Đẩy mạnh xây dựng mã số vùng trồng cây ăn quả
Nguồn tin: Báo Bình Dương
Thời gian qua, ngành nông nghiệp Bình Dương đã tích cực hướng dẫn, hỗ trợ nông dân, hộ sản xuất, các hợp tác xã trên địa bàn tỉnh thực hiện tiêu chuẩn về điều kiện canh tác để được cấp mã số vùng trồng (MSVT). Qua đó đã góp phần nâng cao giá trị nông sản, tăng thu nhập cho người dân, hướng đến phát triển nông nghiệp bền vững.
Cán bộ Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh kiểm tra thực địa MSVT tại một trang trại trên địa bàn tỉnh
Kết quả ban đầu
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), việc thiết lập và cấp MSVT, cơ sở đóng gói nông sản đóng vai trò quan trọng đối với xuất khẩu nông sản. Đó là yêu cầu bắt buộc của các thị trường và thông lệ quốc tế nhằm bảo đảm tuân thủ quy định của nước nhập khẩu về kiểm dịch thực vật, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc. Hiện nay, các MSVT, cơ sở đóng gói đã được cấp vẫn đang duy trì sử dụng, kiểm soát hiệu quả. Qua đó, đã góp phần nâng cao uy tín của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế và tăng kim ngạch xuất khẩu, đồng thời góp phần định hướng người nông dân thực hành sản xuất chuyên nghiệp hơn, theo tiêu chuẩn và thị hiếu của thị trường, truy xuất nguồn gốc sản phẩm thuận lợi và minh bạch.
Hiện nay, việc giao thương hàng hóa giữa các quốc gia thuận lợi là cơ hội rất lớn cho các mặt hàng trái cây của Việt Nam xuất khẩu. Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết để trái cây được “xuất ngoại” là phải được cấp MSVT để truy xuất nguồn gốc. Sản xuất cây ăn trái của tỉnh đã có những chuyển biến về diện tích trồng, tổ chức sản xuất, áp dụng các tiến bộkhoa học kỹ thuật… Đến nay, Bình Dương có diện tích cây ăn trái hơn 8.850 ha với sự đa dạng về chủng loại. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng thiếu đồng bộ từ sản xuất đến tiêu thụ, tiềm ẩn nhiều rủi ro, các mặt hàng chủ yếu chỉ tiêu thụ nội địa, hiệu quả kinh tế chưa cao. Việc phát triển các vùng sản xuất cây ăn trái tập trung với sản lượng hàng hóa đủ lớn để đầu tư phát triển và xây dựng thương hiệu cho mỗi vùng là cần thiết.
Bà Lưu Đình Lệ Thúy, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh, cho biết thời gian qua chi cục đã không ngừng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tổ chức các lớp tập huấn tại từng vùng trồng cây ăn trái tập trung, nhằm giúp nhà vườn có sự am hiểu đầy đủ hơn về tầm quan trọng của việc xây dựng MSVT. “Xây dựng MSVT không chỉ giúp nâng cao giá trị của nhiều loại cây trồng mà còn làm thay đổi nhận thức, tập quán canh tác, chuyển hướng sang sản xuất theo tiêu chuẩn an toàn, bền vững”, bà Lưu Đình Lệ Thúy chia sẻ.
Quản lý chặt chẽ vùng trồng
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc xây dựng và quản lý MSVT hiện gặp không ít khó khăn, nhận thức của người dân về lĩnh vực này còn những hạn chế nhất định. Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh khuyến cáo người nông dân cần nắm và thực hiện đúng các quy định đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu.
Đối với cơ quan quản lý cần thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc sử dụng các mã số đã được cấp, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, tái vi phạm nhiều lần, đặc biệt chú ý đến việc giám sát đối với các cơ sở đóng gói, đồng thời thực hiện các chương trình giám sát dư lượng. Mặt khác, phải thường xuyên cập nhật yêu cầu nhập khẩu của các thị trường, tăng cường công tác tuyên truyền, tập huấn về các quy định kiểm dịch thực vật, an toàn thực phẩm.
Đối với các vùng trồng, cơ sở đóng gói cần phải bố trí nhân sự để thực hiện kiểm soát theo đúng quy định, chịu trách nhiệm đối với các biện pháp kỹ thuật áp dụng và bảo đảm việc tuân thủ yêu cầu của nước nhập khẩu; đồng thời, người dân tại vùng trồng tăng cường áp dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa để nâng cao năng suất và chất lượng nông sản, chủ động tuân thủ các quy định kỹ thuật về mã số của nước nhập khẩu.
