Đồng Nai: Lễ hội trái cây Long Khánh sẽ diễn ra từ 12 đến 16-6-2024
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai
UBND thành phố Long Khánh (Đồng Nai) vừa công bố kế hoạch tổ chức Lễ hội trái cây Long Khánh năm 2024.
Theo kế hoạch của UBND thành phố Long Khánh, Lễ hội Trái cây Long Khánh 2024 sẽ diễn ra từ ngày 12 đến 16-6-2024, tại Công viên Bia chiến thắng Long Khánh của thành phố Long Khánh. Đây là lần thứ 6 Long Khánh tổ chức Lễ hội Trái cây nhằm tôn vinh đặc sản trái cây và sản phẩm OCOP của Đồng Nai.
Long Khánh được mệnh danh là "thủ phủ" trái cây của Đồng Nai, nhiều năm nay, Lễ hội Trái cây của Long Khánh đã thu hút hàng chục ngàn khách du lịch đến tham quan và thưởng thức trái cây.
Lễ hội trái cây Long Khánh nhằm giới thiệu, quảng bá du lịch và sản phẩm trái cây Long Khánh đến du khách trong và ngoài tỉnh. Tạo điều kiện kết nối điểm đến du lịch sinh thái vườn với du khách và các đơn vị lữ hành, trên cơ sở đó sẽ kết nối tour, tuyến du lịch trong thời gian tới. Lễ hội trái cây là dịp để các hợp tác xã, tổ hợp tác và các hộ nhà vườn tham gia kết nối, giới thiệu các sản phẩm trái cây, nông sản địa phương. Đồng thời tổ chức tiếp đón, phục vụ du khách tham quan các di tích lịch sử - văn hóa, các mô hình du lịch cộng đồng trên địa bàn thành phố.
Vườn chôm chôm mùa trái chín tại thành phố Long Khánh thu hút du khách.
Trong thời gian diễn ra Lễ hội trái cây, nhiều nội dung hoạt động sẽ diễn ra xuyên suốt tại các địa điểm tham quan, các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch, các mô hình du lịch sinh thái vườn, mô hình du lịch cộng đồng trên địa bàn thành phố…Cụ thể như: Hội thảo về Giải pháp nâng cao chất lượng và quản lý mã số vùng trồng cây sầu riêng trên địa bàn thành phố Long Khánh; Chương trình Kết nối giao thương, xúc tiến tiêu thụ trái cây và các nông sản đặc trưng của thành phố Long Khánh; trình diễn thời trang tạo hình từ cây trái đặc sản; Liên hoan văn hóa - du lịch - ẩm thực vùng Đông Nam bộ; giải Marathon Những dấu chân xanh; giải đua xe đạp Long Khánh - Điểm hẹn mùa trái chín; Hội thi Vườn cây kiểu mẫu; cuộc thi gian hàng trái cây, nông sản tiêu biểu…
Lễ hội dự kiến có 60 gian hàng trưng bày và bán các sản phẩm đặc trưng, sản phẩm Ocop, đồng thời giới thiệu các điểm đến nhà vườn trên địa bàn thành phố Long Khánh. Đặc biệt, sẽ có sự tham dự của Hiệp hội du lịch 9 tỉnh miền Đông và Tây Nguyên trong sự kiện Liên hoan văn hóa - du lịch - ẩm thực vùng Đông Nam bộ diễn ra tại Lễ hội.
Nam Hữu
Làm giàu từ cây ổi ruột hồng
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Những năm gần đây, trên địa bàn huyện Thới Lai (TP Cần Thơ) xuất hiện ngày càng nhiều mô hình kinh tế nông nghiệp áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, giúp nông dân có thu nhập hàng trăm triệu đồng, hàng tỉ đồng từ những cây trồng, vật nuôi quen thuộc. Trong đó, ông Nguyễn Văn Bé, sinh năm 1971, nông dân ấp Ðông Hòa B, xã Thới Tân, đã thành công với mô hình trồng ổi ruột hồng.
Ông Nguyễn Văn Bé trên vườn ổi ruột hồng của gia đình.
Năng động nắm bắt nhu cầu thị trường
Sau nhiều năm cần cù lao động, tìm tòi, đổi mới phương thức và mô hình làm ăn, ông Nguyễn Văn Bé, ấp Ðông Hòa B, xã Thới Tân đã thành công trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và giàu lên từ trồng cây ổi ruột hồng. Ông Bé được vinh danh là một trong những nông dân tiêu biểu của địa phương.
Ðưa chúng tôi ra thăm vườn ổi ngay sau nhà, cành lá xanh tốt, trái sai oằn, ông Bé kể: “Gia đình tôi trước đây thuộc diện khó khăn. Nhờ chịu khó tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu thị trường, học hỏi những mô hình hiệu quả và cần cù lao động, tôi đã bước đầu thành công với mô hình trồng ổi ruột hồng”.
Theo ông Bé, ông lập gia đình, ra ở riêng năm 1996. Lúc bấy giờ, ông được cha mẹ cho 2.000m2 ruộng. Ðể đảm bảo cuộc sống gia đình, hằng ngày, ngoài chăm sóc 2 công đất trồng lúa, ông Bé làm thuê nhiều việc, từ chạy máy suốt, làm cỏ lúa, dặm lúa, đến làm thợ xây dựng… Nhờ chịu khó làm lụng, chi xài tiết kiệm, cuộc sống gia đình ông Bé không chỉ đủ ăn mà còn có vốn tích lũy. Mỗi năm, ông Bé dành dụm mua thêm ruộng để sản xuất. Tính đến đầu năm 2024, gia đình ông đã sở hữu được 2,5ha ruộng, 1ha vườn tại ấp Ðông Hòa B, xã Thới Tân.
Ðể nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập, nâng cao đời sống gia đình, đầu năm 2017, ông Bé thuê máy đào 4.000m2 đất ruộng đắp thành bờ cao ráo để trồng ổi ruột hồng. Ông đến Công ty Cổ phần vườn trái cây Cửu Long (ở Khu Công nghiệp Trà Nóc) mua 400 cây giống ổi ruột hồng về trồng. Ðồng thời, học tập kỹ thuật trồng và chăm sóc ổi ruột hồng của Công ty, ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm với Công ty. Nhờ thực hiện đúng quy trình, kỹ thuật trồng và chăm sóc cây ổi ruột hồng, nên chỉ sau 8 tháng, vườn ổi đã cho trái. Nhận thấy trồng ổi ruột hồng mang lại hiệu quả kinh tế cao, năm 2019, ông Bé tiếp tục chuyển đổi thêm 6.000m2 ruộng lúa không hiệu quả lên bờ để trồng thêm 500 gốc ổi ruột hồng. Ông cũng kết hợp trồng xen 300 gốc chanh không hạt. Ðến nay, ông Bé có tổng diện tích 1ha vườn trồng 900 gốc ổi ruột hồng và 300 gốc chanh không hạt.
