Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 29 tháng 11 năm 2023

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 29 tháng 11 năm 2023

 

Quan tâm phòng, trừ dịch hại, phát triển bền vững cây cam

 

Nguồn tin: Báo Hà Giang

Sản phẩm cam Sành Hà Giang đã được Bộ Khoa học và Công nghệ cấp Chỉ dẫn địa lý. Tuy nhiên, sự phát triển của cây cam cũng có nhiều thăng trầm do thiếu sự quan tâm, chăm sóc, phòng trừ sâu, bệnh hại khiến diện tích cam giảm mạnh. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải quan tâm tới công tác chăm sóc, phòng trừ sâu, bệnh hại để phát triển bền vững cây cam.

Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và PTNT, tổng diện tích cam niên vụ 2023 – 2024 đạt 5.824 ha (diện tích cam Sành trên 3.785 ha; cam Vàng 2.039 ha). Trong đó, diện tích cho sản phẩm 5.080 ha, năng suất đạt gần 130/ha, sản lượng đạt trên 66.000 tấn. Từ năm 2021 đến nay có 3.232,5 ha cam của 3.657 hộ bị suy thoái do bị vàng lá, thối rễ. Trong đó, có 1.074,8 ha cam không có khả năng phục hồi; 1.259,5 ha suy thoái mức độ II, gần 900 ha suy thoái mức độ I.

Giai đoạn 2019 – 2022, trên địa bàn tỉnh có 47 cơ sở/3.516,85 ha cam Sành được cấp giấy chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Tuy nhiên, đến cuối năm 2022 các giấy chứng nhận đã hết hiệu lực; hiện mới có 6 cơ sở/266,8 ha cam thực hiện chứng nhận lại VietGAP. Trong đó, Bắc Quang 3 cơ sở/186,8 ha; Quang Bình 3 cơ sở/80 ha. Điều này cho thấy đây là tình trạng đáng báo động đối với sự phát triển cây cam của tỉnh.

 

Lãnh đạo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh cùng các chuyên gia kiểm tra vườn cam bị vàng lá, thối rễ tại huyện Bắc Quang.

Trước tình hình trên, Sở Nông nghiệp và PTNT cùng các chuyên gia về cây ăn quả có múi trực thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT đã đánh giá, xác định nguyên nhân và đưa ra giải pháp nhằm hạn chế sự suy thoái diện tích cam Hà Giang. Theo đó, nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên được xác định phần lớn do người trồng cam thiếu quan tâm, chăm sóc hoặc chăm sóc không đúng kỹ thuật. Vì vậy, cần sự nhận diện và thực hiện đúng các quy trình chăm sóc, phòng trừ một số loại sâu, bệnh hại thường gặp, gây ảnh hưởng xấu tới sự phát triển và năng suất của cây cam như: Bệnh Greening (vàng lá gân xanh), Tristeza (bệnh tàn lụi), vàng lá thối rễ và Rầy chổng cánh (Diaphorina citri).

Theo các chuyên gia, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp căn cơ là cải tạo lại đất trồng, điều chỉnh lại mức đầu tư, không nên lạm dụng quá nhiều vào phân bón vô cơ, thuốc BVTV hoá học, thuốc trừ cỏ và sử dụng giống chưa sạch bệnh. Vì vậy, Sở Nông nghiệp và PTNT đã phối hợp Viện nghiên cứu rau quả ban hành Hướng dẫn biện pháp kỹ thuật (tạm thời) khắc phục hiện tượng vàng lá, thối rễ trên cây cam Hà Giang. Nhờ đó, ước tính đến thời điểm hiện nay có khoảng trên 700 ha cam được phục hồi.

Theo hướng dẫn của ngành chuyên môn, bệnh vàng lá thối rễ, triệu chứng nhận biết khi bệnh mới xuất hiện, lá vẫn bình thường nhưng gân lá có màu vàng nhạt, phiến lá ngả màu vàng, rụng lá. Chất lượng quả kém và rụng sớm. Bệnh nặng có thể làm chết cả cây; nhánh cây bị bệnh hướng nào thì rễ cũng thường bị thối ở hướng đó. Khi bị nặng tất cả rễ đều bị thối đen và chết cây.

Đối với bệnh Greening, lá có màu vàng, ven gân lá còn giữ màu xanh lục, gân nổi, phiến lá hẹp, khoảng cách giữa các lá ngắn lại. Trên lá già: Lá dầy nhám, gân lồi sần sùi và có màu nâu đen, rễ bị thối đặc biệt là rễ tơ; hoa thường ra trái mùa, ít hoa và rụng nhiều; quả ít và có kích thước nhỏ hơn bình thường, bị biến dạng, khi bổ dọc thì tâm quả lệch hẳn sang một bên, hạt trong quả thường bị thối, có màu nâu.

Bệnh Tristeza làm gân trong, hoặc lõm thân nhẹ trên thân, gây vàng, lùn làm giảm năng suất và kích thước quả, cành giòn và dễ gẫy, quả bị vàng từ đáy quả lên cuống và làm rụng quả hàng loạt. Bệnh thường nhiễm vào mùa nắng nhưng sang mùa mưa mới thể hiện triệu chứng rất nặng.

Cả 3 loại bệnh trên đều có chung biện pháp phòng trừ là: Sử dụng giống sạch bệnh; không dùng cây giống từ các vườn đã nhiễm bệnh làm giống. Phương pháp trồng, chăm sóc là xử lý hố trồng cây bằng vôi bột và bón lót bằng phân hữu cơ, chế phẩm sinh học trước khi trồng; tạo tán, tỉa cành để vườn thông thoáng; thường xuyên thăm vườn để phát hiện kịp thời cây bị bệnh; tiêu hủy cây bị bệnh nặng không có khả năng phục hồi sau đó xử lý bằng vôi bột hoặc các chế phẩm sinh học; những khu vực trồng cây có múi bị bệnh nặng nên luân canh cây trồng khác từ 2 - 3 năm; sử dụng bẫy để diệt côn trùng truyền bệnh hoặc thả kiến vàng (Oecophylla smaragdina) trên vườn cây để hạn chế Rầy chổng cánh, Rệp muội là môi giới truyền bệnh.

Biện pháp phòng, chống: Cắt tỉa cành tạo bộ khung thông thoáng, ẩm độ thấp; bón phân cân đối, tưới nước hợp lý, điều khiển cho cây ra các đợt lộc tập trung để hạn chế sự phát triển và gây hại của Rầy chổng cánh; nhổ bỏ, tiêu hủy những cây bị bệnh vàng lá Greening để giảm nguồn bệnh lây lan sang những cây khỏe; thả kiến vàng trên vườn cây; sử dụng bẫy để tiêu diệt; sử dụng dầu khoáng để phun khi cây ra chồi non; sử dụng thuốc BVTV...

Lãnh đạo Chi cục Trồng trọt và BVTV cho biết: Cây cam là cây trồng hàng hóa chủ lực của tỉnh, được cấp ủy, chính quyền các cấp đặc biệt quan tâm. BTV Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết chuyên đề số 05 về phát triển bền vững cây cam Sành. Giá trị sản xuất cam của tỉnh hàng năm đạt khoảng 500 tỷ đồng. Đây không chỉ là cây giúp người dân làm giàu mà còn là cây thương hiệu của tỉnh. Vì vậy, để cây cam tiếp tục phát triển bền vững, rất cần sự quan tâm, vào cuộc của các cấp, ngành, đặc biệt là người trồng cam trong việc thực hiện các biện pháp phòng trừ sâu, bệnh hại.

Bài, ảnh: Lương Hà

 

Rau đắng Nhật ‘made in Phước Ngãi’

 

Nguồn tin: Báo Đồng Khởi

Qua nhiều lần tìm hiểu từ thực tế về rau đắng Nhật ở các địa phương trong và ngoài tỉnh, năm 2014, nông dân Trần Thanh Phong, sinh năm 1977, ngụ ấp Phú Long, xã Phước Ngãi, huyện Ba Tri (tỉnh Bến Tre) đã mua giống tận ở tỉnh Thừa Thiên - Huế về trồng trên diện tích đất lúa hơn 4,5ha. Bình quân mỗi ngày anh cung cấp ra thị trường trong và ngoài huyện khoảng 2 tấn rau, với giá từ 3.000 - 3.500 đồng/kg đã cho anh thu nhập mỗi ngày hơn 1 triệu đồng sau khi trừ tất cả các chi phí.

 

 

Anh Trần Thanh Phong phân phối rau đắng giao cho khách hàng.

