Ngọt thơm vị ổi ruột hồng
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Ông Nguyễn Văn Bé, Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp ổi ruột hồng Thới Tân (HTX ổi ruột hồng), xã Thới Tân, huyện Thới Lai (TP Cần Thơ), phấn khởi “khoe” thu nhập đáng kể của các xã viên, thành viên. Ông Bé còn lạc quan với kế hoạch nhân rộng diện tích canh tác để mạnh dạn thực hiện hợp đồng cung ứng trái cho công ty mới, góp phần tạo việc làm, thu nhập ổn định cho người dân xã nhà.
Cán bộ ngành, đoàn thể tham quan vườn ổi của xã viên HTX ổi ruột hồng.
Ông Bé chia sẻ, năm 2016, trong dịp tham gia lớp tập huấn kỹ thuật nông nghiệp, được giới thiệu các giống cây ăn trái đặc sản, trong đó, ông Bé quan tâm tìm hiểu về ổi ruột hồng và trao đổi với Công ty CP Vườn trái cây Cửu Long sẽ trồng thử nghiệm. Ông Bé bàn với gia đình đầu tư cải tạo 3,5 công đất ruộng thành đất vườn trồng 400 cây ổi ruột hồng. Sau gần 1 năm chăm sóc theo hướng dẫn quy chuẩn kỹ thuật của công ty, ông thu hoạch và bán ổi cho công ty. Ông Bé cho biết: “Giống ổi ruột hồng dùng chế biến nước ép nên trái mọng nước, ruột mềm, vị thanh. Cây ổi nhẹ vốn đầu tư, công chăm sóc. Năm đầu tiên trồng, sản lượng trái ít nhưng được công ty bao tiêu, có thu nhập nên tôi phấn khởi lắm”. Tăng dần diện tích và sản lượng ổi, hiện ông Bé trồng 1ha với khoảng 1.000 cây ổi ruột hồng. Cách 3 ngày, ông Bé mướn nhân công hái từ 400kg đến 2 tấn trái, bán cho công ty với giá 4.600 đồng/kg.
Hướng dẫn khách tham quan gần 1ha ổi ruột hồng sum suê, chị Huỳnh Thị Lài, ở ấp Thới Phước A, xã viên HTX ổi ruột hồng, kể, lúc trước, vợ chồng chị trồng mít Thái xen ổi ruột hồng. Thời gian sau, mít rớt giá, không bán được, nên vợ chồng chị quyết định chặt bỏ tất cả mít, chuyên canh ổi ruột hồng. Chị Lài được vay 50 triệu đồng vốn ưu đãi, tham gia tổ hợp tác rồi HTX và được Công ty CP Vườn trái cây Cửu Long cung ứng cây giống, hướng dẫn kỹ thuật canh tác và bao tiêu nông sản nên việc sản xuất ổn định, cải thiện thu nhập. Cứ 3 ngày, chị Lài mướn nhân công hái trái để công ty đến thu mua.
Theo ông Nguyễn Văn Bé, tùy sản lượng, công ty thanh toán tiền cho xã viên mỗi tháng. Cụ thể, trong tháng 5-2024, chị Lài thu nhập 50 triệu đồng; anh Hồ Hữu Đậm, ở ấp Thới Phước A, cũng “bỏ túi” 72 triệu đồng, với 1,5ha ổi ruột hồng...
Năm 2018, Hội Nông dân xã thành lập Tổ hợp tác nông nghiệp ổi ruột hồng, nhận cung ứng trái cho công ty. Đến năm 2023, HTX ổi ruột hồng ra mắt, có 20 xã viên, với diện tích canh tác 25ha. Được công ty bao tiêu nông sản, các xã viên tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật canh tác, đảm bảo năng suất, chất lượng ổi. Ngoài ra, HTX còn kết hợp 13 hội viên nông dân trên địa bàn trồng 7ha ổi ruột hồng để cung ứng cho công ty. Hội Nông dân xã quan tâm giới thiệu xã viên HTX vay vốn ưu đãi Ngân hàng Chính sách xã hội; có 10 xã viên vay Quỹ Hỗ trợ nông dân (50 triệu đồng/hộ) để phát triển ổi ruột hồng.
Bà Đỗ Thị Diễm Kiều, Phó Chủ tịch UBND xã Thới Tân, cho biết: “Không chỉ mang lại thu nhập ổn định cho các xã viên, HTX ổi ruột hồng còn tạo việc làm, thu nhập thường xuyên cho trên 100 lao động tại chỗ. Qua đó, giảm thiểu tình trạng người dân địa phương rời quê đi tìm việc làm, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, rủi ro, ảnh hưởng cuộc sống, sinh hoạt gia đình. HTX hoạt động ngày thêm khởi sắc, giúp xã viên nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương”. Xã quan tâm và đồng hành hoạt động HTX, nắm bắt nhu cầu xã viên để hỗ trợ vay các nguồn vốn ưu đãi, tập huấn trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết cũng như nhắc nhở xã viên tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật của công ty bao tiêu sản phẩm theo hướng lâu dài, bền vững”.
“Để phát huy thế mạnh thương hiệu ổi ruột hồng Thới Tân OCOP 3 sao, mang lại việc làm, thu nhập ổn định cho nông hộ, sắp tới, UBND xã Thới Tân sẽ vận động, khuyến khích các xã viên HTX và vận động các nông hộ tham gia HTX, mở rộng diện tích trồng ổi ruột hồng, có thể đảm bảo cung ứng sản lượng lớn theo nhu cầu các công ty đến tham quan, khảo sát để có kế hoạch ký kết hợp đồng” - bà Đỗ Thị Diễm Kiều nhấn mạnh.
Bài, ảnh: ANH PHƯƠNG
Khánh Hòa: Nâng cao giá trị thương hiệu sầu riêng Khánh Sơn
Nguồn tin: Báo Khánh Hòa
Cùng với việc liên kết sản xuất, phát triển mã số vùng trồng để xuất khẩu sầu riêng chính ngạch, huyện Khánh Sơn (Khánh Hòa) còn kêu gọi các doanh nghiệp chế biến sâu các sản phẩm sầu riêng để nâng cao giá trị của loại trái cây đặc sản này.
Liên kết sản xuất, phát triển mã số vùng trồng
Với lợi thế về điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, sầu riêng trên vùng đất Khánh Sơn đã trở thành loại nông sản đặc hữu, giá trị cao. Sản lượng sầu riêng hàng năm của huyện đạt hơn 15.000 tấn và đã được đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, được bình chọn là thương hiệu vàng nông nghiệp Việt Nam. Theo lãnh đạo Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Khánh Sơn, đến nay, trên địa bàn huyện đã phát triển được 2.600ha sầu riêng, trong đó hơn 1.500ha đang trong thời kỳ cho trái, với các loại sầu riêng như: Monthong, Ri6, Musang King, Chín Hóa. Trong thời gian ngắn nữa, các nhà vườn sẽ bắt đầu thu hoạch rộ sầu riêng, ước tính sản lượng năm nay đạt khoảng 17.000 - 18.000 tấn.
Sầu riêng đã mang lại thu nhập cao cho người dân huyện Khánh Sơn.
Ông Phan Trường Nam - Chủ tịch UBND xã Sơn Trung chia sẻ: “Trên địa bàn xã có 230ha sầu riêng, với diện tích trong thời kỳ kinh doanh là 150ha, dự kiến sản lượng thu hoạch năm nay khoảng 1.300 tấn. Trong phát triển sầu riêng, xã chú trọng hỗ trợ thành lập được 3 tổ hợp tác, 1 hợp tác xã, thu hút hơn 50 nhà vườn tham gia. Nhiều sản phẩm của các tổ hợp tác, hợp tác xã trồng cây ăn quả được công nhận đạt tiêu chuẩn OCOP; nhiều diện tích trồng sầu riêng của nông dân được cấp mã số vùng trồng để xuất khẩu sầu riêng chính ngạch sang thị trường Trung Quốc…”.
