Liên kết trồng sầu riêng, giúp nhiều nông dân làm giàu
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Những năm gần đây, nhiều hộ trồng sầu riêng đã liên kết với nhau trồng theo hướng VietGAP; đồng thời kết nối với các doanh nghiệp từ sản xuất đến tiêu thụ nhằm phát triển bền vững, giúp nhiều hộ ở nông thôn vươn lên làm giàu.
Nhờ sự liên kết chặt chẽ mà nhà vườn trồng sầu riêng ở Hậu Giang có đầu ra ổn định. Ảnh: H.THU
Thay đổi cách làm, giúp tăng thu nhập
Chị Nguyễn Thị Diễm, ở ấp Hàm Luông, xã Tân Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, canh tác sầu riêng hàng chục năm nhưng thu nhập chỉ tạm đủ sống, không dư nhiều bởi sản xuất tự phát dẫn đến chi phí đầu tư cao, bán giá thấp. Mấy năm nay, chị được vận động tham gia HTX Nông nghiệp Tân Phú, từ đó được tập huấn các lớp khuyến nông, kỹ thuật làm vườn; tiếp cận mô hình canh tác VietGAP… Từ những kiến thức có được, chị thiết kế lại vườn trồng sầu riêng giống Ri6, áp dụng các giải pháp kỹ thuật do HTX và ngành nông nghiệp hỗ trợ.
Để sầu riêng bán được giá cao, chị cùng các thành viên trong HTX xử lý trái vụ từ tháng 9 đến tháng 2; thời điểm này giá dao động 90.000-130.000 đồng/kg đối với giống Ri6, cộng năng suất 20 tấn/ha; nhờ đó mỗi héc-ta sầu riêng mang về bạc tỉ, cao hơn những loại cây khác. Vụ sầu riêng năm 2024, chị Diễm canh tác 20 công, thu hoạch khoảng 24 tấn, bán giá từ 90.000-130.000 đồng/kg, thu về khoảng 2,5 tỉ đồng.
Chị Nguyễn Thị Nghĩa, ở xã Tân Phú cho hay, bà con xứ này trồng cây ăn trái khá lâu, tuy nhiên hạn chế là tình trạng mạnh ai nấy làm, thiếu liên kết nên hiệu quả chưa cao. Từ khi tham gia HTX đã giúp mọi người thay đổi cách nhìn, cách làm; thay đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, dựa vào các ứng dụng khoa học kỹ thuật để sản xuất sạch, hữu cơ, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Chính những thay đổi này đã giúp vườn sầu riêng 10 công của gia đình chị đạt năng suất cao, bán giá tốt; thu nhập mỗi năm khoảng 1 tỉ đồng, có điều kiện lo cho con gái ăn học tới nơi tới chốn.
Đưa chúng tôi ra thăm vườn sầu riêng xanh tốt của mình, chị Cao Thị Hạnh (xã Tân Phú) chia sẻ: “Trước đây mỗi khi sầu riêng bị bệnh nứt thân, xì mủ… thì chỉ biết chạy ra các cửa hàng phân thuốc mua về phun xịt đại trà nên khá tốn kém. Từ khi tham gia HTX được tập huấn thường xuyên nên bà con nắm vững lúc nào cần phun thuốc và phun loại nào vừa hiệu quả mà không ảnh hưởng đến chất lượng trái. Ngoài ra, còn được HTX hướng dẫn không thu hoạch trái còn non, mà phải để trái già tự nhiên trên cây nhằm đảm bảo độ ngọt, độ béo thì sầu riêng mới ngon; xuất khẩu đạt tiêu chuẩn. Đây cũng là cách tạo uy tín và thương hiệu cho sầu riêng HTX Tân Phú. 15 công sầu riêng của gia đình tôi áp dụng các quy trình này mang lại doanh thu mỗi năm từ 1-1,3 tỉ đồng…”.
Ông Phạm Văn Nghi, ở ấp Nhơn Xuân, thị trấn Một Ngàn, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang, trồng được khoảng 4 công sầu riêng Ri6, đây là vụ thu hoạch thứ 3, bán được gần 6 tấn trái, với giá 55.000 đồng/kg, trừ chi phí còn được gần 200 triệu đồng. Theo ông Nghi, trồng sầu riêng phải đầu tư chăm sóc, tính toán kỹ hơn rất nhiều so với những loại cây trồng khác để có thể thu hoạch được trái sầu riêng thơm ngon, chất lượng. Về chi phí đầu tư cho cây sầu riêng cũng ở mức khá cao nhưng hầu hết các hộ dân đều có lợi nhuận. Đặc biệt, nhờ có liên kết với các thương lái nên đầu ra luôn được ổn định.
Đoàn kết, giúp nhau cùng làm giàu
Chị Nguyễn Thị Thinh, Giám đốc HTX Nông nghiệp Tân Phú, nhìn nhận: “Để có được HTX lớn mạnh và nhiều hộ thu nhập bạc tỉ như hiện nay là một quá trình vượt khó khăn, kiên trì phát triển mô hình kinh tế hợp tác trong tổ chức hội phụ nữ cơ sở”. Chị Thinh nhớ lại, ngày trước bà con nông thôn vùng này cũng giống như nhiều nơi khác làm nông nghiệp nhỏ lẻ, tự phát, thiếu sự liên kết nên đầu ra sản phẩm bấp bênh. Quyết tâm thay đổi sản xuất theo hướng hiện đại, tháng 3-2017, Chi hội phụ nữ ấp Hàm Luông thành lập Tổ hợp tác trồng sầu riêng ấp Hàm Luông với 11 thành viên. Để Tổ hợp tác hoạt động hiệu quả, chị Thinh cùng các thành viên hình thành nhiều nhóm như, kỹ thuật, thu hoạch, kinh doanh, giao lưu… mỗi tháng họp một lần nhằm trao đổi, chia sẻ kỹ thuật trồng, chăm sóc sầu riêng. Các thành viên trong tổ còn hỗ trợ nhau về chăm sóc, thu hoạch. Những lúc nhàn rỗi thì các thành viên đứng ra nhận làm thuê như tạo tán, tỉa bông, thụ phấn… cho những hộ trồng sầu riêng bên ngoài nhằm tăng nguồn thu cho tổ hợp tác.
Tháng 8-2020, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bến Tre chọn Tổ hợp tác sầu riêng ấp Hàm Luông triển khai mô hình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sầu riêng thích ứng với biến đổi khí hậu. Các thành viên được hỗ trợ phương pháp chăm sóc sầu riêng “4 đúng” về bón phân và xịt thuốc “đúng loại, đúng liều, đúng lúc, đúng cách”. Ngoài ra, còn được hướng dẫn sử dụng thuốc sinh học để chăm sóc cây, canh tác theo tiêu chuẩn VietGAP, xây dựng khu vườn xanh - sạch - đẹp…
Từ hoạt động hiệu quả nên tháng 12-2020 qua sự vận động của UBND xã Tân Phú, thế là HTX Nông nghiệp Tân Phú được thành lập. Lúc đầu, HTX có 51 thành viên, nay tăng lên hơn 300 thành viên, với 320ha. HTX còn hình thành 8 tổ dịch vụ vừa hỗ trợ các xã viên trong canh tác sầu riêng, vừa đi làm dịch vụ ở nhiều nơi khác. Đến nay, HTX xây dựng được 6 mã vùng trồng sầu riêng và áp dụng sản xuất VietGAP trên diện tích 200ha… “Những năm qua, HTX liên kết với các doanh nghiệp cung ứng vật tư đầu vào với giá ưu đãi để hỗ trợ cho xã viên, trong đó những hộ canh tác hữu cơ được hỗ trợ 3 triệu đồng/ha/vụ; đồng thời hợp tác với nhiều doanh nghiệp xuất khẩu sầu riêng nhằm tiêu thụ giá tốt cho xã viên khi tới kỳ thu hoạch…”, Giám đốc Nguyễn Thị Thinh cho hay.