Ủy viên Ban Thường vụ Hội Nông dân (HND) huyện Ba Tri Phạm Quốc Thắng cho biết: Mô hình trồng rau đắng Nhật của anh Trần Thanh Phong thật sự mang lại hiệu quả cao, sức tiêu thụ hiện nay trên thị trường mỗi ngày là rất lớn. Trước đây, anh canh tác trên phần diện tích đất nhỏ nhưng hiện nay anh đã mạnh dạn đầu tư canh tác hơn 4,5ha. Đây là mô hình kinh tế mới, tiêu biểu của bà con nông dân trên địa bàn xã Phước Ngãi nói riêng, huyện Ba Tri nói chung. Mô hình vừa góp phần giải quyết việc làm cho bà con nông dân nghèo tại địa phương, vừa thúc đẩy nhanh việc chuyển đổi vùng đất lúa kém hiệu quả trong phong trào chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi thích ứng với biến đổi khí hậu do địa phương phát động. Bởi nơi anh Trần Thanh Phong đang canh tác rau đắng Nhật là vùng đất sản xuất lúa kém hiệu quả, đất phèn, mặn, chỉ canh tác được lúa 1 vụ/năm. Đồng thời, mô hình còn cho thấy việc xây dựng hồ chứa nước ngọt Kênh Lấp trong thời gian qua thật sự đã được phát huy tác dụng…

Theo anh Trần Thanh Phong, rau đắng Nhật rất dễ trồng và thích nghi tốt với vùng đất phèn, mặn, thời gian cho thu hoạch nhanh (1 tháng/lần cắt), năng suất rất cao. Bình quân 1.000m2/tháng cho thu hoạch 1 tấn rau tươi. Đây là loại rau được người dân tiêu thụ nhanh, ưa thích bởi dễ chế biến như luộc, xào hay nấu canh, ăn lẩu… Hiện tại, với hơn 4,5ha đất canh tác rau đắng Nhật, mỗi ngày anh Phong cần từ 3 - 5 lao động phụ việc như làm cỏ, cắt rau và được anh trả tiền công 270 ngàn đồng/người.

“Vì tính hiệu quả kinh tế, mô hình canh tác rau đắng Nhật của anh Phong hiện nay được HND huyện đặc biệt quan tâm và có hướng nhân rộng trong thời gian tới trên địa bàn xã Phước Ngãi”, ông Phạm Quốc Thắng cho biết thêm.

Chủ tịch HND xã Phước Ngãi Trần Quang Thân cho biết: Hiện mô hình canh tác rau đắng Nhật của anh Phong được hướng dẫn canh tác theo quy trình đạt chuẩn VietGAP, hướng đến sản xuất sạch, an toàn. HND xã sẽ tiếp tục phối hợp với HND huyện và các ngành liên quan hỗ trợ để anh Phong tiếp cận, làm quy trình, thủ tục và tiến tới xây dựng thương hiệu, xây dựng sản phẩm OCOP để gia tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp hiện có này tại địa phương. Anh Trần Thanh Phong cũng là thành viên Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp xã Phước Ngãi… Với thành tích hoạt động nổi bật, HND xã được UBND huyện khen thưởng tập thể Ban Chấp hành HND hoàn thành xuất sắc công tác hội và phong trào nông dân năm 2022.

HND xã Phước Ngãi có 1.301 hội viên, 5 chi hội ấp và 25 tổ hội. Ban Chấp hành HND xã có quỹ hoạt động thường xuyên 50 triệu đồng. Các chi hội có nguồn quỹ hoạt động từ 2 - 5 triệu đồng. Tổ hội có quỹ hoạt động từ 500 ngàn đến 1 triệu đồng. Quỹ hỗ trợ nông dân xã hiện có hơn 258 triệu đồng, trong năm 2022, đã cho 13 hộ vay chăn nuôi bò sinh sản. Tính đến tháng 12-2023, tổng dư nợ từ các nguồn vốn vay ưu đãi trên địa bàn xã trên 15,2 tỷ đồng với 8 tổ tiết kiệm và 373 thành viên vay.

Bài, ảnh: Thành Lập

 

Yêu cầu công khai, niêm yết giá thu mua cà phê để tránh tình trạng ép giá

 

Nguồn tin: Lao Động

Đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở thu mua, chế biến cà phê trên địa bàn, UBND huyện Hướng Hóa (tỉnh Quảng Trị) yêu cầu công khai, niêm yết giá thu mua từng ngày để tránh việc ép giá trong thu mua cà phê quả tươi của người dân.

 

 

Người dân thu hái cà phê Arabica ở huyện Hướng Hóa. Ảnh: Hưng Thơ.

Ngày 25.11, UBND huyện Hướng Hóa xác nhận, sau phản ánh của người dân trồng cà phê về việc bị nhà máy ép giá, đơn vị này đã yêu cầu các đơn vị liên quan tăng cường quản lý chất lượng thu hoạch, thu mua và chế biến cà phê quả tươi niên vụ 2023.

Theo đó, UBND huyện Hướng Hóa đã yêu cầu các cơ quan, đơn vị, địa phương và các doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, chế biến cà phê trên địa bàn phối hợp chặt chẽ trong công tác quản lý, giám sát chất lượng thu hoạch, thu mua và chế biến cà phê quả tươi, có biện pháp xử lý đối với những trường hợp thu hoạch, thu mua cà phê không đảm bảo chất lượng.

Đối với UBND các xã, thị trấn, UBND huyện Hướng Hóa đề nghị tuyên truyền và hướng dẫn người dân thu hoạch cà phê đúng kỹ thuật, đảm bảo tỷ lệ quả chín, không ngâm nước, để trộn lẫn cành, lá, đất, cát khi cân bán. Đồng thời giám sát, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp cố tình trộn lẫn đất, cát, tạp chất khi cân bán; phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp, nhà máy, cơ sở thu mua cà phê quả tươi tuyên truyền, giải thích về mức giá thu mua hàng ngày, lý do tăng, giảm giá mua.

Đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở thu mua, chế biến cà phê trên địa bàn, UBND huyện Hướng Hóa yêu cầu công khai, niêm yết giá thu mua từng ngày để tránh việc ép giá trong thu mua cà phê quả tươi của người dân.

Đặc biệt, UBND huyện Hướng Hóa đã thành lập và yêu cầu Tổ công tác liên ngành kiểm tra chất lượng thu hoạch, thu mua và chế biến cà phê quả tươi niên vụ 2023 tăng cường tổ chức kiểm tra chất lượng thu hoạch, thu mua và chế biến cà phê theo quy định của pháp luật và Quy chế của Hội cà phê Khe Sanh. Hướng dẫn các doanh nghiệp, nhà máy cam kết thực hiện việc thu mua cà phê quả tươi đảm bảo chất lượng; thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện cam kết của các doanh nghiệp, nhà máy, lập biên bản các trường hợp thực hiện trái cam kết để xử lý theo đúng quy định.

Trước đó, Lao Động đã thông tin, từ giữa tháng 11.2023, giá cà phê quả tươi Arabica được các nhà máy tại huyện Hướng Hóa thu mua với mức giá 7.000 đồng/kg. Trong lúc giá cà phê trên thế giới và một số tỉnh thành khác trong nước được thu mua với giá cao thì giá ở địa phương quá thấp, nên hơn 30 hộ dân trồng cà phê ở xã Hướng Phùng (huyện Hướng Hóa) đã dừng việc thu hái, kéo nhau ra UBND huyện, phản ánh việc các nhà máy bắt tay nhau ép giá.

Sau khi phản ánh, giá cà phê tăng dần lên, từ 7.000 đồng/kg giữa tháng 11 lên 11.000 đồng/kg vào ngày.

HƯNG THƠ

 

Sản xuất rải vụ, nông dân trồng khóm vùng Đồng Tháp Mười của tỉnh Tiền Giang trúng mùa, bội thu

 

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang

Theo ông Trần Hoàng Phong, Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Tân Phước, phát huy tiềm năng vùng Đồng Tháp Mười, nông dân trong vùng đã khai hoang, trồng được gần 15.400 ha khóm chuyên canh, mỗi năm cho sản lượng thu hoạch khoảng 300.000 tấn khóm thương phẩm, lớn nhất tỉnh Tiền Giang và là cây trồng đặc sản có lợi thế cạnh tranh của địa phương.

 

 

Nông dân thu hoạch khóm ở xã Thạnh Mỹ.

Nhằm phát huy tiềm năng và thế mạnh cây khóm vùng Đồng Tháp Mười, huyện Tân Phước quan tâm định hình vùng sản xuất chuyên canh, chuyển giao khoa học - kỹ thuật để tăng năng suất, sản lượng và chất lượng nông sản hàng hóa. Từ đầu năm đến nay, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tân Phước đã tổ chức gần 200 cuộc tập huấn, chuyển giao kỹ thuật trồng trọt cho gần 4.300 hộ nông dân vùng chuyên canh, chủ yếu kỹ thuật thâm canh, tuyển chọn giống tốt, cải tạo vườn dứa, xử lý cho trái rải vụ để có sản phẩm thu hoạch quanh năm,...

