang pháp lý rõ ràng và công cụ đo đếm phát thải phù hợp. Bên cạnh đó, nhận thức của người dân, doanh nghiệp và cán bộ địa phương về sản xuất trồng trọt phát thải thấp vẫn còn hạn chế. Thứ trưởng cho rằng: “Việc xây dựng thương hiệu nông sản phát thải thấp sẽ không chỉ đóng góp vào mục tiêu quốc gia, mà còn lan tỏa tinh thần trách nhiệm của ngành nông nghiệp với môi trường và với thế hệ tương lai”.
Ông Hoàng Trung cũng lưu ý rằng nhiều loại cây trồng lâu năm, đặc biệt là cây công nghiệp và cây ăn quả, có khả năng hấp thụ CO₂. Do đó, cần tính toán chính xác chênh lệch giữa phát thải và hấp thụ khí nhà kính, theo từng giai đoạn sinh trưởng, để xây dựng quy trình sản xuất phù hợp và hiệu quả hơn.
Theo Thứ trưởng, giải pháp căn bản là thay đổi quy trình canh tác và giảm lượng vật tư đầu vào. Trong lộ trình thực hiện, nên tập trung trước tiên vào các loại cây trồng chủ lực, đặc biệt là cây lúa, để làm mẫu triển khai bài bản, sau đó mới nhân rộng sang các nhóm cây trồng khác.
Thứ trưởng Hoàng Trung khẳng định, cần làm rõ thực tế rằng Việt Nam đang từng bước chuyển sang mô hình sản xuất trồng trọt giảm phát thải. Đây là điều kiện để tăng cường truyền thông, nâng cao nhận thức xã hội và tạo đồng thuận trong toàn ngành.
“Tham gia vào quá trình sản xuất giảm phát thải không chỉ thể hiện trách nhiệm với các cam kết NDC quốc gia mà còn giúp nâng cao hiệu quả kinh tế thông qua việc giảm chi phí đầu vào và xây dựng thương hiệu nông sản Việt Nam thân thiện với môi trường”, Thứ trưởng nói.
Ông kỳ vọng khi cả hệ thống chính sách và người nông dân cùng hành động vì mục tiêu chung, trồng trọt giảm phát thải sẽ trở thành một xu thế chủ đạo, từ đó mở rộng cơ hội hợp tác, tiếp cận tài chính và công nghệ từ các tổ chức quốc tế.
Hà Nội xây dựng nông nghiệp xanh, tài nguyên bền vững
Đảng bộ Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội cần lãnh đạo đơn vị quản lý chặt chẽ, sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, khoáng sản,...
Nhiệm kỳ 2020-2025, Đảng ủy, Ban Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội xác định nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành, tập trung lãnh đạo, tham mưu, triển khai thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025, Chương trình số 04 của Thành ủy.
Hà Nội là địa phương dẫn đầu cả nước trong phong trào xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao và kiểu mẫu. Các chỉ tiêu xây dựng nông thôn mới đều vượt kế hoạch đề ra, hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới cấp thành phố trước một năm so kế hoạch.
Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy UBND thành phố Hà Nội, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy UBND Thành phố Phùng Khải Lợi đã biểu dương kết quả của Đảng bộ Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội trong nhiệm kỳ qua; đồng thời đề nghị Đảng bộ cơ quan Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội lãnh đạo đơn vị tiếp tục quản lý chặt chẽ, sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tăng cường kiểm soát xử lý vi phạm đất đai, bảo đảm kỷ cương trong quản lý đất đai; tham mưu đồng bộ các giải pháp bảo vệ môi trường, kiểm soát ô nhiễm không khí, nguồn nước, thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn, phát triển đô thị xanh.
Quảng Ngãi phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn gắn với trải nghiệm
Quảng Ngãi đặt mục tiêu xây dựng NTM hiện đại, toàn diện và bền vững. Thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng, sinh thái và trải nghiệm nông nghiệp, đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số trong phát triển dịch vụ du lịch.