Đến nay, huyện Khánh Sơn đã có 11 hợp tác xã và 25 tổ hợp tác trồng cây ăn quả, tiêu thụ sầu riêng thu hút hàng trăm nhà vườn tham gia. Địa phương còn vận động, khuyến khích người dân trồng sầu riêng trong vùng quy hoạch, phù hợp với khí hậu thổ nhưỡng, nhất là bảo đảm nguồn nước tưới. Đồng thời, sản xuất sầu riêng theo tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt (GAP) với tổng diện tích hơn 350ha; phát triển được 34 sản phẩm đạt OCOP 3 sao và 1 sản phẩm đạt 4 sao. Đặc biệt, trên địa bàn có 15 mã vùng trồng sầu riêng được xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc với tổng diện tích 430ha.
Theo ông Đinh Văn Dũng - Chủ tịch UBND huyện Khánh Sơn, để phát triển sầu riêng theo hướng sạch, an toàn, có chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc, việc được cấp mã số vùng trồng là giải pháp quan trọng nhằm duy trì và nâng cao giá trị của loại nông sản này. Để duy trì các mã số vùng trồng, thời gian qua, huyện đã đẩy mạnh tuyên truyền, tập huấn, hướng dẫn người dân về kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch sầu riêng theo quy định. Đồng thời, đẩy mạnh hỗ trợ người dân sản xuất sầu riêng theo hướng thực hành nông nghiệp tốt; vận động các hộ đẩy mạnh liên kết sản xuất, đồng bộ quy trình sản xuất. Từ đó, dần đáp ứng các tiêu chí cấp mã số vùng trồng như diện tích, quy trình sản xuất, chất lượng sản phẩm…
Chế biến sâu để nâng cao giá trị
Không chỉ chú trọng phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước, xuất khẩu sầu riêng tươi chính ngạch, một hướng đi được địa phương chú trọng là mời gọi các doanh nghiệp đầu tư chế biến, nâng cao giá trị sầu riêng tươi. Tiên phong đầu tư trong lĩnh vực này là Công ty TNHH Nông nghiệp Thành Hưng - đây là doanh nghiệp địa phương lựa chọn trồng, kinh doanh và chế biến, phát triển các dòng sản phẩm gia tăng giá trị trái sầu riêng tươi. Từ vùng trồng sầu riêng theo hướng hữu cơ, đã đạt chuẩn VietGAP, từng trái sầu riêng đạt độ chín được doanh nghiệp thu hoạch, qua quá trình chế biến tại nhà xưởng đạt tiêu chuẩn đã cho ra đời các dòng sản phẩm sầu riêng sấy, kem sầu riêng, sầu riêng cấp đông, sữa chua sầu riêng…
Bà Nguyễn Thị Vinh Hằng - Phó Giám đốc Công ty TNHH Nông nghiệp Thành Hưng chia sẻ: “Hiện nay, công ty tập trung xây dựng chuỗi liên kết với các hợp tác xã trồng cây ăn trái, nhà vườn trên địa bàn huyện để mở rộng, phát triển vùng trồng sầu riêng theo hướng hữu cơ, đảm bảo an toàn để đưa vào chế biến sâu, tiếp tục nghiên cứu phát triển các dòng sản phẩm từ trái sầu riêng tươi và xuất khẩu chính ngạch trái sầu riêng ra nước ngoài”.
Ông Đinh Văn Dũng cho biết: Việc phát triển đa dạng các sản phẩm trên nền tảng sầu riêng tươi phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sẽ góp phần nâng cao giá trị thương hiệu cho sầu riêng Khánh Sơn, nâng cao thu nhập cho người trồng sầu riêng; gia tăng giá trị sản xuất bình quân/ha đất canh tác của huyện đến nay đạt 100 triệu đồng/ha. Huyện khuyến khích các doanh nghiệp phát triển nông nghiệp theo hướng tích hợp đa giá trị, ngoài giá trị nông sản là chính, còn có sản xuất nông nghiệp hữu cơ, đa dạng các sản phẩm OCOP, tích hợp nông nghiệp với du lịch, liên kết theo chuỗi từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ. Địa phương cũng kêu gọi các nhà đầu tư, doanh nghiệp đến Khánh Sơn đầu tư nhà máy chế biến sầu riêng và nông sản…
HẢI LĂNG
Giải quyết khó khăn trên vùng bơ 034
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Những năm gần đây, diện tích và sản lượng bơ 034 toàn tỉnh Lâm Đồng nói chung, huyện Bảo Lâm nói riêng tăng cao so với nhu cầu, dẫn đến giảm thấp giá bán vào thời điểm thu hoạch chính vụ trong các tháng 5, 6,7. Giải quyết khó khăn này cần có những biện pháp trước mắt cũng như lâu dài.
Thương hiệu bơ 034 Dậu Loan ở thị trấn Lộc Thắng, huyện Bảo Lâm tác động các biện pháp kỹ thuật để thu hoạch mỗi năm 2 vụ
• THU HOẠCH CHÍNH VỤ VÀ NGHỊCH VỤ
Trang trại bơ 034 Dậu Loan ở thị trấn Lộc Thắng, huyện Bảo Lâm, nơi sinh trưởng cây bơ gốc 034 đến giữa tháng 6/2024 thu hoạch phần lớn sản lượng chính vụ. Với tổng diện tích bơ 034 chuyên canh 5 ha phân bổ mỗi năm thu một vụ chính 4 ha và thu 2 vụ chính và vụ phụ 1 ha. Mật độ chuyên canh 350 - 400 cây/ha tùy theo địa hình từng khu vực. Kết quả thu hoạch chính vụ bơ 034 đạt 3 - 5 tấn mỗi tuần trong 2 tháng vừa qua, tăng 10% so với năm ngoái. Còn lại khoảng 20 tấn bơ 034 đậu trái cuối mùa, trang trại tiếp tục nuôi dưỡng đảm bảo chất lượng thu hoạch vào đầu tháng 7/2024.
Chủ nhân Trang trại bơ 034 Dậu Loan chia sẻ: “Mùa bơ 034 năm 2024 so với năm 2023 tăng sản lượng thu hoạch từ 10% trở lên, nhưng giá tiêu thụ vẫn giữ nguyên. Bù lại, trang trại chúng tôi qua nhiều năm đã tác động kỹ thuật 100 cây bơ 034 thu hoạch chính vụ và trái vụ, nên thu nhập trên mỗi ha ước trong năm 2024 đạt khoảng 350 - 400 triệu đồng…”. Cụ thể bơ 034 trái vụ Dậu Loan thu hoạch kéo dài sau 2 tháng đầu năm 2024, sản lượng bình quân trên mỗi ha từ 70 - 80 tấn, bằng khoảng 30% so với chính vụ, nhưng giá bán cao gấp 3 - 4 lần so với bơ 034 chính vụ. Chưa kể trên mỗi cây bơ trái vụ đã thu hoạch vụ chính từ đầu tháng 5 trở đi, sản lượng cộng thêm 50% so với cây bơ một vụ.
Theo ngành Nông nghiệp huyện Bảo Lâm “Bảo Lâm là vùng đất thích hợp cho cây bơ sinh trưởng, đặc biệt giống bơ 034 xuất phát từ hộ ông Nguyễn Văn Dậu, Tổ 2, thị trấn Lộc Thắng, được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lâm Đồng công nhận cây bơ đầu dòng vào tháng 10 năm 2010”. Qua đó nhờ đặc tính cây bơ 034 cho năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao, nông dân huyện Bảo Lâm đã trồng xen canh trong vườn cây công nghiệp làm cây che bóng và tạo ra thu nhập ổn định trên từng đơn vị diện tích đất sản xuất. Lũy kế đến nay, toàn huyện Bảo Lâm phát triển hơn 2.370 ha bơ 034, tập trung các xã Lộc Nam, Lộc Thành, Lộc An, Lộc Đức, Lộc Ngãi, Lộc Phú, Lộc Tân, Tân Lạc và thị trấn Lộc Thắng.