Trong đó, với kỹ thuật xử lý cho trái rải vụ, chủ động thời điểm thu hoạch được ngành Nông nghiệp đúc kết, chuyển giao và nông dân đang áp dụng một cách rộng rãi đã tạo nên cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên lĩnh vực thâm canh cây trồng đặc sản. Hiện nay, nhờ vào việc áp dụng kỹ thuật xử lý rải vụ, khóm Tân Phước cho thu hoạch gần như quanh năm. Từ đó, giảm được nguy cơ được mùa, mất giá do mất cân đối cung - cầu thị trường nông sản bởi thu hoạch tập trung vào một thời điểm nhất định trong năm. Nông dân an tâm đẩy mạnh sản xuất, thâm canh. Ngoài ra, chú trọng mở rộng mạng lưới thu mua, tiêu thụ, tổ chức lại sản xuất, phát triển kinh tế hợp tác cũng góp phần quan trọng đảm bảo sự phát triển mạnh mẽ và bền vững của vùng chuyên canh.

Cũng theo ông Trần Hoàng Phong, Chủ tịch UBND huyện Tân Phước, toàn huyện hiện có mạng lưới 8 hợp tác xã liên kết thu mua, tiêu thụ khóm cho bà con nông dân. Mặt khác, có trên 20 vựa thu mua trái khóm cung ứng cho thị trường tiêu thụ trong nước hoặc doanh nghiệp chế biến xuất khẩu. Từ đó, đảm bảo đầu ra cho trái khóm khi đến kỳ thu hoạch và người dân rất an tâm sản xuất.

Huyện Tân Phước cũng quan tâm việc sơ chế, chế biến nhằm đa dạng hóa sản phẩm từ trái khóm phục vụ nhu cầu thị trường đã giúp nâng giá trị và thương hiệu trái khóm Tân Phước. Từ trái khóm tươi, người dân địa phương chế biến ra nhiều sản phẩm như: kẹo khóm, nước màu khóm, nước giải khát từ trái khóm… và đưa ra phục vụ thị trường đã giải quyết việc làm cho lao động nông nhàn vừa tạo ra giá trị gia tăng đáng kể từ trái khóm chủ lực vùng Đồng Tháp Mười của tỉnh Tiền Giang.

Năm nay, nông dân vùng chuyên canh Đồng Tháp Mười trúng mùa, bội thu. Đến giữa tháng 11/2023, huyện Tân Phước đã thu hoạch được trên 12.000 ha với năng suất bình quân 20,5 tấn/ha và sản lượng gần 250.000 tấn khóm thương phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng và chế biến xuất khẩu.

Đáng mừng là trong năm 2023, khóm Đồng Tháp Mười luôn có giá cao, giúp nông dân vùng chuyên canh tăng thêm nguồn thu nhập nên cuộc sống ổn định. Chủ tịch UBND huyện Tân Phước cho biết, từ đầu năm đến nay, giá khóm luôn đứng ở mức 8.000 đồng đến 9.500 đồng/kg, có lúc vượt lên trên 10.000 đồng/kg, cao gần gấp đôi năm trước. Với giá này, mỗi ha cho nông dân lợi nhuận ròng khoảng 100 triệu đồng. Nhờ thu nhập cao từ cây khóm, bà con huyện Tân Phước vượt khó, thoát nghèo và tạo dựng cơ nghiệp vững vàng trên miền đất mới khai hoang Đồng Tháp Mười.

Ông Lê Văn Bé Hai, xã Thạnh Mỹ, huyện Tân Phước cho biết, ông có 3 ha đất trồng khóm chuyên canh. Nhờ áp dụng đồng bộ các biện pháp thâm canh để khóm đạt năng suất, sản lượng cao, chú trọng xử lý cho trái rải vụ nên khi thu hoạch bán được giá cao. Trong năm 2023, ước tính, ông đạt sản lượng khóm trên 60 tấn, bán thu nhập ròng khoảng 300 triệu đồng.

Từ một nông dân nghèo khó vào khai hoang lập nghiệp nơi đây, nhờ trồng khóm chuyên canh, ông Lê Văn Bé Hai đã nghiễm nhiên trở thành triệu phú trên Đồng Tháp Mười (tỉnh Tiền Giang), tạo dựng cơ nghiệp bền vững, đóng góp vào sự đổi thay của miền đất hoang hóa một thời.

Minh Trí

 

Chanh quả giá cao kỷ lục và nỗi lo bùng phát diện tích

 

Nguồn tin: Báo Tuyên Quang

2 tháng trở lại đây, giá chanh quả lên cao kỷ lục 33 nghìn/kg tại vườn. Thay vì vui nhiều người gắn bó với cây chanh/ lại lo lắng tái diễn tình trạng đổ xô trồng chanh khi thấy giá lên cao.

Giá quả chanh tươi cao kỷ lục

10 năm gắn bó với cây chanh, đây là lần thứ 2, anh Khổng Văn Nam, Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao Việt Bắc, phường Đội Cấn (TP Tuyên Quang) chứng kiến giá quả chanh tươi lên cao chót vót.

Anh Nam cho biết, nếu giá chanh quả thời điểm đầu năm là 5 nghìn đồng/kg bán giao không hết, hợp tác xã phải ép nước bảo quản thì nay đã tăng lên gấp 6 - 7 lần. Hiện nay 1 kg chanh tươi cân tại vườn là 33 nghìn đồng/kg, giao tại chợ đầu mối từ 34 - 35 nghìn đồng/kg hoặc có thể hơn tùy thuộc vào chi phí vận chuyển; chanh bán theo quả có giá 2 - 2,5 nghìn đồng/quả, tăng 1 - 1,5 nghìn đồng/quả.

Vựa chanh Hàm Yên gồm các xã: Phù Lưu, Tân Thành, Minh Dân, Minh Khương… giá chanh quả tươi cũng tăng cao ngất ngưởng, khoảng từ 30 - 31 nghìn đồng/kg tại vườn. Tính toán của những chủ vườn chanh xã Phù Lưu, giá 1 kg quả chanh loại A hiện nay đang tương đương với 4 - 5 kg cam; loại chanh mất mã, thời điểm trước thương lái không thu mua, cho không ai lấy thì nay cũng lên 15 - 18 nghìn đồng/kg. Bà Lã Thị Chức, thôn Pắc Cáp, xã Phù Lưu (Hàm Yên) cho rằng, khả năng giá chanh sẽ lên đến 40 nghìn đồng/kg rồi sẽ quay đầu sụt giảm như cách đây 8 năm về trước.

 

 

Theo anh Nam, bà Chức và nhiều hộ trồng chanh trên địa bàn huyện Hàm Yên, giá chanh lên cao, tuy nhiên sản lượng chanh ở các trang trại, nhà vườn cũng không nhiều. Ngay tại vùng chanh của Hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao Việt Bắc có quy mô 100 ha, sản lượng chanh thu tại thời điểm này cũng chỉ đạt 2 - 3 tấn/ngày bằng 20 - 30% so với thời điểm đầu năm.

Xã Phù Lưu là địa phương có diện tích chanh lớn nhất tỉnh với hơn 500 ha, sản lượng chanh giờ cũng chỉ đạt 20 tấn/ngày bằng 40 - 45% so với thời điểm đầu năm. Nguyên nhân giá chanh lên cao là do những tháng đầu năm thời tiết khô hạn, cây chanh sinh trưởng, phát triển kém không ra hoa, đậu quả dẫn đến mất lứa. Chanh mất lứa đúng vào thời điểm cuối năm nhu cầu tiêu thụ tăng cao, khiến mặt hàng này càng thêm khan hiếm.

Nỗi lo bùng phát diện tích

Giá quả chanh tươi lên cao không ảnh hưởng nhiều đến người tiêu dùng. Chị Nguyễn Thị Huyền, chủ quán bún, phở trâu giật, phường Nông Tiến (TP Tuyên Quang) cho biết, quả chanh tươi chỉ là gia vị nên dù giá chanh có lên hơn 30 nghìn đồng/kg cũng không đáng ngại. Bởi 1 ngày bán hàng, cũng chỉ sử dụng khoảng 1 kg chanh quả.

Theo những người trồng chanh lâu năm, giá quả chanh tươi lên cao chót vót như hiện nay không làm họ vui mà còn thêm nhiều lo lắng. Thực tế hiện nay 1 kg chanh tương đương với 4 - 5 kg cam hoặc 2 - 3 quả bưởi da xanh và khoảng 5 - 6 quả bưởi đường, bưởi diễn. Bưởi chỉ thu hoạch 1 năm/vụ, trong khi chanh 3 - 4 tháng cho thu 1 lứa.

Anh Khổng Văn Nam, Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao Việt Bắc, phường Đội Cấn (TP Tuyên Quang) lo ngại, giá bưởi, cam xuống thấp trong khi giá chanh lên lại lên ngôi rất dễ dẫn đến tình trạng nhiều người dân đổ xô vào trồng, khả năng cung vượt cầu lại xảy ra. Trên thực tế một số nhà vườn đã cải tạo vườn bưởi, cam thay thế bằng cây chanh. Bài học đắt giá từ những năm 2015 - 2016 vẫn còn nguyên giá trị.