Ông Bé chia sẻ: “Bốn năm nay, giá ổi được Công ty Cổ phần vườn trái cây Cửu Long bao tiêu 5.000 đồng/kg, giá chanh bán cho thương lái bình quân được 12.000 đồng/kg. Ước tính, mỗi năm gia đình tôi thu hoạch trên 80 tấn trái ổi ruột hồng, huê lợi trên 400 triệu đồng và thu hoạch 4 tấn chanh không hạt, thu vào 200 triệu đồng. Nhờ vậy, cuộc sống gia đình tôi ngày càng khấm khá hơn”.
Hỗ trợ mọi người cùng làm giàu
Ðiều đáng quý ở ông Nguyễn Văn Bé là ông tận tình hướng dẫn nhiều nông dân ở các ấp Ðông Hòa B, Thới Phước A và Thới Phước B (xã Thới Tân) xây dựng thành công mô hình trồng ổi ruột hồng, vươn lên khá, giàu. Ông Bé cho biết, khi tổ chức tuyên truyền, vận động, được các nông dân đồng ý, ông hướng dẫn họ đến Công ty Cổ phần vườn trái cây Cửu Long mua giống ổi, học hỏi kỹ thuật trồng và chăm sóc. Ông cũng sẵn sàng chia sẻ, truyền đạt những kinh nghiệm trồng, chăm sóc mà ông đã tích lũy được sau nhiều năm trồng ổi ruột hồng.
Năm 2019, ông Bé thành lập Tổ hợp tác trồng ổi ruột hồng xã Thới Tân. Ðến đầu năm 2023, Tổ hợp tác được nâng lên thành Hợp tác xã nông nghiệp ổi ruột hồng Thới Tân, do ông làm Giám đốc. Tham gia Tổ hợp tác, Hợp tác xã, các thành viên được vay vốn ngân hàng, quỹ hỗ trợ nông dân để cải tạo đất, mua giống cây trồng, phân bón; hỗ trợ nhau trong kỹ thuật trồng và chăm sóc cây; được hỗ trợ trồng ổi theo quy trình VietGAP, xây dựng sản phẩm ổi ruột hồng đạt OCOP 3 sao. Ðồng thời được ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm ổi ruột hồng với Công ty Cổ phần vườn trái cây Cửu Long và các công ty khác ở tỉnh Long An, tỉnh Tiền Giang, tỉnh An Giang và tỉnh Bến Tre…
Nhờ có sự đoàn kết, tương trợ nhau trong sản xuất, mô hình trồng ổi ruột hồng của Hợp tác xã nông nghiệp ổi ruột hồng Thới Tân hiện nay có 31 thành viên, với 29ha, mỗi năm cung cấp cho thị trường trên 700 tấn trái ổi ruột hồng. Năm 2024, Hợp tác xã phấn đấu cung cấp cho các doanh nghiệp và thị trường trên 1.200 tấn trái ổi ruột hồng. Hiện nay, nhiều thành viên trong hợp tác xã đang có kế hoạch mở rộng diện tích trồng ổi ruột hồng thêm 5ha để tăng nguồn thu nhập, đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Từ mô hình ổi ruột hồng do ông Nguyễn Văn Bé khởi xướng, những năm gần đây, mỗi thành viên trong Hợp tác xã nông nghiệp ổi ruột hồng Thới Tân đều có mức thu nhập từ 100 đến trên 300 triệu đồng/năm. Ông Lương Duy Khanh, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Thới Lai, cho biết: “Ông Nguyễn Văn Bé là một trong những tấm gương hội viên nông dân cần cù lao động, năng động, làm kinh tế giỏi điển hình của huyện Thới Lai. Ông luôn nhiệt tình chia sẻ kinh nghiệm làm ăn với bà con địa phương cũng như các địa phương lân cận khi họ đến tham quan, học hỏi để cùng nhau vươn lên làm giàu chính đáng”.
Bài, ảnh: ANH DŨNG
Bắc Giang: Vải thiều Tân Yên tiêu thụ thuận lợi, giá bán cao
Nguồn tin: Báo Bắc Giang
Vải thiều sớm của huyện Tân Yên (Bắc Giang) đã bắt đầu bước vào vụ thu hoạch, năm nay bà con nông dân trên địa bàn huyện phấn khởi khi ngay từ đầu vụ vải thiều sớm được giá, tiêu thụ thuận lợi.
Vải thiều Tân Yên tiêu thụ thuận lợi, giá bán cao.
Hiện nay, xã Phúc Hòa có hơn 700 ha vải thiều đang cho thu hoạch, trong đó diện tích vải trồng theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP để xuất khẩu hơn 400 ha. Năm nay, sản lượng vải thiều ước đạt hơn 10.000 tấn. Thời điểm này, mặc dù mới chỉ là những ngày đầu vụ nhưng nhiều thương nhân đã đến địa phương thu mua vải. Tại các điểm cân việc thu mua vải diễn ra khá sôi động, người trồng vải phấn khởi khi ngay từ đầu vụ vải thiều được giá tiêu thụ thuận lợi. Hiện nay giá vải đang dao động từ 35.000 - 40.000 đồng/kg.
Để nâng cao giá trị quả vải, huyện Tân Yên đang đẩy mạnh quảng bá xúc tiến tiêu thụ vải thiều, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho thương lái cũng như các doanh nghiệp đến thu mua vải thiều. Năm nay, xã Phúc Hòa bố trí khoảng 15 - 20 điểm cân cho các thương nhân đến thu mua vải, đồng thời đẩy mạnh quảng bá xúc tiến mở rộng thị trường xuất khẩu vải thiều. Hiện đã có nhiều doanh nghiệp ký kết hợp đồng tiêu thụ vải thiều cho người dân.
Năm 2024, diện tích vải thiều sớm của huyện Tân Yên trên 1.300 ha, sản lượng dự kiến ước đạt trên 15.000 tấn. Ngoài các thị trường xuất khẩu như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Thái Lan, thị trường tiêu thụ chủ yếu vẫn là Trung Quốc và tiêu thụ nội địa. Để chủ động trong khâu tiêu thụ, huyện Tân Yên tổ chức hội nghị xúc tiến tiêu thụ vải thiều vào ngày 27/5 tới, đồng thời đẩy mạnh kết nối tiêu thụ vải thiều trên các sàn thương mại điện tử, qua đó nâng cao giá trị thu nhập cho người dân trên địa bàn./.
An Nhiên
Bến Tre: Chợ Lách có thêm sầu riêng giống mới
Nguồn tin: Báo Đồng Khởi
Đó là sầu riêng sáp Tiểu Long của anh Nguyễn Thanh Phong ở ấp Tân Phú, xã Sơn Định, huyện Chợ Lách (Bến Tre). Năm 2015, anh Thanh Phong có dịp đi một số nước trồng sầu riêng ở Đông Nam Á, thấy có giống sầu riêng lá nhỏ, anh mua 3 cây về ghép với sầu riêng có thương hiệu ở huyện Chợ Lách để trồng thử.
Anh Nguyễn Thanh Phong (bên trái) giới thiệu sầu riêng sáp Tiểu Long cho khách hàng.