• KẾT HỢP KINH NGHIỆM VỚI KỸ THUẬT MỚI
Thuận lợi trên vùng bơ 034 huyện Bảo Lâm canh tác kết hợp kinh nghiệm với kỹ thuật mới theo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, được người tiêu dùng ưa chuộng, thu hoạch lệch vụ so với các vùng lân cận. Tuy nhiên bơ 034 huyện Bảo Lâm thời gian bảo quản ngắn, vận chuyển khó khăn, nên chưa đủ điều kiện xuất khẩu sản lượng lớn. Trong thời điểm cung không đủ cầu, một bộ phận thương lái, người nông dân thu họach bơ non, không đảm bảo chất lượng, ảnh hưởng đến thương hiệu bơ 034 đặc trưng của huyện Bảo Lâm. Trong khi đó, mối liên kết giữa người nông dân và doanh nghiệp, HTX, cơ sở thu mua sơ chế, chế biến chưa thực sự chặt chẽ, hợp tác cùng có lợi; quy mô còn nhỏ lẻ; chưa xây dựng nhãn hiệu chứng nhận tập thể để kiểm soát chất lượng sản phẩm bơ 034 Bảo Lâm.
Để giải quyết khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản, kinh doanh, phát triển bền vững cây bơ 034, huyện Bảo Lâm xác định những nhóm giải pháp trọng tâm trong thời gian tới. Đó là hỗ trợ nông dân phát triển diện tích sản xuất bơ theo các tiêu chuẩn chứng nhận an toàn trong nước và quốc tế như VietGAP, GlobalGAP, Organic...
Đồng thời khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới hệ thống thiết bị, công nghệ, nâng cao công suất nhà máy chế biến, bảo quản, đa dạng hóa sản phẩm; áp dụng hệ thống quản lý chất lượng HACCP, ISO nhằm tăng sức cạnh tranh sản phẩm bơ 034, nâng cao giá trị gia tăng trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
“Tiếp tục phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ logistics nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp vận chuyển tiêu thụ sản phẩm bơ 034 huyện Bảo Lâm. Bên cạnh đó, hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh bơ 034 Bảo Lâm tham gia hội chợ, giới thiệu sản phẩm, kết nối thị trường tiêu thụ. Ngoài ra, tăng cường kiểm tra, thẩm định các cơ sở sơ chế, chế biến, kịp thời ngăn chặn, xử lý vi phạm, đảm bảo sản phẩm bơ 034 Bảo Lâm đạt chất lượng an toàn thực phẩm trước khi đưa ra thị trường…”, ngành Nông nghiệp huyện Bảo Lâm nhấn mạnh.
VĂN VIỆT
Thu nhập cao nhờ mô hình trồng sen lấy ngó
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Những năm gần đây, nhiều nông dân tại ấp Vĩnh Mỹ, thị trấn Vĩnh Thạnh, huyện Vĩnh Thạnh, TP Cần Thơ đã chuyển đổi các diện tích đất trồng lúa và nuôi thủy sản kém hiệu quả sang mô hình trồng sen lấy ngó. Mô hình này đã giúp nông dân có được nguồn thu nhập khá tốt nhờ ngó sen thu hoạch thường xuyên và đầu ra sản phẩm cũng thuận lợi, từ đó góp phần mở thêm hướng đi mới giúp nông dân địa phương nâng cao thu nhập.
Anh Nguyễn Thành Đạo ở ấp Vĩnh Mỹ thu hoạch ngó sen.
Từ năm 2022, gia đình anh Nguyễn Thành Đạo ở ấp Vĩnh Mỹ, thị trấn Vĩnh Thạnh đã chuyển 6 công đất lúa sang trồng sen lấy ngó. Nhờ chuyển đổi từ lúa sang mô hình trồng sen mà gia đình anh đã có nguồn thu nhập cao hơn gấp 2-3 lần so với trước. Anh Đạo cho biết: “Do vùng đất nằm ở khu vực khá trũng thấp nên canh tác lúa kém hiệu quả, lợi nhuận mỗi năm khoảng 5-7 triệu đồng/công trở lại. Tuy nhiên, từ khi chuyển sang mô hình trồng sen lấy ngó, gia đình có thể kiếm lời từ 10-20 triệu đồng/công/năm. Nhìn chung, cây sen khá dễ trồng, nhẹ chi phí đầu tư phân bón. Song, trồng sen lấy ngó đòi hỏi phải tốn nhiều công sức để thu hoạch ngó sen. Người trồng nhờ nguồn lao động sẵn có trong gia đình thu hoạch ngó sen nên tiết kiệm chi phí nhân công và có thu nhập tốt”.
Nhận thấy mô hình trồng sen lấy ngó giúp mang lại hiệu quả kinh tế tốt, từ hơn một năm nay, ông Lê Văn Phiêm ở ấp Vĩnh Mỹ cũng đã trồng sen hơn 5.000m2 trên diện tích ao nuôi thủy sản. Mô hình này đã giúp gia đình ông có thu nhập khá cao so với trước đây. Ông Phiêm cho biết: “Ao nuôi thủy sản của gia đình tôi trước đây được dùng để nuôi tôm càng xanh. Tuy nhiên, sau khi nuôi liên tục trong nhiều vụ và do ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, nguồn nước dẫn đến tôm càng xanh không còn đạt năng suất cao như trước, giá tôm cũng thường xuyên xuống thấp. Do vậy, khi thấy bà con địa phương trồng sen lấy ngó cho hiệu quả kinh tế tốt, tôi đã quyết định trồng loại cây này. Trồng sen lấy ngó có thể cho thu hoạch thường xuyên và lâu dài nên nông dân ít tốn chi phí đầu tư trồng lại”. Ngoài trồng sen, nông dân còn tận dụng mặt nước để nuôi các loại cá, ốc để có thêm thu nhập…
Những năm gần đây, thị trường tiêu thụ ngó sen ngày càng được mở rộng, nhờ vậy đầu ra sản phẩm ngó sen có nhiều thuận lợi. Ngó sen đã trở thành một loại nguyên liệu không thể thiếu cho việc chế biến nhiều món ăn ngon tại các nhà hàng, quán ăn phục vụ du khách. Các món ăn chế biến từ ngó sen cũng ngày càng được nhiều người biết đến. Du khách hiện nay cũng rất ưa thích các món ăn được chế biến từ ngó sen, nhất là món gỏi sen trộn thịt gà hay gỏi sen hải sản. Theo nhiều nông dân trồng sen lấy ngó tại ấp Vĩnh Mỹ, trong năm 2023 nông dân bán ngó sen được giá bình quân từ 15.000-20.000 đồng/kg, còn năm nay giá ở mức 22.000-25.000 đồng/kg, thậm chí có một số thời điểm lễ và Tết có giá bán lên đến 30.000 đồng/kg. Ngó sen sau khi thu hoạch được thương lái đến tận nhà của nông dân thu mua. Nhờ ngó sen được thu hoạch thường xuyên, giá cả đầu ra ổn định nên người trồng có nguồn thu nhập khá tốt từ cây sen. Mô hình trồng sen lấy ngó mở ra thêm hướng đi mới giúp nông dân thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi đạt hiệu quả, từ đó có điều kiện nâng cao thu nhập và đời sống nhà nông.
Bài, ảnh: KHÁNH TRUNG
Mất mùa sen
Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế
Thời tiết bất thường, nắng nóng kéo dài từ đầu năm đến nay, cộng với sâu bệnh diễn biến phức tạp khiến vụ sen năm nay mất mùa nặng.
Người dân phòng trừ sâu bệnh trên sen
Ông Nguyễn Văn Tám ở xã Điền Hòa (Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế) thuê ao hồ trồng sen từ mấy năm nay. Trước khi thuê hồ để trồng, ông Tám tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm trồng sen cho năng suất và hiệu quả, đặc biệt phòng trừ các loại sâu bệnh gây hại. Từ những năm đầu, hầu như năm nào sen cũng đạt năng suất, lãi khá cao. Hiệu quả trồng sen có thể gấp 5-6 lần so với trồng lúa. Riêng vụ sen năm nay gần như mất trắng.