Đó là khi giá chanh tứ thì lên cao tương đương như hiện nay, rất nhiều người đổ xô đi trồng, đưa cả cây chanh xuống ruộng 2 vụ lúa. Tiếp đến với cây chanh đào, giá chanh đào quả lên đến 50 - 80 nghìn đồng/kg, người dân lại phá bỏ các loại cây trồng khác để trồng chanh đào. Diện tích chanh đào tăng lên rất nhanh, kéo theo sản lượng cũng gia tăng, cung vượt cầu, lập tức giá quả chanh đào đi xuống. Tuy nhiên, thời vàng son của các loại cây chanh không được bao lâu, đến năm 2017, giá chanh bắt đầu tụt dốc giảm xuống 5 - 7 nghìn đồng/kg, thậm chí là thấp 3 - 4 nghìn đồng/kg. Điệp khúc, trồng chanh, chặt chanh kéo dài trong suốt những năm 2017 đến 2020.

Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, diện tích cây chanh toàn tỉnh có khoảng gần 1.000 ha chanh, tập trung nhiều nhất tại huyện Hàm Yên với khoảng 900 ha, sản lượng chanh ước đạt khoảng 11.630 tấn/năm. Quả chanh tươi được thu gom chủ yếu qua thương lái để đi bán tại các chợ đầu mối của các tỉnh phía Bắc, sử dụng làm gia vị.

Khuyến cáo từ ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kinh nghiệm của người trồng chanh nhiều năm, giá quả chanh tươi hiện nay lên cao chỉ cục bộ trong thời gian ngắn. Khoảng 1 - 2 tháng nữa khi lứa chanh mới cho thu hoạch lúc đó sản lượng tăng, giá chanh sẽ trở về giá trị thực. Do vậy, người dân phải tỉnh táo, tuyệt đối không chạy theo cơn sốt của thị trường, đánh giá đúng nhu cầu, tránh tình trạng phát triển ồ ạt, làm mất cân bằng cung cầu, thiệt hại kinh tế của chính mình.

Bài, ảnh: Đoàn Thư

 

Bình Dương phát triển mạnh nông nghiệp xanh

 

Nguồn tin:  Báo Bình Dương

Phát triển nông nghiệp công nghệ cao (CNC), nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ (NNHC) theo tiêu chuẩn Oragnic, GlobalGAP, VietGAP đã và đang nâng tầm nông nghiệp Bình Dương. Tuy tỷ trọng nông nghiệp chỉ chiếm 3% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, nhưng nền nông nghiệp tỉnh nhà đã gặt hái nhiều kết quả khích lệ dựa trên nền tảng cốt lõi ở chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm.

 

 

Mô hình trồng bưởi, cam VietGAP của Hợp tác xã nông nghiệp Tam Lập (huyện Phú Giáo) đem lại giá trị kinh tế cao

Hiệu quả cao

Dựa trên nền tảng thiên nhiên ưu đãi về diện tích đất phù sa, đất đỏ vàng và đất xám, Bình Dương đang tập trung phát triển nông nghiệp xanh, tạo hướng đi bền vững cho ngành nông nghiệp. Mô hình trước tiên về nông nghiệp xanh mà Bình Dương áp dụng đại trà là NNHC. Đây là một nền nông nghiệp không sử dụng phân bón, hóa chất có hại cho sức khỏe của người sản xuất và người tiêu dùng. Mô hình này phát triển mạnh trên diện tích đất phù sa khu vực bãi đồi dọc theo sông ĐồngNai, sông Sài Gòn.

Theo ghi nhận của phóng viên, hiện nay đa phần các nông hộ, trang trại, hợp tác xã đã từng bước thay đổi phương thức canh tác lớn gần như trở lại với các phương thức truyền thống như ủ phân xanh, canh tác luân canh, tận dụng các phế phẩm từ chăn nuôi để tạo nguồn phân hữu cơ, phân vi sinh, loại bỏ các yếu tố nhân tạo kết hợp với kỹ thuật công nghệ hiện đại giúp đất đai màu mỡ tạo nên nền NNHC khép kín. Từ đó tạo ra các sản phẩm nông sản sạch với tiêu chuẩn giá trị an toàn, bảo đảm chất lượng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.

Ông Châu Văn Lợi, nông dân ở xã Phước Hòa, huyện Phú Giáo, cho biết sản phẩm được tạo ra từ sản xuất ứng dụng NNHC sẽ mang lại giá lớn, bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng và người sản xuất. Ban đầu ông trồng 2 ha bưởi thử nghiệm NNHC, nhận thấy hiệu quả mang lại cao, ông tiếp tục nhân rộng và đến nay đã được 5 ha trồng bưởi theo hướng NNHC.

Công ty Cổ phần Vinamit là doanh nghiệp chế biến tiên phong đầu tư trang trại quy mô lớn sản xuất hữu cơ tại Việt Nam và xuất khẩu tốt vào các thị trường khó tính như Mỹ, châu Âu (EU)... Công ty có diện tích lên đến hơn 150 ha, với hơn 54 giống cây trồng, đã đạt được chứng nhận canh tác hữu cơ và nông sản hữu cơ theo tiêu chuẩn Organic hữu cơ USDA (Bộ Nông nghiệp Mỹ) và Organic hữu cơ EU.

Ông Nguyễn Thanh Hoàng, Giám đốc Công ty Cổ phần Vinamit, cho biết làm phân bón hữu cơ từ chế phẩm sinh học; trước nhất vì là sức khỏe của chính bản thân người sản xuất và những người thân trong gia đình. Mặt khác, với canh tác hữu cơ cần quá trình đầu tư dài hơi, tốn kém, sản phẩm hữu cơ chưa thể có giá rẻ và bán đại trà.

Là một trong những người có kinh nghiệm lâu năm trong trồng trọt các loại cây có múi và áp dụng nhiều tiêu chuẩn sản xuất nông nghiệp sạch, ông Đoàn Minh Chiến, chủ trang trại tổng hợp Đoàn Minh Chiến ở huyện Bắc Tân Uyên cũng đã áp dụng sản xuất NNHC. Ông Đoàn Minh Chiến chia sẻ thực hiện việc đổi mới sản xuất nông nghiệp, trang trại cũng mạnh dạn áp dụng các quy chuẩn sản xuất NNHC vào cam, bưởi. So với các quy chuẩn khác, sản xuất NNHC đòi hỏi phương pháp canh tác kỹ hơn, tuân thủ nghiêm ngặt hơn và trang trại cũng đang từng bước áp dụng các công nghệ mới trong sản xuất NNHC vào các sản phẩm chủ lực.

Hướng đi tất yếu

Sản xuất nông nghiệp xanh áp dụng kết hợp với những công nghệ phù hợp cho từng kiểu vùng sinh thái, hài hòa với môi trường, Bình Dương chú trọng phát triển ở khu vực có diện tích đất xám được phân bố ở hầu hết địa bàn huyện Dầu Tiếng, TX.Bến Cát, TP.Thuận An, TP.Thủ Dầu Một; đồng thời mở rộng thực hiện ở khu vực phân bố diện tích đất vàng chủ yếu ở các huyện Bắc Tân Uyên, Phú Giáo, TP.Tân Uyên theo hình thức nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Hiện toàn tỉnh có diện tích ứng dụng công nghệ cao trong trồng trọt khoảng 5.763,5 ha, diện tích nông nghiệp đô thị khoảng 172 ha; trong đó có khoảng 600 ha sản xuất trồng trọt theo hướng hữu cơ trên các loại cây có múi, rau, cây ăn quả khác...

Theo đánh giá của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay hầu hết các trang trại, hợp tác xã trên địa bàn tỉnh đang ngày càng chú trọng nhiều hơn đến sản xuất hữu cơ, đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn an toàn nông sản. Sử dụng phân bón hữu cơ trong sản xuất cũng là lựa chọn thay thế hàng đầu cho phân bón hóa học khi cho hiệu quả cao hơn mà không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Phân bón hữu cơ vi sinh chứa nhiều vi sinh vật có lợi cho cây trồng, giúp đất tơi xốp, giữ được độ ẩm, không làm bạc màu đất. Ngoài ra, phân bón hữu cơ vi sinh còn cung cấp gần như đầy đủ chất dinh dưỡng, tăng khả năng miễn dịch của cây trồng, giúp năng suất tăng thêm 20% so với sử dụng phân bón vô cơ.

Từ kết quả đó, tỉnh đã xây dựng vùng chuyên canh theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm thông qua hình thức liên kết chuỗi giá trị bền vững, có chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc; ứng dụng khoa học công nghệ, thực hành sản xuất theo quy trình nông nghiệp tốt, đa dạng sinh học, NNHC và tương đương, đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường.

Thời gian tới, tỉnh đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, tập trung ưu tiên phát triển nông nghiệp với các sản phẩm sạch, thân thiện với môi trường, NNHC, có năng suất cao, có giá trị lớn và có khả năng xuất khẩu phù hợp với biến đổi khí hậu và môi trường sinh thái. Đồng thời, tỉnh đẩy mạnh sản xuất sản phẩm nông nghiệp theo tiêu chuẩn, yêu cầu thị trường trong nước và hướng đến xuất khẩu.