Song song với việc cung ứng sầu riêng tươi phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu, giám đốc Nguyễn Thị Thinh còn suy nghĩ ra việc chế biến sâu như sầu riêng cấp đông; chế biến sầu riêng chiên giòn, chả giò sầu riêng, cà ri nấu sầu riêng, sầu riêng xào thập cẩm… nhằm đáp ứng đa dạng sản phẩm ra thị trường, góp phần làm tăng giá trị mang lại từ trái sầu riêng. HTX cũng xây dựng thương hiệu cho trái sầu riêng Tân Phú và đạt chứng nhận OCOP 4 sao…
Gần đây, HTX lặn lội sang tỉnh Đồng Tháp học hỏi mô hình “hội quán”, sau đó về thành lập Câu lạc bộ hội quán Tân Phú với 50 thành viên, nhằm liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp và ngành chức năng trong sản xuất sầu riêng; đồng thời tổ chức các hoạt động trải nghiệm như trồng, chăm sóc, thu hoạch trái cây… phục vụ du khách tới tham quan… Lãnh đạo UBND xã Tân Phú cho rằng, việc tổ chức lại sản xuất nông nghiệp một cách bài bản, hiện đại thông qua mô hình HTX kiểu mới, nhờ vậy nhiều bà con nông thôn giờ đã có thu nhập bạc tỉ không còn là chuyện lạ…
Chị Bùi Thị Châm, Chi hội trưởng Chi hội phụ nữ ấp Trường Thọ 2A, Giám đốc HTX vườn cây ăn trái Trường Thọ 2A, xã Trường Long, huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ, cho biết: “Ngày trước ở vùng này nhiều chị em phụ nữ trồng các loại cây ăn trái như nhãn, xoài, mít… dạng manh mún, thiếu liên kết nên thu nhập không cao. Năm 2019, được sự động viên của các ngành chức năng, thế là chúng tôi thành lập HTX với 28 thành viên. Sau đó, HTX gắn kết với ngành nông nghiệp nhờ các kỹ sư hỗ trợ, tư vấn việc quy hoạch, phát triển vùng chuyên canh sầu riêng giá trị cao; đồng thời hợp tác với các doanh nghiệp cung cấp vật tư đầu vào giá ưu đãi, tiêu thụ sầu riêng khi tới vụ thu hoạch, giúp bà con an tâm sản xuất. Năm 2024, sầu riêng được giá, nhất là thời điểm tháng 2, tháng 3 từ 110.000-130.000 đồng/kg, đã giúp nhiều chị em có thu nhập từ 1-2 tỉ đồng/ha trở lên. Riêng gia đình tôi, đang canh tác 5,5 công sầu riêng cho trái, bán được gần 1,2 tỉ đồng. Bây giờ, nhiều chị em tham gia HTX rất phấn khởi bởi hiệu quả mang lại từ việc sản xuất được tổ chức bài bản, được chia sẻ thông tin, hỗ trợ nhau cùng phát triển…”.
Ngành nông nghiệp Hậu Giang cho biết, diện tích trồng sầu riêng của tỉnh có hơn 2.500ha, với 2 giống sầu riêng phổ biến là Ri6 và monthong. Hiện diện tích sầu riêng cho thu hoạch khoảng 1.000ha, năng suất bình quân từ 14-16 tấn trái/ha. Những năm gần đây, người dân có xu hướng chuyển đổi cây trồng kém hiệu quả sang trồng sầu riêng, vì giá bán cao, lợi nhuận hấp dẫn. Ngành nông nghiệp cũng khuyến cáo người dân cần tăng cường ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, phòng ngừa các loại sâu bệnh để tăng năng suất và chất lượng trái, cũng như liên kết với doanh nghiệp thu mua để tạo đầu ra ổn định.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia nông nghiệp, sầu riêng là cây trồng khó tính, kén chọn đất, nước và dễ mẫn cảm thời tiết và sâu bệnh. Nếu người trồng thiếu am hiểu kỹ thuật, đặc tính của cây mà trồng theo phong trào thì nguy cơ thiệt hại sẽ rất lớn. Theo tính toán, thời gian từ khi trồng đến thu hoạch của cây sầu riêng từ 4-6 năm, chi phí đầu tư lớn. Do đó, dù giá trị kinh tế của cây sầu riêng đang mang lại hiệu quả cao cho nhà vườn, tuy nhiên ngành chức năng khuyến cáo người dân cần cân nhắc kỹ trước khi mở rộng diện tích trồng sầu riêng để tránh tình trạng cung vượt cầu, từ đó gây thiệt hại không nhỏ cho người trồng.
H.TÂN - H.THU
HTX sầu riêng giúp nhiều nông dân làm giàu
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Những năm qua, Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp Tân Phú (xã Tân Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre), đã tập hợp nhiều bà con địa phương lại cùng nhau hợp tác trồng sầu riêng theo hướng VietGAP; đồng thời liên kết với các doanh nghiệp từ sản xuất đến tiêu thụ nhằm phát triển bền vững, giúp nhiều hộ ở nông thôn vươn lên làm giàu…
Sầu riêng chất lượng của HTX Nông nghiệp Tân Phú đạt OCOP.
Thay đổi cách làm, giúp tăng thu nhập
Chị Nguyễn Thị Diễm, ngụ ấp Hàm Luông, xã Tân Phú canh tác sầu riêng hàng chục năm nhưng thu nhập chỉ tạm đủ sống, không dư nhiều bởi sản xuất tự phát dẫn đến chi phí đầu tư cao, bán giá thấp. Mấy năm nay, chị được vận động tham gia HTX Nông nghiệp Tân Phú, từ đó được tập huấn các lớp khuyến nông, kỹ thuật làm vườn; tiếp cận mô hình canh tác VietGAP… Từ những kiến thức có được, chị thiết kế lại vườn trồng sầu riêng giống Ri6, áp dụng các giải pháp kỹ thuật do HTX và ngành Nông nghiệp hỗ trợ.
Ðể sầu riêng bán được giá cao, chị cùng các thành viên trong HTX xử lý trái vụ từ tháng 9 đến tháng 2; thời điểm này giá bán sầu riêng dao động 90.000-130.000 đồng/kg đối với giống Ri6, với năng suất 20 tấn/ha, mỗi héc-ta sầu riêng mang về bạc tỉ, hiệu quả cao hơn những loại cây trồng khác. Vụ sầu riêng năm 2024, chị Diễm canh tác 20 công, thu hoạch khoảng 24 tấn, bán giá từ 90.000-130.000 đồng/kg, thu về khoảng 2,5 tỉ đồng.
Chị Nguyễn Thị Nghĩa, ngụ xã Tân Phú cho hay, bà con xứ này trồng cây ăn trái khá lâu, tuy nhiên hạn chế là tình trạng mạnh ai nấy làm, thiếu liên kết nên hiệu quả chưa cao. Từ khi tham gia HTX đã giúp mọi người thay đổi cách nhìn, cách làm; thay đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, dựa vào các ứng dụng khoa học kỹ thuật để sản xuất sạch, hữu cơ, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Chính những thay đổi này đã giúp vườn sầu riêng 10 công của gia đình tôi đạt năng suất cao, bán giá tốt; thu nhập mỗi năm khoảng 1 tỉ đồng, có điều kiện lo cho con gái ăn học tới nơi tới chốn.
Ðưa chúng tôi ra thăm vườn sầu riêng xanh tốt của mình, chị Cao Thị Hạnh (xã Tân Phú) chia sẻ: “Trước đây mỗi khi sầu riêng bị bệnh nứt thân, xì mủ… thì tôi chỉ biết chạy ra các cửa hàng phân thuốc mua về phun xịt đại trà, nên khá tốn kém. Từ khi tham gia HTX được tập huấn thường xuyên nên bà con nắm vững lúc nào cần phun thuốc và phun loại nào vừa hiệu quả mà không ảnh hưởng đến chất lượng trái. Ngoài ra, còn được HTX hướng dẫn không thu hoạch trái còn non, mà phải để trái già tự nhiên trên cây nhằm đảm bảo độ ngọt, độ béo thì sầu riêng mới ngon; xuất khẩu đạt tiêu chuẩn. Ðây cũng là cách tạo uy tín và thương hiệu cho sầu riêng HTX Tân Phú. 15 công sầu riêng của gia đình tôi áp dụng các quy trình này mang lại doanh thu mỗi năm từ 1-1,3 tỉ đồng…”.
Ðoàn kết, giúp nhau cùng làm giàu…
Chị Nguyễn Thị Thinh, Giám đốc HTX Nông nghiệp Tân Phú nhìn nhận: “Ðể có được HTX lớn mạnh và nhiều hộ thu nhập bạc tỉ như hiện nay là một quá trình vượt khó khăn, kiên trì phát triển mô hình kinh tế hợp tác trong tổ chức hội phụ nữ cơ sở”. Chị Thinh nhớ lại, ngày trước bà con nông thôn vùng này cũng giống như nhiều nơi khác làm nông nghiệp nhỏ lẻ, tự phát, thiếu sự liên kết nên đầu ra sản phẩm bấp bênh. Quyết tâm thay đổi sản xuất theo hướng hiện đại, tháng 3-2017, Chi hội Phụ nữ ấp Hàm Luông thành lập Tổ hợp tác trồng sầu riêng ấp Hàm Luông với 11 thành viên. Ðể Tổ hợp tác hoạt động hiệu quả, chị Thinh cùng các thành viên hình thành nhiều nhóm như kỹ thuật, thu hoạch, kinh doanh, giao lưu… mỗi tháng họp một lần nhằm trao đổi, chia sẻ kỹ thuật trồng, chăm sóc sầu riêng. Các thành viên trong tổ còn hỗ trợ nhau về chăm sóc, thu hoạch. Những lúc nhàn rỗi thì các thành viên đứng ra nhận làm thuê như tạo tán, tỉa bông, thụ phấn… cho những hộ trồng sầu riêng bên ngoài nhằm tăng nguồn thu cho tổ hợp tác.