Quang cảnh hội nghị
Ngày 26.6, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Trần Phước Hiền chủ trì Hội nghị Tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025.
Trong giai đoạn 2021 - 2025, chương trình xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần đổi thay diện mạo nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân.
Toàn tỉnh có 3 huyện là đạt chuẩn nông thôn mới, 98/144 xã đạt chuẩn, tỷ lệ hơn 68%, trong đó, 12 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 95 thôn được công nhận khu dân cư nông thôn kiểu mẫu.
Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” OCOP được triển khai hiệu quả, với 350 sản phẩm OCOP, trong đó, có 2 sản phẩm đạt 5 sao là Tỏi Lý Sơn và Mạch nha Quảng Ngãi, 16 sản phẩm 4 sao và 332 sản phẩm 3 sao.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Trần Phước Hiền phát biểu
Phát biểu kết luận hội nghị, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Phước Hiền nhấn mạnh, bước vào giai đoạn 2026-2035, tỉnh Quảng Ngãi và cả nước sẽ triển khai mô hình tổ chức bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp, không còn cấp huyện. Đây là bước chuyển đổi lớn, yêu cầu chúng ta phải chủ động đổi mới tư duy lãnh đạo, điều hành, phương thức triển khai thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM theo hướng rõ trách nhiệm, tăng cường năng lực cho cấp xã – cấp trực tiếp tổ chức thực hiện.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động, tạo sự chuyển biến thực sự về nhận thức cho cán bộ các cấp và người dân về mục tiêu, ý nghĩa Chương trình. Thực hiện đồng bộ Chương trình xây dựng NTM với Chương trình giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội vùng nông thôn.
Các xã sau khi sáp nhận khẩn trương kiện toàn Ban Chỉ đạo, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trong thực hiện Chương trình. Định hướng các xã xây dựng kế hoạch lộ trình xã nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao theo bộ tiêu chí mới giai đoạn 2026-2035.
Chỉ đạo rà soát, điều chỉnh quy hoạch xây dựng nông thôn cấp xã theo đơn vị hành chính mới, phù hợp với quy hoạch tỉnh và các quy hoạch ngành, lĩnh vực có liên quan. Thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại, giá trị gia tăng cao, bền vững.
Ưu tiên hỗ trợ mô hình sản xuất hiệu quả cho hộ nghèo, cận nghèo, phụ nữ và đồng bào dân tộc thiểu số.
Quảng Ngãi phát triển du lịch cộng đồng, sinh thái và trải nghiệm nông nghiệp
Phát triển sản phẩm OCOP theo hướng chất lượng, đặc trưng, thân thiện với môi trường, gắn với đẩy mạnh chế biến, khai thác tiềm năng, lợi thế và giá trị văn hóa địa phương. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của các chủ thể OCOP, đặc biệt là hợp tác xã và kinh tế tư nhân.
Thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng, sinh thái và trải nghiệm nông nghiệp, đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số trong phát triển dịch vụ du lịch.
Dịp này, 16 tập thể và cá nhân đã được nhận Bằng khen của UBND tỉnh về thành tích xuất sắc trong phong trào “Quảng Ngãi chung sức xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2021-2025.
Hơn 1.000 sản phẩm nông sản, đặc sản trưng bày, bán tại Festival nông sản Hà Nội lần thứ 4
Có hơn 1.000 dòng sản phẩm nông sản, sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tự nhiên, đặc sản vùng miền, thực phẩm chế biến, sản phẩm OCOP, sản phẩm thủ công mỹ nghệ của thành phố Hà Nội có tiêu chuẩn, nguồn gốc xuất xứ rõ ràng; đầy đủ bao bì, nhãn mác được trưng bày, bán tại Festival.