Ngoài ra, đơn vị phối hợp với các cơ quan quản lý của địa phương để thực hiện giám sát vùng trồng, cơ sở đóng gói theo đúng quy định; tổ chức tập huấn kỹ thuật cho người sản xuất tại vùng trồng và người lao động tại cơ sở đóng gói để nắm được các quy định và yêu cầu về MSVT, cơ sở đóng gói của các nước nhập khẩu. Toàn bộ vùng trồng và cơ sở đóng gói đã được cấp mã số xuất khẩu phải cập nhật thông tin toàn bộ quá trình trồng, chăm sóc, thu hoạch, đóng gói và vận chuyển sản phẩm trên phần mềm quản lý vùng trồng (Farmdiary) và phần mềm quản lý cơ sở đóng gói.
Hiện toàn tỉnh đã được Cục Bảo vệ thực vật cấp 30 MSVT xuất khẩu đi các thị trường Trung Quốc, Hoa Kỳ, EU, Anh, Nga, New Zealand…; 16 mã số cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu chuối, mít, sầu riêng sang thị trường Trung Quốc. Trong đó, tập trung cho các cây trồng như chuối, măng cụt, sầu riêng, mít, nhãn và bưởi trên các địa bàn huyện Phú Giáo, Bắc Tân Uyên, Dầu Tiếng, TP.Thuận An và TP.Bến Cát.
THOẠI PHƯƠNG
Nước ngập, người trồng ổi gặp khó
Nguồn tin: Báo Bình Phước
Mấy năm trở lại đây, nhiều hộ dân ở ấp Ruộng 3, xã Quang Minh, TX. Chơn Thành (tỉnh Bình Phước) khá lên nhờ phát triển kinh tế từ mô hình trồng ổi trân châu. Ngoài một số hộ trồng tự phát, còn có tổ hợp tác (THT) trồng ổi đã xây dựng được sản phẩm OCOP, đạt tiêu chuẩn 3 sao. Tuy nhiên hiện nay, tại khu vực sản xuất, tình trạng ngập úng xảy ra trên diện rộng, điều kiện canh tác của người dân gặp khó khăn, kinh tế bị thiệt hại.
Bà Chu Thị Mai Là, Tổ trưởng THT trồng ổi trân châu xã Quang Minh cho biết: Ấp Ruộng 3 có nhiều hộ trồng ổi với tổng diện tích ước khoảng 50 ha, riêng THT có 8 hộ trồng, tổng diện tích 32 ha. Ổi thích nghi tốt nhất với điều kiện đất ẩm, tơi xốp, thoát nước tốt. Khu vực ấp Ruộng 3 trũng, nếu không bị ngập, việc canh tác cơ bản thuận lợi. Tuy nhiên, 3 năm gần đây, ngập úng thường xuyên xảy ra. Mỗi khi mưa lớn kéo dài, hàng chục hec-ta ổi bị ngập úng, rễ cây ngâm nước lâu ngày bị thối, nhiễm bệnh, khiến cây chậm phát triển, giảm năng suất và cây có thể bị chết.
Để ứng phó với ngập úng, THT trồng ổi đã thực hiện giải pháp kỹ thuật kích thích ổi ra bông, đậu trái sớm. Tuy nhiên, năm nay tình trạng ngập úng sớm hơn mọi năm do mưa nhiều, nước từ nơi khác đổ về khiến người trồng ổi lo lắng hơn. “Thời điểm này, hầu hết các vườn ổi đã ra trái non. Nếu nước ngập khoảng 1 tuần, trái non sẽ rụng hết, mất mùa là điều hiển nhiên. Một số hộ tiếp tục canh tác, không ít hộ phải tỉa cành làm lại vụ khác, khoảng 6 tháng sau mới được thu hoạch” - bà Là chia sẻ.
Gia đình ông Lê Văn Nghị (ở ấp Ruộng 3) có 3 ha trồng ổi giáp mương bị thiệt hại nặng nhất. 100% diện tích bị ngập khiến hầu hết cây bị chết, một số cây còn sống, tuy nhiên không có thu hoạch. Hiện nước vẫn trong tình trạng ngập sâu, ông Nghị đành bỏ ruộng, không canh tác.