Ông Phạm Văn Bông, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cho biết trong những năm qua, NNHC đã và đang gia tăng liên tục và có xu hướng tiếp tục tăng cao. Sản xuất NNHC phù hợp với chủ trương cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững, thân thiện với môi trường, hướng tới xuất khẩu, góp phần định vị và nâng cao thương hiệu sản phẩm nông nghiệp Bình Dương.

THOẠI PHƯƠNG - HƯƠNG THẢO

 

Cần lan tỏa thông tin về thị trường nông, lâm, thủy sản

 

Nguồn tin:  Báo Chính Phủ

Xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm, thủy sản chỉ có thể bền vững khi người dân và doanh nghiệp ngành nông nghiệp được thông tin đầy đủ và thường xuyên về các yêu cầu của các thị trường nhập khẩu.

Đây là một trong những thông điệp được đưa ra tại Hội nghị Phổ biến cam kết về an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS) trong Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và các nước thành viên trong Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RECP). Hội nghị do Văn phòng Thông báo và điểm hỏi đáp quốc gia về vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (Văn phòng SPS Việt Nam) tổ chức hôm nay (23/11).

Ông Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam cho biết, cho đến nay, Việt Nam đã và đang tham gia 19 Hiệp định thương mại song phương và đa phương, trong đó có 16 Hiệp định đã ký kết chính thức và 3 Hiệp định đang tiến hành đàm phán.

Theo đó, nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với các cam kết bắt buộc áp dụng, quy định về an toàn thực phẩm và an toàn dịch bệnh động thực vật cần phải tuân thủ để đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu.

Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) có hiệu lực từ ngày 1/1/2022, bao gồm các nước ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand với nhiều cam kết, trong đó có cam kết về SPS mà Việt Nam tham gia.

"Việc cập nhật và phổ biến các quy định về SPS đối với các cơ quan quản lý, doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ nông dân là đặc biệt quan trọng. Bởi quy định SPS là quy định bắt buộc áp dụng, nếu chúng ta vi phạm sẽ gây ảnh hưởng, thiệt hại cho doanh nghiệp và đặc biệt là ảnh hưởng đến cả ngành hàng, thương hiệu nông sản của Việt Nam trên trường quốc tế", ông Nam nhấn mạnh.

Ông Lò Xuân Quyết, Trưởng đại diện Văn phòng Xúc tiến thương mại Việt Nam tại Hàng Châu, Trung Quốc đã chia sẻ về xu hướng của thị trường tỷ dân này.

Theo ông Quyết, Việt Nam nằm trong nhóm 10 quốc gia, vùng lãnh thổ có số lượng hàng hóa nông sản, thực phẩm bị cảnh báo nhiều nhất. Nhóm hàng có tỷ lệ bị cảnh báo cao, gồm: thủy sản, nước trái cây, chưa tính cà phê, sản phẩm sữa, bánh các loại.

Về xu hướng của thị trường Trung Quốc trong thời gian tới, Trưởng đại diện Văn phòng Xúc tiến thương mại Việt Nam tại Hàng Châu nhấn mạnh, người Trung Quốc, nhất là người tiêu dùng đô thị đang ngày càng quan tâm đến các sản phẩm tốt cho sức khỏe, chất lượng cao và nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Ngoài ra, thị trường Trung Quốc đang có xu hướng quy chuẩn hóa các quy định và hệ thống quản lý, giám sát về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, truy xuất nguồn gốc đối với hàng hóa thực phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế.

Trước những thông tin cập nhật đó, ông Quyết khuyến nghị các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu sang Trung Quốc cần tổ chức sản xuất theo các tiêu chuẩn trong nước và nước nhập khẩu, tăng cường quản lý, giám sát chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, để khai thác và đáp ứng tối đa tiềm năng, nhu cầu to lớn của thị trường này.

Thông tin về Hiệp định RCEP, ông Đào Văn Cường, Đại diện Văn phòng SPS Việt Nam nhận định, đây là một hiệp định thương mại lớn, đại diện cho một trong những khối thương mại tự do lớn nhất thế giới. Đối với Việt Nam, các nghiên cứu chỉ ra Việt Nam sẽ được hưởng lợi nhiều từ RCEP.

Ông Cường lưu ý, quy định của một số thị trường trong khu vực RCEP tập trung vào các yêu cầu về kiểm dịch thực vật giúp loại bỏ nguy cơ lây lan dịch hại qua đường thương mại.

Văn phòng SPS cho biết hiện nay mỗi tháng đơn vị này nhận được khoảng 100 các thông báo, dự thảo về thay đổi các biện pháp SPS, gồm: các dự thảo về thay đổi về mức dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, về đối tượng kiểm dịch, về quy định vật liệu tiếp xúc với sản phẩm.

Do đó, việc cập nhật và phổ biển thông tin quy định thị trường về các biện pháp an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh động thực vật (SPS) theo các Hiệp định thương mại tự do (FTA) như CPTPP, UKVFTA, EVFTA, RCEP là rất quan trọng.

Hoạt động phổ biến các nội dung này được Văn phòng SPS Việt Nam triển khai rộng khắp từ các tỉnh miền Bắc, miền Trung, Tây nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.

Đỗ Hương

 

Tập trung phát huy thế mạnh của từng địa phương

 

Nguồn tin:  Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai

Hiện nay, các địa phương trong vùng Đông Nam bộ đã hình thành các vùng chuyên canh cây trồng lớn. Đây là những thế mạnh của các địa phương, cần được phát huy để không chỉ nâng cao giá trị về mặt kinh tế mà còn cả về du lịch nông nghiệp.

 

 

Mít là một trong những loại trái cây chủ lực của tỉnh Đồng Nai và các tỉnh vùng Đông Nam Bộ

Những sản phẩm tiêu biểu

Những vùng chuyên canh cây trồng lớn như: xoài (Đồng Nai, Tây Ninh); chôm chôm, chuối (Đồng Nai); nhãn (Tây Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu); mít (Đồng Nai, Bình Phước, Tây Ninh); sầu riêng (Đồng Nai, Bình Phước); măng cụt (Đồng Nai, Bình Dương)…

Để hỗ trợ phát triển các sản phẩm trọng điểm có lợi thế so sánh, nhất là các sản phẩm nông nghiệp, các địa phương trong vùng Đông Nam Bộ đã xây dựng nhiều chương trình, dự án hỗ trợ.

Tại Bà Rịa – Vũng Tàu, thực hiện chính sách khuyến khích phát triển hợp tác liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, Sở KH-CN đã tham mưu UBND tỉnh phê duyệt Đề án “ứng dụng tiến bộ KH-CN giai đoạn 2022-2026 trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”. Mục tiêu của đề án là đánh giá đúng thực trạng và khả năng ứng dụng tiến bộ KH-CN trên địa bàn tỉnh, dự báo xu hướng ứng dụng trong thời gian tới.

Tại Tây Ninh, địa phương có thế mạnh về cây mía, Sở KH-CN đã hỗ trợ Công ty Mía đường Thành Thành Công khảo nghiệm giống mía nhập nội nhằm cải thiện bộ giống mía cho vùng nguyên liệu của tỉnh. Trong đó, 01 giống mía mới hoàn thiện Co86-032 có năng suất bình quân từ 8,47-8,77 tấn/ha, cao hơn 11,29-22,52% so với đối chứng, đồng thời có khả năng kháng bệnh tốt. Ngoài ra, phát triển 03 giống mía mới triển vọng gồm: VMC87-599 có năng suất đường bình quân từ 8,15-8,47 tấn/ha; giống MPT97-130 có năng suất đường từ 8,07-8,16 tấn/ha; giống PSR01-136 có năng suất bình quân 7,45-8,30 tấn/ha…

Tại Đồng Nai, nhờ sự hỗ trợ của Nhà nước, đến nay toàn tỉnh hiện có hơn 2 ngàn ha cây trồng chủ lực đạt chứng nhận sản xuất an toàn. Tỉnh đã xây dựng được 80 mô hình sản xuất theo hướng hữu cơ với quy mô hơn 1,4 ngàn ha cây trồng và hơn 23,7 ngàn vật nuôi; gần 149ha cây trồng ứng dụng công nghệ nhà màng, nhà lưới; ứng dụng hệ thống tưới tiết kiệm đối với cây trồng trên diện tích hơn 57,6 ngàn ha.

Xây dựng các nhãn hiệu tập thể

TS Lại Thế Thông, Giám đốc Sở KH-CN Đồng Nai cho biết, ngoài phát triển các vùng chuyên canh cây ăn trái, tỉnh đã hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu tập thể cho các sản phẩm đặc thù tại địa phương như: sản phẩm tôm càng xanh xã Trà Cổ (H.Tân Phú); tham mưu UBND tỉnh chấp thuận sử dụng tên địa danh trên địa bàn tỉnh để đăng ký nhãn hiệu tập thể cho sản phẩm nông nghiệp chủ lực địa phương như: xoài Xuân Trường, hồ tiêu Thanh Bình, quýt Thanh Sơn, nấm mèo Long Khánh… Hỗ trợ 10 đề án ứng dụng máy móc, thiết bị tiên tiến cho các cơ sở công nghiệp nông thôn.