Rất đông du khách tới tham qua và mua sắm các sản phẩm tại Festival. Ảnh: Hương Giang
Tối 26-6, tại vườn hoa Lạc Long Quân, phường Nhật Tân (quận Tây Hồ), Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội phối hợp với UBND quận Tây Hồ tổ chức chương trình "Festival nông sản Hà Nội lần thứ 4 - năm 2025". Festival nông sản Hà Nội lần thứ 4 được tổ chức từ ngày 26-6 đến ngày 29-6.
Sự kiện được tổ chức nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất các sản phẩm làng nghề, sản phẩm thuộc Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP), sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu của thành phố Hà Nội và các tỉnh, thành phố trong cả nước, góp phần quảng bá các nét văn hóa ẩm thực đặc trưng vùng miền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội Thủ đô nói riêng và cả nước nói chung...
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội Nguyễn Đình Hoa phát biểu khai mạc Festival nông sản Hà Nội lần thứ 4. Ảnh: Hương Giang
Phát biểu khai mạc Festival, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội Nguyễn Đình Hoa cho biết, đây là sự kiện xúc tiến thương mại nông nghiệp quan trọng đã được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2022. Tiếp nối thành công từ các năm trước, Festival nông sản Hà Nội lần thứ 4 tiếp tục là cơ hội để các đơn vị, doanh nghiệp tham gia quảng bá sâu rộng thương hiệu, từng bước tiếp cận hệ thống phân phối, bán lẻ hiện đại, xúc tiến, tìm đầu ra cho các sản phẩm nông nghiệp của Hà Nội và các tỉnh, thành phố.
Các đại biểu tham quan gian hàng trưng bày, giới thiệu tại Festival nông sản Hà Nội lần thứ 4. Ảnh: Hương Giang.
Festival nông sản Hà Nội lần thứ 4 - năm 2025 được tổ chức với các không gian trình diễn, quảng bá sản phẩm làng nghề, OCOP của Hà Nội và khoảng 120 gian hàng của gần 100 doanh nghiệp đến từ 25 tỉnh, thành phố: Phú Thọ, Ninh Bình, Cần Thơ, Lào Cai, Tuyên Quang, Hưng Yên, Đà Nẵng, Thái Nguyên, Yên Bái, Sơn La, Quảng Ninh, Hải Phòng,... Đặc biệt, có hơn 1.000 dòng sản phẩm nông sản, sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tự nhiên, đặc sản vùng miền, thực phẩm chế biến, sản phẩm OCOP, sản phẩm thủ công mỹ nghệ của thành phố Hà Nội có tiêu chuẩn, nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng; đầy đủ bao bì, nhãn mác được trưng bày, bán tại Festival.
Toàn bộ không gian Festival được thiết kế đẹp mắt, dàn dựng hoàn toàn trong không gian mở với nhiều mô hình, tiểu cảnh quảng bá văn hóa, du lịch nông nghiệp, nông thôn của Hà Nội; cùng rất nhiều nội dung, hoạt động phong phú để người dân trải nghiệm, dùng thử sản phẩm và tham gia.
Các đại biểu cắt băng khai mạc Festival nông sản Hà Nội lần thứ 4. Ảnh: Hương Giang
Ngoài ra, Liên minh Hợp tác xã thành phố còn phối hợp tổ chức phiên chợ cuối tuần, quảng bá nông sản, thực phẩm chế biến do các hợp tác xã sản xuất với khoảng 20 gian hàng nhằm quảng bá, kết nối và xúc tiến tiêu thụ sản phẩm cho các hợp tác xã đến với người tiêu dùng Thủ đô.
Trong các ngày diễn ra Festival, nhiều hoạt động bên lề cũng được tổ chức, nhằm thu hút khách tham quan, như: Hoạt động quảng diễn sản phẩm nghề truyền thống, sản phẩm OCOP; hoạt động trình diễn văn hóa truyền thống, ẩm thực, đặc trưng vùng miền; kết nối dùng thử sản phẩm tại gian hàng; check-in tại các khu tiểu cảnh...