Vườn ổi của gia đình ông Nghị bị ngập úng thối rễ, chết dần
Nông dân trồng ổi cho biết, nếu tình trạng nước ngập rồi lại rút, các hộ sẽ móc mương tạo rãnh thoát nước trong ruộng. Tuy nhiên, nước ngập nhiều ngày không rút nên vượt quá khả năng. Do vậy, người dân rất mong chính quyền và ngành chức năng TX. Chơn Thành sớm có giải pháp khắc phục, giúp người dân ổn định sản xuất.
Ông Vũ Văn Toàn, Chủ tịch UBND xã Quang Minh cho biết: Năm 2023, UBND xã đã triển khai dự án nạo vét mương thoát nước khu vực này với tổng kinh phí 993 triệu đồng. Kết quả đã nạo vét lòng mương rộng 4m, dài 3,4km. Tuy nhiên, sau khi nạo vét, tình trạng ngập vẫn xảy ra. Nguyên nhân do khu vực ấp Ruộng 3 có địa thế trũng giống lòng chảo, việc thoát nước rất chậm. Đặc biệt, từ tháng 6 đến nay, lượng mưa nhiều nên nước từ các nơi đổ về càng khiến tình trạng ngập nặng hơn.
Cũng theo ông Toàn, mới đây, Bí thư Thị ủy Chơn Thành đã trực tiếp xuống hiện trường thăm những hộ trồng ổi và kiểm tra thực trạng ngập úng. Chủ tịch UBND thị xã cũng đã ban hành công văn chỉ đạo các xã, phường chủ động triển khai các phương án phòng, chống thiên tai, ngập úng. Ngày 12-7-2024, UBND xã tiếp tục làm tờ trình gửi UBND thị xã Chơn Thành và Phòng Kinh tế thị xã đề nghị xem xét bổ sung kinh phí nạo vét mương tại ấp Ruộng 3. Mục tiêu nạo vét, dọn dẹp cây dại hai bên bờ mương nhằm khơi thông dòng chảy. Trong đó, chiều dài mương cần nạo vét khoảng 1.500m, rộng khoảng 4m, có mái taluy, đắp bờ đường. Bên cạnh đó còn thiết kế cống thoát nước rộng khoảng 5m. Tổng mức đầu tư 200 triệu đồng. Hy vọng, sau khi triển khai nạo vét sẽ khắc phục, hạn chế tình trạng ngập úng tại đây.
Quang Minh
Thái Nguyên: Phương pháp FFS-IPHM giúp tăng hiệu quả kinh tế trên cây chè
Nguồn tin: Báo Thái Nguyên
Ngày 26-7, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Sở Nông nghiệp và PTNT) Thái Nguyên tổ chức tổng kết khóa huấn luyện nông dân về quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp (FFS-IPHM) trên cây chè tại xóm Hòa Khê 1, xã Văn Hán (Đồng Hỷ).
Cán bộ Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật và các học viên tham quan mô hình triển khai theo phương pháp FFS-IPHM.
30 học viên là các hộ dân sản xuất chè của xóm Hòa Khê 1 tham gia lớp huấn luyện đã được cán bộ của Chi cục truyền đạt các nội dung: Tổng quan về IPHM; quản lý đất, nước; quản lý sinh vật gây hại bền vững; quản lý sinh vật có ích; cách sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật… Cùng với lý thuyết, các học viên còn cùng nhau thực hành phương pháp FFS-IPHM trên ô chè có diện tích 500m2.
Sau hơn 3 tháng thực hành phương pháp FFS-IPHM cho thấy: Chi phí phân bón thấp hơn so với sản xuất truyền thống là 171 nghìn đồng/sào/lứa; thuốc bảo vệ thực vật giảm được 20 nghìn đồng/sào/lứa; năng suất búp chè tươi cao hơn 5kg/sào. Qua đó, hiệu quả kinh tế sản xuất theo phương pháp FFS-IPHM cao hơn so với sản xuất thông thường là 301 nghìn đồng/sào/lứa. Ngoài ra, việc sản xuất theo quy trình FFS-IPHM còn góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, sức khỏe của người dân…
Kết thúc khóa học, các học viên sẽ tiếp tục triển khai quy trình sản xuất theo phương pháp FFS-IPHM trên diện tích chè của gia đình.