Trong sản xuất nông nghiệp, trình độ công nghệ cũng từng bước được nâng cao theo hướng ứng dụng giống mới, công nghệ sinh học, phương thức canh tác tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng nông sản. Nhiều khâu trong sản xuất nông nghiệp được thực hiện cơ giới hóa như: tưới nước (75%), thu hoạch lúa, xay xát (trên 80%), vận chuyển, làm đất (hơn 90%)…

Ngoài ra, các kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp đã được đưa vào ứng dụng với các mức độ khác nhau và đem lại nhiều kết quả tích cực, qua đó góp phần chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành và cơ cấu lao động tại địa phương, từng bước nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn.

Đồng Nai cũng là thủ phủ chăn nuôi của cả nước với nhiều tập đoàn, doanh nghiệp lớn đầu tư. Hiện, Đồng Nai thuộc nhóm đầu cả nước về chế biến thức ăn chăn nuôi với khoảng 40 nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi đạt tổng công suất thiết kế trên 3 triệu tấn sản phẩm/năm.

Trong đó, nhiều tập đoàn lớn của nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này như: Tập đoàn CP, Cargill, CJ, De Heus, Haid, Emivest… Các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi trên địa bàn tỉnh hoạt động ổn định, không chỉ đáp ứng nhu cầu về thức ăn chăn nuôi nội tỉnh mà còn cung cấp cho nhiều tỉnh/thành phố khác trên cả nước.

Hầu hết các doanh nghiệp, cơ sở có sơ chế, chế biến thực phẩm đều thực hiện theo quy trình khép kín từ con giống đến chăn nuôi, giết mổ và bảo quản chế biến. Các sản phẩm chế biến đa dạng như giò, chả, chà bông, xúc xích, thịt nguội, thịt xông khỏi… Nhiều tập đoàn, doanh nghiệp đang đẩy mạnh đầu tư các nhà máy chế biến thịt hiện đại, đạt chuẩn quốc tế với tham vọng không chỉ chiếm lĩnh thị trường nội địa mà còn bắt đầu có sản phẩm xuất khẩu đi các nước, trong đó có thị trường khó tính là Nhật Bản.

Bảo Ngọc

 

Làm giàu từ mô hình kinh tế tổng hợp

 

Nguồn tin:  Báo Kon Tum

Cần cù, chăm bẵm, chịu khó tìm tòi học hỏi và sáng tạo trong phát triển kinh tế gia đình, anh Phan Đình Trung đã xây dựng thành công mô hình kinh tế tổng hợp, từ đó vươn lên làm giàu và trở thành gương điển hình dám nghĩ, dám làm.

Theo chân chị Nguyễn Thị Hà - Chủ tịch Hội Nông dân thị trấn Plei Kần, chúng tôi đến thăm, gặp gỡ anh Phan Đình Trung - Chi hội trưởng Chi hội Nông dân tổ dân phố 6 (thị trấn Plei Kần, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum).

Vừa đi chị Hà vừa chia sẻ: Chi hội trưởng Phan Đình Trung là một người rất gương mẫu, đi đầu trong phát triển kinh tế; luôn tìm tòi, học hỏi các mô hình kinh tế hiệu quả để áp dụng. Đồng thời, anh Trung cũng tuyên truyền cho các hội viên trong Chi hội học tập và làm theo. Hiện, mô hình kinh tế tổng hợp (trồng cà phê và chăn nuôi bò, dúi) của anh Trung được Hội chọn là mô hình điểm để nhân rộng phát triển trên địa bàn trong thời gian sắp tới.

 

 

Vườn cà phê đang trĩu quả của anh Trung (bên trái). Ảnh: Y.Đ

Tiếp chúng tôi tại vườn cà phê đang trĩu quả của mình, anh Trung cho biết, gia đình có hơn 3ha cà phê đang giai đoạn kinh doanh, hằng năm giúp anh thu về hàng trăm triệu đồng. Tuy nhiên, anh nhận thấy việc phát triển kinh tế đơn thuần dựa vào cây cà phê thôi thì chỉ ổn định được cuộc sống, chưa thể làm giàu. Mặt khác, sản phẩm làm ra được mùa thì mất giá, được giá thì lại mất mùa. Vì thế, nhiều năm liền anh đi tham quan học hỏi các mô hình kinh tế tiềm năng, phù hợp để làm theo.

Qua tìm hiểu, học hỏi các mô hình hay ở các địa phương trong và ngoài huyện, năm 2021, anh quyết định vay Ngân hàng Chính sách xã hội huyện 50 triệu đồng, cùng với số vốn tiết kiệm của gia đình, đầu tư vào chăn nuôi bò và triển khai mô hình nuôi dúi.

Nói về mô hình chăn nuôi của mình, anh Trung cho hay: Bò thì ai cũng biết rồi, là loài vật rất dễ chăm sóc, chi phí thức ăn thấp, ít rủi ro và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Còn đối với dúi, đây cũng là một mô hình mới, trên địa bàn thị trấn ở thời điểm đó chưa có ai làm. Mô hình này rất dễ thực hiện, không đòi hỏi kỹ thuật cao, cũng rất hiệu quả để phát triển kinh tế.

Theo anh Trung, muốn nuôi dúi thì cần nắm vững kỹ thuật cơ bản, hiểu được một số đặc tính sinh học quan trọng của chúng là có thể nuôi được. Thức ăn của dúi cũng rất dễ kiếm, chủ yếu là tre, mía, cỏ voi. Ngoài ra có thể cho ăn thêm bắp, khoai lang… Hiện tại, giá bán trên thị trường khoảng 550 nghìn đồng/kg thương phẩm; 1,2 triệu đồng/ 1 cặp dúi giống.

Đến nay, anh Trung đã gây dựng thành công mô hình tổng hợp với 3ha cà phê đang trong giai đoạn kinh doanh, 6 con bò và hơn 100 con dúi đang trong thời kỳ sinh sản. Mỗi năm gia đình anh thu lãi từ 400-450 triệu đồng.

Trên cương vị là một Chi hội trưởng, không chỉ đi đầu về phát triển kinh tế gia đình, anh Trung còn rất nhiệt tình giúp đỡ, trao đổi, hướng dẫn cho nhiều hội viên nông dân về kiến thức, kinh nghiệm thực tế trong chăn nuôi, trồng trọt. Đến nay, anh đã chia sẻ, hỗ trợ mô hình nuôi dúi cho 4 hộ hội viên khó khăn trên địa bàn để phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo.

Bên cạnh đó anh còn rất nhiệt tình, năng nổ với công tác hội ở cơ sở và tích cực tham gia các hoạt động tại khu dân cư; tích cực tuyên truyền vận động các hội viên mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chăn nuôi, tăng thu nhập cho gia đình, góp phần xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.

Với những đóng góp tích cực trong các phong trào, anh Trung được hội viên trong Chi hội quý mến, tin yêu, được Hội Nông dân cấp trên biểu dương, khen thưởng. Anh xứng đáng là một tấm gương tiêu biểu để nhiều hội viên nông dân khác học tập và làm theo.

Y Đô

 

Làm giàu từ nuôi yến

 

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Là một trong những người đầu tiên nuôi yến lấy tổ tại Kiên Giang, đến nay, ông Phạm Hiếu Giáp (63 tuổi, ở ấp Tân Hưng, xã Mỹ Lâm, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang) đã có 6 nhà yến, thu nhập khoảng 1,8 tỉ đồng/năm.

 

 

Ông Phạm Hiếu Giáp (bên phải) có 6 nhà yến, thu nhập khoảng 1,8 tỉ đồng/năm.

Rời quân ngũ sau khi làm tròn nghĩa vụ với đất nước, ông Giáp về ấp Tân Hưng, xã Mỹ Lâm, cật lực lao động, tích lũy mua hơn 30 công đất trồng lúa. Nhận thấy trồng lúa mãi chẳng giàu lên, ông Giáp đi nhiều nơi tìm phương kế phát triển kinh tế gia đình. Những năm 2000, phong trào nuôi yến ở các tỉnh Khánh Hòa, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển, ông Giáp đến học hỏi và trở thành một trong những người nuôi yến lấy tổ đầu tiên ở Kiên Giang.

Ông Giáp kể: “Hơn 20 năm trước, các con tôi làm nghề xây dựng, đi công trình khắp nơi, thấy nhiều người nuôi yến thu hoạch tổ bán 40-50 triệu đồng/kg, về nhà kêu tôi nuôi thử. Lúc đầu tôi chưa tin lắm nên trực tiếp đi tìm hiểu, học hỏi. Năm 2009 tôi cơi nới nóc nhà nuôi thử nghiệm. Qua 2 năm, yến bắt đầu cho tổ nên tôi mở rộng đầu tư xây dựng thêm”.