Theo ông Tám, diễn biến thời tiết phức tạp, thất thường từ đầu năm đến nay khiến cây sen sinh trưởng kém, kèm theo một số loại bệnh thán thư, nấm… nguy hiểm làm cho sen ít ra hoa, không kết trái, một số cây bị lép hạt. Đây là các loại bệnh đến nay người dân cũng như cơ quan chức năng chưa có biện pháp đặc trị, phòng trừ hiệu quả. Một ao sen gần 1ha của ông Tám vụ này chỉ cho sản lượng chừng 5-10kg, giảm rất nhiều so với vụ trước.
Không chỉ Điền Hòa mà vụ sen năm nay tại địa phương lân cận như Điền Lộc cũng bị mất mùa nặng. Ông Hồ Điệu ở xã Điền Lộc, một trong những hộ trồng sen có diện tích lớn nhất huyện Phong Điền với gần 10ha, bày tỏ sự lo ngại trước các loại bệnh nguy hiểm đến nay chưa thể phòng trừ triệt để, hiệu quả. Sâu bệnh kèm theo nạn chuột đồng gây hại cũng ảnh hưởng lớn đến năng suất, chất lượng hạt sen vụ mùa năm nay. Ông Điệu bày tỏ nguyện vọng: “Ngành nông nghiệp cùng các ban ngành chức năng cần sớm có biện pháp phòng trừ sâu bệnh, dịch hại nguy hiểm và các biện pháp nâng cao hiệu quả trồng sen”.
Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh, ông Hồ Đính thông tin, đến nay diện tích cây sen toàn tỉnh khoảng 655ha, trong đó nhiều diện tích đang giai đoạn ra hoa và một số diện tích đang được người dân thu hoạch trà đầu. Nhìn chung cây sen năm nay sinh trưởng, phát triển không tốt so với năm trước. Một số loại bệnh nguy hiểm như nấm, thán thư… làm cho sen mất năng suất, nhiều hộ trồng gần như mất trắng.
Về nguyên nhân cây sen đạt năng suất thấp, ông Đính cho biết, do thời tiết nắng nóng kéo dài, diễn biến phức tạp, trong khi đó nhiều hộ trồng vẫn tận dụng diện tích sen tái sinh từ các vụ trước. Các hộ trồng không chủ động được nguồn giống tại chỗ nên phải mua giống từ nơi khác, nguồn gốc không rõ ràng, dễ bị nhiễm sâu bệnh; chưa chú trọng công tác vệ sinh đồng ruộng trước khi trồng, chăm sóc, bón phân chưa cân đối. Đây là các nguyên nhân khiến cây sen kém phát triển, bị bệnh đốm lá, bệnh thối củ, thối rễ do nấm, bệnh thán thư… phát sinh gây hại. Vì vậy, phần lớn diện tích sen đã trồng lâu năm bị mất mùa, gương và hạt nhỏ, năng suất và sản lượng thấp.
Do đặc trưng giống sen Huế có mùi vị hương thơm ngon và chất lượng nên được thị trường ưa chuộng. Mặc dù năm nay năng suất giảm, nhưng giá sen hiện nay khá cao, bình quân 180 ngàn đồng/kg đối với hạt sen đã bóc vỏ, 45-50 ngàn đồng/kg đối với hạt sen tươi chưa bóc vỏ. Mức giá này tăng hơn 20-30% so với thời điểm cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, do mất mùa nặng nên phần lớn các hộ trồng sen với diện tích lớn vụ này thua lỗ nặng, một số ít hòa vốn và lãi thấp.
Để chủ động trong công tác quản lý sản xuất và phòng trừ các đối tượng sinh vật gây hại trên cây sen, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực đã tổ chức khuyến cáo, hướng dẫn bà con trồng sen các biện pháp chăm sóc theo quy định, quy trình kỹ thuật khoa học của ngành nông nghiệp. Theo đó, khuyến cáo người dân tăng cường chăm sóc, bón bổ sung phân chuồng, bón phân cân đối, đầy đủ, điều chỉnh mực nước hợp lý để cây sinh trưởng và phát triển. Trước khi trồng và trong quá trình chăm sóc phải vệ sinh đồng ruộng và xử lý phơi ải, nhặt bỏ, tiêu hủy các lá già, các bộ phận cây bị sâu bệnh gây hại nặng.
Bài, ảnh: Thế Hoàng
Liên kết phát triển măng tre
Nguồn tin: Báo Bình Phước
Mùa mưa là thời điểm người trồng măng bước vào thu hoạch chính vụ. Những cây măng non nhú lên tua tủa, sản lượng hằng ngày tăng dần. Tuy nhiên, giá măng tươi xuống thấp khiến niềm vui của bà con chưa trọn vẹn. Với mục tiêu sản xuất bền vững, người trồng tre đã tìm giải pháp khắc phục khó khăn để phát triển kinh tế.
Tăng sản lượng bù trượt giá
Gia đình anh Nguyễn Văn Thanh ở khu phố 4, phường Hưng Long, TX. Chơn Thành (tỉnh Bình Phước) có 10 ha trồng tre lấy măng. Vào đầu mùa mưa, măng bắt đầu cho thu hoạch rộ. Bình quân mỗi ngày gia đình anh thu khoảng 5 tấn măng tươi, năng suất tăng cao so với thời điểm mùa khô. Để kịp thu hoạch, bán cho tiểu thương ở chợ đầu mối TP. Thủ Đức (TP. Hồ Chí Minh), hằng ngày từ 5 giờ sáng, gia đình anh và nhân công làm thuê đã chân ủng, tay cầm dao ra vườn thu măng. Đến khoảng 7 giờ, măng được tập kết thành đống để làm sạch, phân loại định giá. Sau đó, tiểu thương bốc măng lên xe vận chuyển về TP. Hồ Chí Minh. Anh Thanh cho biết: “Mùa khô, sản lượng măng ít nhưng giá cao, có thời điểm 32.000 đồng/kg măng tươi. Tuy nhiên, hiện giá thấp, chỉ còn 5.000 đồng/kg. Dù vậy với tôi, có thu nhập hằng ngày là hạnh phúc rồi. Gia đình sẽ vừa thu hoạch vừa chăm sóc vườn để lấy sản lượng bù trượt giá”.
Mùa mưa, những khóm măng mọc lên tua tủa, người trồng lấy sản lượng bù trượt giá
Theo anh Thanh, mùa mưa, đất mềm, dinh dưỡng trong đất được hòa tan giúp măng phát triển mạnh. Một khóm tre có thể cho hơn 10 cây măng. Để măng đạt chất lượng, mẫu mã đẹp, đặc ruột, non, giòn, gia đình anh thường xuyên bón phân, bổ sung dinh dưỡng cho đất. Ngoài phân hữu cơ, phân chuồng hoai mục bón trực tiếp vào gốc cây, gia đình anh còn rải phân urê trên mặt đất.
Tại TX. Chơn Thành, ngoài những hộ mới phát triển độc lập như gia đình anh Thanh, đa số các hộ trồng tre lấy măng tham gia hợp tác xã (HTX). Ông Nguyễn Kim Thành, Giám đốc HTX măng tre Thành Tâm cho biết: Thành viên HTX hiện có 20 hộ, diện tích canh tác khoảng 20 ha. Năng suất bình quân của HTX đạt 500kg/ha/ngày. Thông thường hằng năm vào mùa mưa, giá măng giảm dần. Tuy nhiên năm nay, thị trường khó lường hơn. Ngay đầu vụ, giá măng tươi giảm mạnh. Nếu như thời điểm này năm ngoái, bà con bán với giá từ 12.000-15.000 đồng/kg thì nay chỉ khoảng 5.000 đồng/kg. Mức giảm đột ngột khiến chúng tôi phải tính tới các phương án khác.
“Để giúp thành viên ổn định sản xuất, đảm bảo thu nhập, Ban Giám đốc HTX đã xây dựng kế hoạch sấy khô, luộc, muối măng. Từ nhiều năm trước, HTX đã mua máy sấy để sản xuất măng khô, công suất sấy 1 tấn/30 tiếng đồng hồ. HTX có nhà xưởng, kho chứa và sơ chế măng ngay khu vực trồng, gần UBND phường Thành Tâm. Mấy hôm nay, máy sấy đang được bảo trì, nhà kho và sân phơi cũng đã dọn sạch sẽ, sẵn sàng hoạt động. Nếu sấy không hết, các gia đình thành viên sẽ luộc hoặc muối chua bán trực tiếp tại chợ Chơn Thành và các quán ăn, nhà hàng, khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh” - ông Thành chia sẻ.