Vũ Công
‘Quả ngọt’ từ nấm
Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế
“Thực ra, “quả ngọt” mà vợ chồng chị Lê Thị Kim Anh (người dân tộc Pa Cô, xã Hồng Thủy, A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế) có được là từ sự chăm chỉ, cố gắng, kiên trì đổ bao công sức để sản xuất những vụ nấm thành công” - ông Hồ Văn Diu, Trưởng thôn Kê 2 nói bằng sự trân trọng.
Chị Kim Anh (trái) chia sẻ về quá trình chăm sóc nấm bào ngư
Nhà nấm – xưởng sản xuất với 6.000 phôi nấm bào ngư (hay còn gọi là nấm sò tím) đang được chăm sóc mỗi ngày, để tầm nửa tháng nữa là đến ngày thu hoạch. Nụ cười thật rạng rỡ khi chị Kim Anh kể về việc “bén duyên” và duy trì phát triển sản xuất loại nấm này dài lâu.
Trước đó, với khao khát phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, vợ chồng chị Kim Anh đã tìm tòi, học hỏi mô hình trồng nấm và mạnh dạn trồng nấm sò trắng. Do mới trồng thử nghiệm, nên gia đình chị đầu tư 1.200 phôi nấm. Mỗi phôi từ lúc trồng đến lúc thu hoạch kéo dài 6 tháng. Với 1.200 bịch phôi nấm, thời gian đầu cho năng suất cao, thu hoạch mỗi ngày khoảng 15kg nấm. Với giá bán 50 nghìn đồng/kg, chị Kim thu về 750 nghìn đồng mỗi ngày. Sau tháng đầu tiên, lượng nấm thu hoạch mỗi tháng sẽ giảm dần (nhưng vẫn có lãi), cho đến lúc “gầy” vụ mới.
Nhận thấy trồng nấm cho hiệu quả kinh tế ổn định, nên khi có dự án (DA) trồng nấm bào ngư, nhằm hỗ trợ sinh kế bền vững cho cộng đồng vùng đệm thuộc DA Quản lý rừng bền vững và Bảo tồn đa dạng sinh học (VFBC), gia đình chị Kim Anh đã đăng ký tham gia cùng 13 hộ gia đình khác; được hướng dẫn, chuyển giao khoa học kỹ thuật, hỗ trợ giống, giàn giá, pet phun nước, lò hấp... Những hộ tham gia DA tự chăm sóc nấm, thu hoạch và chủ động tìm đầu ra cho sản phẩm.
Tham gia DA làm nấm có 14 hộ, do chị Kim Anh làm nhóm trưởng (xưởng sản xuất đặt tại nhà chị Kim Anh). “Nhiều thành viên trong nhóm đi làm ăn xa với mức thu nhập cao hơn, nên không mặn mà với công việc làm nấm. Hiện tại, cơ sở nấm đều do tôi chăm sóc” - chị Kim Anh chia sẻ.
Theo chị Kim Anh, để nấm cho năng suất cao, người trồng phải nắm chắc các kỹ thuật, các yếu tố về thời tiết, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng... Tùy theo thời tiết để điều chỉnh lượng nước tưới mỗi ngày; nếu trời im mát chỉ cần tưới 3 lần/ngày, nhưng nếu nắng nóng phải tưới 5 lần/ngày. Nếu nhiệt độ thời tiết không cao, chỉ cần tưới phun sương là được, nhưng nếu nhiệt độ cao phải tưới bằng vòi đẫm sàn để nước bốc hơi cho nấm tự hấp thụ. Vào những ngày quá nóng, phải tưới bằng vòi trực tiếp lên phôi mới đảm bảo.
Mỗi tháng, gia đình chị Kim Anh thu hoạch nấm bào ngư 2 đợt (dịp ngày rằm và mùng 1 âm lịch, đáp ứng nhu cầu sử dụng nấm cho những món chay); mỗi đợt thu hoạch tầm 2 tạ nấm. Sau khi thu hoạch xong phải vệ sinh nút phôi cho sạch rồi đậy nắp phôi lại, tiếp tục tưới nước. Trước ngày thu hoạch 5 ngày, chỉ cần mở nắp phôi là nấm mọc. Nấm thường thu hoạch vào buổi sáng để đảm bảo độ tươi ngon và bán được giá. Hiện tại, giá nấm bán lẻ là 60 nghìn đồng/kg, giá bỏ sỉ là 40 nghìn đồng/kg. Lượng nấm cơ sở chị Kim Anh đưa ra thị trường đều được thu mua hết.