Tháng 8-2020, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bến Tre chọn Tổ hợp tác sầu riêng ấp Hàm Luông triển khai mô hình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sầu riêng thích ứng với biến đổi khí hậu. Các thành viên được hỗ trợ phương pháp chăm sóc sầu riêng “4 đúng” về bón phân và xịt thuốc “đúng loại, đúng liều, đúng lúc, đúng cách”. Ngoài ra, còn được hướng dẫn sử dụng thuốc sinh học để chăm sóc cây, canh tác tiêu chuẩn VietGAP, xây dựng khu vườn xanh - sạch - đẹp…
Nhờ hoạt động hiệu quả nên tháng 12-2020 qua sự vận động của UBND xã Tân Phú, HTX Nông nghiệp Tân Phú được thành lập. Lúc đầu HTX có 51 thành viên, nay tăng lên hơn 300 thành viên, với 320ha diện tích sản xuất. HTX còn hình thành 8 tổ dịch vụ vừa hỗ trợ các xã viên trong canh tác sầu riêng, vừa đi làm dịch vụ ở nhiều nơi khác. Ðến nay HTX xây dựng được 6 mã vùng trồng sầu riêng và áp dụng sản xuất VietGAP trên diện tích 200ha… “Những năm qua, HTX liên kết với các doanh nghiệp cung ứng vật tư đầu vào với giá ưu đãi để hỗ trợ cho xã viên, trong đó những hộ canh tác hữu cơ được hỗ trợ 3 triệu đồng/ha/vụ; đồng thời hợp tác với nhiều doanh nghiệp xuất khẩu sầu riêng nhằm tiêu thụ giá tốt cho xã viên khi tới kỳ thu hoạch…”- Giám đốc Nguyễn Thị Thinh, cho hay.
Song song với việc cung ứng sầu riêng tươi phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu, Giám đốc Nguyễn Thị Thinh còn suy nghĩ ra việc chế biến sâu như sầu riêng cấp đông; chế biến sầu riêng chiên giòn, chả giò sầu riêng, cà ri nấu sầu riêng, sầu riêng xào thập cẩm… nhằm đáp ứng đa dạng sản phẩm ra thị trường, góp phần làm tăng giá trị mang lại từ trái sầu riêng. HTX cũng xây dựng thương hiệu cho trái sầu riêng Tân Phú và đạt chứng nhận OCOP 4 sao…
Gần đây, HTX tổ chức đoàn sang tỉnh Ðồng Tháp học hỏi mô hình “hội quán”, sau đó về thành lập Câu lạc bộ hội quán Tân Phú với 50 thành viên, nhằm liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp và ngành chức năng trong sản xuất sầu riêng; đồng thời tổ chức các hoạt động trải nghiệm như trồng, chăm sóc, thu hoạch trái cây… phục vụ du khách tới tham quan…
Lãnh đạo UBND xã Tân Phú cho rằng, việc tổ chức lại sản xuất nông nghiệp một cách bài bản, hiện đại thông qua mô hình HTX kiểu mới, nhờ vậy nhiều bà con nông thôn có thu nhập bạc tỉ từ nghề nông giờ đã không còn là chuyện lạ…
Bài, ảnh: PHƯỚC BÌNH
Thu lợi kép từ mô hình xen canh
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Những năm qua, từ việc trồng xen cây ăn trái trong vườn cà phê, nhiều nông dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn các huyện trong tỉnh Lâm Đồng đã và đang có nguồn thu nhập khá cao.
Mô hình xen canh cây ăn trái trong vườn cà phê giúp nâng cao thu nhập cho gia đình ông K’Hiểuh
Ông K’Hiểuh ở Thôn 2, xã vùng sâu Đinh Trang Thượng (Di Linh) cho biết, từ nhiều năm qua, thấy cây có múi có giá cả ổn định, phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng tại các địa phương, thị trường trong và ngoài nước tiêu thụ khá mạnh và được nhiều bà con trong tỉnh nói riêng và các tỉnh Tây Nguyên nói chung phát triển mạnh, nên những năm qua, gia đình ông K’Hiểuh đã mua một số cây trồng xen thử nghiệm cùng các loại cây bơ, mắc ca trong vườn cà phê rồi nhân rộng trên diện tích hơn 2 ha.
"Vốn là cây khó tính đòi hỏi nhiều công sức chăm sóc, nhưng nguồn lợi thu về cũng cao hơn hẳn. Bởi trước đây, giá cả thị trường cà phê bấp bênh và mang lại thu nhập cũng rất hạn chế. Vì vậy, việc trồng xen đa dạng cây trồng để tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích là giải pháp hữu hiệu, giúp người nông dân thu lợi kép từ sản xuất nông nghiệp. Với 2 ha cà phê, dự tính niên vụ này, gia đình tôi thu bình quân đạt 5 tấn cà phê nhân; 200 gốc sầu riêng, có 40 gốc đang trong thời kỳ kinh doanh, ước tính sản lượng đạt 5 tấn quả và 8 tấn bơ 034 đã xuất bán…”, ông K’Hiểuh phấn khởi.
Tương tự, vài năm trở lại đây, nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở vùng sâu huyện Đam Rông cũng đã và đang chú trọng phát triển mô hình trồng xen cây ăn trái trong rẫy cà phê. Đến với vườn rẫy cà phê của gia đình ông K’Tăm ở Thôn 2, xã Liêng S’rônh nhận thấy, trong vườn cà phê ông đã trồng khá nhiều cây ăn trái các loại. Với 6 ha đất canh tác, đến nay, ông K’Tăm đã trồng 4 ha cà phê (2 ha đang cho kinh doanh), 1 ha sầu riêng và trồng xen 100 cây bơ, 500 cây chanh không hạt, mắc ca, dổi. Ngoài ra, gia đình ông K’Tăm còn trồng 3 sào dâu để nuôi tằm. “Số diện tích cà phê đang cho kinh doanh, mỗi năm bình quân đạt sản lượng 5,5 tấn cà phê nhân, số còn lại năm nay bắt đầu cho thu bói. Còn các loại cây ăn trái như: Bơ, sầu riêng, mắc ca, nhiều cây cũng đã cho thu hoạch ổn định. Còn về trồng dâu, nuôi tằm do hạn chế về nhà nuôi nên hiện tại gia đình tôi mới chỉ nuôi 7,5 gram tằm con/lứa. Từ khi thực hiện mô hình trồng xen đa cây, thu nhập của gia đình được tăng lên và ổn định hơn. Tùy theo đặc tính sinh trưởng, mỗi loại cây trong vườn rẫy cho thu hoạch vào nhiều thời điểm khác nhau trong năm nên cũng hạn chế áp lực về mặt thời gian thu hoạch cho gia đình”, ông K’ Tăm - Bí thư chi bộ, kiêm Trưởng Ban công tác Mặt trận Thôn 2 nói.
Còn gia đình ông Phan Văn Tuấn ở thôn Tân Tiến, xã Đạ R’sal, có 4 ha đất sản xuất. Những năm qua, song song với phát triển cây cà phê, ông Tuấn chịu khó tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm những người đi trước và thực hiện thành công mô hình trồng 400 cây vải thiều, trồng xen 120 cây sầu riêng, cây bưởi da xanh và cam, quýt trong vườn cà phê. Ngoài ra, ông còn tận dụng khoảng đất trống, bờ ao trồng 0,2 ha rau an toàn và diện tích 0,3 ha mặt nước thả cá để cải thiện cuộc sống gia đình. “Nhu cầu và giá cả thị trường cây ăn trái các loại ổn định. Với mô hình trồng xen đa cây đã cho gia đình tôi có nguồn thu nhập quanh năm, tránh được tình trạng được mùa mất giá bởi chỉ độc canh cây cà phê. Từ nhiều năm nay, bình quân gia đình tôi có thu nhập trên 400 triệu đồng/năm, sau khi đã trừ các chi phí sản xuất”, ông Phan Văn Tuấn bày tỏ.