Anh Thanh Phong cho biết: “Sau 4 năm trồng, cây đã cho ra trái chiến (vụ cho ra trái đầu tiên của cây) vượt mong muốn, đó là cơm dày màu vàng sậm, tỷ lệ hạt lép từ 80% trở lên, khá béo, rất ngọt, khi ấn vào cơm sầu riêng thì lõm xuống, không dễ rách múi; đặc biệt trái càng chín thì cơm sầu riêng sáp Tiểu Long càng dẻo gần giống sáp nên tôi đặt tên là sáp Tiểu Long”.
Chỉ trong thời gian ngắn, sầu riêng sáp Tiểu Long của anh Thanh Phong được nhiều người biết đến. Ngày 24-5-2024, chúng tôi đến tìm hiểu sầu riêng sáp Tiểu Long, cùng lúc có anh Võ Văn Phong - khách hàng ở tỉnh Bình Phước. Anh Võ Văn Phong hay: “Được tin anh Nguyễn Thanh Phong ở huyện Chợ Lách có trồng sầu riêng sáp Tiểu Long, tôi đến tìm hiểu để mua 600 cây về trồng trên diện tích 3ha tại Bình Phước”.
Anh Thanh Phong cho biết thêm: “Sau 5 năm có 1 cây tôi để làm cây đầu dòng. Nhân giống ra tiếp trồng thêm 7 cây cách nay 4 năm và hiện đang cho trái chiến. Sầu riêng sáp Tiểu Long có sức đề kháng và chịu khí hậu nắng nóng khá tốt. Tỷ lệ đậu trái cao, cây cao 4m đã cho ra khoảng 10 trái chiếng. Mỗi trái khi thu hoạch nặng từ 2 - 3kg. Sầu riêng sáp Tiểu Long có tên khoa học: Durio zibethinus. Tháng 2-2024, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cấp giấy công nhận cây đầu dòng sầu riêng sáp Tiểu Long cho anh Nguyễn Thanh Phong để nhân giống xuất ra thị trường. Năm 2024, có 400 mắt ghép/cây/năm và những năm tiếp theo số lượng mắt ghép lên khoảng 500 mắt ghép/cây/năm. Anh Thanh Phong đã sản xuất khoảng 2.000 cây sầu riêng sáp Tiểu Long đạt yêu cầu để phục vụ thị trường trong và ngoài tỉnh.
Tiến sĩ Bùi Thanh Liêm - Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Chợ Lách cho biết: Sau 5 năm, anh Nguyễn Thanh Phong trồng sầu riêng sáp Tiểu Long, tôi bắt đầu theo dõi sầu riêng giống mới này. Cây rất dễ nhận diện vì lá nhỏ hơn so với các giống sầu riêng trước đây, cây sớm ra hoa, dễ đậu trái, chùm bông cho ra trái có kích cỡ gần như nhau. Tuy là trái chiếng nhưng tỷ lệ cơm khá dày, tỷ lệ hạt lép khá cao và đặc biệt là cơm sáp (dẻo), trong khi: Ri6, Monthong, Musang King… không có đặc tính sáp. Sáp Tiểu Long càng chín càng ráo cơm, còn các giống sầu riêng khác càng chín càng nhão. Giống sầu riêng này có độ Brix 39 (tức là độ ngọt khá cao). Với trọng lượng vừa phải, sầu riêng sáp Tiểu Long thích hợp để xuất khẩu.
“Anh Nguyễn Thanh Phong là một nông dân năng động, có tầm nhìn xa trong việc phát triển giống mới để nâng cao chất lượng trái sầu riêng ở Chợ Lách. Tinh thần cầu tiến của anh Nguyễn Thanh Phong trong việc phát triển, lai tạo, làm phong phú giống sầu riêng ở Chợ Lách rất đáng được biểu dương và khen thưởng”. (Chủ tịch UBND huyện Chợ Lách Nguyễn Anh Linh)
Bài, ảnh: Hoàng Vũ
Nâng cao giá trị cà phê bằng canh tác hữu cơ
Nguồn tin: Báo Đắk Lắk
Canh tác hữu cơ là hướng đi bền vững, không chỉ vì giá trị, nhu cầu tiêu dùng mà còn vì ý thức bảo vệ sức khỏe, đa dạng sinh học và cân bằng hệ sinh thái. Với những mục tiêu đó, nhiều hợp tác xã (HTX) trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã luôn nỗ lực từ khâu sản xuất đến chế biến nhằm đưa ra thị trường sản phẩm cà phê chất lượng nhất.
Đơn cử, HTX Nông nghiệp - Dịch vụ Quyết Tiến (xã Quảng Hiệp, huyện Cư M’gar) được thành lập từ năm 2015 với 32 thành viên, có trên 46 ha đất trồng cà phê, hồ tiêu và một số cây trồng khác như bơ, sầu riêng, chanh dây… Ngay từ khi mới thành lập, HTX đã phát triển theo hướng hữu cơ.
Theo đó, HTX thường xuyên mời những người có chuyên môn tại các viện nghiên cứu trên địa bàn tỉnh về hướng dẫn, tập huấn cho xã viên kỹ thuật canh tác, quy trình chăm sóc cây cà phê.
Đồng thời, vận động các thành viên HTX, người dân tại địa phương hạn chế sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật… để phát triển bền vững. Khi tái canh, HTX định hướng người dân tập trung phát triển các giống cà phê như TR4, TR9… nhằm tăng năng suất, chất lượng cây cà phê.
Vườn cà phê của HTX Nông nghiệp - Dịch vụ Quyết Tiến được canh tác theo hướng hữu cơ.
Giám đốc HTX Nông nghiệp - Dịch vụ Quyết Tiến Phạm Công Phi cho biết, sau gần 10 năm phát triển, hiện HTX đã có 154 thành viên (trong đó có 56 hộ thành viên liên kết), với diện tích hơn 230 ha và vốn điều lệ gần 600 triệu đồng. Các sản phẩm cà phê của HTX hiện đã được chứng nhận OCOP (Chương trình mỗi xã một sản phẩm) 3 sao, phấn đấu đến cuối năm 2024 đạt OCOP 4 sao.
Đặc biệt, HTX thu mua cà phê cho thành viên và người dân trên địa bàn với giá cao hơn thị trường từ 5.000 – 10.000 đồng/kg. Mỗi năm HTX có thể cung cấp ra thị trường từ 500 – 700 tấn cà phê. Các sản phẩm của HTX được xuất bán đi nhiều nơi trong cả nước, nhất là tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ (Cần Thơ, Long An, Đồng Tháp…).
Hiện nay, HTX đã sở hữu một nhà kho, sân phơi và khu chế xuất rộng hơn 1.000 m2, với tổng số vốn trên 3,6 tỷ đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho thành viên trong việc bảo quản và phơi khô sản phẩm sau thu hái.
Bên cạnh đó, nhằm chủ động cung cấp nguồn phân hữu cơ cho thành viên, sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, HTX đã mạnh dạn mua phân heo từ các trại heo trên địa bàn để ủ thành phân vi sinh. Riêng đầu năm 2024, HTX đưa ra thị trường 100 tấn phân phục vụ các thành viên HTX đang tái canh cà phê sử dụng thử nghiệm nhằm bảo vệ môi trường, giảm chi phí đầu tư.