Là một trong những người đầu tiên nuôi yến lấy tổ ở Kiên Giang, ông Giáp gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng nhà yến. Mặc dù nhà cơi nới không nằm trong khu đô thị, xa khu dân cư, nhưng ông Giáp vẫn bị người dân xung quanh phàn nàn, lo ngại. “Khoảng 12-13 năm trước, nhiều người nói tôi làm nhà cho “chim trời, cá nước ở”. Một số người sợ tiếng ồn từ các thiết bị dẫn dụ yến, nhưng tôi chứng minh cho bà con thấy nghề “hái lộc trời” này cho thu nhập cao và đều đặn hằng năm. Nhà yến xây dựng xa đô thị nên không ảnh hưởng đến môi trường xung quanh” - ông Giáp nói.

Sau nhiều năm cần mẫn chăm chút từng nhà yến, giờ đây ông Giáp có trong tay 6 nhà yến, tổng diện tích sàn trên 600m2, mỗi năm thu hoạch trên 100kg yến thô, lời khoảng 1,8 tỉ đồng. Thấy ông Giáp nuôi yến hiệu quả, người dân trong và ngoài tỉnh Kiên Giang đến thuê ông Giáp làm nhà yến. Vậy là gia đình ông Giáp có thêm nghề thiết kế, xây dựng, cung cấp thiết bị xây nhà yến. Hiện cả 4 con trai của ông đều nối nghiệp cha chuyên thiết kế, xây dựng nhà yến khắp ĐBSCL.

Căn nhà rộng lớn trị giá hàng tỉ đồng của ông Giáp cách xa khu dân cư, hằng ngày đón tiếp nhiều người đến học hỏi, được ông chia sẻ kinh nghiệm xây nhà, nuôi yến và làm giàu từ yến. “Lo nhất hiện nay của tôi là mật độ xây dựng nhà yến quá nhiều, sẽ không hiệu quả, lượng tổ yến thu hoạch sẽ không nhiều. Vì vậy, tôi cũng khuyên bà con muốn xây dựng nhà yến cần tính toán đến hiệu quả lâu dài, nhất là quan tâm đến mật độ xây dựng, phải theo quy hoạch, đặc biệt là cần xa đô thị để tránh ảnh hưởng đến cuộc sống và sinh hoạt của người khác” - ông Giáp chia sẻ.

Bài, ảnh: LÊ VINH

 

Bắc Ninh: Đánh giá kết quả mô hình liên kết trong chăn nuôi gà Mía an toàn sinh học tại phường Xuân Lâm

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Bắc Ninh

Sáng 22/11, tại phường Xuân Lâm, thị xã Thuận Thành (Bắc Ninh), Trung tâm Khuyến nông và Phát triển nông nghiệp công nghệ cao (Sở Nông nghiệp và PTNT) tổ chức hội nghị đánh giá kết quả triển khai mô hình liên kết trong chăn nuôi gà Mía an toàn sinh học năm 2023.

Đầu năm 2023, Trung tâm Khuyến nông và Phát triển nông nghiệp công nghệ cao phối hợp với Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp các huyện, thị xã, thành phố tiến hành chọn 07 hộ tham gia mô hình chăn nuôi gà Mía an toàn sinh học với quy mô 12.000 con tại huyện Gia Bình (6.000 con), huyện Yên Phong (1.000 con) và thị xã Thuận Thành (5.000 con).

Đây là giống gà Mía do Công ty TNHH MTV Gà giống DABACO sản xuất, có khả năng chống chịu, thích nghi tốt với điều kiện khí hậu, có ngoại hình đẹp, mào cờ, lá tai đỏ, da màu vàng, vàng nhạt, chân cao. Gà trống có màu lông đỏ sẫm, màu mận chín hoặc đen. Gà mái có màu lông lá chuối khô, màu đất sét. Khối lượng khi xuất bán gà mái nặng từ 1,9 - 2,1kg, gà trống đạt 2,7 - 2,8kg, thịt săn chắc được người tiêu dùng rất ưa chuộng.

Các hộ được lựa chọn tham gia mô hình nuôi gà Mía được cán bộ kỹ thuật của Trung tâm Khuyến nông và Phát triển nông nghiệp công nghệ cao hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi an toàn sinh học, thực hiện nghiêm quy trình từ úm gà, tiêm vắc xin và chăm sóc gà đến khi bán. Đặc biệt, Công ty TNHH Thương mại TNC Vina (phường Vân Dương, thành phố Bắc Ninh) nhận bao tiêu sản phẩm với giá 85.000đ/kg để cung cấp cho các nhà hàng, bếp ăn tập thể, trường học… trong và ngoài tỉnh.

Qua triển khai cho thấy, mô hình liên kết chăn nuôi gà Mía an toàn sinh học có tỷ lệ nuôi sống cao hơn 97,5%, gà khỏe mạnh, ít nhiễm bệnh, độ đồng đều cao, sau khoảng 105 ngày cho xuất chuồng, gà đạt bình quân 2,3kg/con, mang lại hiệu quả kinh tế cao, cho lãi khoảng 70.000đ/con, cao hơn 23% so với chăn nuôi gà Mía ngoài mô hình.

 

 

Gà Mía trong mô hình đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Tại hội nghị, các chuyên gia, nhà quản lý, các hộ chăn nuôi trong mô hình đều đánh giá cao mô hình liên kết chăn nuôi gà Mía an toàn sinh học. Đồng thời, kiến nghị, đề xuất tỉnh, các huyện, thị xã, thành phố quan tâm hỗ trợ vốn, giống, khoa học kỹ thuật… Qua đó, nhằm nhân rộng mô hình tới các cơ sở chăn nuôi, hộ gia đình và gìn giữ, phát triển đàn gà Mía, góp phần nâng cao giá trị gia tăng và đẩy mạnh chăn nuôi trên địa bàn tỉnh theo hướng an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh, phát triển bền vững.

H.T

 

Về nơi con ong mải miết… nhả mật

 

Nguồn tin: Báo Bình Dương

Về thăm Cơ sở KT Honey Bee, xã Minh Hòa, huyện Dầu Tiếng (tỉnh Bình Dương) chúng tôi hiểu hơn vòng đời tìm hoa, nhả mật của những chú ong chăm chỉ. Theo chủ trang trại này, Bình Dương là một tỉnh có số lượng cây cao su rất lớn, rất thuận lợi để phát triển nghề nuôi ong lấy mật. Theo các hộ nuôi ong, cao su cho lượng mật dồi dào nhất ở 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 khoảng từ đầu tháng 11 đến đầu tháng 12 âm lịch. Giai đoạn 2 khoảng từ cuối tháng chạp đến hết tháng giêng. Giai đoạn 3 khoảng từ cuối tháng hai đến đầu mùa mưa. Và người nuôi ong lại phải rong ruổi trên hành trình tìm hoa, hút mật cùng đàn ong.

Sau khoảng thời gian trên thì các chủ trại ong phải di chuyển đàn ong đến nơi có nguồn thức ăn dồi dào hơn. Vì vậy, các hộ kinh doanh nuôi ong và sơ chế mật ong tại Bình Dương ngoài đặt các trại ở trong tỉnh họ còn liên kết hợp tác đặt trại nuôi ong tại các tỉnh vùng Tây nguyên (có hoa cà phê) và các tỉnh thành khác để thu các sản phẩm mật như: Mật hoa nhãn, mật hoa vãi, mật hoa chôm chôm… Mỗi năm, tùy thời tiết, họ thường di chuyển đàn ong tới 5-10 địa điểm. Nếu không đi nhiều mà vẫn khai thác được lượng mật lớn, xem như năm đó trúng mùa. Vì thế, mưa thuận gió hòa, không lũ lụt thiên tai... là mong mỏi của người nuôi ong để có được một năm bội thu.

Không chỉ thế, người nuôi ong còn phải chủ động tiếp cận, nghiên cứu công nghệ, khoa học để nâng tầm sản phẩm. Hiện nay, để chủ động nguồn thức ăn cho ong do lượng phấn hoa ngoài thiên nhiên không bảo đảm nguồn thức ăn để nuôi đàn ong, Cơ sở KT Honey Bee đầu tư thêm máy nghiền, xay hạt đậu nành để làm thức ăn bổ sung cho các trại nuôi ong. Để duy trì chất lượng sản phẩm, một trong những giải pháp được sử dụng là hạ thủy phần để tách nước. Mật ong qua quá trình sơ chế hạ thủy phần có thể bảo quản lâu hơn, màu sắc đẹp hơn, loại bỏ các hoạt chất không tốt…

Đi để biết… nuôi ong là nghề khó, bền bỉ, vất vả và cô đơn. Người theo đuổi công việc này hơn hai, ba năm không nhiều. Nhưng khi đã qua giai đoạn đầu, họ sẽ gắn bó với nó cả đời. Để từ đó, say mê đem đến nguồn mật ngọt cho đời.