Thời điểm thu hoạch nấm là bận rộn nhất. Mỗi ngày bắt đầu từ 2 - 3 giờ sáng để hái nấm, cắt chân nấm, bỏ bì, đóng gói, kịp đưa nấm ra thị trấn A Lưới tiêu thụ vào sáng sớm. Nhờ được dự án đào tạo kỹ thuật, nên trong thời gian tới, vợ chồng chị Kim Anh tự sản xuất phôi, thay vì mua như trước đây để phát triển sản xuất bền vững hơn và cho lãi ròng cao hơn.
“Sự chăm chỉ và ham học hỏi, ứng dụng khoa học kỹ thuật đã mang lại thành công bước đầu trong sản xuất của vợ chồng chị Kim Anh, không những giúp gia đình phát triển kinh tế, cuộc sống ổn định hơn, mà còn là tấm gương, động lực cho người dân trên địa bàn cố gắng vươn lên” - Trưởng thôn Kê 2 phấn khởi.
Bài, ảnh: HÀ LÊ - QUỲNH ANH
Long An có 6 doanh nghiệp được chứng nhận doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Nguồn tin: Báo Long An
Thực hiện Chương trình Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, thời gian qua, tỉnh Long An chú trọng hỗ trợ hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất.
Toàn tỉnh có 41 vùng trồng chanh được cấp mã số. Ảnh minh họa: Kiên Định - Võ Thành Nguyễn
Cụ thể, đến nay, toàn tỉnh có 6 doanh nghiệp được chứng nhận doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, gồm: Công ty cổ phần Ba Huân; Công ty TNHH Nghiên cứu và sản xuất giống ứng dụng công nghệ cao Hưng Thịnh; Công ty TNHH Thương mại chăn nuôi công nghệ cao Hoàn Hảo Vina; Công ty Cổ phần thực phẩm HG; Công ty TNHH Huy Long An - Mỹ Bình và Công ty TNHH MTV Trung Sơn Long An.
Trong việc xây dựng chuỗi cung cấp thực phẩm an toàn, toàn tỉnh đã hỗ trợ xây dựng 13 chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn; cấp 750.000 tem truy xuất quét mã QR. Đến nay, đã xây dựng được 35 chuỗi rau, thanh long, chanh, gạo, thịt gà, thịt heo, thủy sản, nông sản khác; phối hợp Ban Quản lý An toàn thực phẩm TP.HCM khảo sát, xây dựng và trao 10 giấy chứng nhận đủ điều kiện tham gia chuỗi (thịt gà, trứng gà, thịt bò, nước mắm, rau, chuối); hướng dẫn, hỗ trợ 21 doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia chuỗi sử dụng tem điện tử (2.511.000 con tem) truy xuất nguồn gốc sản phẩm an toàn.
Trong công tác cấp mã số vùng trồng (MSVT) và mã số cơ sở đóng gói, toàn tỉnh có 294 lượt MSVT với tổng diện tích trên 14.121ha xuất khẩu sang các thị trường: Hàn Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Úc, New Zealand, EU, Châu Âu, Nga, Anh, Trung Quốc. Trong đó, thanh long 229 mã số, chanh 41 mã số, dưa hấu 13 mã số, sầu riêng 5 mã số, xoài 2 mã số, chuối 2 mã số, khoai lang 1 mã số, mít 1 mã số. Bên cạnh đó, còn 11 lượt MSVT đã hoàn chỉnh hồ sơ gửi Cục Bảo vệ thực vật nhưng chưa được cấp mã số đối với các sản phẩm: Chanh, sầu riêng, khoai lang; 1 lượt mã số sầu riêng đã được Tổng cục Hải quan Trung Quốc kiểm tra trực tuyến, có báo cáo khắc phục và đang chờ kết quả.
Toàn tỉnh có 161 mã cơ sở đóng gói đang hoạt động, trong đó: Thanh long 105 mã; chanh 31 mã; chuối 1 mã; chuối, mít, sầu riêng, xoài là 21 mã và khoai lang 3 mã.
Bên cạnh đó, tính đến nay, đã hỗ trợ cho 119 cơ sở sản xuất nông sản chứng nhận VietGAP với tổng diện tích trên 2.619ha (2.238 hộ dân), sản lượng 65.108 tấn sản phẩm/năm, 588.000 con gà đẻ, 1.113 con bò thịt, 100 bò giống và 250 heo nái, tổng kinh phí hỗ trợ hơn 7,5 tỉ đồng.