HTX Thương mại và Dịch vụ Quỳnh Tân (thị trấn Buôn Trấp, huyện Krông Ana) những năm gần đây cũng đã chủ động đẩy mạnh phát triển cà phê theo chuỗi giá trị, đạt chứng nhận quốc tế. HTX hiện có 105 thành viên và 263 nông hộ liên kết. Đặc biệt, các xã viên và thành viên liên kết tuân thủ quy định không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hay bất cứ hóa chất nào trong toàn bộ quy trình trồng, chăm sóc, chế biến cà phê.
Chủ tịch Hội đồng quản trị HTX Thương mại và Dịch vụ Quỳnh Tân Nguyễn Viết Tốt cho hay, trước những yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường, người sản xuất cà phê phải thay đổi về cả tư duy và phương thức sản xuất để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường.
Để từng bước thay đổi nhận thức và quy trình sản xuất của thành viên HTX, Ban quản lý HTX đã cùng xã viên, hộ liên kết đi học hỏi về cách xây dựng vùng nguyên liệu an toàn, sản xuất cà phê hữu cơ, chất lượng cao tại các vùng sản xuất cà phê chất lượng cao, các vườn cà phê đạt tiêu chuẩn quốc tế trong và ngoài tỉnh.
Sau đó, HTX đã cùng 67 thành viên, với diện tích 97 ha tham gia sản xuất cà phê bền vững, đạt tiêu chuẩn Rainforest Alliance. Mỗi năm, các hộ thành viên thu về sản lượng trên 300 tấn cà phê tươi. HTX mua toàn bộ sản phẩm cà phê này với giá cao hơn thị trường từ 8.000 - 10.000 đồng/kg cà phê nhân.
Nhờ vậy, người dân và thành viên trong HTX tích cực tham gia vào chuỗi sản xuất có chứng nhận, hình thành thói quen sản xuất mới, bền vững và bảo vệ được môi trường canh tác. Từ đó, mối quan hệ liên kết giữa nông dân và HTX cũng được kết nối chặt chẽ hơn. Người dân địa phương cũng bắt đầu quan tâm và học hỏi, làm theo mô hình cà phê chất lượng cao của HTX.
Từ năm 2022 đến nay, HTX Thương mại và Dịch vụ Quỳnh Tân cũng đã sử dụng các phế phẩm, phụ phẩm nông nghiệp, vỏ cà phê sau sơ chế để sản xuất phân vi sinh, phân đạm cá… nhằm giảm thiểu chi phí trong sản xuất cho xã viên. Hiện nay, sau mỗi niên vụ cà phê, HTX có khoảng 35 tấn phân vi sinh làm từ vỏ cà phê, được các thành viên HTX sử dụng để bón cho các vườn cà phê. Việc này giúp các thành viên tiết kiệm 30% chi phí vật tư đầu vào, tạo ra sản phẩm cà phê chất lượng, không tồn dư kim loại nặng…
Trong bối cảnh yêu cầu thị trường ngày càng cao về các sản phẩm "xanh – sạch – an toàn", việc canh tác cà phê theo hướng hữu cơ là hướng đi tất yếu và bền vững, góp phần nâng cao giá trị cà phê và thu nhập cho người dân.
Thùy Dung
Kiên trì lối đi riêng
Nguồn tin: Báo Bình Phước
Nhiều năm trước, việc sản xuất kinh tế nông nghiệp theo phong trào đã tạo ra những hệ lụy, trở thành bài học đắt giá đối với không ít nông hộ. Có giai đoạn nông dân chuyển đổi cây trồng ồ ạt, rơi vào vòng luẩn quẩn trồng - chặt, chặt - trồng, không những phá vỡ quy hoạch nông nghiệp của tỉnh mà còn gây tốn kém kinh tế gia đình. Trong thực tiễn sản xuất, có không ít nông hộ kiên trì theo lối đi riêng, không chạy theo số đông và đã thành công.
Tỷ phú dó bầu
Khoảng 20 năm trước, nhiều nông dân tỉnh Bình Phước đầu tư trồng cây dó bầu. Tuy nhiên, vì không tiếp cận được các loại thuốc cấy tạo trầm nên phần lớn các hộ dân chặt đi, trồng loại cây khác. Trong những người trồng dó bầu thời điểm đó, có ông Nguyễn Trung Song, hiện ở khu phố 4, phường Minh Thành, TX. Chơn Thành. Vì quyết tâm, kiên trì theo đuổi mô hình, tới nay ông Song đã được hưởng thành quả, trở thành tỷ phú dó bầu.
Ông Nguyễn Trung Song giới thiệu về cây dó bầu do ông tự ươm để trồng và bán cho nông dân có nhu cầu
Ông Song cho biết: “Năm 2004, gia đình tôi trồng hơn 1.000 cây, chứng kiến nhiều hộ chặt đi để trồng cây khác, tôi cũng có chút dao động. Tuy nhiên, vì đã tìm hiểu rất kỹ thông tin về loại cây này trước khi trồng, đồng thời cây cũng đã lớn nên tôi quyết tâm giữ lại. Đến năm 2017, tức sau 13 năm trồng, tôi được một công ty hỏi mua và đã bán với giá 5 triệu đồng/cây, thu về 5 tỷ đồng”.
Nhờ vào lứa thu hoạch đầu tiên, ông Song được tiếp thêm động lực mạnh mẽ, càng yên tâm đầu tư vào mô hình mình đã chọn. Ông Song kể: “Năm 2018, tôi vinh dự được đại diện nông dân tỉnh Bình Phước ra Hà Nội dự hội nghị tuyên dương nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi toàn quốc. Tại đây, tôi may mắn được gặp một giáo sư công tác tại Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam, có đề tài nghiên cứu khoa học liên quan đến cây dó bầu. Qua trao đổi và trò chuyện, tôi tiếp tục học hỏi thêm nhiều kiến thức, kinh nghiệm chăm sóc, phát triển”.
“Hiện gia đình tôi có 25.000 cây dó bầu, trồng xen trong 7 ha cao su, cây đang ở tuổi thứ 4. Đường kính trung bình mỗi cây khoảng 10-15cm, cao 3-4m. Từ 7 năm trở đi, dó bầu đã cho thu hoạch. Đến nay, tôi chỉ cần bán với giá 500 ngàn đồng/cây, thì 7 ha sẽ cho thu hơn 12 tỷ đồng. Tuy nhiên, gia đình tôi đang xây dựng kế hoạch đầu tư nhà máy chế biến tinh dầu trầm để tăng giá trị kinh tế” - ông Song chia sẻ thêm.
Bà NGUYỄN THỊ HẬU, Chủ tịch Hội Nông dân TX. Chơn Thành: Vì ưa bóng mát nên cây dó bầu có lợi thế trong việc trồng xen tại các vườn cây cao, có tán che như cao su, điều, xà cừ, bạch đàn, tận dụng được quỹ đất. Đây cũng là loại cây ít bị sâu bệnh. Mô hình cây dó bầu của ông Song hiện lớn và thành công nhất ở thị xã Chơn Thành. Với niềm đam mê làm kinh tế nông nghiệp, dám nghĩ, dám làm, kiên định mục tiêu đã chọn, hy vọng những kế hoạch của ông về cây dó bầu sẽ tiếp tục thành công, truyền lửa đam mê cho bà con nông dân trên địa bàn.