Bang Penang (Malaysia) thúc đẩy nông nghiệp truyền thống kết hợp hiện đại
Nông nghiệp là lĩnh vực đang đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội tại bang Penang ở Malaysia. Trong những năm gần đây, các sáng kiến nông nghiệp cộng đồng đã được xây dựng theo hướng bền vững nhằm vừa đáp ứng nhu cầu bảo vệ môi trường, vừa đảm bảo an ninh lương thực.
Ông Enzo Sim Hong Jun, chuyên gia tại Viện Nghiên cứu Penang, Malaysia. Ảnh: Thành Trung/TTXVN
Trả lời phỏng vấn phóng viên TTXVN tại Kuala Lumpur, ông Enzo Sim Hong Jun, chuyên gia tại Viện Nghiên cứu Penang cho biết, theo dự báo đến năm 2050 của Liên hợp quốc, khoảng 75% dân số sẽ sinh sống ở các thành phố và 90% sự gia tăng này diễn ra ở khu vực châu Phi và châu Á. Hiện tại, 75% dân số Malaysia sống ở các khu vực thành thị.
Đối với thanh thiếu niên ở nông thôn, việc di cư đến các thành phố lớn mang lại cho họ cơ hội giáo dục và làm việc tốt hơn, song sự bùng nổ dân số ở khu vực đô thị cũng làm gia tăng phụ thuộc vào các khu vực nông thôn và vùng ven để đáp ứng nhu cầu lương thực ngày càng tăng. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng phát triển không bền vững trong dài hạn, đặc biệt là khi gặp khủng hoảng như đại dịch COVID-19 vừa qua, khiến chuỗi cung ứng bị phá vỡ. Nếu không sớm có hành động ứng phó thì các thành phố có nguy cơ chịu một cuộc khủng hoảng tương tự trong tương lai.
Chiến lược phát triển nông nghiệp ở bang Penang của Malaysia có sự khác biệt so với phần lớn các bang còn lại. Mặc dù là một bang có diện tích nhỏ và quá trình đô thị hóa cao, song nông nghiệp ở Penang không chỉ giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp sản phẩm nông nghiệp mà còn đang chuyển đổi mạnh mẽ theo hướng bền vững và thúc đẩy ứng dụng công nghệ cao.
Điểm khác biệt đầu tiên là thay vì tập trung vào các cây công nghiệp quy mô lớn như dầu cọ và cao su, bang Penang đã ưu tiên phát triển các loại cây ăn quả, hoa màu, đặc biệt là giống cây sầu riêng có giá trị cao như Black Thorn và Musang King, qua đó trở thành thương hiệu nổi tiếng để thu hút khách du lịch và mang lại lợi ích về kinh tế. Ngoài ra, các loại rau hữu cơ, gia vị cũng được trồng để đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu.
Hệ thống aquaponics canh tác kết hợp giữa nuôi trồng thủy sản và trồng cây không dùng đất trong một hệ sinh thái tuần hoàn, khép kín. Ảnh: TTXVN phát
Thứ hai, do hạn chế về diện tích, Penang đã tập trung ứng dụng phương pháp nông nghiệp hiện đại như aquaponics - hệ thống canh tác kết hợp giữa nuôi trồng thủy sản (aquaculture) và trồng cây không dùng đất (hydroponics) trong một hệ sinh thái tuần hoàn, khép kín và nông nghiệp trong nhà kính. Những công nghệ này giúp tối ưu hóa không gian, tiết kiệm nước, giảm thiểu sử dụng thuốc trừ sâu và kiểm soát điều kiện sinh trưởng của cây trồng tốt hơn, qua đó không chỉ giúp tăng năng suất mà còn đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng.