Ông Nguyễn Văn Chính - Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Đam Rông, cho biết: Việc trồng xen cây ăn trái trong vườn cà phê đã được nhiều nơi thực hiện từ nhiều năm nay. Bởi người dân nhận thấy cái lợi từ các loại cây ăn trái trồng xen trong vườn cà phê mang lại, nên đã mạnh dạn mở rộng diện tích xen canh. Cách làm này cho hiệu quả kinh tế tốt, vừa nâng cao giá trị sử dụng đất và tăng thêm thu nhập trên một đơn vị diện tích, vừa giảm tỷ lệ rủi ro khi giá cả cà phê lên xuống thất thường. Vì vậy, nhiều năm nay, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện đã tham mưu cho UBND huyện thực hiện Đề án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, đặc biệt là từ khi có Nghị quyết số 12 của Huyện ủy, nhận thấy hiệu quả, thông qua mô hình, việc trao đổi, tập huấn…, bà con đã mạnh dạn thực hiện và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đơn cử, qua thực nghiệm đã chứng minh việc trồng xen mắc ca ở xã Phi Liêng, Đạ K’nàng đã cho thu nhập gia tăng thêm từ 150 - 250 triệu đồng/ha... Bên cạnh đó, các loại cây ăn trái khi trồng xen trong vườn cà phê có nhiều lợi ích, vì vừa làm cây che bóng, mùa khô hạn chế quá trình hấp thụ bốc hơi nước, giúp giảm lượng nước tưới cho cà phê. Đồng thời hạn chế sâu bệnh cho cây cà phê…
Theo thống kê của huyện Đam Rông, đến nay, toàn huyện đã có trên 30% diện tích cây cà phê có trồng xen cây ăn trái các loại; tập trung nhiều nhất ở các xã Đạ R’sal, Rô Men, Liêng S’rônh, Đạ K’nàng và Phi Liêng…
LAM PHƯƠNG
Trồng ớt sừng vàng cho thu nhập khá
Nguồn tin: Báo Bình Phước
Thời gian qua, giá ớt trên thị trường khá cao và ổn định. Do đó, trồng ớt là một trong những mô hình kinh tế mang lại thu nhập khá cho nhiều nông dân.
Trồng 3 sào ớt sừng vàng, tương đương 3.000 cây ớt, gia đình bà Trần Thị Thanh Hòa ở khu phố 6, phường Minh Hưng, thị xã Chơn Thành (tỉnh Bình Phước) áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, sử dụng màng phủ nông nghiệp để giữ độ ẩm trong đất, ít tốn phân bón, hạn chế sâu bệnh, giảm chi phí đầu tư... Sau 3 tháng chăm sóc, vườn ớt của gia đình cho thu hoạch. Ước tính mỗi cây thu được từ 3-4kg, với giá bán hiện nay 50 ngàn đồng/kg, đến cuối vụ vườn ớt sẽ cho thu khoảng 10 tấn trái.
Ông Võ Tuấn Vũ chăm sóc kỹ thuật cho vườn ớt của hộ bà Trần Thị Thanh Hòa
Theo bà Hòa, giá ớt năm nay ổn định nên lợi nhuận cao hơn nhiều so với các loại hoa màu khác. “Tôi trồng ớt đã 20 năm nên có nhiều mối thu mua. Khi ớt được thu hoạch, họ vào tận vườn mua, có bao nhiêu cũng mua hết. Trong số các loại ớt, tôi thấy ớt sừng vàng hiệu quả kinh tế, năng suất cao hơn” - bà Hòa cho biết.
Theo ông Võ Tuấn Vũ, một người chuyên làm kỹ thuật cho vườn ớt của gia đình bà Hòa, trồng ớt không dễ, đòi hỏi sự chăm chỉ và kiên trì. Để cây ớt phát triển tốt, đạt năng suất cao cần cung cấp đủ nước cho cây. Ớt thường mắc các bệnh thán thư, thối trái, thối cây, do đó phải thường xuyên kiểm tra, phát hiện sâu bệnh kịp thời để có những giải pháp phun thuốc, ngăn chặn. “Trồng ớt phải chăm sóc kỹ, thăm vườn thường xuyên. Đặc biệt, khi gặp mưa hoặc sương muối vào ban đêm thì sáng phải tưới nước xả sương, nếu không cây sẽ bị quăn đọt, vàng lá. Nhìn chung, trồng ớt không dễ, phải có kỹ thuật mới làm được” - ông Vũ chia sẻ.
Ớt sừng vàng châu Phi hiện được thị trường ưa chuộng vì cây lớn, trái to, bóng đẹp mà lại rất cay, năng suất cao hơn các loại ớt khác. Đặc biệt, loại cây này khá thích nghi với vùng đất cao, trồng được quanh năm nên đang được nhà nông quan tâm.
Theo ông Nguyễn Trường Ban, Chi hội trưởng Chi hội Nông dân khu phố 6, phường Minh Hưng, trên địa bàn khu phố có 2 hộ trồng ớt sừng vàng đang mang lại hiệu quả kinh tế cao, trong đó có gia đình bà Trần Thị Thanh Hòa. Với giá ớt bán ra thị trường từ 40-80 ngàn đồng/kg tùy từng thời điểm, thì nông dân có lời cao. “Đất ở khu vực phường Minh Hưng là đất thịt pha cát nên rất thuận lợi trồng các loại hoa màu ngắn ngày, trong đó có cây ớt, nông dân cân nhắc để tăng thu nhập cho gia đình” - ông Ban chia sẻ.
Là cây ngắn ngày nên trồng ớt ít tốn công cũng như vốn đầu tư, đầu ra khá ổn định. Vì vậy, đây là một trong những mô hình nông dân có thể tham khảo. Tuy nhiên, người dân cũng nên hình thành vùng luân canh cây ớt và các hoa màu khác nhằm hạn chế rủi ro khi giá ớt lên xuống thất thường.
Hiền Lương
Khởi nghiệp từ nấm bào ngư
Nguồn tin: Báo Khánh Hòa
Không chỉ ứng dụng khoa học kỹ thuật để trồng nấm bào ngư sạch, ông Nguyễn Hữu Lộc (sinh năm 1989, trú phường Ninh Diêm, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa) còn nâng cao giá trị nông sản của mình khi sản xuất thành công sản phẩm snack từ nấm bào ngư. Sản phẩm được bình chọn là sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp thị xã và cấp tỉnh năm 2021.
Tay ngang trồng nấm
Đưa chúng tôi đi tham quan nhà trồng nấm, ông Lộc chia sẻ: “Ngay từ khi khởi nghiệp với cây nấm bào ngư, tôi đã xác định sẽ đi theo hướng vì sức khỏe cộng đồng. Tôi trồng nấm theo công nghệ “3 không” (Không thuốc bảo vệ thực vật, không phân bón hóa học và không thuốc kích thích tăng trưởng) nên có thể sản lượng không cao nhưng chất lượng được thị trường chấp nhận. Nhờ học hỏi áp dụng các cách làm hay mà tôi sản xuất được snack nấm bào ngư. Đến nay, sản phẩm đã được nhiều người biết đến thông qua việc trưng bày ở các khu du lịch tại địa phương. Tôi mong muốn được quảng bá nông sản của quê hương mình”.
Ông Nguyễn Hữu Lộc kiểm tra nấm bào ngư chuẩn bị thu hoạch.
Sinh ra và lớn lên tại phường Ninh Diêm, vùng đất mà người dân đa số gắn liền với nghề biển, ông Lộc chọn theo học ngành An toàn hàng hải, Trường Đại học Nha Trang. Ra trường, ông làm việc ở một công ty về dầu khí với mức lương khá ổn định. Sau vài năm làm việc, tích lũy được một số vốn, năm 2017, ông xin nghỉ việc và khởi nghiệp với mô hình trồng nấm bào ngư theo tiêu chuẩn "3 không".