Trồng dừa đếm trái tính tiền
Mấy năm nay, giá sầu riêng tăng khiến nhiều nông dân chuyển đổi sang trồng loại cây này. Tuy nhiên, gia đình chị Trần Thị Thảo ở ấp 2, xã Minh Đức, huyện Hớn Quản vẫn gắn bó với vườn dừa dứa. Chị Thảo cho biết: “Sự chuyển đổi cây trồng cho phù hợp là điều tất yếu. Tuy nhiên, thế nào là phù hợp thì do nông dân nhận định. Gia đình tôi có gần 1 ha đất ven suối, thổ nhưỡng hợp trồng dừa, nên nhiều năm qua, tôi yên tâm phát triển mô hình này và cho thu nhập tốt”.
Theo chị Thảo, 1 ha có thể trồng từ 250-300 cây tùy khoảng cách. Sau 24 tháng trồng sẽ cho thu bói. Thời kỳ trưởng thành, dừa cho thu hoạch quanh năm. Bình quân khoảng 20 ngày cây ra 1 buồng. Mỗi buồng có khoảng 10-15 trái. “Nhiều năm nay, tôi bán sỉ tại vườn với giá 10.000 đồng/trái. Thương lái tự tới vườn chọn, chặt và vận chuyển, chủ nhà chỉ việc đếm trái tính tiền. Thời điểm mùa nắng, nhu cầu thị trường cao, gia đình không đủ cung cấp. Mỗi cây có thể cho thu hoạch 1 triệu đồng/năm” - chị Thảo cho biết.
Xác định được cây trồng phù hợp thổ nhưỡng, gia đình chị Thảo đang mở rộng diện tích trồng dừa. Để đạt hiệu quả cao, chị Thảo cho biết gia đình trồng theo hàng, đắp đất cao quanh gốc. Khu vực trồng được thiết kế rãnh thoát nước, tránh ngập úng. Quá trình chăm sóc, chị dùng hoàn toàn bằng phân hữu cơ ủ hoai mục. Dừa rất ít bị sâu bệnh, nếu có đuông dừa gây hại thì việc phòng trừ cũng không khó, vì thuốc sinh học đặc trị bán phổ biến trên thị trường.
“Trong điều kiện công nghệ thông tin, mạng xã hội phát triển như hiện nay, nông dân có nhiều cơ hội tiếp cận khoa học - kỹ thuật để áp dụng vào sản xuất. Tuy nhiên, việc xác định được mô hình kinh tế phù hợp, đồng thời đầu tư phát triển theo hướng đi của riêng mình là điều quan trọng. Thực tế thời gian qua, người dân ồ ạt chuyển đổi sang trồng sầu riêng. Nhiều hộ vì không nắm chắc kiến thức, kinh nghiệm chăm sóc nên gây tổn thất kinh tế. Do đó, kiên trì theo lối đi riêng của mình, không dao động trước phong trào là bài học quý trong sản xuất nông nghiệp” - bà Nguyễn Thị Phố, Chủ tịch Hội Nông dân xã Minh Đức, huyện Hớn Quản chia sẻ.
Quang Minh
Chủ động chuyển đổi sản xuất để thích ứng với hạn mặn
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Tình hình hạn mặn diễn biến phức tạp và kéo dài dẫn đến thiếu nước sinh hoạt, cháy rừng, sụt lún, sạt lở đất… gây ra nhiều thiệt hại. Trong khó khăn đó đã có nhiều nông dân ở ĐBSCL chủ động chuyển đổi sản xuất bằng các giải pháp thích ứng phù hợp, chung sống thuận thiên để phát triển bền vững…
Thu nhập cao trong mùa hạn mặn
Mặc dù giữa nắng trưa gay gắt nhưng vợ chồng anh Lê Thanh Tảo ngụ xã Thuận An (thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long) vẫn tranh thủ hái 5 mương rau nhút để kịp giao cho thương lái đặt mua với giá 10.000 đồng/kg. Anh Tảo cho biết, thời điểm này nhiều nơi bị khô hạn, còn các vùng ven biển thì nước mặn tấn công gây khó cho sản xuất và sinh hoạt của người dân; tuy nhiên khu vực này nằm gần sông Hậu nên các hộ xung quanh chủ động liên kết xây dựng đê bao để trữ nước ngọt nhằm phục vụ trồng rau màu trong mùa hạn. Gia đình tôi có gần 5 công đất được áp dụng trồng rau nhút dưới mương, còn trên bờ thì trồng cải xà lách xoong.
Nông dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long thu hoạch khoai lang xuất khẩu trong mùa hạn mặn bán giá cao 830.000 đồng/tạ.
Để rau nhút phát triển tốt, anh Tảo thả thêm nhiều bèo dưới mương nhằm tạo độ mát cho mặt ao, đồng thời thường xuyên theo dõi tình trạng chết dây, úng lá… để xử lý kịp thời tránh ảnh hưởng năng suất. "Chỉ sau gần 20 ngày trồng là bắt đầu thu hoạch rau nhút kéo dài nhiều đợt. Do chi phí đầu tư không nhiều, vì vậy chỉ cần giá rau nhút 10.000 đồng/kg là nông dân sống khỏe; cũng có thời điểm rau nhút hút hàng tăng lên 15.000-20.000 đồng/kg; nhờ đó nông dân có lợi nhuận 60-80 triệu đồng/ha, cao hơn trồng lúa", anh Tảo khoe.
Cùng với rau nhút anh Tảo còn làm nhà lưới để trồng xà lách xoong trên bờ. Ưu điểm của xà lách xoong trồng 1 lần cho thu hoạch nhiều năm, với giá bán bình quân 20.000-30.000 đồng/kg vào mùa thuận (từ tháng 10 đến tháng 2 trong năm), còn mùa nghịch (từ tháng 3 đến tháng 9) giá khoảng 40.000 đồng/kg, thậm chí tới 50.000-60.000 đồng/kg. Xà lách xoong là loại rau màu cho thu nhập cao với lợi nhuận mỗi năm từ 100-300 triệu đồng/ha. Với việc áp dụng mô hình trên bờ trồng xà lách xoong, còn dưới mương trồng rau nhút kết hợp, giúp gia đình anh Tảo có nguồn thu ổn định trong mùa hạn mặn. Tại huyện Bình Tân, vùng chuyên canh khoai lang xuất khẩu lớn nhất của tỉnh Vĩnh Long, nhiều nông dân đang chủ động nước tưới để sản xuất vào mùa hạn. Anh Lê Thái Hòa, ngụ xã Thành Lợi (huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long) hớn hở khoe: "4 công khoai lang của gia đình tôi nhờ chăm sóc tốt nên năng suất vụ này đạt 60 tạ/công (1 tạ 60kg). Thương lái vừa đến tận ruộng thu mua giá khá cao là 830.000 đồng/tạ, giúp nông dân lãi đậm".