Theo đó, Phong trào Nông nghiệp Đô thị Malaysia đã được phát động tại bang Penang từ tháng 9/2019, với dự án thí điểm Kebun Kita(R) được khởi xướng trên cơ sở thông tin, dữ liệu từ Thư viện Kỹ thuật số Penang. Thông qua chương trình này, 60% sản phẩm thu hoạch được sẽ được gửi đến cộng đồng B40 (nhóm thu nhập thấp) của bang và phần còn lại sẽ được bán ra công chúng để trang trải chi phí hoạt động. Ngoài ra, các trang trại cũng đóng vai trò là trung tâm giáo dục để người dân tìm hiểu về công nghệ và ý tưởng mới của nông nghiệp đô thị. Tin tưởng vào những lợi ích của mô hình Kebun Kita(R), Thủ hiến bang Chow Kon Yeow đã công bố kế hoạch đầy tham vọng nhằm thành lập thêm 100 trang trại đô thị tại Penang trong giai đoạn 2020 – 2025.
Dự án Kebun Kita(R), trang trại đô thị tự duy trì đầu tiên của bang Penang, Malaysia. Ảnh: TTXVN phát
Kebun Kita(R) là trang trại đô thị tự duy trì đầu tiên của bang Penang, áp dụng công nghệ tiên tiến do đại học Sư phạm Sultan Idris (UPSI) cung cấp, với các tấm pin mặt trời để sản xuất năng lượng tái tạo, hệ thống tưới tiêu tự động để cung cấp nước liên tục cho cây trồng và hệ thống thủy canh theo hướng thẳng đứng để có thể sử dụng tiết kiệm không gian. Ngoài ra, cây nông nghiệp được trồng trên các luống đất cao nhằm cải thiện khả năng thoát nước, giảm độ nén của đất và giúp rễ cây phát triển khỏe mạnh hơn.
Trang trại cũng áp dụng máy ủ phân hữu cơ (EFWC) nhằm biến rác thải thực phẩm – một trong những tác nhân lớn gây ra biến đổi khí hậu thành phân hữu cơ để sử dụng trong nông nghiệp. Theo đó, EFWC sử dụng vi sinh vật để chuyển đổi rác thải thực phẩm thành phân hữu cơ, với công suất 50kg/4 ngày.
Ngoài ra, hệ thống thủy canh được sử dụng để dẫn nước thải từ các khu nuôi cá để tưới cho cây trồng. Theo đó, cây trồng hoạt động như một bộ lọc nước để đưa nước sạch trở lại các bể cá, giúp tái chế 90% nước so với các phương thức truyền thống. Hệ thống cũng được trang bị cảm biến để đo nhiệt độ và độ ẩm trong quá trình canh tác. Ví dụ, hệ thống tưới tiêu trên luống cao chỉ được kích hoạt khi độ ẩm giảm xuống dưới một mức nhất định, qua đó tiếp kiệm nước hơn so với các trang trại tự động dựa trên bộ máy hẹn giờ, đồng thời được giám sát và vận hành từ xa thông qua các thiết bị thông minh, cho phép người nông dân không cần phải có mặt trực tiếp để quản lý trang trại.
Để giải quyết vấn đề ô nhiễm và thúc đẩy tính bền vững, bà Kam Suan Pheng, chuyên gia về khoa học về đất và bảo vệ môi trường đã đưa ra sáng kiến phục hồi Sungai Kelian để làm sạch dòng sông và thành lập các trang trại ở bên cạnh, theo hình thức canh tác hữu cơ để bảo tồn chất lượng nước, thu hút cộng đồng địa phương tham gia bảo tồn hệ sinh thái và giảm ô nhiễm từ việc đổ chất thải dọc theo sông Sungai Kelian. Việc chất lượng nước và đa dạng sinh học được phục hồi đã tạo điều kiện thuận lợi để người dân địa phương phát triển nông nghiệp và nâng cao nhận thức về các vấn đề môi trường.
Bang Penang đang hướng tới một nền nông nghiệp không chỉ mang lại lợi nhuận mà còn bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, trong đó kết hợp giữa du lịch với hệ sinh thái nông nghiệp, Ngoài ra, việc phát huy thế mạnh của các cây nông nghiệp đặc sản địa phương, tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại theo hướng bền vững và thúc đẩy tái chế là một phần trong chiến lược phát triển hiện nay.