Với việc triển khai Chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây trồng chủ lực, tỉnh đã thực hiện 1 lớp huấn luyện nông dân về quản lý dịch hại tổng hợp (FFS-IPM) trên cây rau cho 30 nông dân ở huyện Cần Giuộc; 1 lớp huấn luyện nông dân về quản lý dịch hại tổng hợp (FFS-IPM) trên cây chanh cho 30 nông dân tại huyện Bến Lức. Ngoài ra, còn thực hiện 4 bài tuyên truyền về kết quả Chương trình IPM trên Báo Long An./.
T.H
Phân trùn quế bán được giá, hút hàng
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Nhiều người nuôi trùn quế trên địa bàn tỉnh Hậu Giang cho biết, phân trùn quế được xem là giải pháp phân bón hữu cơ, đem lại hiệu quả cao trong sản xuất nông nghiệp, đồng thời bảo vệ môi trường. Do đó, nhu cầu sử dụng phân trùn quế để bón cho cây trồng của nông dân trong và ngoài tỉnh đang ở mức cao, trong khi nguồn cung hạn chế, từ đó giá bán của loại phân hữu cơ này cũng ở mức không thấp. Cụ thể, hiện người mua phân trùn quế tại các trang trại hay hộ nuôi với mức giá 3 triệu đồng/tấn.
Chị Hằng chăm sóc trùn quế để lấy phân hữu cơ cung ứng cho thị trường.
Chị Lữ Thị Nhật Hằng, Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Ngũ Thường Mekong, ở ấp Tân Long, xã Tân Bình, huyện Phụng Hiệp, thông tin: Bình quân mỗi tháng, HTX cung ứng cho thị trường khoảng 10 tấn phân trùn quế. Tuy nhiên, số lượng này vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu của người dân. Do đó, HTX đang xây dựng kế hoạch phát triển đàn bò từ 20 con lên 40 con để lấy phân bò nuôi trùn quế gắn với việc mở rộng quy mô nuôi trùn quế. Ngoài ra, HTX còn liên kết với nhiều hộ nuôi bên ngoài để cố gắng cung ứng số lượng phân trù quế cho thị trường từ 30-40 tấn/tháng trong thời gian tới.
HỮU PHƯỚC
Vượt khó khăn, nuôi ngan thành công
Nguồn tin: Báo Thái Bình
So với một số loại gia cầm như gà, vịt thì nuôi ngan cho hiệu quả kinh tế cao hơn, nhưng lại khó nuôi hơn do ngan mẫn cảm với thời tiết, dễ mắc dịch bệnh. Chính cái khó đã thôi thúc anh Nguyễn Văn Trường, thôn Thụy Bình, xã Tân Phong (Vũ Thư, tỉnh Thái Bình) quyết tâm thử sức và gắn bó với việc nuôi ngan hơn 6 năm qua.
Anh Nguyễn Văn Trường đam mê và gắn bó với nghề nuôi ngan.
Sau khi rời quân ngũ trở về địa phương, anh Trường tích cực tham gia công tác đoàn của thôn, xã và bắt đầu học hỏi các mô hình phát triển kinh tế. Năm 2015, một gia trại chăn nuôi rộng hơn 4.000m2 trên cánh đồng thôn Thụy Bình dừng sản xuất, anh Trường mạnh dạn nhận thuê lại và đầu tư quy hoạch, xây dựng chuồng trại để sản xuất, chăn nuôi. Năm 2015 - 2017, anh Trường chăn nuôi lợn nhưng sản phẩm thịt lợn hơi giai đoạn này giảm sâu khiến anh bị thua lỗ. Đầu năm 2018, anh quyết định chuyển sang nuôi ngan Pháp, vì anh nhận thấy, ngan Pháp nhanh lớn, chất lượng thịt cao, dễ tiêu thụ, giá ngan thương phẩm ổn định, hiệu quả chăn nuôi cao hơn so với nuôi gà, vịt, tuy nhiên ngan Pháp khó nuôi hơn do hay bị bệnh. Mặc dù chưa có nhiều kỹ thuật và kinh nghiệm nuôi ngan nhưng anh Trường vẫn quyết tâm thử sức. Thời gian đầu, anh Trường nuôi với quy mô 200 - 300 con ngan/lứa, áp dụng đúng kỹ thuật, chăm chút cẩn thận, tỉ mỉ nhưng đàn ngan vẫn bị bệnh, tỷ lệ hao hụt cao, thậm chí có lứa, ngan chết cả đàn, khiến anh rất lo lắng. Mặc dù vậy, anh vẫn quyết tâm nuôi tiếp con ngan Pháp, hỏng đàn này sẽ mua đàn khác về nuôi, anh chấp nhận đầu tư chi phí 30.000 - 40.000 đồng/con giống và tiêu tốn thức ăn, thời gian, công sức để học hỏi kỹ thuật, tích lũy kinh nghiệm nuôi ngan. Sau hơn chục lứa ngan, anh tự tin mở rộng dần quy mô chăn nuôi. Thời gian cao điểm nhất, anh nuôi 5.000 con ngan, hiện nay anh duy trì quy mô chăn nuôi 2.500 - 3.000 con ngan trong chuồng trại, gối lứa liên tục 1 tháng/lứa.