Chỉ chúng tôi hơn 2 công dưa leo vừa thu hoạch, chị Lâm Thị Chín, ngụ xã Đông Bình (huyện Thới Lai, TP Cần Thơ), bộc bạch: "Qua theo dõi thị trường thời gian qua thấy khi vào mùa hạn mặn thì dưa leo được giá cao và dễ tiêu thụ; vì vậy vụ này ruộng dưa leo của gia đình lúc tới ngày thu hoạch được thương lái đến tận ruộng thu mua từ 15.000-20.000 đồng/kg, lợi nhuận cao hơn làm lúa rất nhiều".
Ở Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, TP Cần Thơ… nhiều nông dân trồng cây ăn trái cũng "sống khỏe" nhờ các giải pháp thích ứng phù hợp với hạn mặn. Anh Nguyễn Văn Chí, xã Ngũ Hiệp (huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang), nhìn nhận: "Cù lao Ngũ Hiệp có hơn 1.500ha sầu riêng, một loại cây cho hiệu quả kinh tế cao. Rút kinh nghiệm từ đợt hạn mặn dữ dội các năm 2016 và 2020 khiến nhiều vườn cây bị thiệt hại; vì vậy ngoài việc ngành chức năng đầu tư hệ thống cống ngăn mặn thì nông dân nạo vét các con mương, đào thêm ao để trải bạt trữ nhiều nước ngọt trong vườn cây nhằm đảm bảo nước tưới suốt mùa khô. Nhờ vậy mà đến thời điểm này nhiều vườn sầu riêng vẫn trụ vững và phát triển bình thường; trong đó những nông dân chủ động cho trái sớm và bán vào tháng 3-2024 trúng giá cao từ 110.000-130.000 đồng/kg (giống Ri 6), thu lời đậm".
Tiếp tục chuyển đổi theo hướng "thuận thiên"
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) hạn mặn năm 2024 dù diễn ra gay gắt và kéo dài, gây thiếu nước ngọt một số vùng ven biển thuộc các tỉnh Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Cà Mau, Kiên Giang… đa phần là các khu vực không có nước ngầm và chưa được đầu tư hoàn chỉnh hệ thống cấp nước. Đối với sản xuất nông nghiệp thì hạn mặn tuy có gây ảnh hưởng nhưng mức độ thiệt hại rất thấp so với đợt hạn mặn năm 2016 và 2020. Nguyên nhân là do ngành Nông nghiệp và chính quyền các địa phương trong vùng đã chủ động chuyển đổi sản xuất phù hợp, thích ứng, thuận với tự nhiên.
Tại Hậu Giang, đến thời điểm này hơn 73.000ha lúa hè thu và nhiều diện tích rau màu, cây ăn trái… phát triển bình thường nhờ điều chỉnh lịch thời vụ hợp lý, cùng các giải pháp thích ứng với hạn mặn trong canh tác. Ông Ngô Minh Long, Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Hậu Giang cho hay, đầu vào mùa khô là ngành Nông nghiệp đã tăng cường dự báo dài hạn và đề ra các phương án ứng phó phù hợp với từng khu vực. Sau đó, phối hợp cùng các địa phương, hợp tác xã… tuyên truyền cho nông dân về lịch thời vụ sản xuất cần tuân thủ để tránh hạn mặn; đặc biệt là chuyển đổi cây trồng, vật nuôi thích ứng với điều kiện thổ nhưỡng, kèm ứng dụng các giải pháp khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm giảm nước tưới và cho năng suất cao. Sở NN&PTNT cũng phân công bộ phận chuyên môn theo dõi chặt diễn biến mặn xâm nhập, nhằm vận hành khoảng 60 cống tròn và cống hở kịp thời. Ngoài ra, chủ động nạo vét thủy lợi nội đồng, tích trữ nhiều nước ngọt để phục vụ sản xuất và sinh hoạt trong suốt mùa khô…
Tiến sĩ Bùi Thanh Liêm, Trưởng Phòng NN&PTNT huyện Chợ Lách (Bến Tre), chia sẻ: "Hiện nay hơn 8.500ha vườn cây ăn trái đặc sản của huyện như sầu riêng, chôm chôm, măng cụt… và 3.000ha hoa kiểng phát triển bình thường, dù bên ngoài là nước mặn tấn công. Được vậy, là nhờ chủ động các phương án ứng phó hạn mặn rất sớm, triển khai nhiều giải pháp kỹ thuật mới trong sản xuất để nông dân áp dụng; thường xuyên quan trắc độ mặn để thông báo kịp thời cho bà con phòng ngừa; đặc biệt là hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi và tích trữ nước ngọt bằng nhiều cách như trong mương vườn, ao, làm hồ trải bạt, xây bồn chứa…".
Mới đây, trong chuyến kiểm tra về phát triển nông nghiệp ở Trà Vinh, ông Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT đánh giá cao Trà Vinh là tỉnh ven biển nhưng đến nay không bị ảnh hưởng tiêu cực của hạn mặn; được vậy là do từ năm 2021 đến nay tỉnh này đã chủ động chuyển đổi hơn 8.000ha đất trồng lúa kém hiệu quả, nơi thiếu nước tưới, cùng hàng trăm héc-ta đất mía bị ảnh hưởng mặn, năng suất kém… sang nuôi thủy sản và trồng các loại cây khác ít cần nước tưới, phù hợp với điều kiện sinh thái mới, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Ông Lê Minh Hoan cũng tâm đắc với các hợp tác xã (HTX) nông nghiệp ở Trà Vinh như: HTX nông nghiệp Phú Mỹ Châu (huyện Châu Thành) quy tụ hơn 120 nông dân vào sản xuất lúa thông minh và áp dụng kinh tế tuần hoàn để tăng thu nhập; hay HTX nông nghiệp Long Hiệp (huyện Trà Cú) quy tụ 72 nông dân tham gia mô hình lúa - tôm bền vững… Ông Lê Minh Hoan nhấn mạnh, để nông nghiệp phát triển bền vững, thuận thiên và thích ứng với biến đổi khí hậu, với hạn mặn, thì việc chuyển đổi sản xuất phù hợp là rất quan trọng; đồng thời cũng chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp. Do đó, quy tụ nông dân vào các HTX sẽ thuận lợi trong việc chuyển đổi, cũng như ứng dụng khoa học, công nghệ cao vào sản xuất; gắn liên kết giữa HTX với các doanh nghiệp tiêu thụ để ổn định đầu ra nông sản. Đây là hướng đi tất yếu của nền nông nghiệp hội nhập và phát triển thuận thiên…
Theo Bộ NN&PTNT, năm 2023 ở vùng ĐBSCL có khoảng 86.000ha đất lúa kém hiệu quả, khó khăn về nguồn nước ngọt, nơi thường bị ảnh hưởng hạn mặn… được chuyển đổi sang nuôi thủy sản, trồng cây ăn trái, trồng rau màu... Trước đó, giai đoạn từ 2019 đến 2022, bình quân mỗi năm có hàng chục ngàn héc-ta đất lúa được chuyển đổi sản xuất. Ưu điểm của chuyển đổi là hệ số sử dụng đất được tăng lên từ 1,5-2,2 lần, tiết kiệm được nước tưới, thích ứng tốt với hạn mặn, nhờ đó hiệu quả kinh tế mang lại cao hơn. Điển hình như từ đất lúa chuyển sang trồng rau màu các loại thì nông dân đạt doanh thu bình quân khoảng 150-200 triệu đồng/ha; trồng cây ăn trái đạt doanh thu trên 600 triệu đồng/ha… lợi nhuận cao hơn trồng lúa rất nhiều và thích ứng phù hợp với hạn mặn. Vì vậy, tới đây việc chuyển đổi sản xuất sẽ tiếp tục thực hiện.