Với số vốn ban đầu 150 triệu đồng, ông đầu tư làm 150m2 nhà xưởng và nhập gần 2.000 phôi nấm từ trại nấm của tỉnh khác về trồng. Thời điểm đó, mỗi ngày, trại nấm của ông sản xuất được từ 20 đến 30kg nấm tươi. Sau khi trừ các chi phí, mỗi tháng, trại nấm có thu nhập ổn định từ 8 đến 10 triệu đồng. Vừa làm, ông vừa học hỏi kinh nghiệm, tham khảo nhiều tài liệu về việc ứng dụng khoa học kỹ thuật trong trồng nấm, làm phôi nấm và đi tham quan thực tế tại các tỉnh. Năm 2019, ngoài số vốn tích lũy được, ông vay thêm 50 triệu đồng từ Ngân hàng Chính sách xã hội thị xã Ninh Hòa để đầu tư khu ủ nấm, mở rộng khu trồng nấm với diện tích gần 250m2; đồng thời lắp đặt hệ thống tưới nước tự động cho nhà nấm, nhà lưới, hệ thống quan sát nhiệt độ không khí, độ ẩm, nhiệt độ đất và ánh sáng trong nhà lưới, hệ thống tự động điều khiển bật - tắt đèn, máy phun sương... Nhờ đó, ông tiết kiệm được chi phí về công lao động và trại nấm của gia đình phát triển ngày càng tốt hơn.
Ông Lộc cho biết: “Khi áp dụng khoa học vào sản xuất, tôi luôn tuân thủ các quy trình sản xuất, chế biến nấm theo hướng an toàn từ khâu trồng cây nấm, tưới bằng nước sạch… đến việc vệ sinh lán trại hàng ngày bằng vôi bột. Lán trại trồng nấm được xây dựng kiên cố, thoáng mát. Nhờ vậy, nấm của trại luôn được các cơ sở bán nông sản sạch, quán chay tại TP. Nha Trang tin tưởng đặt hàng”.
Làm snack từ nấm bào ngư
Sau một thời gian tạm nghỉ để nâng cấp khu nuôi trồng và tiếp tục đầu tư các công nghệ tự động trong nuôi trồng nấm. Hiện nay, mỗi ngày, cơ sở sản xuất được hơn 30kg nấm tươi, với giá bán từ 60.000 đến 80.000 đồng/kg, sau khi trừ các chi phí, cho thu nhập ổn định hơn 15 triệu đồng/tháng; đồng thời tạo việc làm cho 4 lao động tại địa phương, với mức lương bình quân từ 4 đến 5 triệu đồng/người/tháng.
Cuối năm 2019, sau khi tham quan mô hình trồng nấm và sản xuất sản phẩm từ nấm bào ngư tại Philippines, ông bắt tay vào sản xuất snack nấm bào ngư. Thời gian đầu, do chưa có kinh nghiệm nên ông gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, ông vẫn kiên trì nghiên cứu. Sau 2 tháng thử nghiệm, ông đã sản xuất thành công 3 loại snack nấm với các vị: Phô mai, BBQ (nướng) và rong biển. Các sản phẩm này được thị trường đón nhận. Để sản xuất được snack nấm bào ngư, ông phải chọn nấm tươi đúng kích cỡ, sau đó chiên tách dầu và thêm một số gia vị tự nhiên; nhờ đó nấm vẫn giữ được giá trị dinh dưỡng cao. Hiện nay, một gói snack nấm 35gr được bán ra thị trường với giá 29.000 đồng, nâng cao giá trị sản phẩm gấp nhiều lần so với bán nấm tươi.
Ông NGUYỄN CÔNG TÍNH - Phó Chủ tịch phụ trách Hội Nông dân thị xã Ninh Hòa: Mô hình trồng nấm bào ngư và sản xuất snack nấm của ông Lộc đã đạt giải cao tại Hội thi sáng tạo khoa học kỹ thuật tỉnh Khánh Hòa lần thứ X năm 2022 - 2023. Sản phẩm snack nấm của ông Lộc đã tham gia nhiều hội chợ, phiên chợ nông sản trong và ngoài tỉnh, được nhiều người tiêu dùng biết đến. Thời gian tới, Hội Nông dân thị xã tiếp tục tìm các nguồn vốn hỗ trợ để giúp ông Lộc đầu tư phát triển mô hình. Hội cũng đã thành lập Tổ hội nghề nghiệp trồng nấm tại phường Ninh Diêm để các hộ học hỏi; đồng thời tiếp tục tuyên truyền và nhân rộng mô hình này đến hội viên nông dân trong thị xã.
Tháng 8-2021, sản phẩm snack nấm bào ngư của ông Nguyễn Hữu Lộc được bình chọn là sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp thị xã; sau đó tiếp tục được trao chứng nhận sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp tỉnh.
MÃ PHƯƠNG - THẢO LY
Nông dân ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Quảng Ninh
Nhanh nhạy và sáng tạo, nông dân Quảng Ninh thời gian qua đã tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, hình thành nên những mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao điển hình. Ở những mô hình này, quy trình sản xuất ưu việt, thiết bị sản xuất hiện đại, người nông dân tự tin làm chủ các yếu tố tác động sản xuất, từ đó mang lại sản lượng lớn, chất lượng cao, nâng cao giá trị sản phẩm, giá trị trên diện tích đất canh tác và đảm bảo tính phát triển bền vững.
Đi vào sản xuất từ tháng 2/2024, HTX nuôi tôm công nghệ cao Cẩm Phả (xã Cộng Hoà, TP Cẩm Phả) đã có đợt thu hoạch vụ tôm thứ 5 với sản lượng cao, mẫu mã đẹp. Công nghệ nuôi tôm của HTX này là công nghệ 3 giai đoạn trong nhà màng.
Theo anh Nguyễn Bá Mạnh, Giám đốc HTX, công nghệ này cho phép người nuôi tôm có thể chủ động nắm bắt và cân chỉnh những yếu tố môi trường nuôi cần thiết để tiến hành thả nuôi quanh năm. Ở từng giai đoạn trưởng thành của con tôm đều được thả vào những ao nuôi riêng biệt và áp dụng cách chăm sóc cụ thể, phù hợp lứa tuổi, mật độ, sức khoẻ và sở thích của con tôm.
Anh Đặng Bá Mạnh (đội mũ) áp dụng công nghệ nuôi tôm trong nhà bạt cải tiến và nuôi theo 3 giai đoạn.
Cái hay của HTX nuôi tôm công nghệ cao Cẩm Phả còn là hệ thống nhà màng đã được cải tiến theo hướng nâng độ cao nhà màng. Việc này, giải quyết một vấn đề lớn của các nhà màng là sự bí và hấp hơi hoặc tình trạng sương mù xảy ra do sự chênh lệch nhiệt độ, khiến cho con tôm phải chịu cảnh sống trong môi trường yếm khí. Có nhà màng cải tiến, HTX nuôi tôm công nghệ cao Cẩm Phả tự tin chuẩn bị các điều kiện để bước vào nuôi tôm vụ đông, vốn là vụ nuôi khó thành công bởi thời tiết lạnh giá khắc nghiệt, không phù hợp với sự sống của con tôm.
Đông Triều với thế mạnh hạ tầng sản xuất nông nghiệp tương đối hoàn thiện, cộng với trình độ và tư duy canh tác của người nông dân tốt, đã khiến nơi đây trở thành vùng trọng điểm nông nghiệp trong toàn tỉnh, vùng điển hình về sản xuất nông nghiệp công nghệ cao.
Nho sữa là giống cây chịu lạnh xuất xứ từ Hàn Quốc. Ông Ngô Đức Trí xã An Sinh là người mạnh dạn trồng giống cây này. Qua kênh bạn bè giới thiệu, ông Trí nhập giống cây, cải tạo đất và áp dụng quy trình nhà màng và tưới phun sương vào trồng cây. Nhờ đó, ông Trí giảm thiểu tối đa các tác động tiêu cực đến cây nho sữa, như thời tiết nắng nóng, nhiệt độ cao, thay vào đó là nền nhiệt trong nhà màng thấp, tương đối phù hợp với giống cây nhập ngoại này. Cùng với những điều chỉnh về nhiệt độ, ông Trí duy trì chế độ chăm sóc vườn nho theo hướng hữu cơ, ưu tiên sử dụng các loại phân, thuốc gốc sinh học, tạo nên độ giòn, ngọt cho quả nho.
Từ giải pháp canh tác hiện đại trên, vườn nho rộng 3 sào của ông Ngô Đức Trí không chỉ sinh trưởng và phát triển tốt mà còn sai trái, trái to, giòn, ngọt, ngon không kém sản phẩm nho sữa nhập ngoại. Vụ mùa này, ông Trí thu hoạch khoảng gần 1 tấn nho, trong đó, 70% là chùm nho loại 1, giá bán 300.000-350.000 đồng/kg.