Anh Trường cho biết, con ngan Pháp lớn nhanh, trọng lượng trung bình đạt 5,5 - 6kg/con, con to có thể đạt 7kg/con sau 90 ngày nuôi, tuy nhiên ngan dễ bị bệnh viêm gan, rụng lông làm ngan chết hoặc chậm lớn, thậm chí nếu không kiểm soát tốt lượng thức ăn đầu vào, cho ăn quá mức cũng khiến ngan chết. Ngoài thức ăn công nghiệp, anh Trường bổ sung các vi chất dinh dưỡng cần thiết và tiêm vắc-xin khi ngan còn nhỏ giúp ngan tăng cường sức đề kháng, phòng, chống các bệnh thường gặp. Để nuôi ngan, anh Trường thiết kế 2 khu vực, 1 khu sân vườn thoáng để ngan chơi ban ngày và liền kề là hệ thống chuồng trại để ngan nghỉ đêm hoặc tránh trú mưa, rét. Tại khu sân vườn cho ngan chơi, anh trải cát xuống nền sân vì cát hút ẩm rất nhanh, phân ngan dễ dàng được xử lý và thay thế, giúp môi trường nuôi sạch sẽ. Ngoài ra, tại khu sân chơi này, anh vẫn thiết kế 1 bể bơi nhỏ để ngan tắm, uống nước và 1 khu vực căng sàn lưới thép, bên dưới láng bê tông để dễ dàng thau rửa, xử lý chất thải của ngan. Ngan trên sàn lưới luôn sạch sẽ, khô ráo, chân không bị lạnh vào mùa đông, sẽ ít nhiễm bệnh hơn. Trong chuồng trại, do ngan khá nhạy cảm với thay đổi thời tiết đột ngột, anh lắp đặt hệ thống phun sương, quạt mát về mùa hè; bảo đảm kín gió, ấm áp về mùa đông. Đặc biệt, anh Trường thường xuyên phun tiêu độc khử trùng giữ chuồng trại, khu vực chăn nuôi luôn sạch sẽ, thông thoáng.
Thời gian cao điểm, gia đình anh Trường xuất bán 8 - 10 tấn ngan/tháng, hiện nay anh xuất bán ổn định từ 3 - 5 tấn ngan/tháng, giá bán hiện đạt 70.000 đồng/kg, trừ chi phí đầu tư, gia đình anh thu lãi từ 30 - 50 triệu đồng/tháng. Thị trường tiêu thụ ngan thương phẩm rộng mở, anh cung cấp cho các nhà hàng ở Hà Nội, Hải Phòng.
Sau nhiều năm kiên trì, chấp nhận khó khăn, thất bại ban đầu, đến nay anh Trường yên tâm, phấn khởi, gắn bó với nghề nuôi ngan. Đặc biệt, từ một gia trại sơ sài, hoạt động kém hiệu quả ban đầu, với sức trẻ, quyết tâm, kiên trì, anh Trường đã tạo lập thành một gia trại trù phú, cho hiệu quả kinh tế khá, giúp gia đình anh có điều kiện nuôi các con học hành, cải thiện rõ rệt đời sống.