Bài, ảnh: PHƯỚC BÌNH
Vĩnh Long: Trà Ôn phát triển nhiều mô hình nông nghiệp mới, hiệu quả
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Mô hình nuôi cá chạch trên ruộng được triển khai tại Trà Ôn.
Thời gian qua, ngành nông nghiệp huyện Trà Ôn (Vĩnh Long) đã tích cực triển khai nhiều mô hình sản xuất mới có hiệu quả kinh tế khá cao và mang lại thu nhập ổn định cho bà con nông dân.
Hướng đến mục tiêu chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng bền vững, nhiều năm qua, Phòng Nông nghiệp-PTNT huyện Trà Ôn đã triển khai thí điểm các mô hình sản xuất nông nghiệp mới ứng phó biến đổi khí hậu, phù hợp điều kiện sinh thái tại địa phương và đặc biệt là theo nhu cầu của thị trường. Các mô hình sản xuất hiệu quả được ngành chức năng khuyến khích duy trì, nhân rộng, góp phần giúp nông dân nâng cao thu nhập và từng bước ổn định cuộc sống.
Điển hình như mô hình trồng khóm được xây dựng tại xã Hòa Bình với diện tích ban đầu 46,37ha đến nay đã mở rộng lên hơn 100ha. Mô hình trồng khóm năng suất bình quân ước đạt 40-50 tấn/ha, lợi nhuận 80-100 triệu đồng/ha, cao gấp 2 lần so với sản xuất lúa.
Bên cạnh đó, tại xã Tích Thiện- một trong những địa phương phát triển mạnh mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên lúa. Trong đó, mô hình trồng ổi trên đất lúa là mô hình nổi bật và mạng lại hiệu quả kinh tế cao. Thời điểm giá cao lợi nhuận bình quân 120-150 triệu đồng/ha; thời điểm giá thấp lợi nhuận 50-60 triệu đồng. Mô hình có khả năng mở rộng lên 550-600ha trong thời gian tới.
Song song đó, đối với những hộ dân có ít đất canh tác, mô hình nuôi lươn thâm canh là một sự lựa chọn phù hợp. Chỉ cần tối thiểu diện tích 10m² có thể nuôi 2.500 con. Sau thời gian từ 10-11 tháng, năng suất đạt từ 400-450 kg/mô hình, trừ hết chi phí người nuôi còn lời từ 10-12 triệu đồng. Mô hình này được nhân rộng ở nhiều xã như Xuân Hiệp, Nhơn Bình, Thiện Mỹ, Vĩnh Xuân.
Tương tự, mô hình nuôi ếch và cá rô phi đỏ cũng được nhiều nông dân tại các xã Trà Côn, Tân Mỹ, Hòa Bình, Vĩnh Xuân, Thuận Thới tham gia. Bởi mô hình này có nhiều ưu điểm như thời gian nuôi ngắn, có thể tận dụng diện tích ao, mương vườn có sẵn.
Đối với những hộ có điều kiện sản xuất lớn, có thể ứng dụng quy trình kỹ thuật của mô hình nuôi ếch thương phẩm trong vèo kết hợp cá rô phi đỏ với quy mô lớn. Nếu người nuôi biết sắp xếp vụ nuôi hợp lý, rơi vào thời điểm thu hoạch có giá cao thì hiệu quả kinh tế mang lại rất lớn. Cụ thể, với quy mô 2.500 con ếch giống, 2.000 con cá rô phi đỏ giống/hộ có thể cho lợi nhuận bình quân 4-5 triệu đồng/mô hình.
Trong năm qua, Trung tâm Dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp tỉnh (thuộc Sở Nông nghiệp-PTNT) cũng đã kết hợp với Phòng Nông nghiệp-PTNT huyện triển khai thí điểm nuôi cá chạch đồng xen canh trong ruộng lúa tại xã Nhơn Bình và xã Xuân Hiệp với 5 hộ tham gia. Trong đó, mỗi hộ nuôi cá chạch trên ruộng lúa rộng 1 công, được hỗ trợ 50% chi phí mua 50kg cá chạch giống và 50% chi phí thức ăn.
Tham gia mô hình thả 20.000 con cá chạch trên ruộng, chị Nguyễn Thị Hát (xã Xuân Hiệp) cho biết: “Nuôi cá chạch trong ruộng lúa ít vốn đầu tư, chi phí thức ăn thấp, lúa có thể hấp thụ vật bài tiết của cá, tốt cho sinh trưởng. Hiện cá đang phát triển tốt, có thể thu hoạch nhưng tôi tiếp tục nuôi để cá sinh sản và nhân giống cho các đợt nuôi tiếp theo”.
Ngoài ra, còn nhiều mô hình khác đem lại hiệu quả kinh tế cao và thu hút nhiều hộ tham gia như: mô hình trồng củ sắn chuyên canh trên đất màu tập trung tại các ấp Mỹ Thạnh, Long Hưng và Kinh Ngây (xã Lục Sĩ Thành) cho lợi nhuận bình quân 180-200 triệu đồng/ha (cao gấp 4 lần so với trồng lúa và gấp 2 lần so với trồng các loại rau màu khác); mô hình trồng rau nhút- một trong những mô hình tiêu biểu trong việc đưa rau màu xuống ruộng tại xã Xuân Hiệp với lợi nhuận bình quân từ 60-100 triệu đồng/ha/năm; mô hình giảm lượng giống gieo sạ trong sản xuất lúa nhằm tiết kiệm chi phí, cho lợi nhuận bình quân cao hơn so với canh tác theo truyền thống khoảng 5 triệu đồng/ha.
Ông Hồ Văn Ba- Phó Chủ tịch UBND xã Tích Thiện, cho biết: Thời gian qua, địa phương chú trọng thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, lựa chọn những giống cây, con có năng suất, chất lượng, giá trị kinh tế cao để đưa vào sản xuất. Theo ông Nguyễn Văn Tám- Trưởng Phòng Nông nghiệp-PTNT huyện Trà Ôn, thời gian qua, nông dân đã chú trọng phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, liên kết theo chuỗi giá trị, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ. Các mô hình được triển khai bảo đảm phù hợp với từng vùng, điều kiện sản xuất và trình độ canh tác của nông dân, góp phần nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp của huyện.
Ngành nông nghiệp huyện cũng đã tăng cường phối hợp, liên kết với các tổ chức, doanh nghiệp tìm đầu ra ổn định cho các sản phẩm; tiếp tục chuyển giao tiến bộ kỹ thuật phù hợp với điều kiện, tiềm năng, lợi thế của địa phương, góp phần hình thành các mô hình kinh tế mới, giúp nông dân tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống.