Có thể thấy, những mô hình nông nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ cao đã góp phần nâng cao giá trị cho kinh tế nông nghiệp trên toàn tỉnh. Không khó để bắt gặp những vườn cây trái hoa màu giống mới; những mô hình sản xuất nông nghiệp người dân đã sử dụng thiết bị bay không người lái để phun thuốc bảo vệ thực vật, người dân sử dụng hệ thống tưới nước tiết kiệm đối với các vùng hạn, ứng dụng ánh sáng để điều chỉnh hoa nở, chủ động phân vụ, thụ phấn để giảm sức tải cho cây trồng…
Hiện nay, bám sát chiến lược phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh Quảng Ninh, diện tích canh tác sẽ ngày càng giảm đi, nhường chỗ cho các dự án đô thị cũng như các lĩnh vực kinh tế khác. Xu hướng nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn sẽ ngày càng phát triển hơn, nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, của thị trường hướng tới những sản phẩm đặc sắc, ngon, lành, tốt cho sức khoẻ. Đồng thời nông nghiệp công nghệ cao cũng phù hợp với tiến trình đô thị hoá hiện đang phát triển rất mạnh mẽ trên địa bàn. Vì vậy, việc tăng hàm lượng khoa học kỹ thuật trong mỗi mô hình sản xuất trở nên cấp thiết, rất cần được triển khai sớm và triển khai rộng rãi.
Với sự quan tâm của tỉnh và sự vào cuộc rất khẩn trương của hội nông dân các cấp, những mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao được khuyến khích hình thành và phát triển, nhận được những chính sách hỗ trợ cụ thể, phù hợp. Đây là động lực quan trọng để nền nông nghiệp Quảng Ninh tiến lên hiện đại, bền vững và giá trị cao, có những chuyển động tích cực và mạnh mẽ, cộng hưởng cùng các ngành kinh tế khác để phát triển.
Việt Hoa
Bình Định: Nông dân Đinh Văn Nhang làm kinh tế giỏi
Nguồn tin: Báo Bình Định
Dù ở địa bàn còn nhiều khó khăn, nhưng nhờ cần cù, nhạy bén, biết làm kinh tế đúng hướng, vợ chồng ông Đinh Văn Nhang (thôn T2, xã Bok Tới, huyện Hoài Ân) đã vươn lên làm giàu từ trồng keo và trang trại chăn nuôi heo, gầy dựng cơ ngơi tiền tỷ.
Cách đây 20 năm, cũng như bao gia đình người Bana trong thôn, đời sống gia đình ông Nhang gặp rất nhiều khó khăn. Nhà chỉ có vài mảnh ruộng trồng lúa đủ gạo ăn qua ngày, đất đai phần lớn là nương rẫy với cây mì, chuối, điều nhưng đều không mang lại hiệu quả vì năng suất thấp, giá cả bấp bênh.
Năm 2011, ông Nhang thực hiện theo chính sách khuyến khích của địa phương, bắt đầu trồng 3.000 cây keo đầu tiên trên diện tích 1 ha đất rẫy canh tác kém hiệu quả. So với các loại cây nông nghiệp trước đó, cây keo sinh trưởng vượt trội lại ít tốn chi phí, công chăm sóc.
Ông Đinh Văn Nhang chăm sóc đàn heo. Ảnh: N.C
Từ hiệu quả bước đầu, ông Nhang tiếp tục chuyển đổi rẫy trồng cây hằng năm sang trồng keo. Đến năm 2017, cây keo đã phủ xanh toàn bộ diện tích 6 ha đất rẫy của gia đình. Đó cũng là năm ông Nhang bắt đầu thu được thành quả khi diện tích trồng keo đầu tiên cho thu hoạch, sau khi trừ hết chi phí ông bỏ túi hơn 50 triệu trồng.
Vụ thu hoạch keo ấn tượng nhất là năm 2020, với 4 ha keo, ông Nhang thu được hơn 1 tỷ đồng, lợi nhuận đạt hơn 700 triệu đồng. Theo ông Nhang, vì trồng theo kiểu “gối đầu” nên từ năm 2017 đến nay, năm nào ông cũng có keo để thu hoạch. Những năm gần đây cây keo được chăm sóc tốt nên năng suất tăng lên, cho mức lợi nhuận bình quân đạt gần 100 triệu đồng/ha/năm.
Cách đây hơn 10 năm, nhận thấy nhu cầu lớn về thịt heo đen, heo rừng lai trên thị trường, vợ chồng ông Nhang đầu tư trang trại rộng 1.000 m2 để phát triển chăn nuôi. Từ 4 con heo ban đầu, ông Nhang phát triển thành đàn 30 - 40 con và duy trì nhiều năm qua. Ngoài heo thương phẩm, trang trại ông còn có 12 con heo nái sinh sản, mỗi năm có thể đẻ 2 lứa, tổng số heo con xuất chuồng đạt bình quân từ 120 - 140 con/năm.
Nhờ biết ứng dụng những tiến bộ KHKT vào chăn nuôi, đàn heo của ông Nhang luôn duy trì ổn định, mỗi năm trại heo cho ông mức lợi nhuận hơn 100 triệu đồng. Ngoài ra, ông Nhang còn thành công với vườn dừa xiêm rộng 3.000 m2 hiện đã cho thu hoạch được một năm.
Với nguồn thu đa dạng và duy trì ổn định từ cây keo và chăn nuôi heo, hằng năm ông Nhang bỏ túi hơn 300 triệu đồng. Năm 2021, vợ chồng ông xây dựng được ngôi nhà mới khang trang với tổng chi phí hơn 1 tỷ đồng, cũng là công trình nhà ở bề thế nhất ở xã vùng cao Bok Tới.
Theo ông Đinh Giang Sang, Chủ tịch UBND xã Bok Tới, ông Nhang là điển hình làm kinh tế giỏi của xã, là tấm gương cho người dân địa phương noi theo. Điều đáng quý là ông luôn nhiệt tình chia sẻ, hỗ trợ bà con xung quanh kinh nghiệm, kiến thức về trồng, chăm sóc cây keo và chăn nuôi heo. Nhờ sự giúp đỡ của ông, nhiều hộ chẳng những thoát nghèo mà còn vươn lên làm giàu.
NGUYỄN CHƠN
Xây dựng tiêu chuẩn quốc gia cho yến sào và trầm hương
Nguồn tin: Báo Khánh Hòa
Thời gian gần đây, trên thị trường có nhiều sản phẩm yến sào và trầm hương kém chất lượng. Để bảo vệ uy tín thương hiệu yến sào và trầm hương, việc xây dựng những tiêu chuẩn chất lượng cụ thể cho 2 sản phẩm này càng trở nên cấp thiết.
Chưa có chuẩn mực để đánh giá
Hiện nay, Khánh Hòa đang sở hữu, khai thác 173 hang yến, với 33 đảo yến và nhiều nhà nuôi với sản lượng yến sào thành phẩm lớn. Từ nguồn nguyên liệu dồi dào đã tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị, như: Yến sào nguyên tổ, tinh chất yến sào, nước yến sào, rượu yến sào, các loại bánh từ yến sào... Đối với trầm hương, sản phẩm trầm hương của Khánh Hòa đã nổi tiếng trong cả nước, hình thành nhiều làng nghề chế tác trầm, đóng góp cho sự phát triển ngành trầm hương Việt Nam. Cả hai loại sản vật này đã trở thành sản phẩm đặc trưng nổi tiếng của Khánh Hòa, đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Tuy quý hiếm nhưng cả yến sào và trầm hương đều chưa có chuẩn mực cụ thể để đánh giá nên người tiêu dùng khó phân biệt thật, giả, sản phẩm tốt, xấu. Ông Biện Quốc Dũng - Chủ tịch Hội Trầm hương Khánh Hòa cho biết, lâu nay chưa có tiêu chuẩn nào để phân loại, đánh giá về trầm hương. Trong mua bán, phần lớn dựa vào cảm nhận, sự tin tưởng, kinh nghiệm và đồng thuận. Việc phân hạng sản phẩm theo chất lượng để định giá cũng chỉ được các cá nhân, doanh nghiệp tổ chức thực hiện theo cảm quan (màu sắc, mùi vị...) mà không có chuẩn mực cụ thể về các tiêu chí, các định mức chất lượng nào để đánh giá. Do đó, công tác quản lý nhà nước, việc đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng đối với 2 mặt hàng này gặp rất nhiều khó khăn.
Tinh chế yến sào tại Công ty Cổ phần Nước giải khát yến sào Khánh Hòa.