Quỳnh Lưu
Triển vọng từ mô hình nuôi dúi
Nguồn tin: Báo Sóc Trăng
Thực hiện Chương trình phát triển thanh niên giai đoạn 2021 - 2030, Ban Thường vụ Thị đoàn Vĩnh Châu (Sóc Trăng) đã triển khai nhiều mô hình giúp đoàn viên, thanh niên khởi nghiệp và bước đầu cho hiệu quả cao. Tiêu biểu như mô hình nuôi cua, nuôi heo rừng, nuôi ong lấy mật, gần đây nhất là mô hình nuôi con dúi đang mang lại hiệu quả rất tốt.
Điển hình là mô hình nuôi dúi của thanh niên Lý Thành Hiếu, ngụ Khóm 6, Phường 1. Anh Hiếu cho biết, qua tìm hiểu trên internet và được bạn bè giới thiệu dúi là vật nuôi cho giá trị kinh tế cao, nhu cầu thị trường lớn, đặc biệt là dễ chăm sóc, không tốn nhiều chi phí nên anh mạnh dạn đầu tư. Từ năm 2022, anh Hiếu mua 10 cặp giống dúi mốc từ tỉnh Tiền Giang về nuôi. Do chưa có kinh nghiệm nuôi, đàn dúi bị bệnh và hao hụt nhưng anh không nản chí. Anh thường xuyên học hỏi kinh nghiệm, kỹ thuật từ nhiều nơi, nhiều phương tiện. Sau hơn 2 năm, đàn dúi của anh Hiếu đã sinh sản, phát triển tốt và tăng đàn với gần 50 con. Năm 2024, mô hình đã được Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội thị xã Vĩnh Châu hỗ trợ vốn để phát triển quy mô lớn hơn.
Đoàn viên, thanh niên tham quan mô hình nuôi dúi. Ảnh: TUẤN HUY
Mỗi ngày, anh Hiếu cho đàn dúi ăn 2 lần, kết hợp theo dõi sức khỏe từng con. Ngoài ra, anh cũng tận dụng đất xung quanh nhà để trồng khoai, bắp, mía làm thức ăn cho dúi. “Cách nuôi dúi chủ yếu mình chăm sóc đúng, cho ăn đúng, kiểm tra thường xuyên để phát hiện bệnh sớm, chữa kịp thời. Nếu chịu khó chăm sóc thì dúi mình nuôi ít bị hao hụt, quy mô phát triển nhanh. Đầu ra thì chỗ mình mua con giống người ta cũng bao tiêu luôn. Hướng tới, mình sẽ nhân rộng dúi ra khoảng 50 chuồng, khi có số lượng lớn mình sẽ hỗ trợ cho các bạn khác” - anh Hiếu chia sẻ.
Đồng chí Lý Hùng Cường - Bí thư Đoàn Phường 1 cho biết, hiện tại địa bàn Phường 1 có 5 mô hình khởi nghiệp của đoàn viên, thanh niên. Qua theo dõi cũng như đồng hành cùng thanh niên khởi nghiệp thì mô hình nuôi dúi của anh Lê Thành Hiếu đang ổn định. Đây cũng là một trong những mô hình tạo ra điểm sáng để đoàn viên, thanh niên trên địa bàn Phường 1 nói riêng cũng như thị xã nói chung có thể đến đây tham quan, học hỏi kinh nghiệm, nhân rộng.
Dúi mốc khoảng 6 tháng tuổi là sinh sản được. Mỗi năm đẻ từ 2 - 3 lứa, mỗi lứa từ 2 - 4 con. Giá 1 cặp con giống dao động từ 1,2 triệu đến 2 triệu đồng và giá 1kg thịt dúi thương phẩm khoảng 500.000 đồng tùy thời điểm. Dúi cũng là loài vật nuôi đã được phát triển mạnh ở một số tỉnh, thành phố, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, việc mạnh dạn thực hiện mô hình nuôi dúi của anh Hiếu với triển vọng ban đầu đã mở ra hướng sản xuất mới trong đoàn viên, thanh niên.
Hướng tới, Ban Thường vụ Thị đoàn sẽ phối hợp với Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội thị xã Vĩnh Châu rà soát và hỗ trợ đoàn viên, thanh niên về vốn để lập thân, lập nghiệp. Tạo nguồn lực giúp đoàn viên, thanh niên tự tin hội nhập. Qua đó góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình phát triển thanh niên giai đoạn 2021 - 2030 trên địa bàn thị xã Vĩnh Châu.
SONG LÊ - TUẤN HUY
Hiếu Giang tổng hợp