Mở rộng vùng nguyên liệu
Chị Triệu Mỹ Nhung, chủ cơ sở sản xuất các loại giống cây ở khu phố 1, phường Thành Tâm, đối tác liên kết với HTX măng tre Thành Tâm cho biết: “Gia đình tôi có thâm niên gần 30 năm làm nghề sản xuất cây giống các loại. Những năm gần đây, cây tre giống được người dân Chơn Thành và vùng lân cận mua nhiều. Năm 2023, gia đình tôi bán khoảng 15.000 cây giống. Năm nay, dự đoán nhu cầu thị trường tiếp tục tăng nên gia đình đã sản xuất hơn 25.000 cây, gồm các loại tứ quý, điền trúc, tàu, lục trúc. Giá bán bình quân 35.000 đồng/cây”.
Hiện nay, tốc độ đô thị hóa nhanh khiến diện tích đất sản xuất nông nghiệp tại TX. Chơn Thành dần bị thu hẹp. Do vậy, có hộ đã thuê đất, mở rộng diện tích canh tác tại các xã thuộc tỉnh Bình Dương, giáp ranh Bình Phước. Một số hộ mở rộng diện tích tại các xã Quang Minh, Nha Bích, TX. Chơn Thành. Ông Trần Quang Sắc, Chủ tịch Hội Nông dân xã Quang Minh chia sẻ, gia đình ông vừa hoàn thành “dự án” 3 ha trồng tre lấy măng tại ấp Bàu Teng, xã Quang Minh. Nhờ tận dụng được nhiều cơ sở vật chất như giếng khoan, ống tưới, nhà xưởng (trước đó trồng quýt) nên chi phí ban đầu giảm đáng kể. “Sau khi san lấp mặt bằng, lắp đặt hệ thống ống tưới, đào hố, mua cây giống, đầu tháng 6 vừa rồi có mưa, gia đình tôi đã thuê người trồng. Hiện cây đã ra rễ, nảy mầm. Để sản xuất bền vững, gia đình tôi đầu tư bài bản, trong đó có đường bê tông để việc vận chuyển thuận lợi, hệ thống thoát nước tiện lợi, sân phơi, nhà kho rộng rãi. Gia đình sẽ liên kết với HTX măng tre Thành Tâm và các doanh nghiệp khác để tiêu thụ sản phẩm măng cho bà con” - ông Sắc cho hay.
Theo ông Sắc, mô hình trồng tre lấy măng có nhiều ưu điểm. Tre dễ trồng, ít bị hao hụt như các loại cây khác. Vốn đầu tư cây giống không cao. Thế mạnh của tre là trồng được ở hầu hết điều kiện đất đai, đặc biệt tại những vùng khô cằn sỏi đá, đất sét pha cát khó trồng được cây khác thì tre vẫn phát triển. Sau 1 năm trồng, tre bắt đầu cho thu hoạch măng. Đặc biệt, tre ít sâu bệnh, năng suất, chất lượng phụ thuộc phần lớn vào phân bón và nước tưới. Do vậy, đáp ứng tốt 2 yếu tố này, người trồng tre sẽ có thu nhập ổn định. Hiện nay, tại ấp Bàu Teng, xã Quang Minh, bên cạnh một số hộ là người dân địa phương trồng tre, còn có 5 hộ từ tỉnh Tây Ninh qua thuê đất trồng tre. Tổng diện tích ước khoảng 20 ha.
Bà NGUYỄN THỊ HẬU, Chủ tịch Hội Nông dân thị xã Chơn Thành: Mô hình trồng tre lấy măng đang được nhiều nông dân ở TX. Chơn Thành phát triển, nhất là tại các xã còn nhiều quỹ đất nông nghiệp. Phần lớn nông dân chuyển đổi từ các mô hình canh tác kém hiệu quả sang trồng tre. Việc hình thành vùng nguyên liệu tại đây sẽ có cơ hội liên kết, sản xuất, tiêu thụ tốt, bởi tại Chơn Thành và Hớn Quản đã có nhà máy sản xuất, chế biến sản phẩm măng tre. Hội Nông dân thị xã phối hợp với chính quyền các cấp và ngành liên quan đang đăng ký công nhận măng tre là sản phẩm OCOP tại phường Thành Tâm.
Quang Minh
Giá tiêu chạm mốc gần 200 ngàn đồng/kg
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai
Hiện nông dân trồng tiêu trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đang trong giai đoạn chăm sóc, dưỡng sức để cây tiêu chuẩn bị cho giai đoạn ra hoa, kết quả cho vụ thu hoạch tiếp theo. Khác với mọi năm, nông dân trồng tiêu chỉ chăm sóc cầm chừng do giá tiêu không cao, hiện giá tiêu đang ở mức cao nên người trồng đang dồn lực bón phân, xử lý thuốc cho vườn tiêu với kỳ vọng đạt năng suất tốt trong vụ thu hoạch tới.
Nông dân xã Thanh Sơn, huyện Tân Phú thu hoạch tiêu
Hiện giá tiêu thương lái đang thu mua trên địa bàn tỉnh có mức từ 160-170 ngàn đồng/kg, tăng hơn gấp đôi so với giá bán ra trong vụ thu hoạch vừa qua. Vài tuần trước đó, có thời điểm, giá tiêu đã chạm mốc gần 200 ngàn đồng/kg. Dự báo thời gian tới, giá tiêu vẫn tiếp tục đứng ở mức cao. Nguyên nhân khiến giá tiêu không ngừng leo thang những tháng vừa qua do nguồn cung giảm mạnh vì diện tích cây trồng này giảm. Đồng thời vụ thu hoạch năm 2024, sản lượng tiêu bị giảm sút do mất mùa vì yếu tố bất lợi bởi thời tiết.
Theo Hiệp hội Hồ tiêu và Cây gia vị Việt Nam (VPSA), hiện ước tính sản lượng tiêu năm 2024 của Việt Nam tiếp tục giảm xuống chỉ còn khoảng 170 ngàn tấn, mức thấp nhất 5 năm gần đây. Sản lượng tiêu toàn cầu trong năm 2024 dự kiến đạt khoảng 465 ngàn tấn, giảm 1,2% so với năm ngoái. Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ hồ tiêu toàn cầu dự kiến đạt tới 529 ngàn tấn. Nguồn cung không đủ cầu là nguyên nhân khiến giá tiêu trên thị trường xuất khẩu không ngừng leo thang. Dự kiến, giá tiêu có thể còn tiếp tục đà tăng trong thời gian tới.
Song Lê
Phát triển nông nghiệp bền vững
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Quảng Ninh
Áp dụng thành công tiến bộ của KHCN vào sản xuất, chuyển đổi phương thức canh tác theo hướng an toàn, hữu cơ, tôn trọng tự nhiên, bảo vệ môi trường đang là hướng đi của ngành nông nghiệp Quảng Ninh.
Nuôi lợn theo phương thức chăn thả bán tự nhiên tại HTX Nông nghiệp hữu cơ An Lộc (TP Móng Cái).
Với mục tiêu cung ứng sản phẩm lợn thịt Móng Cái sạch tới tay người tiêu dùng, các thành viên HTX Nông nghiệp hữu cơ An Lộc (TP Móng Cái) đã thiết lập quy trình chăn nuôi theo phương thức hữu cơ kết hợp chăn thả bán tự nhiên ở vườn đồi. Các thức ăn sử dụng trong chăn nuôi chủ yếu là rau, ngô, chuối kết hợp với cám gạo... Nhờ đó cho ra thị trường những sản phẩm thịt thương phẩm chất lượng, thơm ngon, được người tiêu dùng đánh giá cao. Bà Nguyễn Thị Loan, Giám đốc HTX, cho biết: Lợn chăn nuôi theo hướng hữu cơ có đầu ra rộng mở, thu nhập mang lại cao hơn. Nhờ đó các mô hình chăn nuôi tự nhiên trong HTX ngày càng phát triển, gia tăng quy mô.