Bài, ảnh: PHI LONG
Thách thức trong sản xuất nông nghiệp
Nguồn tin: Báo Kon Tum
Tình hình thời tiết trên địa bàn tỉnh Kon Tum ngày càng diễn biến phức tạp, cực đoan, gây ảnh hưởng tiêu cực tới nhiều mặt của đời sống; trong đó, nông nghiệp là một trong những lĩnh vực chịu ảnh hưởng nặng nề.
Những năm gần đây, tỉnh Kon Tum chịu những tác động xấu của nhiều loại hình thiên tai như mưa bão, lũ lụt, sạt lở, nắng nóng gay gắt, hạn hán, mưa đá, dông lốc. Những hiện tượng thời tiết cực đoan này xảy ra với mật độ và cường độ ngày càng tăng, gây ra những thiệt hại về tính mạng con người, của cải vật chất và đang đặt ra nhiều thách thức đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Chỉ tính riêng năm 2023, toàn tỉnh có 10 đợt mưa vừa, mưa to đến rất to trên diện rộng, 1 trận áp thấp ảnh hưởng gián tiếp tới tỉnh gây ra mưa lớn tại nhiều địa phương. Mưa bão, lũ quét, sạt lở, ngập lụt đã làm 223,8ha lúa, 1,8ha cây lâu năm, 21,6ha hoa rau và 48,2ha cây hàng năm khác bị thiệt hại; 406 con gia súc, gia cầm bị chết; 17,76 ha ao nuôi cá bị ngập, mất trắng. Toàn tỉnh có 12 công trình thủy lợi, nước sinh hoạt bị hư hỏng, xói lở kênh mương.
Những tháng đầu năm 2024, nắng nóng diễn ra gay gắt và khốc liệt, trên phạm vi toàn tỉnh nhiệt độ trung bình phổ biến cao hơn khoảng 0,5-1,20C so với trung bình nhiều năm. Nắng hạn kéo dài làm cho 282,32ha cây trồng bị khô hạn, thiếu nước tưới khiến ngành Nông nghiệp, các địa phương và người dân phải chật vật xoay xở, bỏ ra nhiều chi phí để tìm nguồn nước cứu cây trồng. Trong đó, thành phố Kon Tum có 15,65ha cây trồng bị khô hạn; huyện Đăk Hà có 146,57ha cây trồng bị khô hạn, chủ yếu là lúa nước và cây cà phê; huyện Đăk Tô có 120,10ha cây trồng các loại và 1.515 cây mắc ca bị ảnh hưởng.
Tình hình hạn hán xảy ra trên địa bàn trong những tháng vừa qua làm cho một số diện tích lúa, cây ngắn ngày đã bị mất trắng; cây dài ngày sinh trưởng và phát triển kém, ảnh hưởng tới năng suất của vụ sau và phải mất rất nhiều thời gian để phục hồi.
Thiếu nước trầm trọng vào mùa khô, lũ lụt, ngập úng vào mùa mưa cùng những diễn biến thất thường khác của thời tiết, không chỉ gây thiệt hại trực tiếp cho cây trồng, vật nuôi, mà còn làm phát sinh nhiều loại sâu, dịch bệnh khiến cho sản xuất nông nghiệp gặp khó khăn, bất lợi và tác động không nhỏ đến đời sống người dân trên địa bàn.
Để chủ động ứng phó với thiên tai và biến đổi khí hậu, thời gian qua, ngành Nông nghiệp, chính quyền các địa phương áp dụng những giải pháp phát triển sản xuất theo hướng chủ động, như tuyên truyền, vận động, hướng dẫn người dân thay đổi cơ cấu mùa vụ; tổ chức sản xuất, chăm sóc cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện thời tiết để phòng tránh thiên tai, tăng hiệu quả sản xuất; hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu các loại cây trồng phù hợp với đặc điểm của từng vùng, thích ứng khô hạn. Trong đó, chú trọng chuyển những diện tích trồng lúa thiếu nước, kém hiệu quả và diện tích trồng mì bạc màu, năng suất thấp, bị nhiễm bệnh sang trồng các loại cây trồng có giá trị như cây ăn quả, mắc ca, mía. Theo kế hoạch phát triển nông nghiệp giai đoạn 2021- 2025, định hướng 2030, tỉnh ta sẽ thực hiện chuyển đổi 2.839,8ha đất lúa bị hạn sang các loại cây trồng chịu hạn, nhu cầu sử dụng nước ít và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với trồng lúa.
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, ứng dụng công nghệ vào sản xuất góp phần giảm thiểu tác động của thiên tai. Ảnh: TH
Bên cạnh đó, ngành Nông nghiệp đẩy mạnh khuyến khích, hướng dẫn người dân ứng dụng công nghệ vào sản xuất, thực hành sản xuất nông nghiệp tốt, phát triển kinh tế vườn đồi, xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh quy mô lớn để nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất và giảm thiểu tác động, rủi ro do thiên tai gây ra. Đến nay, toàn tỉnh có khoảng 16.192ha cây trồng sản xuất ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, đã hình thành được một số vùng chuyên canh cây cà phê vối, cây ăn quả, rau hoa có chất lượng tại một số địa phương trong tỉnh như huyện Đăk Hà, thành phố Kon Tum, huyện Kon Plông.
Song song với việc triển khai những giải pháp mang tính căn cơ, lâu dài, trước mắt, ngành Nông nghiệp cùng các địa phương của tỉnh tích cực triển khai nhiều giải pháp nhằm đảm bảo an toàn cho sản xuất nông nghiệp trong mùa mưa bão năm 2024, góp phần hoàn thành mục tiêu tăng trưởng của toàn ngành.
Theo nhận định của cơ quan dự báo khí tượng- thủy văn tỉnh, trong 6 tháng cuối năm 2024 , tỉnh ta có khả năng chịu ảnh hưởng của 2-3 cơn bão, áp thấp nhiệt đới, xảy ra từ 8-10 đợt mưa to và rất to kèm theo các hiện tượng lốc, sét và gió giật mạnh. Trên phạm vi toàn tỉnh có nguy cơ cao xảy ra ngập lụt, lũ quét, sạt lở đất gây ảnh hưởng tới đời sống, sinh hoạt của người dân, giao thông và sản xuất nông nghiệp.
Vì vậy, ngay từ thời điểm cuối mùa khô, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành lập các đoàn kiểm tra, đánh giá hiện trạng hệ thống công trình thủy lợi trên toàn tỉnh để kịp thời phát hiện, tiến hành gia cố, xử lý, khắc phục các hư hỏng có nguy cơ đe dọa an toàn công trình; xây dựng phương án quản lý, vận hành hồ chứa, nhằm đảm bảo có đủ nước để phục vụ sản xuất, sinh hoạt, vừa phòng, chống lũ. Đồng thời, tiếp tục hướng dẫn các địa phương và người dân triển khai kế hoạch sản xuất theo đúng lịch thời vụ; tăng cường công tác theo dõi, dự báo tình hình thời tiết để kịp thời khuyến cáo, hướng dẫn người dân các biện pháp bảo vệ cây trồng, vật nuôi, hạn chế thấp nhất thiệt hại do thiên tai.
Thiên Hương
Hiếu Giang tổng hợp