Ông Nguyễn Văn Tưởng - Chủ tịch Công ty TNHH ATC - Trầm hương Khánh Hòa khẳng định: “Việc xây dựng tiêu chuẩn chất lượng cho trầm hương và yến sào đáng lý phải được xây dựng từ nhiều năm trước. Đây là những sản vật từ lâu đã được người tiêu dùng trong nước và quốc tế công nhận về chất lượng. Do đó, cần sớm xây dựng tiêu chuẩn quốc gia cho trầm hương và yến sào nhằm khuyến khích phát triển kinh tế xanh. Mong UBND tỉnh sớm xây dựng được các tiêu chuẩn chất lượng phù hợp để các doanh nghiệp, hiệp hội có điều kiện kinh doanh, phát triển trầm hương và yến sào. Việc xây dựng các tiêu chuẩn chính là thiết lập hàng rào hữu hiệu để bảo vệ cho trầm hương và yến sào Khánh Hòa”.
Cần sớm xây dựng tiêu chuẩn quốc gia
Để tạo ra công cụ hữu hiệu ngăn chặn yến sào và trầm hương kém chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng, việc xây dựng tiêu chuẩn chất lượng là cần thiết và phù hợp. Tuy nhiên, ngoài Khánh Hòa, trên cả nước còn nhiều địa phương khác có nguồn lợi yến sào và trầm hương, như: Bình Định, Quảng Nam, Kiên Giang, Tiền Giang, Bình Thuận, Ninh Thuận, Gia Lai, Quảng Bình... Do đó, vấn đề đặt ra là cần phải xây dựng tiêu chuẩn vừa phù hợp với cả nước nhưng vẫn có những yếu tố để phân biệt được tính đặc hữu của yến sào và trầm hương Khánh Hòa.
Ông Nguyễn Sanh Đương - Phó Giám đốc Sở Công Thương cho biết, trên địa bàn tỉnh phần lớn các sản phẩm từ yến sào và trầm hương được sử dụng dưới dạng các sản phẩm chế biến, như: Thực phẩm, thuốc, nhang, hàng thủ công mỹ nghệ... Tuy nhiên, hiện nay, pháp luật không có quy định mang tính bắt buộc về mức giới hạn dư lượng thuốc thú y trong thực phẩm, quy định giới hạn dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, giới hạn ô nhiễm kim loại nặng, giới hạn ô nhiễm vi sinh vật... đối với sản phẩm từ yến sào và trầm hương. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh đang vận dụng các quy định khác nhau để tự công bố chất lượng sản phẩm. Do đó, quan điểm của Sở Công Thương là nên đề xuất Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng quy chuẩn quốc gia cho hai dòng sản phẩm này, bởi nếu chỉ xây dựng tiêu chuẩn quốc gia thì không mang tính bắt buộc, các cơ sở có thể áp dụng hoặc không áp dụng.
Theo bà Trịnh Thị Hồng Vân - Chủ tịch Hội đồng Thành viên Công ty TNHH Nhà nước Một thành viên Yến sào Khánh Hòa, việc xây dựng quy chuẩn quốc gia là cần thiết nhưng sẽ mất rất nhiều thời gian. Do đó, trước mắt nên xây dựng tiêu chuẩn quốc gia, sau đó tiếp tục xây dựng quy chuẩn quốc gia. Đối với yến sào, khi xây dựng tiêu chuẩn nên xây dựng thành 2 loại yến đảo và yến nuôi. “Từ năm 2004 đến nay, có rất nhiều nhà nuôi chim yến, hộ kinh doanh, công ty kinh doanh ngành yến nhưng không có một tiêu chuẩn riêng của Việt Nam để nhận biết chất lượng yến cụ thể của các đơn vị. Các cơ quan chức năng khi kiểm tra cũng không có tiêu chuẩn để giải quyết các vấn đề này. Chính vì vậy, Nhà nước nên xây dựng tiêu chuẩn quốc gia cho yến sào và trầm hương càng sớm càng tốt” - bà Vân nói.
Ông LÊ HỮU HOÀNG - Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh: UBND tỉnh thống nhất sẽ xây dựng tiêu chuẩn quốc gia cho yến sào và trầm hương; giao Sở Khoa học và Công nghệ chủ trì xây dựng dự thảo tiêu chuẩn quốc gia gửi Bộ Khoa học và Công nghệ. Khi thực hiện, sẽ xây dựng tiêu chuẩn yến đảo và yến nuôi riêng biệt; xây dựng các giải pháp để bảo vệ tính đặc trưng, đặc hữu, giá trị thương hiệu cho yến sào và trầm hương Khánh Hòa. UBND tỉnh cũng giao Sở Khoa học và Công nghệ làm việc với Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng quốc gia để xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia về trầm hương và yến sào cho phù hợp.
ĐÌNH LÂM
Lợi ích kép từ chế biến rơm vỗ béo bò
Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế
Để tận dụng nguồn rơm, hạn chế đốt đồng sau thu hoạch, Trung tâm Khuyến nông (TTKN) tỉnh Thừa Thiên Huế đã triển khai thành công mô hình chế biến rơm làm thức ăn vỗ béo bò tại huyện A Lưới.
Rơm cuộn phục vụ chế biến thức ăn gia súc
Hiệu quả
Mấy chục con bò nuôi theo mô hình gia trại, nhốt chuồng của ông Nguyễn Văn Trường ở thị trấn A Lưới (A Lưới) cần một lượng thức ăn lớn. Nguồn thức ăn xanh, thô tại địa phương khó có thể đáp ứng nhu cầu mở rộng quy mô số lượng bò nuôi của ông Trường.
Được lựa chọn hộ triển khai mô hình chế biến rơm làm thức ăn chăn nuôi, vỗ béo bò tại gia trại đáp ứng nhu cầu của ông Trường. “Mô hình được triển khai từ tháng 4, đến nay đã thành công ngoài mong đợi. Mấy chục con bò của gia đình tôi không chỉ đảm bảo nguồn thức ăn mà còn chóng lớn. Đây là niềm vui trước mắt và lâu dài khi tôi có nhu cầu, dự định sẽ tiếp tục mở rộng quy mô số lượng đàn bò”, ông Trường phấn khởi.
Giám đốc TTKN tỉnh, ông Châu Ngọc Phi thông tin, để thực hiện thành công mô hình chế biến rơm làm thức ăn chăn nuôi, vỗ béo bò tại huyện A Lưới, Nhà nước có chính sách hỗ trợ 70% kinh phí mua rơm cuộn làm thức ăn, thức ăn tinh và thuốc thú y, 50% rơm làm đệm lót. Hộ tham gia mô hình đối ứng bò giống, máy móc chế biến rơm, chế phẩm vi sinh, các loại nguyên liệu thức ăn khác, 30% rơm cuộn làm thức ăn, thức ăn tinh, thuốc thú y và 50% rơm làm đệm lót.
Các loại nguyên liệu đưa vào chế biến thức ăn để nuôi bò vỗ béo gồm rơm cuộn, cỏ voi trồng, thức ăn tinh hỗn hợp, cám, bắp, bột sắn, chuối cây, rỉ mật, muối… tùy theo lợi thế nguyên liệu sẵn có tại gia đình, địa phương. Rơm sau chế biến được cắt ngắn và làm mềm, được máy trộn đều với các nguyên liệu khác tạo ra hỗn hợp thức ăn có mùi thơm dễ chịu, kích thích bò ăn nhiều hơn. Nhờ vậy, bò tăng trọng nhanh, khả năng kháng bệnh tốt, giảm tiêu tốn thức ăn. Theo tính toán của ông Trường và cán bộ khuyến nông, với giá bán bò thịt 75 ngàn đồng/kg, mô hình mang lại lợi nhuận gần 64 triệu đồng, bình quân một con bò vỗ béo trong 90 ngày lợi nhuận hơn 2,1 triệu đồng.
Cần nhân rộng mô hình
Ngày 20/8 vừa qua, TTKN tỉnh đã tổ chức đánh giá kết quả của mô hình chế biến rơm làm thức ăn chăn nuôi, vỗ béo bò tại A Lưới. Mô hình cho thấy, hiệu quả và triển vọng trong phát huy lợi thế chăn nuôi gia súc, bò nói riêng trên địa bàn huyện. Hiện nay, tại huyện A Lưới có tổng đàn trâu, bò hơn 13 ngàn con. Một trong những khó khăn nuôi trâu, bò là thiếu thức ăn trong mùa đông dẫn đến gia súc gầy và chết do đói rét. Trong khi đó, diện tích gieo trồng lúa hàng năm của huyện khoảng 2.150ha, sản lượng rơm khoảng 8.600 tấn rơm khô là nguồn phụ phẩm có giá trị, lợi thế để nuôi trâu, bò.