Triển vọng từ canh tác hữu cơ mang lại cơ hội cho mô hình trồng cây chanh leo của HTX Nông nghiệp tổng hợp Trường Giang (xã Đầm Hà, huyện Đầm Hà). Bắt đầu thử nghiệm từ cuối năm 2023 với quy trình trồng, chăm sóc theo tiêu chuẩn Global GAP, đến nay 3ha chanh leo tím của HTX bắt đầu cho thu hoạch vụ quả đầu tiên. Anh Đinh Văn Giang, Giám đốc HTX, cho biết: Hiện sản phẩm chanh leo kiểm tra đạt tiêu chuẩn không có 570 chất cấm nông nghiệp, bước đầu đảm bảo các điều kiện xuất khẩu. Dự kiến mỗi ha cho khoảng 20 tấn quả, ước doanh thu khoảng từ 800 triệu - 1 tỷ đồng/năm sau khi đã trừ chi phí.
Bên cạnh hướng đi là nông nghiệp hữu cơ, nhiều nông hộ trên địa bàn tỉnh đang chú trọng áp dụng tiến bộ KHKT vào các khâu sản xuất, chế biến nhằm gia tăng năng suất, chất lượng. Tiêu biểu như hộ anh Đinh Quang Trí (xã Đông Hải, huyện Tiên Yên) đầu tư hệ thống thiết bị ấp trứng tự động trong sản xuất gà giống. Nhờ đó năng lực cung ứng giống gà Tiên Yên ra thị trường ngày một nâng cao, chất lượng con giống đảm bảo hơn. Hiện mỗi tháng cơ sở của anh Trí cung cấp khoảng hơn 20.000 con gà giống cho các hộ chăn nuôi trên địa bàn.
Những năm gần đây, ngành NN&PTNT Quảng Ninh đẩy mạnh cơ cấu lại theo hướng phát triển nông nghiệp sinh thái, hiện đại, gia tăng giá trị, đặc biệt đối với các lĩnh vực của ngành có dư địa phát triển. Theo đó, ngành chủ động phối hợp với các địa phương chỉ đạo điều chỉnh kế hoạch sản xuất, cơ cấu mùa vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, bố trí cơ cấu giống phù hợp với diễn biến thời tiết và tín hiệu của thị trường, đảm bảo hạn chế tối đa thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh.
Đồng thời tăng cường công tác quản lý và phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản trên biển; khắc phục các tồn tại trong công tác phòng, chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) trên địa bàn tỉnh. Đến nay Quảng Ninh không có tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài bị bắt giữ, xử lý. Đặc biệt, ngành đã tích cực phối hợp với chính quyền các địa phương chuyển đổi vật liệu nổi trong nuôi trồng thủy sản từ phao xốp sang vật liệu HDPE thân thiện với môi trường.
Các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, cơ sở tiêu chuẩn VietGAP được duy trì, kiểm soát về ATTP với 1.095ha trồng trọt, 45ha trồng trọt hữu cơ được chứng nhận nông nghiệp hữu cơ; 94ha lúa chất lượng cao Japonica và ST25. Toàn tỉnh hiện có 9 cơ sở đóng gói, 51 vùng trồng được cấp mã số; 16 chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn với 59 loại nông sản an toàn được xác nhận.
Nguyên Ngọc
Phú Yên kêu gọi đầu tư 8 dự án nông nghiệp
Nguồn tin: Báo Phú Yên
Theo Sở NN&PTNT, tỉnh Phú Yên đang mời gọi các doanh nghiệp đầu tư vào 8 dự án thuộc lĩnh vực nông nghiệp.
Theo đó, Dự án liên kết xây dựng vùng sản xuất lúa chất lượng cao, địa điểm đầu tư tại các huyện Tây Hòa, Phú Hòa, Tuy An và TX Đông Hòa; quy mô diện tích khoảng 15.000ha; tổng vốn đầu tư theo đề xuất của nhà đầu tư (UBND tỉnh đã chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư đối với Công ty CP Nông nghiệp công nghệ cao Trung An).
Dự án vùng cây ăn quả, dược liệu, vùng nguyên liệu chất lượng cao gắn với nhà máy chế biến, địa điểm đầu tư tại các huyện Sông Hinh, Sơn Hòa, Tây Hòa, Phú Hòa, Đồng Xuân; quy mô diện tích hàng nghìn héc ta. Dự án xây dựng vùng nguyên liệu và nhà máy chế biến hoa quả, đóng gói trái cây xuất khẩu, địa điểm đầu tư tại các huyện Sông Hinh, Sơn Hòa, Đồng Xuân; quy mô diện tích hàng nghìn héc ta.
Dự án phát triển nông nghiệp công nghệ cao vùng cao nguyên Vân Hòa, địa điểm đầu tư tại các huyện Sơn Hòa, Tuy An; quy mô diện tích khoảng 300ha; tổng vốn đầu tư khoảng 300 tỉ đồng.
Dự án xây dựng các trang trại chăn nuôi bò thịt và gia cầm trên địa bàn tỉnh, địa điểm đầu tư tại các huyện Sông Hinh, Sơn Hòa, Tây Hòa, Phú Hòa, Đồng Xuân; quy mô và tổng vốn đầu tư theo đề xuất của nhà đầu tư. Dự án vùng sản xuất và chăn nuôi tập trung; địa điểm đầu tư tại các huyện Sông Hinh, Sơn Hòa, Đồng Xuân; quy mô diện tích khoảng 1.000ha; tổng vốn đầu tư khoảng 2.000 tỉ đồng.
Dự án khu nuôi trồng thủy sản công nghệ cao, địa điểm đầu tư tại xã Xuân Bình (TX Sông Cầu); quy mô diện tích khoảng 100ha; tổng vốn đầu tư khoảng 300 tỉ đồng. Dự án khu nuôi trồng thủy sản vùng biển hở, địa điểm đầu tư tại xã Xuân Cảnh (TX Sông Cầu); quy mô diện tích khoảng 700ha; tổng vốn đầu tư khoảng 1.000 tỉ đồng.
Đây là danh mục dự án kêu gọi đầu tư trên địa bàn tỉnh thuộc lĩnh vực nông nghiệp, giai đoạn 2024-2030 đã được UBND tỉnh phê duyệt.
NGỌC NHƯ
Đảm bảo sản xuất thắng lợi vụ lúa Thu Đông
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Theo dự báo của ngành chuyên môn, đỉnh lũ ở đầu nguồn sông Cửu Long năm nay ở mức thấp, nhưng đối với khu vực vùng giữa và vùng ven biển ĐBSCL (trong đó có Vĩnh Long), do chịu tác động mạnh bởi triều cường nên nhiều khả năng đỉnh lũ xuất hiện cùng với đỉnh triều cường ở mức cao. Ngoài ra, từ nay đến cuối năm do tác động của hiện tượng La Nina làm gia tăng mưa, bão. Đây là những điều kiện bất lợi cho sản xuất vụ lúa Thu Đông.
Đề phòng mưa nhiều, triều cường gây ngập úng cho lúa
Theo Sở Nông nghiệp-PTNT Vĩnh Long, vụ lúa Thu Đông năm nay, toàn tỉnh có kế hoạch gieo sạ 30.000ha (từ 1/6-20/8), chia làm 3 đợt chính: Đợt 1 là 4.000ha (từ 1-20/6), đợt 2 là 20.000ha (từ 30/6-20/7) và đợt 3 là 6.000ha (từ 30/7-20/8). Như vậy, lúa sẽ được thu hoạch vào thời điểm đầu tháng 9 đến hết tháng 11.
Đây là thời kỳ có nhiều mưa, lũ, bão, triều cường, có khả năng ảnh hưởng lớn đến suốt vụ, nhất là gây ngập úng, chết giống ở giai đoạn lúa mới sạ và làm đổ ngã, giảm năng suất, thất thu ở giai đoạn lúa chính, thu hoạch.
