Trong những năm gần đây, tỉnh Tuyên Quang đã có những bước tiến vững chắc trong việc đưa chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Chuyển đổi số trong nông nghiệp không chỉ là câu chuyện của chính quyền mà đã thực sự lan tỏa đến từng hộ dân, từng HTX.
Dấn thân làm nông nghiệp số
Xã Thái Long là một trong những điểm sáng về chuyển đổi số trong nông nghiệp tại TP. Tuyên Quang, với hàng loạt mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao hiệu quả.
Anh Nguyễn Văn Huy, chủ trang trại trồng dưa lưới và rau thủy canh công nghệ Israel tại Thái Long, cho hay ban đầu gia đình anh chỉ canh tác rau màu thông thường, hiệu quả không cao.
Sau này, khi được tiếp cận các lớp tập huấn của cán bộ nông nghiệp tỉnh và được hỗ trợ vay vốn ưu đãi, anh Huy quyết định đầu tư hệ thống nhà kính, tưới nhỏ giọt tự động, điều khiển qua điện thoại thông minh.
Ứng dụng công nghệ cao là chìa khóa giúp nông dân, HTX ở Tuyên Quang làm giàu.
“Đến nay, trang trại rau công nghệ cao của tôi phát triển ổn định, cho năng suất cao, mỗi năm mang lại doanh thu hơn 1,5 tỷ đồng, tạo việc làm thường xuyên cho 6 lao động địa phương với thu nhập ổn định”, anh Huy hồ hởi nói
Không riêng gì anh Huy, nhiều nông dân trẻ ở Tuyên Quang đang mạnh dạn tiếp cận công nghệ, dấn thân vào con đường nông nghiệp số. Điển hình như câu chuyện của chị Lê Thị Nguyệt (xã Vĩnh Lợi, huyện Sơn Dương) với mô hình nuôi gà thảo dược kết hợp livestream bán hàng trên TikTok, Facebook.
Nhờ biết tận dụng công nghệ, mỗi tháng trang trại chăn nuôi của chị Nguyệt bán ra thị trường gần 5.000 con gà, doanh thu đạt gần 400 triệu đồng, tạo việc làm cho hơn 10 phụ nữ nông thôn.
Cùng với sự vươn lên của các hộ nông dân, các HTX, tổ hợp tác trên địa bàn Tuyên Quang cũng đang đóng vai trò nòng cốt trong quá trình chuyển đổi số nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho thành viên, nông dân liên kết.
Đặc biệt, nhiều HTX đã chuyển mình mạnh mẽ từ mô hình truyền thống sang mô hình ứng dụng công nghệ cao, nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp.
Động lực của chuyển đổi số
HTX Nông nghiệp công nghệ cao Tiến Thành (xã Lang Quán, huyện Yên Sơn) là một trong những đơn vị đi đầu trong chuyển đổi số, đóng góp tích cực vào quá trình tạo việc làm cho người dân, phát triển kinh tế xã hội địa phương.
Với diện tích gần 20 ha trồng bưởi, cam, chuối, HTX Tiến Thành đã đầu tư hệ thống tưới tiêu nhỏ giọt, sử dụng máy bay không người lái để phun thuốc bảo vệ thực vật, và đặc biệt là ứng dụng phần mềm quản lý sản xuất, truy xuất nguồn gốc sản phẩm qua QR code. Sản phẩm của HTX hiện đã có mặt trên các sàn thương mại điện tử như Postmart, Voso và nhiều siêu thị lớn tại Hà Nội.
Doanh thu của HTX hiện đạt hơn 6 tỷ đồng/năm, tạo việc làm thường xuyên cho 25 lao động với mức lương bình quân trên 6 triệu đồng/tháng. Việc áp dụng công nghệ giúp HTX kiểm soát chất lượng tốt hơn, tiết kiệm chi phí, đồng thời xây dựng thương hiệu nông sản an toàn, hữu cơ của Tuyên Quang.
Nông nghiệp công nghệ cao là định hướng được tỉnh Tuyên Quang tiếp tục đẩy mạnh.
Không chỉ dừng lại ở khâu sản xuất, nhiều HTX trên địa bàn tỉnh còn mở rộng sang chế biến sâu, gia tăng giá trị sản phẩm. Điển hình như HTX Nông nghiệp Trường Xuân (huyện Chiêm Hóa) với mô hình sản xuất chè hữu cơ là một minh chứng.
Thay vì chỉ bán chè nguyên liệu, HTX Trường Xuân đã đầu tư dây chuyền sao chè, đóng gói chân không, tem truy xuất, thiết kế bao bì đẹp mắt và đưa sản phẩm lên các sàn thương mại điện tử. Doanh thu năm 2024 của HTX đạt hơn 4,2 tỷ đồng, cao gấp 3 lần so với thời điểm chưa chuyển đổi số.
Theo thống kê, toàn tỉnh Tuyên Quang hiện có hơn 460 HTX nông nghiệp, trong đó khoảng 20% đã và đang ứng dụng công nghệ số vào sản xuất.
Đại diện ngành nông nghiệp tỉnh Tuyên Quang cho biết mục tiêu trong năm 2025, ít nhất 50% HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh ứng dụng các nền tảng công nghệ như phần mềm quản lý sản xuất, truy xuất nguồn gốc, kết nối thương mại điện tử và xây dựng vùng nguyên liệu đạt tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP…
Hóa giải thách thức để vươn tầm
Một điểm dễ thấy trong những năm qua là Liên minh HTX Việt Nam cùng Liên minh HTX tỉnh Tuyên Quang đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ thiết thực nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế hợp tác, HTX tại Tuyên Quang. Những hoạt động này không chỉ giúp các HTX nâng cao năng lực sản xuất, mà còn tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng thị trường và nâng cao thu nhập cho thành viên.
Cụ thể, Liên minh HTX Việt Nam cùng Liên minh HTX tỉnh đã tổ chức các chương trình tư vấn, hỗ trợ thành lập mới hàng chục HTX từ năm 2021 đến nay; Phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức hội nghị kết nối cung - cầu tiêu thụ sản phẩm và lễ ký kết hợp đồng đại lý bao tiêu sản phẩm cho 26 HTX, tổ hợp tác với 1 HTX phân phối, bán lẻ…
Trong lĩnh vực phát triển sản phẩm, Liên minh HTX tỉnh đã phối hợp với Trung tâm Khuyến công hỗ trợ kinh phí tư vấn thiết kế mẫu mã bao bì, đóng gói sản phẩm cho 2 HTX là HTX chăn nuôi ong Phong Thổ, TP Tuyên Quang và HTX Dịch vụ sản xuất nông nghiệp Hùng Hậu (Yên Sơn) với tổng số tiền 60 triệu đồng.
Những chương trình hỗ trợ của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Tuyên Quang đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ và tăng thu nhập cho các thành viên HTX và nông dân liên kết trên địa bàn tỉnh.
Những kết quả là rất tích cực, tuy nhiên, quá trình chuyển đổi số trong nông nghiệp ở Tuyên Quang vẫn đối mặt không ít khó khăn. Đa số nông dân còn hạn chế về trình độ công nghệ, hạ tầng số ở một số vùng sâu vùng xa chưa đồng bộ. Nhiều HTX thiếu vốn để đầu tư hệ thống công nghệ bài bản, chưa có nhân lực chuyên trách về công nghệ thông tin.
Để tháo gỡ, tỉnh Tuyên Quang đang đẩy mạnh các chương trình hỗ trợ: từ tổ chức tập huấn, tư vấn mô hình, hỗ trợ thiết bị công nghệ, cho đến liên kết với các doanh nghiệp công nghệ để đưa giải pháp số về với từng hộ sản xuất. Đồng thời, tỉnh cũng tích cực vận động các tổ chức tín dụng, ngân hàng địa phương xây dựng gói tín dụng ưu đãi dành riêng cho nông nghiệp công nghệ cao.
Với sự vào cuộc quyết liệt của các cấp chính quyền, sự chủ động học hỏi của người dân, sự phát triển mạnh mẽ của các HTX tiên phong, Tuyên Quang đang từng bước hiện thực hóa khát vọng xây dựng nền nông nghiệp thông minh, hiện đại, giàu bản sắc và đủ sức cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập.
'Kỳ tích' giảm nghèo của Sóc Sơn
Nhờ sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của các cấp, ban ngành, đặc biệt là việc phát huy các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, chuỗi liên kết... từ một huyện nghèo, có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất và thu nhập trung bình thấp nhất so với các quận, huyện của Thủ đô, Sóc Sơn đã trở thành một trong những địa phương có tốc độ giảm nghèo ấn tượng.
Ngành nông nghiệp của huyện Sóc Sơn đã và đang tiếp cận đến nền nông nghiệp hàng hóa, chất lượng cao, hình thành các vùng sản xuất tập trung, một số sản phẩm có thương hiệu, được liên kết, bao tiêu… Các sản phẩm có thương hiệu như rau hữu cơ, chè an toàn Bắc Sơn, bưởi sạch Sóc Sơn, gà đồi Sóc Sơn đã được thị trường và người tiêu dùng tin tưởng sử dụng.
Mô hình HTX gắn với chuỗi giá trị
Tận dụng địa thế đồi gò, khí hậu mát mẻ, những năm qua, HTX Nông lâm nghiệp Bắc Sơn (huyện Sóc Sơn) đã phát triển mạnh mô hình liên kết sản xuất chè an toàn, chè theo hướng VietGAP. Đây là một trong những mô hình liên kết sản xuất – tiêu thụ nông sản đang phát huy hiệu quả tích cực trên địa bàn huyện Sóc Sơn nhờ có sự tham gia của HTX.
Theo bà Đào Thị Quý, Giám đốc HTX, với việc áp dụng kỹ thuật chăm sóc ngày một cải tiến, HTX thu được khoảng 5 tấn chè tươi/ha. Sản phẩm được sơ chế, đóng gói, dán bao bì, nhãn mác, có truy xuất nguồn gốc rõ ràng.
“Với việc được UBND TP Hà Nội công nhận 4 sao trong Chương trình mỗi xã một sản phẩm, các sản phẩm của HTX hiện nay đã liên kết tiêu thụ được với một số doanh nghiệp, đưa sản phẩm lên các kệ hàng trong các siêu thị, cửa hàng tiện tích…”, bà Quý cho biết.
Thành viên HTX nông lâm nghiệp Bắc Sơn sơ chế nguyên liệu chè.
Hay như chuỗi rau hữu cơ Thanh Xuân, do HTX nông nghiệp Thanh Xuân tổ chức. Đến nay, rau hữu cơ ở xã Thanh Xuân đã được nhiều người tin dùng, mang lại thu nhập cao cho nông dân.
HTX có 26 nhóm với 157 thành viên tham gia sản xuất trên diện tích 34ha, tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc “5 không” trong quá trình trồng rau. Nhờ chất lượng được kiểm soát, mỗi tháng, sản phẩm rau hữu cơ Thanh Xuân tiêu thụ tại thị trường Hà Nội từ 60-80 tấn rau, củ, quả các loại với giá ổn định từ 15.000-20.000 đồng/kg.
Lãnh đạo Hội Nông dân xã Thanh Xuân cho hay, sản xuất hữu cơ đã thay đổi thói quen của người dân trong chăm sóc cây trồng, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật mà thay thế bằng thuốc sinh học. Do thực hiện liên kết theo chuỗi giá trị, nên tiêu thụ rau hữu cơ của xã đều thông qua hình thức hợp đồng thu mua trực tiếp với các siêu thị, cửa hàng tiện ích.
Tại xã Đông Xuân, dưa lê được trồng tập trung và tuân theo quy trình khép kín từ khâu gieo trồng, chăm sóc, đến khâu thu hoạch, sơ chế và tiêu thụ. Ngoài ra, các sản phẩm rau an toàn hay sản phẩm ớt trồng phục vụ xuất khẩu sang Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaysia;…là những mặt hàng nông sản cho hiệu quả kinh tế cao được HTX nông nghiệp Đông Xuân triển khai tới các thành viên trong HTX. Đồng thời, HTX cũng là cầu nối giúp bà con nông dân gắn kết với các doanh nghiệp thu mua.
Góp phần nâng cao thu nhập
Hiện nay, những mô hình liên kết theo chuỗi giá trị như tại HTX Nông lâm nghiệp Bắc Sơn, HTX nông nghiệp Thanh Xuân đã không còn hiếm gặp trên địa bàn huyện Sóc Sơn. Ngoài các HTX sản xuất, nhiều HTX thực hiện thực hiện cung cấp dịch vụ đầu ra, hỗ trợ tích cực cho các thành viên trong khâu tiêu thụ. Một số HTX đã thực hiện tốt vai trò bao tiêu sản phẩm.