Đối với chăn nuôi trâu, bò, rơm rạ được xem một nguồn thức ăn thô chính, dễ bảo quản và dự trữ lâu dài. Tuy nhiên, hiện nay rơm được sử dụng phổ biến ở dạng nguyên, chưa qua chế biến nên hiệu quả chưa cao. Đặc điểm của rơm rạ là kềnh càng và chất lượng dinh dưỡng thấp, có thành phần Silic cao (12-16%) là nguyên nhân chính dẫn đến khả năng tiêu hóa kém. Nếu chỉ cho ăn rơm rạ thì gia súc chỉ hấp thu được một lượng nhỏ chất dinh dưỡng.
Ông Châu Ngọc Phi cho rằng, chế biến rơm cuộn với các nguyên liệu khác để làm thức ăn vỗ béo bò là mô hình ứng dụng công nghệ cao, cơ giới hóa trong chăn nuôi gia súc. Mô hình còn góp phần thay đổi nhận thức cho các hộ chăn nuôi trong việc dự trữ, sử dụng rơm làm thức ăn nuôi bò, đặc biệt trong mùa đông thường thiếu cỏ. Việc sử dụng rơm làm nguồn thức ăn chăn nuôi còn góp phần hạn chế đốt rơm trên đồng ruộng gây nhiều hệ lụy và tránh lãng phí.
Để tạo thêm thu nhập cho nông dân từ việc thu gom, tái sử dụng rơm rạ vào sản xuất nông nghiệp và hạn chế tình trạng đốt đồng, tỉnh có chủ trương hỗ trợ phát triển máy cuốn rơm, tăng cường sử dụng rơm vào sản xuất nông nghiệp. Đến nay, máy cuốn rơm đã phát triển phổ biến trên địa bàn tỉnh. Tận dụng lợi thế này, TTKN đã xây dựng thành công hai mô hình chế biến rơm cuộn để nuôi bò quy mô trang trại.
Để phát huy hiệu quả của mô hình, TTKN tỉnh đề nghị, các đơn vị chuyên môn cấp huyện, các xã quan tâm đánh giá nhu cầu của người dân để hỗ trợ nhân rộng mô hình chế rơm làm thức ăn chăn nuôi, vỗ béo bò; quy hoạch, hỗ trợ phát triển chăn nuôi vỗ béo bò quy mô trang trại, ứng dụng cơ giới hóa. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục quan tâm hỗ trợ xây dựng mô hình chế biến rơm cuộn với quy mô nhỏ, phù hợp cho chăn nuôi nông hộ. Đồng thời, quan tâm hỗ trợ xây dựng mô hình chế biến, ép rơm thành kiện vuông để tiện lợi cho quá trình dự trữ, chế biến phục vụ chăn nuôi.
Bài, ảnh: Hoàng Thế
Bảo vệ đàn vật nuôi trước thiên tai
Nguồn tin: Báo Thái Nguyên
Thái Nguyên vừa trải qua những đợt mưa lũ và phải chịu nhiều thiệt hại khá nặng nề. Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh có 16 chuồng trại chăn nuôi bị ảnh hưởng, trên 3.000 con gia súc, gia cầm bị chết, lũ cuốn trôi. Nguy cơ xảy ra mưa lũ, ngập úng vẫn tiếp diễn trong 2 tháng tới, có thể gây ảnh hưởng đến đàn vật nuôi. Trong khi đó, hiện nay, nhiều hộ dân đã bắt đầu tái đàn hoặc mở rộng quy mô chăn nuôi để phục vụ nhu cầu thị trường dịp Tết Nguyên đán 2025. Do đó, vấn đề bảo vệ đàn vật nuôi trước thiên tai là khá bức thiết.
Chăm sóc tốt cho đàn vật nuôi cũng là biện pháp phòng, chống dịch bệnh hiệu quả. Trong ảnh: Một mô hình chăn nuôi lợn áp dụng quy trình chuồng trại chăn nuôi sạch tại xóm Đức Hòa, xã Thịnh Đức (TP. Thái Nguyên).
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có khoảng 95.000 con trâu, bò, 600.000 con lợn và 16 triệu con gia cầm; chăn nuôi quy mô trang trại chiếm 43% trong tổng đàn gia súc, gia cầm. Chất lượng đàn gia súc, gia cầm được nâng cao, tỷ lệ đàn lợn ngoại, lợn lai có năng suất, chất lượng cao đạt 76% trong tổng đàn; đàn bò lai Zebu và các giống bò chất lượng cao đạt 68% trở lên; đàn gà lông màu có chất lượng đạt 86% trong tổng đàn.
Từ nhiều năm nay, chăn nuôi chiếm vị trí quan trọng, mang lại nguồn thu nhập chính cho nhiều hộ dân trong tỉnh. Vì vậy, bảo vệ đàn gia súc, gia cầm luôn là nhiệm vụ quan trọng của các cấp, ngành chức năng và người chăn nuôi.
Ông Lê Đắc Vinh, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản, cho biết: Trong điều kiện thời tiết bất thường như hiện nay, nhất là khi xảy ra mưa lũ, không chỉ có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi tình trạng ngập úng, khan hiếm thức ăn, đàn vật nuôi còn dễ bị phát sinh dịch bệnh (bởi khi mưa to có thể gây ngập úng cục bộ hoặc ngập lụt trên diện rộng, tạo cơ hội phát tán mầm bệnh).
Thực tế cho thấy, tại Thái Nguyên, từ tháng 8 đến hết tháng 10 thường có các đợt mưa to kéo dài gây ngập úng cục bộ. Bởi vậy, hiện nay, tỉnh đang tiếp tục tăng cường các biện pháp phòng, chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm, không để dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm tái bùng phát.
Theo đó, tỉnh đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát tình hình dịch bệnh tại các địa phương, chủ động trong công tác phòng, chống dịch bệnh. Lực lượng nhân viên thú y tăng cường hướng dẫn bà con nông dân cách chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng chống đói, rét cho đàn gia súc, gia cầm; thông tin, tuyên truyền để bà con chú trọng phát triển chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học; chủ động tiêm phòng, định kỳ tiêm bổ sung các loại vắc-xin cho đàn gia súc, gia cầm mới theo đúng quy định...
Đặc biệt, tại các vùng nguy cơ (nhất là tại các xã Tràng Xá, Dân Tiến, huyện Võ Nhai, nơi xuất hiện dịch tả lợn châu Phi hồi tháng 5 vừa qua), Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản đã chỉ đạo triển khai tích cực, đồng bộ các biện pháp chống dịch. Cụ thể là giám sát dịch bệnh đến tận hộ chăn nuôi; chủ động lấy mẫu để giám sát, chẩn đoán, xác minh dịch bệnh; tiêu hủy gia súc, gia cầm mắc bệnh, bị chết và cách ly, điều trị vật nuôi bị ốm, thực hiện vệ sinh, khử trùng tiêu độc khu vực chăn nuôi (ngay khi phát hiện các ổ dịch)...
Đến nay, đàn vật nuôi cơ bản an toàn khi các dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm (nhất là bệnh dịch tả lợn châu Phi) đã được khống chế và công bố hết dịch. Mặc dù vậy, để bảo vệ an toàn cho đàn vật nuôi, người dân cần thường xuyên cập nhật thông tin dự báo thời tiết hằng ngày và tăng cường chăm sóc đàn gia súc, gia cầm thật tốt để nâng cao khả năng chống chịu đối với những tác động bất lợi của thời tiết và sự đe dọa của dịch bệnh dịp cuối năm (như cúm gia cầm, dịch tả lợn châu Phi, bệnh tai xanh ở lợn, lở mồm long móng, viêm da nổi cục...).
Ông Đỗ Văn Thao, một người chăn nuôi gà thả vườn với quy mô khá lớn ở xóm Long Việt, xã Bàn Đạt (Phú Bình), chia sẻ: Được sự hướng dẫn của cán bộ thú y, gia đình tôi đã tu sửa chuồng trại chắc chắn; kiểm tra hệ thống nước thải, chứa chất thải để hạn chế ô nhiễm môi trường; cung cấp đủ nước sạch cho đàn gà. Đặc biệt, tôi đã dự trữ nguồn thức ăn, vật tư, thuốc thú y cần thiết cho đàn gà, phòng khi xảy ra mưa to, gió lớn; thường xuyên vệ sinh chuồng trại, tiêm đầy đủ các loại vắc-xin để đàn gà phát triển khỏe mạnh…
Để phòng, chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi hiệu quả, nhất là trong mùa mưa lũ, rất cần các hộ dân thực hiện thường xuyên nhiều biện pháp, đồng thời có sự quan tâm của cộng đồng để bảo đảm an toàn dịch bệnh, giảm bớt thiệt hại cho người chăn nuôi.
Tùng Lâm
Hiếu Giang tổng hợp