Cụ thể, theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, từ nay đến tháng 9/2024, trên Biển Đông có khả năng xuất hiện khoảng từ 5-7 cơn bão, áp thấp nhiệt đới, trong đó có khoảng 2-3 cơn đổ bộ vào đất liền nước ta.
Từ tháng 10-12, trên Biển Đông có khả năng xuất hiện khoảng từ 4-6 cơn bão, áp thấp nhiệt đới, trong đó có khoảng 2-3 cơn đổ bộ vào đất liền, tương đương hay nhiều hơn 1 cơn so với trung bình nhiều năm (TBNN).
Về lượng mưa, ở khu vực Nam Bộ, trong tháng 7-9, tổng lượng mưa tại khu vực này phổ biến ở mức cao hơn từ 5-15% so với TBNN; và trong tháng 10-12, lượng mưa phổ biến cao hơn từ 5-20% so với TBNN cùng thời kỳ.
Về lũ, theo nhận định của Viện Quy hoạch thủy lợi Miền Nam (Bản tin dự báo số 1, ngày 20/6/2024), lũ đầu nguồn sông Cửu Long năm nay ở mức thấp hơn khá nhiều so với TBNN, nhưng cao hơn cùng kỳ năm ngoái.
Đến cuối tháng 7, mực nước tại trạm Tân Châu (sông Tiền) dao động ở mức từ 1,9-2m, thấp hơn TBNN từ 0,33-0,43m và cao hơn cùng kỳ năm ngoái từ 0,07-0,17m; mực nước tại trạm Châu Đốc (sông Hậu) dao động ở mức 1,85-1,95m, thấp hơn TBNN từ 0,02-0,12m, nhưng xấp xỉ và cao hơn năm 2023 là 0,08m.
Đến ngày 20/8, mực nước tại Tân Châu dao động ở mức 2,25-2,4m, thấp hơn TBNN khoảng 0,54-0,69m nhưng cao hơn năm 2023 từ 0,08-0,23m; mực nước tại Châu Đốc dao động ở mức 2,1-2,25m, thấp hơn TBNN từ 0,27-0,42m, xấp xỉ và cao hơn năm 2023 là 0,11m.
Đỉnh lũ chính vụ năm nay có khả năng xuất hiện vào nửa đầu tháng 10, đỉnh lũ tại Tân Châu dao động ở mức 3,2-3,5m, tương đương hoặc thấp hơn mức báo động 1 (BĐ1) là 0,3m, nhưng thấp hơn so với TBNN từ 0,4-0,7m và cao hơn đỉnh lũ năm 2023 từ 0,11-0,41m.
Đỉnh lũ tại Châu Đốc dao động ở mức 2,9-3,2m, xấp xỉ hoặc cao hơn mức BĐ1 là 0,2m, nhưng thấp hơn so với TBNN từ 0,31-0,61m, xấp xỉ hoặc cao hơn đỉnh lũ năm ngoái 0,27m.
Đối với khu vực vùng giữa và vùng ven biển ĐBSCL, tuy lũ đầu nguồn nhận định ở mức thấp, nhưng do tác động mạnh bởi triều cường nên dự báo ở mức cao, nhiều khả năng đỉnh lũ xuất hiện cùng với đỉnh triều cường.
Cụ thể là vào kỳ triều cuối tháng 10 và tháng 11, đỉnh lũ phổ biến ở mức xấp xỉ và trên mức BĐ3, chỉ một số trạm thấp hơn mức BĐ3, cao hơn khá nhiều so với TBNN và cao hơn cùng kỳ năm 2023.
Đảm bảo các điều kiện cho sản xuất thắng lợi
Nông dân cần làm đất, vệ sinh đồng ruộng thật tốt trước khi xuống giống để lúa Thu Đông phát triển tốt, năng suất cao.
Theo Sở Nông nghiệp-PTNT, trước dự báo mưa, lũ, bão, triều cường có khả năng diễn biến bất thường cần tập trung đầu tư cho công tác thủy lợi để đảm bảo chống tràn, chống ngập úng, bảo vệ an toàn cho diện tích và tăng sản lượng vụ lúa Thu Đông hơn nữa.
Do vậy, thực hiện đầu tư xây dựng, duy tu, sửa chữa hệ thống thủy lợi, nhất là công trình thủy lợi nội đồng cần được tiến hành sớm nhằm tiêu thoát nước, chống ngập phục vụ diện tích lúa đã gieo sạ.
Song song đó, nhu cầu đầu tư sửa chữa các trạm bơm tiêu cố định hiện có và lắp thêm các trạm bơm di động (giải pháp tiêu bằng động lực) ở những khu ruộng trũng, khó tiêu tự chảy (tập trung ở vùng giữa, có nhiều giáp nước của tỉnh thuộc các huyện Long Hồ, Tam Bình, Trà Ôn, Vũng Liêm) cũng rất cần thiết và rất lớn để tiến tới chủ động trong tiêu thoát nước hết diện tích lúa đã gieo sạ khi gặp những điều kiện bất lợi về thời tiết xảy ra.
Một điều kiện quan trọng nữa là, theo Sở Nông nghiệp-PTNT, khi bố trí thời vụ cho lúa Thu Đông cần lưu ý đến thời điểm xuống giống chính vụ lúa Đông Xuân 2024-2025. Nên bắt đầu xuống giống lúa Thu Đông tập trung cách thời điểm thu hoạch lúa Hè Thu khoảng 3-4 tuần và kết thúc xuống giống vào ngày 20/8, tối đa là 30/8/2024.
Lịch thời vụ xuống giống cần bố trí theo hướng tập trung “né rầy”, đồng loạt trên từng khu vực; không nên xuống giống kéo dài so với khung lịch chung. Kết hợp theo dõi số liệu rầy nâu vào đèn tập trung vào những ngày cuối tháng (từ ngày 20-25 dương lịch).
Sử dụng những giống lúa cho vụ Thu Đông, bên cạnh dùng những giống lúa có tính chống chịu với rầy nâu, vàng lùn và lùn xoắn lá, bệnh cháy lá, cháy bìa lá và giống có độ cứng cây để hạn chế đổ ngã...cần khuyến cáo nông dân sử dụng giống có thời gian sinh trưởng ngắn và có phẩm chất gạo tốt, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.
Nhóm giống lúa chủ lực có khả năng thích ứng rộng, tiêu thụ nội địa và xuất khẩu tốt được Sở Nông nghiệp-PTNT khuyến cáo sử dụng trong năm nay là: OM5451, OM4900, OM6976, Đài thơm 8, OM18,…; nhóm giống lúa bổ sung như: OM380, OM34, OM429, OM2517, OM9577, OM9955…
Bên cạnh, nông dân cần làm đất, vệ sinh đồng ruộng thật tốt, tiêu hủy nguồn bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá, tiêu hủy rơm rạ hoặc sử dụng các hoạt chất phân hủy rơm rạ để hạn chế ngộ độc hữu cơ.
Sử dụng phân bón trong vụ Thu Đông ngoài việc cung cấp dinh dưỡng đa lượng phải lưu ý đến việc bổ sung canxi và silic cho lúa để tăng cường tính chống chịu trong điều kiện mưa bão...
Các nhà chuyên môn còn cho rằng, song song với việc tăng cường triển khai thực hiện các giải pháp kỹ thuật nhằm giúp cho vụ lúa Thu Đông vừa an toàn trước thiên tai vừa giúp tăng năng suất, sản lượng lúa, thì cũng cần chú trọng đến vấn đề xã hội khác như: sự liên kết giữa nông dân, tổ chức sản xuất (HTX, tổ hợp tác) với doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất, về giá cả đầu vào- đầu ra trong sản xuất, thị trường tiêu thụ... nhằm đảm bảo hài hòa về thu nhập, lợi nhuận cho người trồng lúa và doanh nghiệp liên kết sản xuất, thu mua lúa gạo.
Bài, ảnh: TRUNG CHÁNH
Heo giống sốt giá vẫn không đủ nguồn cung
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai
Thời gian qua, giá heo hơi ổn định ở mức cao từ 68-70 ngàn đồng/kg, mức giá cao kỷ lục trong vòng nhiều năm nay. Đây cũng là nguyên nhân khiến nhu cầu mua heo con giống, đặc biệt là heo hậu bị trên thị trường tăng cao.
Khu vực nuôi heo giống của một cơ sở chăn nuôi trên địa bàn huyện Thống Nhất
Theo đó, hiện giá heo hậu bị đang bán ra thị trường ở mức hơn 10 triệu đồng/con, cao hơn từ 2-3 triệu đồng/con so với thời thấp điểm. Giá heo con giống cũng tăng cao lên mức từ 2-2,2 triệu đồng/con, tăng hơn gần 1 triệu đồng/con so với trước.
Theo Hiệp hội chăn nuôi tỉnh Đồng Nai, giá heo hậu bị, heo con giống tăng cao do nhu cầu đầu tư tái đàn của nông dân tăng hơn so với trước. Nhưng nguyên nhân chính là ảnh hưởng của dịch bệnh, thị trường nên từ cuối năm 2023, người chăn nuôi giảm đàn khiến nguồn cung heo giống và heo hậu bị đều giảm mạnh. Ngoài ra, hiện các doanh nghiệp lớn trong ngành chăn nuôi ưu tiên nguồn giống cung cấp cho các trại nuôi gia công hoặc khách hàng chứ không bán ra thị trường như trước.
Song Lê
Lập ‘gia phả’ cho dúi mốc
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Con dúi, vật nuôi đã khá quen thuộc với cư dân vùng cao nguyên nhiều tre, lắm mía. Và, một trại dúi giống đang thực hiện lập "gia phả" cho dúi, giúp từng con dúi giống đều đảm bảo chất lượng tốt nhất.
Chị Tuyến và con dúi mốc trưởng thành
Trại dúi giống của chị Trần Thị Tuyến, thôn Nam Hiệp 1, xã Ka Đô, huyện Đơn Dương (tỉnh Lâm Đồng) được xây dựng giống như các trại giống khác. Trại là một ngôi nhà giản dị, thoáng mát, bên trong đặt các thùng nuôi dúi được ghép từ gạch men. Chị Tuyến bảo, nhà nuôi dúi có thể tận dụng từ bất cứ công trình xây dựng nào. Còn thùng nuôi dúi, được ghép từ các loại gạch men cũ, gạch men thải loại, gạch men không đủ chuẩn của các công trình xây dựng, được mua với giá rất rẻ. Tuy nhiên, trên các thùng nuôi, chị Tuyến đều đánh số cụ thể với mục tiêu quản lý "gia phả" để tránh trùng huyết. Chị Tuyến cho biết, con dúi cũng như các con vật nuôi khác, càng lai xa, chất lượng giống càng tốt. Vì vậy, lập "gia phả" cho bầy dúi là hoạt động rất cần thiết để đảm bảo con giống khỏe mạnh.
Vốn là cư dân đất rau Ka Đô, năm 2020, chị Tuyến quyết định nuôi thêm con dúi sau khi nhận thấy giá rau bấp bênh, người nông dân chịu nhiều vất vả. Sau khi tìm hiểu từ nhiều trại giống, từ mạng internet, chị Tuyến đã nhập dúi giống từ một trại được cấp phép. Chị bảo, chỉ từ năm cặp ban đầu, hiện tại chị đã có hai trại giống, số lượng càng ngày càng tăng do dúi sinh sản rất nhanh. Trại giống của chị có bán dúi thịt, tuy nhiên, chủ yếu vẫn là dúi giống do nhu cầu nuôi của khách hàng rất lớn. Không phải dúi lai hay dúi má hồng trọng lượng lớn, dúi của trại là loại dúi mốc bản địa, con nhỏ, trọng lượng chỉ 2 kg/con nhưng ăn ít, dễ nuôi và mau lớn.
Vừa chia tre cho bầy dúi vào từng ô chuồng, chị Tuyến vừa cho biết, dúi mẹ nuôi tới tám tháng bắt đầu sinh sản. Dúi mang thai 45 ngày, đẻ xong sẽ nuôi con tiếp tục trong 45 ngày. Sau khi dúi con đủ 45 ngày là tách mẹ sống độc lập, dúi mẹ tiếp tục được phối. Bởi vậy, một năm dúi có thể đẻ 3-4 lứa, mỗi lần từ 2 tới 4 con. Một dúi mẹ có thể đẻ 8-10 con trong một năm. Cũng vì dúi sinh sản rất nhanh nên việc ghi chép kỹ càng, cụ thể từng dúi bố mẹ là rất quan trọng. Chị Tuyến đánh số từng ô, theo dõi cụ thể dúi đực, dúi cái, ngày phối, ngày sinh sản... để tránh bị giao phối trùng lặp. Chị cho biết, dúi sống trong từng ô, việc quản lý giao phối, tránh cận huyết, trùng huyết sẽ dễ dàng cho người nuôi.
“Dúi mốc ăn rất ít, chủ yếu mỗi ngày ăn một vài mảnh tre, có thể cho thêm một vài khúc mía và ít hạt bắp. Ăn ít, dễ chăm, sinh sản nhanh, lớn nhanh, vật nuôi này thật sự rất phù hợp với những gia đình nông dân đất ít cũng như ít thời gian” - chị Nguyễn Thị Tuyến nhận xét. Theo chị, nuôi dúi sạch và không mùi, không ảnh hưởng tới môi trường của cư dân xung quanh. Mỗi ngày, chị tranh thủ chặt tre xung quanh nơi sinh sống là đủ cho dúi ăn. Đồng thời chị cũng trồng thêm mía quanh nhà, mỗi chuồng dúi chỉ cần một khúc mía nhỏ là đủ dinh dưỡng cho chúng. Vì vậy, nuôi dúi tốn rất ít chi phí thức ăn. Quan trọng, chỉ cần kiểm soát vệ sinh môi trường, làm sạch thùng nuôi dúi khi lượng chất thải tăng. Với chị, chị dọn chuồng 3 lần/tuần, đảm bảo chuồng dúi luôn sạch.
“Nuôi dúi mẹ 8 tháng bắt đầu sinh sản, nó có thể đẻ liên tục trong vòng sáu năm. Sau đó mới cần thay dúi cái mới. Dúi đực thì cần thay thế liên tục, như nhà tôi là một năm thay một lần dúi đực giống để đảm bảo luôn có nguồn gien mới. Giống dúi không trùng huyết sẽ khỏe mạnh, dễ nuôi, nuôi dúi thịt hay nuôi thay cung cấp giống cho bà con đều rất hiệu quả”, chị Tuyến chia sẻ. Đồng thời, chị Tuyến luôn chú trọng tới việc phủ lưới tránh muỗi đốt dúi, khiến dúi gãi, gây bệnh viêm da cho dúi. Chị bảo, con dúi có khuôn mặt ít lông, dễ bị muỗi đốt. Khi trời vừa tắt nắng, phải phủ lưới rất cẩn thận để muỗi không tấn công dúi, giúp dúi khỏe mạnh.
Hiện tại, nhu cầu nuôi dúi rất cao. Chị Tuyến bán dúi thịt với giá 600 ngàn đồng/kg, dúi nuôi giống 4 tháng, trong lượng 500 gr/con có giá 1 triệu đồng/cặp. Dúi chuẩn bị sinh sản giá 1,8 triệu đồng/cặp. Hàng tháng, chị đều có dúi xuất chuồng, là một khoản thu đều đặn cho sinh hoạt của gia đình.
Ông Huỳnh Văn Quang - Bí thư Đảng ủy xã Ka Đô, huyện Đơn Dương đánh giá, là một vùng đất chuyên canh tác cây dâu thương phẩm nhưng thời gian gần đây, nông dân Ka Đô cũng đã có nhiều thay đổi trong sản xuất. Bà con đã chọn thêm những cây trồng, vật nuôi hiệu quả để làm phong phú cho sản xuất nông nghiệp. Mô hình nuôi dúi của gia đình chị Trần Thị Tuyến cũng là một mô hình thành công của nông dân Ka Đô, giúp bà con có thêm nhiều sự chọn lựa để nâng cao thu nhập gia đình.
DIỆP QUỲNH
Hiếu Giang tổng hợp