Các mô hình liên kết không những nâng cao năng lực quản lý, thành viên HTX cũng yên tâm sản xuất bởi đã có hợp đồng tiêu thụ. Giá trị gia tăng sản phẩm từ 10 - 20% so với khi không có liên kết.
Theo đánh giá của lãnh đạo huyện, hoạt động hợp tác, liên kết sản xuất giữa nông dân với nông dân thông qua HTX đã giúp nhiều hộ nông dân giảm chi phí sản xuất, giảm thiểu các khâu sản xuất, đóng gói, xây dựng nhãn hiệu, giúp tăng khả năng tiếp cận với khoa học kỹ thuật. Qua đó nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu thị trường, từ đó tăng sức cạnh tranh của các mặt hàng nông sản. Đồng thời, tạo cầu nối hỗ trợ lẫn nhau và chia sẻ rủi ro, nhờ đó thiết lập sự cân bằng của quá trình sản xuất, giảm bớt tình trạng được mùa - mất giá.
Bên cạnh đó, hình thức liên kết sản xuất – tiêu thụ nông sản an toàn đang giúp gia tăng giá trị sản phẩm, góp phần quan trọng nâng cao thu nhập cho thành viên các HTX.
Đến nay, sản xuất nông nghiệp của huyện tiếp tục phát triển và xây dựng được nhiều vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh tập trung, như: Vùng trồng lúa chất lượng cao, rau an toàn, rau hữu cơ…; các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, chuỗi liên kết.
Sản phẩm rau, củ, quả của xã Thanh Xuân đã tham gia vào chuỗi liên kết, cho giá trị kinh tế cao.
Trên địa bàn huyện hiện có 146 sản phẩm, nhóm sản phẩm OCOP (bằng 146% chỉ tiêu cả giai đoạn). Các sản phẩm OCOP của huyện đã khẳng định được uy tín, chất lượng, thương hiệu sản phẩm với thị trường, có nhiều hợp đồng liên kết, tiêu thụ sản phẩm được ký kết; bao bì, mẫu mã, chất lượng sản phẩm được các chủ thể coi trọng, sản phẩm thực sự đem lại niềm tin cho người tiêu dùng.
Nhờ đó, đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người toàn huyện năm 2024 đạt 76 triệu đồng.
Không còn hộ nghèo
Bên cạnh việc phát huy các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, chuỗi liên kết, thời gian qua huyện còn hỗ trợ cho hơn 1.100 lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo vay vốn hỗ trợ phát triển sản xuất, phát triển kinh tế với tổng số tiền trên 44 tỷ đồng. Đã hỗ trợ bò sinh sản cho 165 hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn với tổng kinh phí trên 2,8 tỷ đồng.
Không chỉ vậy, huyện còn phối hợp với Liên minh HTX Việt Nam, Liên minh HTX Hà Nội và một số đơn vị thực hiện hỗ trợ các hộ về giống cây trồng, vật nuôi, hỗ trợ tham gia vào các mô hình sản xuất của HTX để phát triển kinh tế.
Ông Nguyễn Văn Hùng, Giám đốc HTX Nông nghiệp Hiền Ninh (xã Hiền Ninh) cho biết, mô hình trồng khoai tây giống mới Atlantic được Trung tâm Khuyến nông Hà Nội hỗ trợ 50% lượng giống, 50% lượng vật tư, phân bón với sự kiểm tra, giám sát của Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp các huyện và Phòng Khuyến nông trồng trọt (Trung tâm Khuyến nông Hà Nội). Tất cả vật tư, phân bón hỗ trợ và đối ứng đều bảo đảm số lượng, đúng tiêu chuẩn, chất lượng, thời gian, thời vụ... Dự kiến, năng suất khoảng 21 tấn/ha, tỷ lệ củ loại 1 chiếm 85-90%. Với giá bán như doanh nghiệp cam kết thu mua là 8.600 đồng/kg (loại 1), doanh thu từ 170-180 triệu đồng/ha, trừ chi phí, lợi nhuận đạt hơn 80 triệu đồng/ha.
Nhờ sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của các cấp, ban ngành, từ một huyện nghèo, có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất và thu nhập trung bình thấp nhất so với các quận, huyện của Thủ đô, Sóc Sơn đã trở thành một trong những địa phương có tốc độ giảm nghèo ấn tượng.
Năm 2021, toàn huyện có 413 hộ nghèo (chiếm tỷ lệ 0,47%), tới năm 2022 giảm còn 290 hộ (0,33%). Cuối năm 2023, con số này giảm về còn 32 hộ (0,04%), huyện còn giảm 735/1.453 hộ cận nghèo. Hết năm 2024, trên địa bàn huyện không còn hộ nghèo.
Thời gian tới, huyện sẽ tiếp tục hỗ trợ nhân rộng các mô hình hiệu quả cao giúp tạo sinh kế bền vững cho người dân, không để tái nghèo. Tuy nhiên, để các liên kết sản xuất - tiêu thụ nông sản phát huy hiệu quả và thật bền vững, rất cần sự chủ động, tích cực của cả nông dân và doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cần hỗ trợ, lựa chọn các HTX, hộ nông dân có đủ điều kiện tham gia chuỗi liên kết nông sản an toàn nhằm thu hút doanh nghiệp cùng tham gia chuỗi.
Hình thành chuỗi liên kết, phát triển hợp tác xã bền vững
Tổ chức liên kết sản xuất thông qua mô hình hợp tác xã (HTX) được coi là giải pháp quan trọng để các địa phương huy động nguồn lực xã hội và tận dụng lao động tại chỗ cho sản xuất, giảm khâu trung gian, hướng đến phát triển nông nghiệp bền vững.
Cây quế đem lại giá trị kinh tế cao cho nông dân tỉnh Yên Bái.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc xây dựng các mô hình sản xuất theo chuỗi không chỉ cho hiệu quả kinh tế cao mà còn giúp nông dân thay đổi phương thức sản xuất, kiểm soát nguồn gốc và gia tăng giá trị sản phẩm.
Những mô hình hiệu quả
Yên Bái là một trong những địa phương sớm hình thành liên kết chuỗi trong sản xuất nông nghiệp. Toàn tỉnh đã xây dựng thành công 7 vùng sản xuất tập trung, như: sản xuất cây nguyên liệu gỗ 90.000 ha; quế 81.000 ha; sơn tra 12.000 ha; cây ăn quả các loại 25.000 ha; măng tre Bát Độ 6.000 ha; cây dược liệu các loại hơn 3.000 ha… cung cấp nguyên liệu ổn định cho hơn 30 doanh nghiệp và hơn 600 HTX chế biến, tiêu thụ nông sản toàn tỉnh.
Thăm HTX Quế hồi Việt Nam tại xã Đào Thịnh, huyện Trấn Yên, được nghe giới thiệu về giá trị gia tăng từ liên kết chuỗi, chúng tôi mới hiểu quyết tâm và hướng đi táo bạo của ban quản trị HTX. Tận dụng lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp cây dược liệu, HTX vận động bà con tham gia trồng quế theo tiêu chuẩn hữu cơ, cam kết thu mua toàn bộ sản phẩm với giá cao hơn giá thị trường từ 6 đến 10%. Hiện HTX tạo việc làm cho khoảng 50-60 lao động thời vụ, bình quân thu nhập khoảng 6 triệu đồng/tháng.
Giám đốc HTX Nguyễn Bá Mão cho biết, nhờ có vùng nguyên liệu ổn định, đơn vị đã xây dựng nhà máy chế biến sản phẩm quế hữu cơ quy mô hơn 14.000 m2, công suất 80-100 tấn quế tươi/tháng, xuất khẩu sang các thị trường Ấn Độ, Trung Đông, Mỹ, EU, Nhật Bản... Từ mối liên kết chuỗi này, HTX kiểm soát tốt chất lượng nguyên liệu đầu vào, đa dạng hóa sản phẩm nhằm tăng sản lượng xuất khẩu.
HTX Rau an toàn Tứ Xã, huyện Lâm Thao (tỉnh Phú Thọ) cũng là mô hình thành công, khi xác định liên kết chuỗi chính là chìa khóa để phát triển bền vững. Thành lập gần 10 năm, đến nay HTX có hơn 50 thành viên và hơn 50 hộ liên kết sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP. Liên kết sản xuất với HTX, nông dân được hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch sản phẩm đúng quy trình, hạn chế rủi ro về dịch bệnh. Rau được ký hợp đồng bao tiêu ổn định với các trường học, doanh nghiệp, siêu thị, cửa hàng tiện ích,... Giám đốc HTX Nguyễn Văn Nghĩa cho biết, liên kết chuỗi giúp thay đổi nhận thức và cách thức sản xuất từ truyền thống sang hiện đại, từ đó nâng cao giá trị nông sản cho bà con.
Đa dạng nhiều hình thức liên kết
Để thúc đẩy hình thành mô hình liên kết sản xuất, chính quyền các địa phương đã đẩy mạnh tuyên truyền, ban hành cơ chế chính sách hỗ trợ người dân; HTX thực hiện dồn điền đổi thửa, tích tụ tập trung ruộng đất, đồng thời đẩy mạnh quảng bá, xúc tiến thương mại, giới thiệu các nông sản chủ lực, sản phẩm OCOP của địa phương tới người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Tỉnh Yên Bái đã hỗ trợ 21 dự án liên kết chuỗi giá trị, như: dự án hỗ trợ chăn nuôi cho hơn 100 cơ sở, tổng vốn hơn 24 tỷ đồng; hỗ trợ trồng, chăm sóc 1.425 ha rừng theo hướng bền vững (hơn 60 tỷ đồng)... Tại Phú Thọ, chỉ riêng năm 2024, ngân sách tỉnh đã hỗ trợ 8 dự án liên kết sản xuất với tổng số vốn 42,6 tỷ đồng. Qua đó, sản phẩm liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản đã đóng góp khoảng 5,5% tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp của tỉnh.
Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam Đào Thế Anh khẳng định, việc tạo chuỗi liên kết với vai trò kết nối của HTX trong nông nghiệp là quy luật tất yếu của thị trường; giúp người nông dân, HTX và doanh nghiệp khai thác hiệu quả nguồn lực nội tại, nâng cao chất lượng nông sản và khả năng cạnh tranh khi tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Để liên kết chuỗi phát triển bền vững cần thúc đẩy hỗ trợ vốn cho HTX, ngay cả các HTX quy mô nhỏ cũng nên có chương trình hoạt động cụ thể.
Phát triển kinh tế tập thể, HTX được coi là tiền đề quan trọng để các chính sách an sinh xã hội ở địa phương được đẩy mạnh. Sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị ở địa phương đã giúp HTX phát huy vai trò tập hợp, hỗ trợ bà con thay đổi tư duy làm nông nghiệp theo hướng bền vững; từng bước áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sản xuất, góp phần nâng cao thu nhập. Cục trưởng Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn Lê Đức Thịnh cho rằng, nhiều chương trình, dự án đã được triển khai hiệu quả, vì thế HTX đang trở thành một “địa chỉ” tin cậy để các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, Chính phủ đến gần hơn với người dân. Nhiều chuyên gia kinh tế khuyến cáo, để các chương trình mục tiêu quốc gia được triển khai thực chất, hiệu quả và bền vững thì cần phát huy hơn nữa vai trò liên kết của tổ chức kinh tế tập thể, HTX.
Ông Thịnh cũng nhấn mạnh, nhờ sự xuất hiện của các HTX đã giúp cho các chương trình của nhà nước đầu tư hiệu quả hơn trong định hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp. HTX được nhìn nhận sẽ có vai trò quan trọng để kết nối, hỗ trợ gần 10 triệu hộ nông dân nước ta tham gia sâu và có đóng góp quan trọng vào quá trình chuyển đổi xanh trong nông nghiệp. Đây cũng là một trong những định hướng quan trọng được Chính phủ đưa ra tại Diễn đàn Hợp tác xã Quốc gia 2025.
Xây dựng chuỗi liên kết đang chứng minh tính ưu việt trong phát triển kinh tế nông thôn. Với những gì ngành nông nghiệp hiện có từ liên kết chuỗi, đòi hỏi sự đa dạng trong lĩnh vực, ngành nghề, cơ quan quản lý nhà nước có cơ sở đưa ra các dự báo về nhu cầu thị trường; từ đó giảm rủi ro cho người sản xuất, nhà phân phối và doanh nghiệp khi thị trường trong nước, xuất khẩu nhiều biến động.
Bình Thuận chuyển đổi số, tạo động lực để phát triển các trụ cột kinh tế
Chiều 25/4, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận phối hợp Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo 'Ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số: Động lực phát triển mới cho ba trụ cột công nghiệp, nông nghiệp và du lịch Bình Thuận' nhằm phát triển các trụ cột kinh tế của tỉnh.
Đồng chí Nguyễn Hoài Anh, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận và Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Hải Quân, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng, Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì hội thảo. Tại hội thảo còn có 20 chuyên gia của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tham dự đóng góp ý kiến.
Quang cảnh hội thảo.
Thời gian qua, công tác phát triển khoa học, công nghệ và chuyển đổi số của tỉnh Bình Thuận được triển khai thực hiện đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số của tỉnh vẫn chưa có sự bứt phá mạnh mẽ.
Tỉnh còn hạn chế như quy mô, tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ; nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa có bước đột phá; cơ chế, chính sách về khoa học và công nghệ chưa hỗ trợ được nhiều cho các tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Tỉnh cần có những giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, thực chất hơn nữa để khoa học, công nghệ phải thật sự trở thành công cụ thiết thực, hiệu quả trong hành động - không chỉ là xu hướng, mà là yếu tố then chốt để đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Các đại biểu tham gia hội thảo.
Nhiều chuyên gia đã đóng góp quý báu, chia sẻ những kinh nghiệm, giải pháp khả thi từ các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh về ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số làm động lực phát triển mới cho 3 trụ cột công nghiệp, nông nghiệp và du lịch Bình Thuận.
Qua đó, tỉnh sẽ tìm kiếm những giải pháp khả thi để Bình Thuận hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững, thông minh và có sức cạnh tranh cao, nhờ vào sức mạnh của khoa học, công nghệ và chuyển đổi số.
Các chuyên gia đóng góp ý kiến tại hội thảo
Theo đồng chí Nguyễn Minh, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, những kinh nghiệm thực tiễn, giải pháp và kiến nghị được chia sẻ tại hội thảo là những định hướng quý báu, góp phần giúp tỉnh triển khai có hiệu quả Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị trong thời gian tới.
Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tìm hiểu mô hình hợp tác xã du lịch nông nghiệp tại Khánh Hòa
Ngày 25-4, đoàn công tác do bà Cao Xuân Thu Vân - Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã (HTX) Việt Nam, Phó trưởng Ban chỉ đạo quốc gia về Kinh tế tập thể làm trưởng đoàn làm việc tại Công ty Cổ phần rong biển DT Khánh Hòa - HTX du lịch nông nghiệp tuần hoàn Organic Farm. Cùng đi với đoàn có đại diện của Liên minh HTX 15 tỉnh, thành phố khu vực duyên hải Miền Trung - Tây Nguyên.
Lãnh đạo HTX du lịch nông nghiệp tuần hoàn Organic Farm trao món quà biểu trưng Tháp Trầm Hương cho lãnh đạo Liên minh HTX Việt Nam.
Tại buổi làm việc, đoàn công tác của Liên minh HTX Việt Nam đã tìm hiểu về mô hình HTX trong doanh nghiệp. Đến nay, Công ty Cổ phần rong biển DT Khánh Hòa - HTX du lịch nông nghiệp tuần hoàn Organic Farm đã quy hoạch được vùng trồng - sản xuất - đóng gói khép kín rong nho đạt chất lượng xuất khẩu, với tổng diện tích gần 80ha. Cùng với đó, doanh nghiệp đã mở rộng nhà máy sản xuất và đóng gói sản phẩm từ yến sào. Sau 15 năm xây dựng và phát triển, đến nay sản phẩm của DT Group đã có mặt trên toàn quốc và xuất khẩu qua nhiều quốc gia như: Canada, Hàn Quốc, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và Đài Loan.
Bà Cao Xuân Thu Vân đánh giá cao những nỗ lực của doanh nghiệp trong việc phát triển mô hình HTX, mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu; góp phần khẳng định thương hiệu rong nho của Việt Nam. Đồng thời, mong muốn doanh nghiệp tiếp tục mở rộng, kết nối hội viên và phát triển mạng lưới kinh doanh của HTX để trở thành mô hình điểm của Liên minh HTX Việt Nam; đẩy mạnh phát triển du lịch nông nghiệp và tạo ra những sản phẩm nông nghiệp xanh đặc trưng của tỉnh. Bà Cao Xuân Thu Vân đề nghị Quỹ hỗ trợ của Liên minh HTX Việt Nam tạo điều kiện về mặt tài chính giúp doanh nghiệp phát triển mô hình HTX.
Thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hữu cơ
BHG - Khẳng định vai trò “trụ cột” nền kinh tế của tỉnh, thời gian qua, ngành Nông nghiệp đang tháo gỡ khó khăn để phát triển bền vững theo hướng hữu cơ, tăng sức cạnh tranh, mở rộng thị trường tiêu thụ, tạo đầu ra ổn định cho sản phẩm.
Qua việc triển khai các quyết định của T.Ư, của tỉnh về phát triển nông nghiệp hữu cơ (NNHC), UBND các huyện, thành phố đã định hướng, xác định các nhóm sản phẩm cây trồng, vật nuôi đặc trưng có thế mạnh của địa phương để tập trung phát triển thành sản phẩm NNHC. Theo đó, vùng trồng trọt hữu cơ được xác định gồm vùng chè Shan tuyết, cây cam, cây ăn quả ôn đới; vùng lúa, dược liệu và các cây trồng khác đáp ứng yêu cầu. Vùng chăn nuôi hữu cơ gồm vùng chăn nuôi bò vàng, nuôi lợn đen địa phương, nuôi ong hữu cơ và vật nuôi khác.
Người dân lựa chọn mua nông sản tiêu biểu của huyện Vị Xuyên. Ảnh: Kim Tiến
Hiện, tỉnh đang duy trì giấy chứng nhận hữu cơ đối với chè Shan tuyết có diện tích duy trì còn hiệu lực hơn 1.229 ha/3.902 ha, tập trung chủ yếu ở các huyện Vị Xuyên, Hoàng Su Phì, Xín Mần; diện tích cấp mới giấy chứng nhận hơn 10 ha tại hai huyện Bắc Quang và Quang Bình. Đối với sản phẩm cây có múi, diện tích chứng nhận 10 ha tại huyện Bắc Quang; sản phẩm rau hữu cơ có diện tích chứng nhận 30 ha tại huyện Xín Mần thuộc đối tượng cây trồng đáp ứng đủ yêu cầu. Các nhóm cây trồng, vật nuôi khác gồm cây ăn quả ôn đới, lúa chất lượng cao, nhóm cây dược liệu, bò vàng vùng cao, lợn đen địa phương, mật ong Bạc hà đến hết năm 2024 chưa có sản phẩm được chứng nhận hữu cơ theo kế hoạch của UBND tỉnh phê duyệt.
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Nhị Sơn chia sẻ: Nhiều nhóm cây trồng, vật nuôi có đủ điều kiện nhưng chưa có sản phẩm được chứng nhận hữu cơ nguyên nhân do các địa phương chưa bố trí được nguồn kinh phí để cấp mới chứng nhận đối với các sản phẩm đã được xác định. Mặt khác, sản phẩm NNHC được người dùng đánh giá là sản phẩm an toàn, nhưng chi phí tư vấn, việc đánh giá và cấp giấy chứng nhận cao; sản phẩm hữu cơ thuộc phân khúc sản phẩm cao cấp, kén người dùng, chủ yếu phục vụ nhu cầu nhóm khách hàng là những người có thu nhập cao, nên thị trường tiêu thụ sản phẩm hiện chưa rộng và phổ biến như sản xuất hàng hóa thông thường. Trong khi đó, kinh phí Nhà nước chỉ hỗ trợ cấp chứng nhận lần đầu nên gặp khó khăn trong hỗ trợ duy trì, cấp lại giấy chứng nhận.
Một trong những nguyên nhân khiến sản xuất NNHC chịu nhiều ảnh hưởng đó là thiên tai, mưa bão, lũ lụt khiến việc phục hồi sản xuất, kinh doanh, đầu tư của hợp tác xã, doanh nghiệp gặp khó khăn. Giá trị của sản phẩm hữu cơ phụ thuộc nhiều vào thị trường tiêu thụ, thị hiếu người tiêu dùng; thị trường nội địa cho sản phẩm NNHC chưa phát triển mạnh. Đa số doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ sản xuất hoạt động sản xuất kinh doanh theo hình thức doanh nghiệp của gia đình, chưa chủ động bỏ kinh phí để duy trì giấy chứng nhận. Việc liên kết và tự giám sát trong sản xuất hữu cơ và tiêu thụ giữa các cơ sở, giữa các hộ dân chưa chặt chẽ, chưa có sự thống nhất cao. Việc nhận biết, sử dụng sản phẩm đảm bảo an toàn thực phẩm của người tiêu dùng còn hạn chế, chưa có sự phân biệt giữa sản phẩm được chứng nhận và sản phẩm chưa được chứng nhận hữu cơ. Một số bộ phận người sản xuất chưa thực sự quan tâm, đầu tư cho phát triển sản phẩm NNHC.
Không gian trưng bày các sản phẩm chè tại HTX chế biến chè Phìn Hồ xã Thông Nguyên, huyện Hoàng Su Phì. Ảnh: Viên Sự
Tháo gỡ khó khăn để thúc đẩy sản xuất NNHC, tỉnh tập trung khai thác tiềm năng, lợi thế về điều kiện tự nhiên, môi trường sản xuất an toàn, tăng cường liên kết chuỗi sản xuất - chế biến giữa cơ sở chế biến với người sản xuất, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp chất lượng cao, đảm bảo an toàn thực phẩm, qua đó nâng cao uy tín, thương hiệu và giá trị gia tăng sản phẩm hữu cơ. Phấn đấu năm 2025 thực duy trì và tái cấp lại 100% sản phẩm trồng trọt, vật nuôi, gồm: Chè hữu cơ trên 5.486 ha; triển khai mới chứng nhận lần đầu 4.598 ha. Đối với diện tích cây có múi 350 ha; cây ăn quả ôn đới 180 ha; cây lúa đặc sản 220 ha; cây dược liệu 350 ha. Đối với sản phẩm chăn nuôi: Bò vàng địa phương 1.650 con; lợn đen địa phương 4.700 con; mật ong Bạc hà 7.000 tổ.
Mèo Vạc là địa phương có nhiều sản vật nổi tiếng, theo Chủ tịch UBND huyện Mèo Vạc Nguyễn Huy Sắc chia sẻ: “Huyện ưu tiên các doanh nghiệp, hợp tác xã đủ năng lực tham gia kế hoạch liên kết trong sản xuất, sơ chế, chế biến và tiêu thụ sản phẩm gắn với vùng nguyên liệu được chứng nhận hữu cơ. Lồng ghép các nguồn vốn, nhất là các chương trình mục tiêu quốc gia để thực hiện; tuyên truyền đến người dân về chính sách cho vay để sản xuất, kinh doanh”.
Phát triển nông nghiệp đặc trưng hàng hóa chất lượng cao theo chuỗi giá trị là 1 trong 3 đột phá được xác định trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XVII, để sớm đạt mục tiêu đặt ra trong năm “nước rút” 2025 và thúc đẩy sản xuất NNHC, hướng đến nền nông nghiệp xanh, tỉnh ta huy động hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở nhằm chỉ đạo, tạo sự thống nhất; đề ra các nhiệm vụ, giải pháp triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, tránh bệnh thành tích. Đồng thời, quản lý chặt chẽ đầu vào sản NNHC như giống cây trồng, vật nuôi; phân bón; thuốc bảo vệ thực vật; nguồn nước; kiểm tra, giám sát các cơ sở sản xuất, kinh doanh các sản phẩm hữu cơ; thiết lập hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đảm bảo chất lượng sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn được cấp chứng nhận khi lưu thông trên thị trường.
“Ngành sẽ tăng cường kiểm tra chất lượng sản phẩm NNHC thuộc lĩnh vực quản lý; khảo sát, đánh giá ban đầu về điều kiện sản xuất tại vùng dự kiến chuyển sang sản xuất hữu cơ, thực trạng năng lực chế biến của doanh nghiệp, hợp tác xã; xây dựng vùng sản xuất hữu cơ gắn liền với cơ sở chế biến để đảm bảo mối liên kết theo chuỗi sản xuất - tiêu thụ, quản lý chặt chẽ chất lượng sản phẩm và duy trì giấy chứng nhận sản phẩm hữu cơ. Ứng dụng công nghệ kết hợp với kinh nghiệm truyền thống để sản xuất NNHC gắn với chuỗi giá trị cho các sản phẩm chủ lực…” - Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Nhị Sơn cho biết thêm.
Quản lý, bảo vệ môi trường đất
Từ năm 2019, Sở Tài nguyên và Môi trường (nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường) thực hiện Dự án 'Điều tra, đánh giá ô nhiễm đất và phân hạng đất nông nghiệp lần đầu trên địa bàn tỉnh Sơn La', đã tham mưu với tỉnh nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tài nguyên đất bền vững gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
Phòng Quản lý tài nguyên đất, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh rà soát bản đồ hiện trạng tài nguyên đất.
Sở Nông nghiệp và Môi trường đã phối hợp với Liên doanh Công ty cổ phần tư vấn Quy hoạch và Phát triển công nghệ Á Châu, Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp, UBND các huyện, thành phố, thị xã và các cơ quan, đơn vị liên quan thực hiện điều tra, đánh giá ô nhiễm đất, phân hạng đất nông nghiệp lần đầu trên địa bàn tỉnh.
Đối tượng điều tra, đánh giá ô nhiễm đất, gồm các loại đất thuộc khu vực có nguồn gây ô nhiễm trên địa bàn tỉnh, như: Khu, cụm công nghiệp; khu tiểu thủ công nghiệp, làng nghề; khu khai thác, chế biến khoáng sản; bãi chứa chất thải, rác thải; khu canh tác sử dụng nhiều phân vô cơ và thuốc bảo vệ thực vật; kho chứa thuốc bảo vệ thực vật. Diện tích điều tra phân hạng đất nông nghiệp của tỉnh 1.056.409 ha.
Ngày 31/12/2024, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 2916/QĐ-UBND về việc phê duyệt, công bố kết quả điều tra, đánh giá ô nhiễm đất và phân hạng đất nông nghiệp lần đầu trên địa bàn tỉnh. Kết quả điều tra, đánh giá ô nhiễm đất và phân hạng đất nông nghiệp lần đầu, xác định có hơn 656 ha đất bị ô nhiễm, chiếm 0,46% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Trong đó, Mai Sơn là huyện có diện tích đất bị đánh giá ở mức ô nhiễm cao nhất với hơn 142 ha, huyện Mộc Châu hơn 130 ha. Còn huyện Mường La, có diện tích đất ở mức ô nhiễm thấp nhất với 3,56 ha.
Du lịch cộng đồng bản Phụ Mẫu, xã Chiềng Yên, huyện Vân Hồ, có diện tích đất thích hợp để trồng lúa.
Diện tích đất cận ô nhiễm hơn 117 ha, trong đó, Mộc Châu là huyện có diện tích đất đánh giá ở mức cận ô nhiễm cao nhất hơn 38 ha; Mai Sơn đứng thứ hai với hơn 32 ha; huyện Yên Châu có diện tích đất ở mức cận ô nhiễm thấp nhất 4,76 ha.
Bà Nguyễn Thanh Huyền, Trưởng phòng Quản lý tài nguyên đất, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh, thông tin: Các nguồn có khả năng gây ô nhiễm chính cho đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh, gồm: Khu công nghiệp; làng nghề; khu khai thác, chế biến khoáng sản; bãi chứa chất thải, rác thải; kho chứa thuốc bảo vệ thực vật; khu vực canh tác sử dụng nhiều phân bón vô cơ, thuốc bảo vệ thực vật.
Cũng qua kết quả điều tra, xác định diện tích rất thích hợp và thích hợp với mục đích hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp là 881.408 ha, chiếm 83,43% diện tích điều tra; ít thích hợp và không thích hợp có 175.001 ha, chiếm 16,57% diện tích điều tra. Trong đó, diện tích đất rất thích hợp và thích hợp trồng lúa gần 15.000 ha. Diện tích đất rất thích hợp, thích hợp trồng cây hàng năm khác hơn 191.400 ha. Diện tích đất rất thích hợp, thích hợp trồng cây lâu năm là hơn 43.200 ha.
Ông Phùng Kim Sơn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường, cho biết: Dự án Điều tra, đánh giá ô nhiễm đất và phân hạng đất nông nghiệp lần đầu, giúp tỉnh xác định khu vực, diện tích đất bị ô nhiễm và có nguy cơ ô nhiễm; xác định sự phân bố khoanh đất nông nghiệp thành các hạng đất phù hợp với từng mục đích sử dụng cụ thể. Từ đó, xây dựng bản đồ ô nhiễm đất, phân hạng đất; cung cấp dữ liệu phục vụ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát triển nông nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng đất bền vững, bảo vệ môi trường.
Tổ giám sát của Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh cùng với địa phương và đơn vị tư vấn kiểm tra thực địa tại xã Hua La, thành phố Sơn La.
Từ kết quả điều tra, phân hạng đất, Dự án đề xuất các nhóm giải pháp. Cụ thể, đối với khu vực công nghiệp, các cơ sở sản xuất công nghiệp cần phát triển công nghiệp có trọng điểm, công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo chiều sâu, các ngành, sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hướng đến phát triển công nghiệp xanh, bền vững.
Các khu khai thác, chế biến khoáng sản cần tăng cường quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật; thực hiện quy hoạch, chiến lược về khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên khoáng sản; khai thác và chế biến khoáng sản với công nghệ tiên tiến theo hướng tiết kiệm, hiệu quả.
Với các khu vực chôn lấp, xử lý rác thải cần tăng cường quản lý, hỗ trợ dịch vụ thu gom, vận chuyển rác thải rắn trên địa bàn tỉnh; cải tạo nâng cấp các bãi chôn lấp rác thải sinh hoạt không hợp vệ sinh, các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái do chất thải rắn.
Tháo gỡ điểm nghẽn để đồng bằng sông Cửu Long bứt phá
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang mắc kẹt trong 'vòng xoáy đi xuống' do thiếu hụt đầu tư trầm trọng dù đầu tư công đã tăng gấp đôi trong giai đoạn 2015-2023. Các chuyên gia cho rằng để ĐBSCL bứt phá, cần tập trung nguồn lực đầu tư vào hạ tầng chiến lược kết nối vùng với Đông Nam Bộ và thế giới, chuyển đổi số toàn diện và phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Vừa qua, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright (FSPPM) công bố “Báo cáo Kinh tế thường niên ĐBSCL 2024”. Theo ông Phạm Tấn Công, Chủ tịch VCCI, giai đoạn 2015-2023, đầu tư công vào ĐBSCL tăng gấp đôi so với giai đoạn trước. Các nguồn lực hỗ trợ từ quốc tế cũng tăng đáng kể, tạo động lực mạnh cho phát triển vùng so với các giai đoạn trước đó. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh, giúp cho ĐBSCL đạt tốc độ tăng trưởng khá và duy trì ổn định trong nhiều năm qua, thậm chí một số tỉnh năng động đã bứt phá với mức tăng trưởng cao và nguồn thu ngân sách địa phương được cải thiện mạnh.
ĐBSCL đang được đầu tư mạnh vào hạ tầng giao thông. Trong ảnh là Dự án cao tốc Cần Thơ-Cà Mau dự kiến hoàn thành trong năm 2025.
Tuy nhiên, ông Jonathan London, cố vấn kinh tế cao cấp Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) Việt Nam nhận định: ĐBSCL vẫn còn những thách thức gốc rễ về mặt cấu trúc như nền kinh tế của khu vực vẫn bị chi phối bởi nền nông nghiệp năng suất thấp và không đa dạng. Đầu tư tư nhân và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn còn tụt hậu so với các vùng khác, kỹ năng của lực lượng lao động và năng suất lao động tiếp tục tụt hậu so với các khu vực khác. Tác động của biến đổi khí hậu, đặc biệt là tình trạng xâm nhập mặn, đang ngày càng gây tổn hại đến sinh kế và đời sống người dân,… Và nhiều người trẻ vẫn đang rời đi, tìm kiếm cơ hội ở một nơi khác. Báo cáo kinh tế thường niên ĐBSCL 2024 chỉ ra việc thiếu hụt đầu tư đã trở thành một trong những nguyên nhân cốt lõi dẫn đến “vòng xoáy đi xuống” của nền kinh tế ĐBSCL trong nhiều năm qua.
Dù là vùng sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu chủ lực, đóng góp hơn 50% vào thặng dư thương mại của Việt Nam, ĐBSCL lại có tỷ lệ vốn đầu tư rất thấp. Cụ thể, tính theo bình quân đầu người, so sánh trong 6 vùng kinh tế - xã hội của Việt Nam, ĐBSCL đứng thứ 3 về vốn ODA, thứ 4 về đầu tư công, thứ 5 về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và thứ 6 về đầu tư tư nhân trong nước. Hệ quả là cơ sở hạ tầng yếu kém, cơ hội việc làm suy giảm, năng suất lao động trì trệ và sức cạnh tranh suy yếu. Trong giai đoạn 2021-2023, tổng vốn đầu tư toàn xã hội ở ĐBSCL chỉ chiếm 11,2% của cả nước, giảm từ mức 13,2% trong giai đoạn 2011-2016, thấp hơn tỷ lệ đóng góp của ĐBSCL vào GDP cả nước. Đầu tư tư nhân, động lực tăng trưởng quan trọng nhất, cũng tăng trưởng chậm. Hệ quả là trong 10 năm qua, tỷ trọng vốn đầu tư tư nhân vào ĐBSCL giảm từ 14,9% xuống chỉ còn 12,4%. Đáng chú ý, FDI vào ĐBSCL trong năm 2023 chỉ chiếm 2% tổng vốn FDI cả nước, phần lớn tập trung ở Long An, trong khi các tỉnh còn lại gần như vắng bóng nhà đầu tư nước ngoài.
Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký VCCI cho rằng ĐBSCL không chỉ là vựa lúa, vựa trái cây, vựa thủy sản quan trọng của Việt Nam mà còn là một trong những vùng kinh tế có tiềm năng phát triển đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, vùng cũng còn nhiều nút thắt cần tháo gỡ như: việc đầu tư vào ĐBSCL vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, tỷ lệ vốn đầu tư công chỉ chiếm chưa đến 10% tổng đầu tư cả nước, trong khi đầu tư tư nhân và FDI vẫn còn hạn chế; hệ thống hạ tầng giao thông và logistics chưa đồng bộ,… Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Trưởng nhóm nghiên cứu Báo cáo Kinh tế thường niên ĐBSCL 2024 nhận định: “Trong bối cảnh nguồn lực hạn chế, đầu tư không thể dàn trải, cần chọn đúng các ưu tiên đầu tư về hạ tầng chiến lược giúp kết nối ĐBSCL với Đông Nam Bộ và thế giới, chuyển đổi số toàn diện để nâng cao năng suất lao động, đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, bền vững môi trường. Đồng thời, đầu tư về nhân lực cho các ngành chiến lược, có lợi thế đặc thù, đa dạng hóa để xây dựng nền kinh tế hiện đại và dẻo dai, quan tâm đầu tư năng lượng tái tạo làm đòn bẩy cho công nghiệp - công nghệ xanh”.
Ông Trần Văn Huyến, Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang cho rằng nếu có thể tháo gỡ các điểm nghẽn trên, vùng ĐBSCL có thể trở thành cực tăng trưởng mới, thậm chí là vùng kiểu mẫu về phát triển nông nghiệp sinh thái, công nghiệp chế biến hiện đại và kinh tế tuần hoàn”. Trong 20 dự án FDI đầu tư vào ĐBSCL trong quý I/2025, đã có tới 17 dự án vào Long An. Về dự án đầu tư trực tiếp trong nước (DDI), Long An hiện có 2.269 dự án với tổng vốn đầu tư 507.000 tỷ đồng, tương đương 20 tỷ USD. Theo Trần Văn Tươi, Phó Giám đốc Sở Tài chính tỉnh Long An, tỉnh đã khai thác hiệu quả tối đa lợi thế so sánh về vị trí địa lý khi Long An vừa là cửa ngõ ĐBSCL, vừa là địa phương kết nối với TP Hồ Chí Minh và Đông Nam Bộ. Tiếp đến là làm tốt công tác quy hoạch, huy động nguồn lực để đầu tư kết cấu hạ tầng, thành lập tổ công tác đặc biệt để xử lý vướng mắc mà doanh nghiệp phản ánh.
Hành trình chuyển mình từ nông nghiệp của người dân tộc thiểu số ở vùng biên Đăk Glei
Từ chỗ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, nhiều nông dân, HTX vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi trên địa bàn huyện Đăk Glei đã vươn lên làm giàu, trở thành những điểm sáng kinh tế giữa đại ngàn Trường Sơn.
Đăk Glei, một huyện vùng cao biên giới của tỉnh Kon Tum, từng là vùng đất nghèo khó, địa hình hiểm trở, giao thương cách trở. Thế nhưng, chỉ trong vài năm trở lại đây, vùng đất này đã và đang chứng kiến sự “thay da đổi thịt” ngoạn mục nhờ quá trình chuyển đổi sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa, kết hợp với ứng dụng mạnh mẽ thương mại điện tử.
Thương mại điện tử mở lối thoát nghèo
Trước kia, đồng bào dân tộc thiểu số ở Đăk Glei chủ yếu canh tác theo tập quán truyền thống, phụ thuộc vào thiên nhiên, tình trạng được mùa mất giá, được giá mất mùa liên tục xảy ra nên thu nhập bấp bênh.
Những năm gần đây, nhờ sự vào cuộc đồng bộ của chính quyền các cấp cùng các chương trình hỗ trợ chuyển giao khoa học kỹ thuật, đào tạo kỹ năng số, đặc biệt là định hướng phát triển HTX nông nghiệp ứng dụng thương mại điện tử, tình hình đã thay đổi rõ rệt.
Người dân tộc thiểu số ở Đăk Glei đang giàu lên nhờ thay đổi phương thức sản xuất.
HTX Nông nghiệp hữu cơ Đăk Long là một ví dụ tiêu biểu cho cuộc “cách mạng” trong nông nghiệp trên địa bàn huyện. Thành lập từ năm 2020, HTX ban đầu chỉ có vài thành viên, diện tích sản xuất chưa đầy 10 ha cà phê, hồ tiêu và rau màu.
Đến nay, nhờ ứng dụng kỹ thuật canh tác hữu cơ, truy xuất nguồn gốc và quảng bá sản phẩm qua các sàn thương mại điện tử như Postmart, Voso, Shopee…, HTX đã mở rộng lên hơn 70 ha, liên kết hơn 50 hộ nông dân, tạo việc làm thường xuyên cho 35 lao động địa phương, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số với thu nhập bình quân 6-8 triệu đồng/tháng.
Đáng chú ý, thời gian qua, việc bà con dân tộc Xơ Đăng, Giẻ Triêng... ở Đăk Glei tổ chức chụp ảnh sản phẩm, quay video giới thiệu nông sản để đăng bán online không còn là chuyện hiếm.
Nhiều lớp tập huấn kỹ năng số đã được tổ chức ngay tại các thôn làng, giúp người dân, HTX, tổ hợp tác biết cách chụp ảnh bắt mắt, livestream bán hàng, sử dụng mã QR truy xuất nguồn gốc hay gói hàng theo tiêu chuẩn vận chuyển.
Đơn cử như ở HTX Dược liệu Ngọc Linh Đăk Glei là một minh chứng rõ nét cho việc “bắt tay” giữa sản xuất nông nghiệp và công nghệ số.
Kể từ khi thành lập, HTX chuyên nuôi trồng và chế biến sâm Ngọc Linh – một trong những loại dược liệu quý hiếm nhất Việt Nam. Bằng việc xây dựng thương hiệu trên nền tảng số, sản phẩm của HTX đã tiếp cận được hàng chục nghìn khách hàng trong và ngoài nước.
Vào HTX, nhập cuộc đua số hóa
Theo đại diện HTX Dược liệu Ngọc Linh Đăk Glei, trước kia, HTX chỉ bán cho thương lái với giá rất thấp. Giờ đây, qua thương mại điện tử, khách đặt hàng trực tiếp từ TP.HCM, Hà Nội, thậm chí cả Nhật Bản và Hàn Quốc. Có tháng, doanh thu HTX đạt hơn 2 tỷ đồng.
Với những thành công đang có, HTX Dược liệu Ngọc Linh Đăk Glei đang mở rộng vùng trồng, đầu tư nhà sấy lạnh và tiếp tục đưa sản phẩm lên các sàn quốc tế.
Không chỉ phát triển HTX, nhiều hộ gia đình vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Đăk Glei cũng biết tận dụng lợi thế địa phương để khởi nghiệp thành công. Điển hình như gia đình anh A Thương, xã Đăk Kroong, từng chỉ trồng lúa rẫy và làm thuê theo mùa.
Việc tham gia các HTX, tổ hợp tác giúp đồng bào dân tộc thiểu số ở Đăk Glei có thêm điểm tựa trong sản xuất.
Sau khi tham gia chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP), anh chuyển sang trồng mắc ca, nuôi gà bản địa và mở xưởng chế biến khô gà đặc sản. Nhờ mạnh dạn livestream bán hàng trên Facebook và Tiktok, trung bình mỗi tháng anh bán ra hơn 1.000 đơn hàng, thu về hơn 100 triệu đồng.
"Mình không nghĩ một ngày nông sản của người Xơ Đăng lại được khách thành phố yêu thích đến vậy", anh A Thương hồ hởi nói.
Có một điểm chung của nhiều mô hình thành công tại Đăk Glei là vai trò trung tâm của HTX trong việc liên kết, tổ chức sản xuất và định hướng ứng dụng công nghệ.
Chính các HTX đã trở thành “trạm trung chuyển số” để đưa nông sản vùng cao, vùng sâu đi xa. Các HTX cũng đứng ra xây dựng website, tài khoản mạng xã hội, liên kết đơn vị vận chuyển, đàm phán với sàn thương mại điện tử và huấn luyện kỹ năng cho thành viên.
Theo đại diện HTX Nông nghiệp xanh Đăk Pek, trước đây các thành viên HTX ngại dùng điện thoại, nhưng khi thấy bán hàng qua mạng có thu nhập cao, ai cũng muốn học. Vì vậy, HTX tổ chức lớp hướng dẫn livestream, cách trả lời khách, cách đóng gói hàng. Dần dần, mỗi thành viên HTX đều có thể bán hàng như một “KOL nông sản” thực thụ.
Kết nối thị trường toàn cầu
Có thể nói, với các chính sách hỗ trợ đúng hướng của ban ngành tỉnh, địa phương, các HTX, tổ hợp tác trên địa bàn tỉnh Kon Tum đang hoạt động hiệu quả. Đáng chú ý, sự đồng hành của Liên minh HTX Việt Nam cũng đang giúp các HTX, tổ hợp tác ở Kon Tum nói chung và ở Đăk Glei nói riêng vươn lên mạnh mẽ.
Điển hình, Liên minh HTX Việt Nam đã phối hợp tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn nhằm nâng cao năng lực quản lý và kỹ thuật cho các thành viên HTX. Đặc biệt, chú trọng đến việc hỗ trợ chuyển đổi số trong sản xuất và kinh doanh, giúp các HTX ứng dụng công nghệ vào quản lý, quảng bá và tiêu thụ sản phẩm hiệu quả hơn.
Các hoạt động cụ thể như tổ chức lớp tập huấn về kỹ năng số: chụp ảnh sản phẩm, livestream bán hàng, sử dụng mã QR truy xuất nguồn gốc.; hỗ trợ các HTX xây dựng website, tài khoản mạng xã hội và tham gia các sàn thương mại điện tử như Postmart, Voso, Shopee…
Ngoài ra, trong giai đoạn 2021-2025, tỉnh Kon Tum đã bố trí 15 tỷ đồng từ nguồn ngân sách địa phương để hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, trong đó có các HTX tại Đăk Glei.
Với sự hỗ trợ thiết thực, không dừng lại ở thị trường trong nước, một số HTX tại Đăk Glei đang hướng đến xuất khẩu nông sản sang thị trường châu Á và châu Âu. Nhờ áp dụng tiêu chuẩn sản xuất hữu cơ, đăng ký mã vùng trồng, mã cơ sở đóng gói, nhiều sản phẩm như chuối rừng, cà phê hữu cơ, tinh dầu sả… đã được các doanh nghiệp nước ngoài ngỏ ý hợp tác lâu dài.
Chính quyền huyện Đăk Glei hiện đang tiếp tục triển khai chương trình hỗ trợ chuyển đổi số trong nông nghiệp giai đoạn 2025-2030. Theo đó, mỗi xã sẽ có ít nhất một mô hình HTX nông nghiệp số kiểu mẫu, một trung tâm giới thiệu và bán hàng trực tuyến đặt tại nhà văn hóa cộng đồng. Mục tiêu là đưa tỷ lệ hộ nông dân tiếp cận được thương mại điện tử đạt 70% vào năm 2030.
Từ những bước đi đầu tiên đầy bỡ ngỡ, đến nay, người nông dân vùng cao Đăk Glei, đặc biệt là người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện đã từng bước trở thành người làm chủ thị trường thông qua công nghệ. Họ không còn chỉ trông vào trời đất, mà đã biết hoạch định sản xuất, tối ưu kênh bán hàng và xây dựng thương hiệu riêng cho sản phẩm của mình.
Thành công của Đăk Glei cho thấy tiềm năng to lớn của việc kết hợp giữa nông nghiệp và thương mại điện tử tại các vùng biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đó không chỉ là câu chuyện tăng thu nhập, mà còn là sự khẳng định vị thế, bản sắc và trí tuệ của đồng bào dân tộc thiểu số trong thời đại số hóa.
Thúc đẩy phát triển kinh tế ở địa phương
Những năm qua, thị trấn Phong Thổ (huyện Phong Thổ) triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. Đến nay, cơ cấu ngành kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể; nhất là ngành Nông nghiệp đã xuất hiện nhiều mô hình hiệu quả, đem lại nguồn thu nhập cao cho người dân.
Trong 3 năm trở lại đây, nền kinh tế của thị trấn Phong Thổ được đánh giá có nhiều khởi sắc hơn so với những năm trước, đặc biệt, các ngành kinh tế dần phục hồi và phát triển sau đại dịch Covid-19. Hết năm 2024, thu nhập bình quân trên địa bàn đạt 60 triệu đồng/người/năm; sản lượng lương thực có hạt trên 902 tấn; tốc độ tăng trưởng đàn gia súc 6%; giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 118 tỷ đồng.
Để có được những kết quả trên, UBND thị trấn Phong Thổ bám sát vào Nghị quyết HĐND huyện, thị trấn giao; chủ động xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, giao chỉ tiêu cho từng thôn, bản, tổ dân phố trên địa bàn. Chỉ đạo đội ngũ cán bộ công chức phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể, đội ngũ cán bộ thôn, bản, tổ dân phố đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng hàng hóa thị trường; áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) vào đầu tư, liên kết sản xuất nông nghiệp với bà con; từng bước hình thành những khu vực sản xuất hàng hóa tập trung, nông nghiệp công nghệ cao.
Đặc biệt, địa phương tận dụng kịp thời, hiệu quả các chính sách của tỉnh như Nghị quyết số 07/2021/NQ-HĐND ngày 22/3/2021 của HĐND tỉnh Quy định chính sách về phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung giai đoạn 2021-2025 hỗ trợ các hộ dân nguồn vốn đầu tư xây dựng chuồng trại, cây con giống để triển khai các mô hình trồng trọt, chăn nuôi hiệu quả. Điển hình như gia đình anh Lê Quang Hải ở tổ dân phố Hữu Nghị, năm 2022 được hỗ trợ 60 thùng ong từ Nghị quyết 07. Nhờ đó, gia đình có động lực để nhân rộng đàn nuôi. Đến nay, phát triển hơn 200 thùng ong. Bên cạnh nuôi ong, khai thác lợi thế có khu vườn rộng vài hécta, vợ chồng anh Hải tập trung cải tạo, xây dựng mô hình kinh tế tổng hợp vườn - ao - chuồng. Trong đó, trồng hơn 200 gốc thanh long, hơn 50 cây mít, bưởi và một số loại cây ăn quả khác như: chanh, ổi, dâu; nuôi 2 ao cá rộng hơn 2.000m2; làm chuồng trại nuôi lợn. Nhờ vậy, mỗi năm gia đình anh lãi trên 120 triệu đồng.
Được biết, thời điểm này, thị trấn Phong Thổ đang đôn đốc nhân dân chăm sóc 120ha lúa đông xuân, ngô xuân hè; gần 200ha cây ăn quả; phát triển đàn gia súc hơn 12.900 con, đàn gia cầm 11.000 con; duy trì 5,1ha thủy sản. Khoanh nuôi, bảo vệ trên 2.212ha rừng để hưởng chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng. Trên địa bàn có mô hình nông nghiệp công nghệ cao nhà màng với diện tích hơn 1ha trồng nho hạ đen, nho mẫu đơn, măng tây…
Song song với phát triển nông nghiệp, tận dụng tiềm năng sẵn có ở địa phương, thị trấn quan tâm thúc đẩy hoạt động thương mại, dịch vụ, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh mở rộng sản xuất, đa dạng các ngành nghề, lĩnh vực. Khuyến khích nhân dân mang các sản phẩm nông sản ra chợ trung tâm, phố đi bộ bán; nhằm đẩy mạnh giao thương hàng hóa, tăng thu nhập cho nhân dân.
Hiện nay, trên địa bàn thị trấn Phong Thổ có 32 doanh nghiệp, HTX hoạt động chủ yếu ở ngành thế mạnh như khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng (gạch không nung), khai thác khoáng sản: đá, cát; 253 hộ tham gia kinh doanh, buôn bán hàng tạp hóa, thuốc, dịch vụ sửa chữa các loại xe, dịch vụ làm đẹp…
Thời gian tới, thị trấn Phong Thổ tiếp tục triển khai các giải pháp thực hiện Nghị quyết của HĐND, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025; tăng cường công tác phòng chống sâu bệnh hại trên cây trồng; kiểm soát, ngăn ngừa dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm; tạo môi trường thuận lợi để doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh sản xuất gắn với công tác quản lý tài nguyên môi trường, khoáng sản. Phấn đấu, đến cuối năm 2025, thu nhập bình quân của thị trấn Phong Thổ đạt 63 triệu đồng/người/năm.
Phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững, hiệu quả
Cùng chúng tôi đi thăm các mô hình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn, Chủ tịch UBND xã Lộc Sơn (Hậu Lộc) Lưu Trung Công chia sẻ: Với quan điểm XDNTM nâng cao bền vững phải gắn với phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần Nhân dân, xã đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển sản xuất, chuyển đổi cơ cấu lao động, chuyển đổi ruộng đất, chuyển dịch cơ cấu mùa vụ cây trồng, vật nuôi; phát triển trang trại, gia trại.
Mô hình trang trại chăn nuôi tổng hợp tại xã Lộc Sơn.
Theo đó, trong hơn 4 năm qua, xã chuyển đổi được 19,63ha đất kém hiệu quả sang trồng trọt, chăn nuôi đem lại giá trị kinh tế cao. Xây dựng cánh đồng 200ha sản xuất lúa chất lượng cao tập trung; 105ha mô hình sản xuất mạ khay, gieo cấy bằng máy. Chú trọng công tác tập huấn áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất. Chuyển diện tích đất 2 vụ lúa sang trồng cây hàng hóa gắn với liên kết với các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm cho Nhân dân. HTX dịch vụ nông nghiệp với vai trò là “bà đỡ” của nông dân đã thường xuyên phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức tập huấn chuyển giao khoa học - kỹ thuật cho bà con. Nhiều mô hình liên kết với các doanh nghiệp sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản chủ lực được hình thành. Năm 2024, tổng thu nhập từ trồng trọt của xã đạt hơn 73,2 tỷ đồng.
Điển hình như mô hình “liên kết bao tiêu sản phẩm giống lúa thuần chất lượng cao J02” với quy mô 5ha được triển khai thực hiện tại thôn Đại Thống. Bà con yên tâm bởi sau khi lúa thu hoạch xong đã được doanh nghiệp đăng ký thu mua. Việc triển khai thực hiện mô hình trình diễn giống lúa thuần chất lượng cao J02 tại xã nhằm mục đích đưa các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, lựa chọn được các loại giống lúa phù hợp với đồng đất của địa phương, có năng suất, chất lượng cao, làm cơ sở để UBND huyện Hậu Lộc lựa chọn các loại giống trong cơ cấu sản xuất hàng năm thay thế dần những giống có biểu hiện thoái hóa.
Hiện nay, Lộc Sơn đã có 1 trang trại, 22 gia trại và cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung, hàng năm giá trị thu nhập từ chăn nuôi đạt trên 72 tỷ đồng. Đặc biệt, đã hình thành và mở rộng một số mô hình trồng trọt, chăn nuôi riêng biệt với quy mô tương đối lớn. Nhiều mô hình sản xuất đã được người dân trong xã phát huy, cho hiệu quả kinh tế cao, điển hình như mô hình trang trại tổng hợp VAC của gia đình anh Đỗ Tất Kỳ, mô hình trang trại chăn nuôi quy mô hơn 100 lợn nái và lợn rừng của gia đình anh Đỗ Mạnh Hùng...
Triển khai thực hiện Đề án phát triển nông nghiệp đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030, huyện Hậu Lộc đã cơ cấu lại ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và triển khai thực hiện công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, xác định các lĩnh vực mũi nhọn, các sản phẩm chủ lực, có lợi thế và tiềm năng phát triển nhằm nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
Huyện xác định phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân là nhiệm vụ trọng tâm, góp phần tích cực xóa đói, giảm nghèo. Hiện nay, toàn huyện gieo trồng được 13.864ha, sản lượng lương thực 59.298 tấn/năm, đạt 100,5% kế hoạch. Giá trị sản xuất ngành trồng trọt đạt 1.200,31 tỷ đồng (giá hiện hành), tăng 156,31 tỷ đồng so với cùng kỳ. Đã hình thành và phát triển một số vùng sản xuất cây trồng tập trung quy mô lớn; có 12 xã với diện tích 70ha lúa được chứng nhận VietGAP. Vùng sản xuất rau, củ, quả tập trung chuyên canh với diện tích 1.441,6ha/năm, gồm cây ớt xuất khẩu, ngô ngọt, đậu tương, rau cải bó xôi, dưa chuột, khoai tây... Trong đó, có 2.000m2 nhà lưới trồng rau thủy canh; 6,5ha nhà màng, nhà lưới trồng dưa kim hoàng hậu, dưa lưới; 36ha sản xuất rau an toàn tập trung chuyên canh được chứng nhận VietGAP. Giá trị thu nhập bình quân đạt trên 180 triệu đồng/ha/vụ thu hoạch. Riêng mô hình nhà lưới trồng rau an toàn, rau thủy canh theo tiêu chuẩn VietGAP tại xã Phú Lộc, Hoa Lộc giá trị thu nhập đạt trên 2,4 tỷ đồng/ha/năm, lợi nhuận đạt trên 700 triệu đồng/ha/năm; mô hình cây dưa lưới, dưa kim hoàng hậu giá trị thu nhập trên 700 triệu đồng/ha/năm, lợi nhuận thu trên 300 triệu đồng/ha/năm.
Cơ cấu kinh tế nông thôn tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ, nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất, nhất là các sản phẩm thế mạnh của huyện. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển ổn định, tái cơ cấu ngành nông nghiệp đang đi đúng hướng, một số cây trồng, vật nuôi chuyển đổi có hiệu quả cao.
Toàn huyện phát triển được 193 trang trại chăn nuôi chuyên biệt, trong đó có 117 trang trại chăn nuôi đạt tiêu chí theo Thông tư số 02/2020/TT-
BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường). Nhìn chung, các mô hình trang trại sau khi chuyển đổi đều cho hiệu quả kinh tế cao hơn khoảng 10 lần so với trồng lúa.
Với quan điểm tạo sản phẩm có chất lượng cao, giá trị hàng hóa lớn, trong những năm gần đây các cơ sở chăn nuôi trên địa bàn huyện đã chuyển hướng sang sản xuất hàng hóa tập trung quy mô từ vừa đến lớn tạo chuỗi giá trị cho hiệu quả kinh tế cao thông qua việc du nhập những giống gia súc (siêu thịt), gia cầm (siêu thịt, siêu trứng) có chất lượng cao, hiệu quả kinh tế thay thế những giống địa phương có năng suất thấp. Điều này minh chứng cơ cấu nông nghiệp có sự dịch chuyển mạnh làm tăng sản lượng, giá trị, chất lượng sản phẩm chăn nuôi do áp dụng khoa khọc - kỹ thuật.
Ngành thủy sản của Hậu Lộc cũng được quan tâm phát triển cả về khai thác, nuôi trồng, chế biến, tiếp tục khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn của huyện. Nhất là, phát triển ngành thủy sản theo hướng giảm dần cường lực khai thác ven bờ, nâng cao năng lực khai thác vùng khơi và tăng sản lượng, giá trị nuôi trồng thủy sản. Tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản năm 2024 đạt 49.962 tấn, đạt 103% kế hoạch năm và tăng 2,9% so với cùng kỳ.
Phát triển sản xuất hiệu quả, bền vững đã góp phần thúc đẩy xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần Nhân dân huyện ven biển Hậu Lộc.
Góp sức trẻ xây những vùng nông thôn đáng sống
Trong Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) gắn với thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, Đoàn Thanh niên các cấp đã thể hiện rõ vai trò xung kích, tình nguyện và sáng tạo của tuổi trẻ thông qua nhiều hoạt động phù hợp nhu cầu thực tiễn của mỗi địa phương, từ đó, góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
Thanh niên tình nguyện huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh) nhân rộng mô hình “Đường hoa Thanh niên”. Ảnh: Hải Đăng.
Tuổi trẻ có nhiệt huyết, có trình độ ngày càng cao đã trở thành lực lượng nòng cốt, đóng vai trò tiên phong trong nhiều lĩnh vực của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM. Từ cải tạo hạ tầng, bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế - xã hội, đến chuyển đổi số và ứng dụng khoa học kỹ thuật, hình ảnh thanh niên hiện diện rõ nét ở mọi mặt trận. Trong đó, không ít mô hình, công trình do đoàn viên, thanh niên khởi xướng đã được nhân rộng và lan tỏa mạnh mẽ, góp phần làm thay đổi diện mạo nhiều vùng quê. Tiêu biểu có thể kể đến các mô hình: “Con đường bích họa thanh niên”, “Đường hoa thanh niên”, “Thắp sáng đường quê bằng năng lượng mặt trời”, “Thanh niên khởi nghiệp với sản phẩm OCOP” hay các mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã do thanh niên làm chủ.
Những mô hình hay, cách làm hiệu quả đã được triển khai tại cơ sở hay những dự án phát triển kinh tế tuần hoàn, sản xuất nông nghiệp hữu cơ do thanh niên khởi xướng… tất cả đều cho thấy sự linh hoạt, sáng tạo, bám sát thực tiễn của tuổi trẻ. Đặc biệt, nhiều địa phương đã hình thành đội hình thanh niên chuyển đổi số nông thôn, thanh niên tình nguyện hỗ trợ tiêu thụ nông sản qua sàn thương mại điện tử, góp phần từng bước số hóa nông nghiệp, tạo sinh kế bền vững và giúp người dân tăng thu nhập.
Theo ông Thiệu Minh Quỳnh - Bí thư Tỉnh đoàn, Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên tỉnh Thái Bình, cần tạo môi trường khởi nghiệp thuận lợi cho thanh niên nông thôn, thông qua các chính sách ưu đãi thuế, đất đai và quỹ hỗ trợ. Do đó, cần nâng cao chất lượng đào tạo, kết nối giữa trường học - doanh nghiệp - thanh niên để hình thành hệ sinh thái nghề nghiệp phù hợp. Bên cạnh đó, truyền thông mạnh mẽ về các tấm gương thanh niên điển hình, khơi dậy khát vọng cống hiến và đổi mới sáng tạo cũng như vai trò “cầu nối” của tổ chức Đoàn trong việc đưa chính sách đến gần hơn với thanh niên, tạo niềm tin và động lực để họ gắn bó với quê hương.
Để khẳng định vai trò của thanh niên trong xây dựng NTM, ông Nguyễn Tường Lâm - Bí thư Trung ương Đoàn, Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam cho rằng, trước hết cần rà soát, đánh giá lại các tiêu chí NTM tại địa bàn, nhất là sau sáp nhập và tinh gọn. Từ đó, đề xuất các công trình thanh niên mang tính liên kết vùng như: đường thanh niên kiểu mẫu, hợp tác xã thanh niên liên huyện, khu trưng bày sản phẩm OCOP… Đồng thời, đẩy mạnh hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp theo chuỗi giá trị vùng, ứng dụng chuyển đổi số và đưa sản phẩm lên các sàn thương mại điện tử. Bên cạnh đó, Trung ương Đoàn cũng sẽ tiếp tục phát triển các đội trí thức trẻ tình nguyện xây dựng thôn mới, đặc biệt ưu tiên lực lượng trẻ là con em địa phương, sinh viên, cán bộ trẻ và du học sinh sau khi về nước. Cùng với đó là đẩy mạnh xây dựng tổ chức đoàn, Hội vững mạnh, tham gia hiệu quả vào phát triển đời sống văn hóa và xây dựng chính quyền ở nông thôn.
“Để phong trào “Tuổi trẻ chung tay xây dựng NTM” giai đoạn 2026 – 2030 đạt hiệu quả, Trung ương Đoàn đề nghị Ban Chỉ đạo Trung ương kiến nghị Chính phủ xây dựng cơ chế khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức tài chính đồng hành cùng thanh niên, đặc biệt trong chuyển đổi số, khởi nghiệp nông nghiệp và phát triển sản phẩm OCOP…” - ông Nguyễn Tường Lâm chia sẻ.
Bằng những công trình, phần việc cụ thể, tuổi trẻ cả nước đã chung tay góp sức tạo sự chuyển biến, làm thay đổi diện mạo nông thôn, góp phần thực hiện các tiêu chí về xây dựng NTM, đô thị văn minh theo kế hoạch, lộ trình đã đề ra để xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phát triển.
Theo báo cáo của Trung ương Đoàn, trong giai đoạn vừa qua, các cấp bộ Đoàn đã trồng được 82.548.700 cây xanh, chăm sóc, duy trì và trồng mới 269.012km đường hoa thanh niên, triển khai vẽ 39.570km con đường bích họa. Bên cạnh đó, Đoàn Thanh niên đã chủ động, linh hoạt trong triển khai các hoạt động phù hợp với đặc điểm và nhu cầu thực tế tại địa phương, đặc biệt là tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thay vì dừng lại ở các chương trình tuyên truyền khô cứng, thanh niên đã trực tiếp tham gia vào các hoạt động có tính ứng dụng cao như: Mô hình du lịch cộng đồng gắn với văn hóa bản địa; mô hình kinh tế tuần hoàn trong sản xuất nông nghiệp, trồng rừng thích ứng với biến đổi khí hậu, cải tạo hệ thống kênh mương, nhà vệ sinh học đường, hay hỗ trợ bà con xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh theo tiêu chí NTM…
Ngành nông nghiệp và môi trường lên kế hoạch hút vốn FDI
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là chiến lược quan trọng để ngành nông nghiệp và môi trường thực hiện hóa dư địa tăng trưởng, kiến tạo giá trị bền vững.
Ngành nông nghiệp có sự đóng góp tích cực từ khu vực FDI. Ảnh: Hoàng Anh
Năm 2025 đánh dấu 30 năm Nestlé chính thức có mặt tại Việt Nam. Khởi điểm với các sản phẩm cà phê, Nestlé Việt Nam đã nhanh chóng hiện diện vào hầu hết chuỗi cung ứng cà phê, đồng hành với Chính phủ và các cơ quan liên quan triển khai nhiều chương trình phát triển bền vững.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và môi trường Võ Văn Hưng đánh giá, Nestlé là câu chuyện điển hình về sự thành công của FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, không chỉ tạo ra kinh doanh mà còn đóng góp tích cực vào nâng cao sinh kế, bảo vệ môi trường, ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số trong sản xuất.
Bên cạnh Nestlé, nhiều tập đoàn lớn trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường cũng đã lựa chọn Việt Nam làm điểm đến chiến lược như De Heus (Hà Lan), Bayer (Đức), CP Group (Thái Lan).
Thứ trưởng Hưng thông tin, hiện đang có 729 dự án FDI còn hiệu lực trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, tổng vốn đăng ký gần 11,9 tỷ USD. Các dự án này giúp tạo ra 500 nghìn việc làm trực tiếp lẫn gián tiếp, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhiều chuỗi cung ứng tại Việt Nam.
Tuy nhiên, nhìn về tổng thể bức tranh FDI ngành nông nghiệp và môi trường, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế. Cụ thể, phần lớn FDI trong lĩnh vực này có quy mô nhỏ, 23% dự án chỉ có quy mô vốn đăng ký dưới 1 triệu USD, dẫn đến hiệu quả đầu tư chưa cao và không tạo ra đột phá trong chuyển đổi mô hình sản xuất.
Các dự án FDI tập trung chủ yếu ở khu vực thuận lợi, gần thị trường tiêu thụ nhưng còn khá vắng bóng ở những vùng khó khăn. Mối liên kết giữa FDI với doanh nghiệp, hợp tác xã và bà con nông dân trong một số trường hợp còn yếu, thiếu vắng sự chuyển giao công nghệ và phát triển hệ sinh thái bản địa.
Khẳng định FDI vẫn tiếp tục là động lực quan trọng để ngành nông nghiệp và môi trường tối ưu hiệu quả, hướng đến xây dựng thương hiệu, phát huy các giá trị truyền thống và phát triển bền vững, tại diễn đàn "Nhịp cầu phát triển Việt Nam 2025", ông Hưng đưa ra bốn định hướng cho thu hút FDI ngành nông nghiệp và môi trường.
Thứ nhất, chuyển đổi từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy phát triển kinh tế nông nghiệp, thông qua tập trung vào nông nghiệp đa giá trị, chuyển đổi số toàn diện, hướng tới tạo thêm nhiều giá trị gia tăng.
Thực chất, sự chuyển đổi tư duy này cũng là mục tiêu chiến lược của ngành nông nghiệp và môi trường trong bối cảnh, yêu cầu nhiệm vụ mới. Chiến lược được thể hiện bởi những chương trình lớn, chẳng hạn như "Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha lúa vùng đồng bằng sông Cửu Long" được quốc tế đánh giá cao và được sự đồng hành của nhiều đối tác, doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Thứ hai, phát triển thương hiệu nông sản gắn với địa phương, tập trung vào nâng cấp các sản phẩm thuộc chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) để tạo ra những sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao để xuất khẩu ra thế giới.
Thứ trưởng Hưng khẳng định, việc phát triển thương hiệu nông sản gắn với văn hóa truyền thống địa phương là một dư địa đầy tiềm năng, có thể tạo ra lực tăng trưởng mạnh cho ngành nông nghiệp.
Quá trình xây dựng thương hiệu nông sản truyền thống, các nhà đầu tư nước ngoài có thể tích cực tham gia vào khâu chế biến, kết nối và đưa sản phẩm ra thị trường, tập trung vào những ngành hàng chủ lực của Việt Nam như lúa gạo, trái cây, thủy sản, dược liệu, cà phê.
Thứ ba, ưu tiên thu hút FDI vào các dự án môi trường như xử lý chất thải, tái chế, năng lượng tái tạo, phục hồi hệ sinh thái, phát triển thị trường tín chỉ carbon.
Cuối cùng, thu hút FDI gắn với tăng trưởng xanh, hướng đến thực hiện mục tiêu cắt giảm khí thải nhà kính.
Với bốn định hướng này, lãnh đạo ngành nông nghiệp và môi trường cam kết sẽ đồng hành với doanh nghiệp FDI trong cải cách thủ tục hành chính, phát triển vùng nguyên liệu, thúc đẩy kết nối FDI với các hệ sinh thái doanh nghiệp, hợp tác xã và bà con nông dân.
Tập huấn kỹ thuật canh tác sầu riêng, măng cụt cho nông dân Giồng Riềng
Tại xã Ngọc Hòa, huyện Giồng Riềng (Kiên Giang), Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh Kiên Giang phối hợp Trung tâm Khuyến nông tỉnh, Phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Giồng Riềng tổ chức lớp tập huấn kỹ thuật canh tác sầu riêng, măng cụt trước, trong và sau thu hoạch.
Các chuyên gia nông nghiệp và nông dân tham quan vườn măng cụt tại xã Ngọc Hòa (Giồng Riềng).
Gần 100 nông dân trồng sầu riêng, măng cụt tại xã Ngọc Hòa và Hòa Thuận tham dự lớp tập huấn.
Phó Chủ tịch Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh Lê Thị Nhứt giới thiệu tổng quan tình hình sản xuất cây ăn trái tại huyện Giồng Riềng và phổ biến các loại sâu bệnh thường gặp trên cây sầu riêng, măng cụt. Các chuyên gia nông nghiệp trực tiếp hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc theo tiêu chuẩn hữu cơ, giúp nông dân nâng cao kỹ thuật sản xuất bền vững.
Thông qua lớp tập huấn, nông dân được trang bị thêm kiến thức về kỹ thuật canh tác mới, phương pháp cải tạo đất và chuyển đổi từ canh tác truyền thống sang mô hình canh tác bền vững, tạo điều kiện cho cây phát triển tốt hơn.
Chủ tịch Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh Kiên Giang Lương Thanh Hải cho biết việc tập huấn nhằm hỗ trợ nông dân áp dụng thực hành nông nghiệp tốt, nâng cao chất lượng sản phẩm, góp phần thúc đẩy tiêu thụ trái sầu riêng, măng cụt trên thị trường nội địa và xuất khẩu.
Krông Pa: 69 căn nhà bị tốc mái do mưa dông kèm lốc xoáy
Chiều 26-4, ông Võ Ngọc Châu-Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Krông Pa cho biết, mưa lớn kèm theo dông lốc xảy ra tại một số xã trên địa bàn huyện vào ngày 24-4 đã làm 69 căn nhà bị tốc mái và nhiều diện tích cây trồng của người dân bị thiệt hại nặng.
Người dân buôn Hlang, xã Chư Rcăm sửa chữa lại căn nhà bị dông, lốc làm tốc mái tôn. Ảnh: NC
Theo báo cáo nhanh của Ban Chỉ huy phòng-chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn huyện Krông Pa, dông, lốc đã làm 69 căn nhà bị tốc mái nhà, tập trung tại các xã Ia Rsươm, Ia Rsai và Chư Rcăm.
Trong đó, có 5 hộ ở bị thiệt hại trên 70%, 35 hộ thiệt hại từ 30-70% và 29 hộ thiệt hại dưới 30%. Ngoài ra, nhiều công trình phụ như: Hiên nhà, tường rào cũng bị hư hỏng với tổng thiệt hại ước tính khoảng 123 triệu đồng.
Về sản xuất nông nghiệp, mưa dông gây thiệt hại hơn 1 ha điều tại xã Ia Rsươm, ước tính thiệt hại khoảng 60 triệu đồng. Tổng thiệt hại do thiên tai gây ra khoảng 573 triệu đồng.
Nhà một hộ dân ở buôn Nu, xã Ia Rsươm bị dông lốc làm tốc mái. Ảnh: NC
Ngay sau khi thiên tai xảy ra, Ban Chỉ huy phòng-chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn huyện đã phối hợp với chính quyền các xã bị ảnh hưởng tiến hành thăm hỏi, động viên và hướng dẫn người dân chủ động mua vật tư sửa chữa nhà cửa, khẩn trương ổn định cuộc sống.
Đồng thời, đề xuất UBND xem xét hỗ trợ một phần kinh phí cho các hộ dân bị thiệt hại nặng.
Nâng cao kỹ năng, kiến thức phát triển du lịch cộng đồng
Phòng Văn hóa, khoa học và thông tin huyện Chiêm Hóa (Tuyên Quang) vừa tổ chức lớp bồi dưỡng kỹ năng làm du lịch cộng đồng, du lịch nông nghiệp, nông thôn năm 2025 cho 50 học viên là Bí thư, trưởng thôn, các hộ kinh doanh dịch vụ du lịch trên địa bàn xã Trung Hà.
Tham gia lớp tập huấn có 50 học viên là Bí thư, trưởng thôn, các hộ kinh doanh dịch vụ du lịch trên địa bàn xã Trung Hà
Lớp tập huấn nhằm nâng cao năng lực, kỹ năng làm du lịch cho lực lượng tham gia, phục vụ trực tiếp vào các hoạt động du lịch. Từ đó, góp phần xây dựng hình ảnh điểm đến, thúc đẩy phát triển du lịch tại địa phương.
Tham gia tập huấn, các học viên được trang bị kiến thức, kỹ năng quản lý, xây dựng phương án và tổ chức phát triển du lịch cộng đồng, du lịch nông nghiệp, nông thôn, mô hình du lịch cộng đồng dựa trên tài nguyên bản địa, định vị sản phẩm du lịch. Các bước hình thành điểm đến du lịch cộng đồng, kỹ năng cơ bản quản lý điều hành, tổ chức vận hành điểm du lịch cộng đồng, kỹ năng đón tiếp, phục vụ, giao tiếp ứng xử với khách du lịch.
Trong đó, chú trọng công tác tuyên truyền, quảng bá thu hút khách du lịch, từ đó nâng cao nhận thức về du lịch cộng đồng, du lịch nông nghiệp, nông thôn, bảo vệ tài nguyên môi trường du lịch, kết hợp nâng cao kiến thức lịch sử, văn hóa về điểm du lịch tại địa phương.
Xã Trung Hà, huyện Chiêm Hóa là địa phương giàu tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng, du lịch nông nghiệp, nông thôn
Trong quá trình tập huấn, các học viên còn được thực hành một số kỹ năng giao tiếp, phục vụ lưu trú, hướng dẫn đón tiếp khách, cách khai thác phát triển các sản phẩm nông nghiệp, nông thôn, thủ công mỹ nghệ, OCOP phục vụ khách du lịch...
Kết thúc tập huấn các học viên sẽ nắm vững những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm quản lý, khai thác, vận hành các dịch vụ du lịch cộng đồng, du lịch nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn xã Trung Hà nói riêng, huyện Chiêm Hóa nói chung.
Tăng vốn điều lệ 5.000 tỷ cho ngân hàng hỗ trợ xóa đói, giảm nghèo vùng sâu
Nhằm hỗ trợ thành viên, người dân lĩnh vực nông nghiệp ở vùng sâu, vùng xa, Ngân hàng Nhà nước kiến nghị tăng vốn điều lệ 5.000 tỷ đồng cho Ngân hàng Hợp tác xã.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng hôm nay trình bày tờ trình tại phiên họp 44 Ủy ban Thường vụ Quốc hội về chủ trương hỗ trợ vốn nhà nước để tăng vốn điều lệ cho Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (NHHTX) từ nguồn ngân sách nhà nước.
Bà Hồng cho biết, NHHTX là công cụ quan trọng của Chính phủ để thực hiện chính sách tam nông, kích thích phát triển kinh tế - xã hội ở nông thông, vùng nông nghiệp.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đề xuất tăng vốn điều lệ cho NHHTX. Ảnh: Quốc hội
Việc tăng vốn điều lệ cho NHHTX là nhằm tăng năng lực tài chính để hiện thực hóa các chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác xã, đẩy lùi tín dụng đen, thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo,…
Trình bày báo cáo thẩm tra, ông Phan Văn Mãi, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Quốc hội tán thành sự cần thiết hỗ trợ vốn nhà nước để tăng vốn điều lệ cho NHHTX, song thẩm quyền quyết định chủ trương thuộc về Chính phủ.
Ngoài ra, đại diện cơ quan thẩm tra cũng đề nghị Chính phủ xác định rõ khả năng cân đối, bố trí vốn tăng vốn điều lệ.
Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy việc tăng vốn điều lệ cho NHHTX là cần thiết để thể chế hóa đường lối của Đảng, Nhà nước và hỗ trợ NHHTX thực hiện nhiệm vụ được giao.
“Theo Luật Đầu tư công năm 2024, mức đề xuất hỗ trợ vốn điều lệ 5.000 tỷ đồng không thuộc mức dự án quan trọng quốc gia, do đó không thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương của Quốc hội, mà thuộc thẩm quyền của Chính phủ”, ông Thanh nêu rõ.
Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị Chính phủ trên cơ sở xác định rõ nguồn vốn, cân đối vốn hỗ trợ tăng vốn điều lệ cho NHHTX theo quy định.
Ông Thanh cũng lưu ý cần có thêm các giải pháp khác để tăng vốn điều lệ cho NHHTX, không chỉ từ ngân sách nhà nước.
Ngân hàng hợp tác xã (NHHTX) thành lập từ năm 2013 trên cơ sở chuyển đổi từ Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) Trung ương.
NHHTX là tổ chức tín dụng hoạt động theo mô hình hợp tác xã, là ngân hàng của hệ thống gần 1.200 QTDND.
Mục tiêu của hoạt động NHHTX là hỗ trợ tài chính, điều hòa vốn, đáp ứng nhu cầu tín dụng cho hơn 1,9 triệu khách hàng trên địa bàn 57/63 tỉnh thành trên toàn quốc.
Phần lớn khách hàng của NHHTX là các đối tượng yếu thế sinh sống tại nông thôn, nhiều thành viên vay vốn thuộc diện nghèo tại các xã vùng sâu vùng xa, khó tiếp cận vốn vay ngân hàng thương mại.
Giúp phụ nữ Tây Nguyên xây dựng kỹ năng và tự tin làm nông nghiệp bền vững, cải thiện sinh kế
Cung cấp nhiều kiến thức, kỹ năng hữu ích nhằm thay đổi nhận thức của phụ nữ, nâng cao năng lực của phụ nữ nông dân, chương trình She Feeds the World - Tôi Vui Gieo tại Việt Nam đã hỗ trợ hơn 8.000 người tiếp cận và áp dụng các phương pháp canh tác bền vững, cải thiện sinh kế.
Phụ nữ khu vực Tây Nguyên được cung cấp kiến thức, thông tin, xây dựng kỹ năng và sự tự tin trong thực hành nông nghiệp bền vững
Thay đổi xanh cho đời lành
Đến xã Ea Mdróh, huyện Cư M'gar, tỉnh Đắk Lắk, gặp chị Đàm Thị Phương, có thể cảm nhận được niềm vui của người phụ nữ nông dân chất phác này khi được tham gia vào nhóm sinh kế trồng rau sau nhiều năm làm nông nghiệp. Tham gia vào nhóm sinh kế trồng rau của dự án Tôi Vui Gieo từ đầu năm 2024, chị Phương mạnh dạn đăng ký làm mô hình điểm và đã vay từ quỹ của nhóm để đầu tư giống, hệ thống tưới phun sương và vật tư. Đây là động lực để chị thay đổi cách canh tác cây trồng
Chị Phương chia sẻ, từ một người nông dân phụ thuộc vào các sản phẩm phân bón vô cơ, chị đang dần thay thế bằng chế phẩm vi sinh bản địa (IMO) và phân bón hữu cơ cho vườn rau của mình. Qua các buổi tập huấn từ dự án, chị và các thành viên trong nhóm được cung cấp những kiến thức nông nghiệp hoàn toàn mới và hữu ích, không chỉ giúp tiết kiệm, giảm chất hóa học mà còn tốt cho môi trường sống của con người.
Chị Đàm Thị Phương (trái) được cung cấp những kiến thức nông nghiệp hoàn toàn mới, giúp tiết kiệm, giảm chất hóa học trong canh tác
Chị Phương dự định thời gian tới sẽ mở rộng sản xuất rau và thương mại hóa chế phẩm IMO để có thêm nguồn thu nhập và cùng lan tỏa lối canh tác gieo trồng xanh và lành đến với nhiều phụ nữ hơn.
Tự tin biến sở thích thành sinh kế
Tìm kiếm nguồn thu nhập từ trồng nấm tại nhà là mong muốn của chị H' Nối Byă và nhiều chị em phụ nữ ở xã Cư Drăm, huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk. Thế nhưng, ước mơ ấy vẫn chỉ nằm trong suy nghĩ cho đến khi chị H' Nối Byă tham gia dự án Tôi Vui Gieo. Những hỗ trợ nhỏ nhưng kịp thời từ dự án đã giúp chị mạnh dạn bắt đầu hiện thực hóa mong mỏi của mình.
Sau các buổi tập huấn, tham quan học hỏi kinh nghiệm và tìm hiểu thị trường, chị H'Nối cùng một số chị em trong buôn đã thành lập nhóm trồng nấm. Họ cùng nhau sản xuất, khảo sát thị trường và bán hàng qua mạng xã hội. Nhờ chất lượng tốt và được người tiêu dùng ủng hộ, nấm làm ra đến đâu bán hết đến đó, thậm chí không đủ cung cấp.
Từ 200 bịch phôi nấm ban đầu chị mạnh dạn đầu tư nâng quy mô lên 1.000 bịch. Nhờ đó, chị có thêm hơn 3 triệu đồng thu nhập mỗi tháng. Không chỉ mang lại kinh tế, nấm còn giúp gia đình chị cải thiện bữa ăn hàng ngày.
Trồng nấm khiến tôi tự tin hơn. Khi chị em đến tận nhà xem tôi tưới và thu hoạch nấm, thấy họ hào hứng, tôi cảm thấy rất tự hào.
Chị H’ Nối Byă, xã Cư Drăm, huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
Việc trồng nấm còn góp phần bảo vệ môi trường. Những nguyên liệu bỏ đi như rơm rạ, bẹ ngô sau thu hoạch được tận dụng hiệu quả. Đặc biệt, các hộ không trồng nấm cũng có thể bán lại rơm cho các hộ trồng với giá 50.000 đồng/bó, tạo thêm nguồn thu nhập thụ động cho cả buôn làng.
Theo chị H'Nối, trồng nấm không quá phức tạp, phù hợp với cả những người có ít vốn và thời gian. Với nhu cầu tiêu dùng nấm sạch ngày càng cao, đây là sinh kế bền vững và tiềm năng. Hiện chị cũng đang liên kết với nhà hàng để ổn định đầu ra.
Với những nữ nông dân vùng đất Tây Nguyên đầy nắng và gió như chị Đàm Thị Phương, chị H'Nối Byă, Dự án Tôi Vui Gieo không chỉ giúp họ được nâng cao kiến thức, kỹ năng, giảm nghèo về thông tin mà còn thay đổi cuộc sống và mở ra cơ hội để họ nhìn thấy tương lai tươi sáng hơn, từ những điều tưởng như nhỏ bé.
Đời sống của chị H' Nối Byă được cải thiện nhờ trồng nấm
Tôi Vui Gieo là một phần của chương trình She Feeds the World toàn cầu. Tại Việt Nam, chương trình được triển khai hiệu quả nhờ sự phối hợp của Bộ Nông nghiệp và Môi trường - Đối tác Phát triển Nông nghiệp Bền vững Việt Nam (PSAV), Trung tâm Khuyến nông Quốc gia (NAEC), CARE và Trung tâm Phát triển Cộng đồng (CDC) nhằm giải quyết các thách thức mà những người nông dân sản xuất quy mô nhỏ tại Tây Nguyên đang gặp phải.
Sáng kiến này đã trao quyền cho nông dân địa phương, đặc biệt là phụ nữ, giúp họ cải thiện sinh kế bền vững lâu dài.
Ông Bạch Thành Tuấn, Giám đốc CDC Đắk Lắk
Được khởi động vào tháng 9/2022 đến nay, chương trình tập trung vào cung cấp hỗ trợ nhằm giúp phụ nữ xây dựng kỹ năng và sự tự tin trong thực hành nông nghiệp bền vững, tham gia thị trường, đảm bảo an ninh lương thực và dinh dưỡng - từ đó tăng năng suất và thu nhập. Thông qua đào tạo và nâng cao kỹ năng, chương trình không chỉ cung cấp các công cụ cần thiết để nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn góp phần nâng cao kiến thức bảo vệ môi trường.
Nhờ có chương trình, chị em phụ nữ khu vực Tây Nguyên được cung cấp kiến thức, thông tin, xây dựng kỹ năng và sự tự tin trong thực hành nông nghiệp bền vững
Hỗ trợ hơn 8.000 người tiếp cận nguồn lực sản xuất
Tính đến tháng 4/2025, chương trình She Feeds the World tại Việt Nam đã tạo ra những tác động rõ rệt, hỗ trợ hơn 8.000 người tiếp cận và áp dụng các phương pháp canh tác bền vững, nâng cao quyền kiểm soát, tiếp cận nguồn lực sản xuất và cải thiện khả năng tham gia thị trường.
Thông qua chương trình này, chúng tôi không chỉ tăng năng suất mà còn giúp nông dân tiếp cận thị trường, cải thiện thu nhập, góp phần đảm bảo an ninh lương thực và tương lai tốt đẹp hơn cho các gia đình.
Ông Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia
Chương trình đã góp phần thay đổi phương pháp canh tác thông qua những đổi mới quan trọng như áp dụng công nghệ theo dõi sức khỏe đất, hệ thống tưới nhỏ giọt tiết kiệm nước và giải pháp bón phân cải tiến sử dụng phân hữu cơ. Những thay đổi này đã giúp tăng 20% năng suất, giảm 30% việc sử dụng phân bón hóa học và giảm 20% lượng nước tiêu thụ.
Cũng thông qua chương trình, mạng lưới khuyến nông cộng đồng cũng tham gia tích cực tổ chức các khóa đào tạo thực hành, chia sẻ kinh nghiệm và xây dựng tài liệu hướng dẫn về các mô hình chuỗi giá trị nhằm nhân rộng trên toàn quốc.
Nhiều phụ nữ được hỗ trợ, tự tin phát triển kinh tế
Kết quả chương trình cho thấy thu nhập của nông dân đã được cải thiện đáng kể nhờ năng suất cao hơn, khả năng tiếp cận thị trường tốt hơn và áp dụng kỹ thuật canh tác mới. Một thành tựu nổi bật là chương trình tập trung hỗ trợ nông dân, với hơn 60% người tham gia là phụ nữ. Sáng kiến này đã giúp họ có thêm quyền kiểm soát trong hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Chương trình đã thúc đẩy vai trò chủ động của phụ nữ trong quá trình sản xuất.
Bà Lê Kim Dung, Giám đốc Quốc gia CARE Việt Nam
Bắt đầu từ thay đổi nhận thức, thói quen, chương trình đã có những đóng góp vào việc cải thiện an ninh lương thực, nâng cao sinh kế cho nông dân quy mô nhỏ và tạo ra những bước tiến đáng kể trong phát triển nông nghiệp bền vững tại khu vực Tây Nguyên và truyền cảm hứng cho các sáng kiến tương tự trên toàn cầu, cổ vũ phụ nữ và thực hành nông nghiệp bền vững vì một tương lai tốt đẹp hơn.