KHẢI ANH

 

Sóc Trăng phát triển chăn nuôi bền vững

 

Nguồn tin: Báo Sóc Trăng

Ngành chăn nuôi của tỉnh Sóc Trăng đang ngày càng phát triển, với tốc độ tăng trưởng khá nhanh và chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp của tỉnh. Hiện nay, đàn gia súc của tỉnh có hơn 245.300 con, tăng hơn 12% so cùng kỳ; trong đó, đàn heo 177.669 con (tăng gần 13% so với cùng kỳ), đàn trâu 2.620 con, đàn bò sữa, bò thịt 54.530 con (tăng gần 2% so với cùng kỳ), đàn dê 10.550 con (tăng hơn 2%). Đàn gia cầm 6,85 triệu con. Sản lượng thịt gia súc xuất chuồng trong các tháng đầu năm hơn 34.911 tấn (tăng hơn 26% so cùng kỳ), sản lượng thịt gia cầm hơn 23.292 tấn (tăng 1,5% so cùng kỳ).

Phát triển chăn nuôi

Hơn 6 năm nuôi gia súc, ông Võ Quốc Khải, ấp Phú Thứ, xã Phú Hữu, huyện Long Phú (Sóc Trăng) đã có cuộc sống khấm khá. Ông Khải bộc bạch: “Trước đây, tôi nuôi heo thịt, heo sinh sản, nhưng do ảnh hưởng của dịch tả heo châu Phi, đàn heo bị thiệt hại, gây thất thoát về kinh tế. Thế là tôi chuyển hướng sang nuôi dê thịt và dê sinh sản. Ban đầu, tôi chỉ mua 7 con dê cái tơ về nuôi, sau 8 tháng đàn dê sinh sản được 7 dê con. Đến nay, bình quân, mỗi năm tôi bán từ 14 - 18 con dê thịt, thu về số tiền từ 50 - 60 triệu đồng. Qua hơn 6 năm nuôi, số lượng dê thịt và dê giống xuất bán hơn 80 con. Hiện tại, tổng lượng dê trong chuồng nuôi là 20 con, trong đó có 8 con dê sinh sản, số còn lại là dê hậu bị và dê bán thịt. Thời gian tới, tôi sẽ tiếp tục đầu tư để phát triển thêm đàn dê sinh sản là 15 con để tăng đàn dê nuôi thịt và cung ứng dê giống ra thị trường”.

 

Ông Võ Quốc Khải, ấp Phú Thứ, xã Phú Hữu, huyện Long Phú (Sóc Trăng) bên đàn dê thịt cho thu nhập hơn 50 triệu đồng/năm. Ảnh: THÚY LIỄU

Cũng là hộ dân gắn bó với nghề chăn nuôi gia súc hàng chục năm qua, ông Lý Văn Hiền, ấp Bố Liên 2, xã Thuận Hưng, huyện Mỹ Tú (Sóc Trăng) chia sẻ: “Nhờ con bò sữa mà gia đình tôi có cuộc sống ấm no, sung túc trong nhiều năm qua. Năm 2013, tôi mua 1 con bò sữa cái về nuôi và được Dự án Heifer hỗ trợ thêm 2 con bò, nâng tổng số là 3 con bò sữa. Từ số bò trên, tôi tiếp tục cho bò gầy giống để số lượng tăng theo từng năm. Hiện nay, đàn bò sữa được 11 con, trong đó 5 con đang cho sữa, số còn lại là bò hậu bị và bê. Với 5 con bò vắt sữa mỗi ngày thu về hơn 60kg sữa tươi, giá bán sữa 13.500 đồng/kg, trừ chi phí lợi nhuận hơn 500.000 đồng/ngày. Số tiền trên đủ chi dùng cho sinh hoạt hàng ngày của cả gia đình 4 người và trích một phần tích lũy”.

Theo lời ông Khải và ông Hiền thì nuôi dê, nuôi bò nhẹ công chăm sóc, đầu ra của con dê và sữa bò tươi ổn định, đảm bảo đời sống cho hộ nuôi, thương lái đến tận nhà thu mua. Đặc biệt, với 2 con vật nuôi này, không tốn nhiều chi phí thức ăn, chỉ cần cung cấp đủ cỏ, rơm rạ cho bò, dê ăn là được.

Giải pháp phát triển bền vững

Từ đầu năm 2023 đến nay, các sản phẩm chăn nuôi rớt giá mạnh, nguyên nhân là do giá heo, bò, gia cầm không ổn định, còn giá thức ăn tăng cao. Cùng với đó, do ảnh hưởng của bệnh dịch tả heo châu Phi và các loại dịch bệnh khác, các công ty sản xuất thức ăn chăn nuôi không tiêu thụ được sản phẩm nên chuyển sang thuê địa điểm, thuê nuôi gia công với số lượng lớn. Mặt khác, việc nước ta tham gia, hội nhập sâu, rộng vào các hiệp định thương mại nên các sản phẩm chăn nuôi trong nước phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu.

Đồng chí Lâm Minh Hoàng - Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y Sóc Trăng cho biết, để ngành chăn nuôi của tỉnh phát triển bền vững, đơn vị tiếp tục phối hợp địa phương tăng cường công tác tuyên truyền, định hướng, hướng dẫn người chăn nuôi xây dựng chuỗi liên kết từng tổ, nhóm cùng sở thích, cùng chia sẻ, xây dựng kế hoạch tổ chức sản xuất chăn nuôi bài bản, đồng bộ. Vận động, tuyên truyền người chăn nuôi sản xuất theo định hướng, tín hiệu của thị trường. Khuyến cáo người chăn nuôi chọn giống vật nuôi an toàn sinh học, có lợi thế ở từng địa phương nhằm tăng giá trị sản phẩm, phù hợp với xu thế, thị hiếu người tiêu dùng. Khuyến khích người chăn nuôi nhân rộng mô hình chăn nuôi theo hướng trang trại; tập trung phát triển những loại vật nuôi có lợi thế như: heo, bò, gia cầm; đa dạng hóa các loại vật nuôi để phát huy ưu thế từng vùng và nhu cầu đa dạng của từng thị trường; áp dụng quy trình chăn nuôi an toàn sinh học, an toàn thực phẩm, thực hành chăn nuôi tốt. Riêng đối với nhiệm vụ chuyên ngành, đơn vị sẽ tăng cường công tác tiêm phòng bổ sung các loại vắc xin cho gia súc, gia cầm; triển khai tháng vệ sinh tiêu độc môi trường chăn nuôi. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát giết mổ, kiểm dịch vận chuyển động vật; thanh tra chuyên ngành về giống, thức ăn, thuốc thú y. Tích hợp, hoàn thiện, cụ thể hóa chủ trương, chính sách của các cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở, chỉ đạo thực hiện cơ cấu lại ngành chăn nuôi công nghiệp theo hướng hiện đại đối với từng khu vực”.

Với vai trò phụ trách ngành chăn nuôi của tỉnh, Chi cục Chăn nuôi và Thú y Sóc Trăng sẽ tiếp tục thực hiện Kế hoạch số 89/KH-UBND, ngày 17/6/2021 về triển khai thực hiện Đề án “Tăng cường năng lực hệ thống cơ quan quản lý chuyên ngành thú y các cấp trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, giai đoạn 2021 - 2030”. Thực hiện Kế hoạch số 88/KH-UBND, ngày 16/6/2021 về phát triển chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2045, trong đó phấn đấu phát triển đàn heo, đàn bò thịt, bò sữa chăn nuôi theo hướng trang trại công nghiệp, trang trại công nghệ cao với các giống cao sản và giống địa phương có tính tiềm năng. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 07/2023/NQ-HĐND, ngày 6/10/2023 của HĐND tỉnh Quy định chính sách hỗ trợ khi di dời cơ sở chăn nuôi ra khỏi khu vực, không được phép chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Xây dựng quyết định quy định về quy mô của các cơ sở chăn nuôi và khu vực trung tâm các phường, thị trấn không được phép chăn nuôi trên địa bàn tỉnh. Hoàn thiện chính sách, thể chế, hướng dẫn về môi trường pháp lý, đẩy mạnh thu hút, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân đầu tư, hỗ trợ phát triển, nâng cao chuỗi giá trị ngành chăn nuôi. Tổ chức hỗ trợ chuỗi liên kết cung ứng từ đầu vào đến các khâu thu mua, giết mổ, sơ chế, chế biến, lưu thông và tiêu thụ…

Thông qua các giải pháp chăn nuôi và thực hiện các quyết định của UBND tỉnh, HĐND tỉnh mà ngành chăn nuôi tỉnh triển khai, tin rằng thời gian tới, lĩnh vực chăn nuôi của tỉnh Sóc Trăng sẽ phát triển vượt bậc, góp phần tạo nguồn sản phẩm thịt gia súc, gia cầm, trứng, sữa bò tươi... không chỉ cung ứng trong nước mà còn phục vụ thị trường xuất khẩu.

THÚY LIỄU

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop