Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 3 tháng 7 năm 2025

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 3 tháng 7 năm 2025

 

Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp 2025 diễn ra trên cả nước từ ngày 1/7

Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp 2025 được tiến hành từ ngày 1/7 và kéo dài trong 30 ngày, nhằm tạo cơ sở dữ liệu quan trọng cho việc hoạch định chính sách.

 Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp 2025 áp dụng phương pháp điều tra toàn bộ kết hợp điều tra chọn mẫu. (Ảnh: Vietnam+)

Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp 2025 áp dụng phương pháp điều tra toàn bộ kết hợp điều tra chọn mẫu. (Ảnh: Vietnam+)

Từ ngày 1/7, ngành Thống kê sẽ chính thức triển khai cuộc Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp trên phạm vi toàn quốc. Đây là cuộc điều tra quy mô lớn, phức tạp, nhằm thu thập thông tin nền tảng phục vụ xây dựng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội cho khu vực nông thôn và nông nghiệp.

Theo thông tin từ Cục Thống kê, công tác chuẩn bị cho Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp năm 2025 đã được tiến hành khẩn trương. Theo đó, cuộc tổng điều tra chính thức bắt đầu thu thập thông tin từ ngày 1/7 và kéo dài trong 30 ngày.

Đây là hoạt động thống kê mang tầm quốc gia, được thực hiện theo Quyết định số 484/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Ban chỉ đạo Trung ương và các cấp đã được thành lập, cùng với đó là phương án điều tra chi tiết đã được ban hành, đảm bảo công tác hậu cần và chuyên môn cho một cuộc điều tra có phạm vi rộng, đối tượng lớn và nội dung phức tạp.

Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp 2025 được tiến hành nhằm đáp ứng ba mục đích chính, tạo cơ sở dữ liệu quan trọng cho việc hoạch định chính sách.

Thứ nhất là thu thập và biên soạn các chỉ tiêu thống kê quốc gia, phục vụ việc đánh giá thực trạng, phân tích xu hướng và xây dựng chiến lược phát triển khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và nông thôn. Kết quả điều tra sẽ giúp cải thiện mức sống dân cư nông thôn trên cả nước và tại từng địa phương.

Thứ hai nhằm cung cấp dữ liệu để đánh giá quy mô, cơ cấu lao động nông thôn, sự thay đổi về kết cấu hạ tầng, cũng như hiệu quả thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia. Dữ liệu này còn phục vụ việc so sánh quốc tế về các chỉ tiêu nông nghiệp, nông thôn.

Thứ ba là xây dựng cơ sở dữ liệu lâm nghiệp, thủy sản và nông thôn chuyên sâu, làm dàn mẫu cho các cuộc điều tra thống kê định kỳ và đáp ứng các yêu cầu nghiên cứu khác.

Theo đó, đối tượng điều tra bao gồm lao động tham gia hoạt động lâm nghiệp, thủy sản; Hộ dân cư có hoạt động lâm nghiệp, thủy sản; Các trang trại, doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực lâm nghiệp, thủy sản; Ủy ban nhân dân cấp xã.

Để đảm bảo tính chính xác và toàn diện, Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp 2025 áp dụng phương pháp điều tra toàn bộ kết hợp điều tra chọn mẫu.

Cuộc tổng điều tra sẽ ứng dụng công nghệ để nâng cao hiệu quả với hai phương pháp chính. Phỏng vấn trực tiếp bằng việc điều tra viên sẽ sử dụng phiếu điều tra điện tử trên thiết bị thông minh (CAPI) để phỏng vấn trực tiếp các hộ gia đình và trang trại. Trong đó, phiếu giấy truyền thống chỉ áp dụng cho các đơn vị do Bộ Quốc phòng quản lý. Bên cạnh đó, thu thập thông tin gián tiếp thông qua các đơn vị (như Ủy ban Nhân dân xã, doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ được cấp tài khoản để tự điền thông tin vào phiếu điều tra trực tuyến (Webform), dưới sự hướng dẫn và hỗ trợ của điều tra viên./.

(Vietnam+)

 

6 tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp đạt 33,84 tỷ USD

Sáng 3-7, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) tổ chức họp báo thường kỳ. Thứ trưởng Bộ NN&MT Phùng Đức Tiến chủ trì buổi họp báo.

  Quang cảnh buổi họp báo.

Quang cảnh buổi họp báo.

Theo ông Trần Gia Long, Phó vụ trưởng Vụ Kế hoạch-Tài chính (Bộ NN&MT), tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản (NLTS) 6 tháng đầu năm 2025 của Việt Nam đạt 33,84 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm 2024.

Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính đạt 18,46 tỷ USD, tăng 17,8%; giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 264,4 triệu USD, tăng 10,1%; giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 5,16 tỷ USD, tăng 16,9%; giá trị xuất khẩu đồ gỗ và lâm sản đạt 8,82 tỷ USD, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm 2024…

Tính theo thị trường các quốc gia và vùng lãnh thổ: Hoa Kỳ với thị phần 21,1%, Trung Quốc với thị phần 17,6%, Nhật Bản với thị phần 7,2%, là 3 thị trường xuất khẩu các mặt hàng NLTS lớn nhất của Việt Nam. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị xuất khẩu NLTS của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2025 sang thị trường Hoa Kỳ tăng 16%, Trung Quốc giảm 0,7% và Nhật Bản tăng 25,5%.

 Dây chuyền chế biến trái cây tại nhà máy của Công ty Doveco Sơn La.

Dây chuyền chế biến trái cây tại nhà máy của Công ty Doveco Sơn La.

Kim ngạch nhập khẩu NLTS 6 tháng đầu năm 2025 đạt 24,01 tỷ USD, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm 2024.

Phát biểu tại buổi họp báo, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, mặc dù 6 tháng đầu năm 2025, ngành nông nghiệp nước ta liên tiếp phải đối mặt với những khó khăn, thách thức từ các thị trường xuất khẩu với các hàng rào thuế quan lẫn hàng rào kỹ thuật, nhưng nông nghiệp vẫn vượt khó, kim ngạch xuất khẩu tăng, góp phần đóng góp tích cực vào phát triển nền kinh tế, đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm phục vụ thị trường nội địa.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cũng yêu cầu các cơ quan chức năng thuộc Bộ NN&MT trong thời gian tới cần tăng cường công tác quản lý, tích cực hỗ trợ các địa phương và bà con nông dân để đảm bảo chất lượng sản phẩm nông nghiệp phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu.

Tin, ảnh: NGUYỄN KIỂM

 

Góp phần hoạch định, xây dựng chính sách nông thôn thời kỳ mới

Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp năm 2025 là một trong những cuộc tổng điều tra quan trọng nhất của ngành Thống kê, Các thông tin cơ bản về nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, cơ cấu lao động nông thôn năm 2025.

Ghi nhận trong cuộc tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp trên toàn quốc kéo dài 30 ngày, từ ngày 1/7 đến ngày 30/7. Cục Thống kê sẽ cập nhật đầy đủ thông tin nông thôn, nông nghiệp theo mô hình chính quyền 2 cấp, từ đó đưa ra những số liệu thống kê chính xác, góp phần hoạch định, xây dựng chính sách nông thôn, nông nghiệp trong thời kỳ mới của đất nước.

Sau Lễ ra quân tổng điều tra về nông thôn, nông nghiệp từ ngày 1/7, cán bộ điều tra xã Thọ Phú, tỉnh Thanh Hóa bắt đầu công tác điều tra nông nghiệp nông thôn. Đối tượng điều tra gồm lao động tham gia hoạt động nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, hộ dân cư, trang trại, doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia hoạt động nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, UBND các xã.

 

Là những hộ đầu tiên tiếp nhận thông tin điều tra, bà Lê Thị Toàn và ông Dương Văn Đồng, người dân ở xã Thọ Phú, chia sẻ: “Tôi rất phấn khởi khi Nhà nước đưa ra được mục đích cuộc tổng điều tra về nông nghiệp, nông thôn rất cụ thể. Khi tham gia, gia đình tôi phối hợp và cung cấp đầy đủ thông tin. Qua cuộc tổng điều tra này thì tôi cũng mong Nhà nước sẽ có các định hướng, chính sách để nâng cao đời sống người dân khu vực nông thôn”.

Chủ trương của Nhà nước là điều tra, tìm hiểu, tìm điểm yếu, điểm mạnh của nông thôn để có những chính sách mới làm sao thúc đẩy kinh tế của vùng nông nghiệp, nông thôn, chúng tôi thấy vui mừng và phấn khởi cố gắng cho bà con nông dân tạo mọi điều kiện làm sao đúng chủ trương và đạt được mục đích của cuộc điều tra".

Cuộc tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp 2025 được thực hiện theo phương pháp điều tra toàn bộ kết hợp với điều tra chọn mẫu, thực hiện đồng thời hai phương pháp thu thập thông tin: Phỏng vấn trực tiếp và thu thập thông tin gián tiếp từ các đơn vị điều tra. Với hơn 113 câu hỏi trên hệ thống Capi được trang bị bởi Cục Thống kê, công việc khá thuận lợi so với cuộc điều tra thời điểm 10 năm trước.

 Điều tra viên thu thập thông tin nông thôn, nông nghiệp tại hộ dân

Điều tra viên thu thập thông tin nông thôn, nông nghiệp tại hộ dân

Chị Hoàng Thị Nhàn và chị Trần Thị Phượng, điều tra viên xã Thọ Phú, cho biết: “Chúng tôi là điều tra viên trước nay chỉ phụ trách một địa bàn, một xã 5000 nhân khẩu, nhưng bây giờ là một xã lớn khoảng 40.000 nhân khẩu, vì vậy chúng tôi cũng gặp khó khăn hơn. Tuy nhiên Ban chỉ đạo tổng điều tra của tỉnh luôn sâu sát quan tâm, tập huấn cho các điều tra viên. Chúng tôi cũng đã kịp thời nhận được các tài liệu hồ sơ từ các tổ trưởng điều tra của xã để cập nhật thông tin đầy đủ, trang bị nghiệp vụ điều tra để ghi nhận thông tin chính xác hơn.

Điều tra bằng điện thoại rất đơn giản và dễ cho chúng tôi, rút gọn rất nhiều thời gian, công sức. Khi chúng tôi cần bổ sung hoặc thay đổi thông tin thì rất nhanh gọn. Chỉ cần đồng bộ lên thì ở cấp trên (huyện, tỉnh hoặc là Trung ương) đều biết được tiến độ điều tra của chúng tôi đến đâu”.

 Lễ ra quân Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp 2025

Lễ ra quân Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp 2025

Là tỉnh có diện tích lớn, dân số đông, tổng điều tra nông thôn tại Thanh Hóa cũng có số mẫu điều tra lớn với 452 xã (cũ), 690 nghìn hộ, 967 trang trại, hơn 1200 doanh nghiệp và hơn 700 hợp tác xã nông lâm thủy sản. Để đảm bảo thời hạn điều tra 30 ngày, nhiều công việc đã được chuẩn bị từ trước thời điểm 1/7.

Ông Thái Bá Minh, Chi cục trưởng Chi cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa, cho biết: “Chúng tôi đã thực hiện lập bảng kê, hay gọi là điều tra phiếu bảng kê. Tính từ ngày 1/3, chúng tôi có được số liệu như ngày hôm nay. Thứ hai, đối với các phiếu xã, do thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp nên từ xã chúng tôi phải làm trước từ 15/6, đến nay đã xong phiếu xã và chỉ còn phiếu thị trấn”.

Cuộc điều tra liên quan tới 62,5 triệu dân nông thôn, hướng tới 3 mục đích, đó là biên soạn các chỉ tiêu thống kê liên quan thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia; biên soạn các chỉ tiêu kinh tế - xã hội phục vụ việc đánh giá thực trạng; phân tích xu hướng biến đổi, xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển nông thôn, khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và cải thiện mức sống dân cư nông thôn trên phạm vi cả nước.

 Bà Nguyễn Thị Hương, Cục trưởng Cục Thống kê, Bộ Tài chính

Bà Nguyễn Thị Hương, Cục trưởng Cục Thống kê, Bộ Tài chính

Bà Nguyễn Thị Hương - Cục trưởng Cục Thống kê, Bộ Tài chính cho biết, tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp diễn ra vào đúng thời điểm cả nước thực hiện sắp xếp địa giới hành chính, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp và tinh gọn bộ máy hành chính, ngành thống kê đã có nhiều nỗ lực để để vừa tổng hợp kết quả tổng điều tra địa giới cũ, vừa điều tra theo địa giới mới theo đơn vị hành chính mới đặc biệt là theo xã mới.

Cục Thống kê đã ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng và hiệu quả trong điều tra thống kê. Hiện, hơn 90% tổng số cuộc điều tra được sử dụng phiếu điều tra điện tử trên thiết bị di động (CAPI) hoặc trực tuyến (Webform) và ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các công đoạn; nghiên cứu áp dụng công nghệ máy hỗ trợ kiểm tra, rà soát mã ngành kinh tế, ứng dụng AI hỗ trợ công tác thu thập thông tin, bảo đảm đồng bộ, thống nhất từ trung ương đến địa phương.

“Ngành thống kê cũng đã đưa ra bộ chỉ tiêu thống nhất, trong đó có những bộ chỉ tiêu phản ánh những sản phẩm, trong đó có nhiều sản phẩm thuộc lĩnh vực nông lâm nghiệp và thủy sản để đánh giá, xác định được điểm đến của mình, từ đó chúng ta đồng hành để xây dựng bộ dữ liệu về nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Thứ hai là sử dụng bộ dữ liệu để xây dựng kế hoạch chính sách, đồng thời hướng đến những phát triển bền vững mang tính định hướng, ví dụ như ứng dụng tối đa công nghệ xanh, công nghệ số vào trong hoạt động sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp của nông dân và nông thôn”- Cục trưởng Cục Thống kê, Bộ Tài chính nói.

Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp năm 2025 không chỉ là một nhiệm vụ thống kê mà còn là cuộc tổng rà soát toàn diện, khoa học và chính xác về thực trạng khu vực nông thôn, nông nghiệp. Do đó, sự hợp tác của mỗi người dân sẽ góp phần quan trọng tạo nên bức tranh toàn diện về nông thôn Việt Nam, góp phần giúp Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng hoạch định được các chính sách đúng đắn, phục vụ người dân và đất nước, vì một nông thôn, nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững.

Kim Thanh/VOV1

 

Người dân gặp khó vì tiền chuyển mục đích sử dụng đất quá cao

Tiền sử dụng đất khi chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất ở quá cao đang tác động đến đời sống người dân, nhất là khu vực miền núi, thu nhập chính từ sản xuất nông nghiệp.

Ông Đ.C.P xã Minh Quang, huyện Ba Vì, TP Hà Nội (nay là xã Ba Vì, Hà Nội) vừa có đơn xin rút hồ sơ chuyển mục đích sử dụng đất và hủy quyết định huyện Ba Vì cho phép gia đình ông chuyển mục đích từ đất trồng cây lâu năm sang đất ở vì số tiền sử dụng đất ông phải nộp quá cao.

 Người dân khó chuyển đổi mục đích đất ở khi tiền sử dụng phải nộp quá cao. (Ảnh minh họa).

Người dân khó chuyển đổi mục đích đất ở khi tiền sử dụng phải nộp quá cao. (Ảnh minh họa).

Theo ông P, ngày 5/3, ông được huyện Ba Vì cho phép chuyển mục đích sử dụng 210m2 từ đất trồng cây lâu năm tại thôn Cốc Đồng Tâm, xã Minh Quang sang đất ở nông thôn.

Tuy nhiên, không tìm hiểu kỹ quy định của pháp luật về tiền sử dụng đất phải nộp trước khi chuyển mục đích nên khi nhận được quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, ông mới biết số tiền phải nộp quá lớn khoảng 910 triệu đồng (4.337.000 đồng/m2). Do không đủ sức nộp số tiền trên, ông P đã viết đơn xin rút hồ sơ và hủy quyết định của huyện Ba Vì về việc cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, dù biết, không dễ để xin được quyết định này.

Trên cơ sở kiến nghị của ông P, UBND huyện Ba Vì (trước tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp ngày 1/7) cũng đã ra quyết định thu hồi và hủy quyết định cho phép ông P chuyển mục đích sử dụng đất tại thông Cốc Đồng Tâm, xã Minh Quang, huyện Ba Vì.

Trước đó, dư luận cũng xôn xao khi bà Nguyễn Thị Hồng (TP Vinh, Nghệ An) xin chuyển đổi 300m² đất vườn sang đất ở. Tiền sử dụng đất bà phải nộp 15 triệu đồng/m2, tổng số tiền sử dụng đất phải nộp lên tới 4,497 tỷ đồng, vượt quá khả năng chi trả của gia đình bà. Thậm chí bà Hồng còn cho rằng, tiền sử dụng đất bà nộp cao hơn tiền bán lô đất khoảng 3 tỷ đồng.

Theo lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Nghệ An, tỉnh Nghệ An đã xây dựng bảng giá đất mới theo nguyên tắc sát với giá thị trường. Tuy nhiên, trên thực tế, bảng giá này chỉ tiệm cận khoảng 70–80% giá thị trường. Việc người dân phải nộp 100% tiền sử dụng đất khi chuyển đổi từ đất vườn sang đất ở là thực hiện theo quy định hiện hành.

Nên căn cứ thu nhập người dân để tính tiền sử dụng đất?

Trao đổi với PV Báo Xây dựng, bà Nguyễn Thị Chúc, chuyên viên Phòng Kinh tế, xã Ba Vì, Hà Nội, làm rõ thêm trước đây, theo Nghị định số 45 ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất, người dân chỉ phải nộp 50% chênh lệch giữa giá đất ở và giá đất nông nghiệp đối với phần đất vườn, ao liền kề nhà ở trong cùng thửa đất.

Tuy nhiên, tại Nghị định số 103 ngày 30/7/2024 của Chính phủ quy định về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, người dân phải nộp 100% tiền sử dụng đất ở khi chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp, trừ đi phần tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất nông nghiệp.

Do nghĩa vụ tài chính phải nộp cao hơn nhiều so với trước khiến nhiều người dân trên địa bàn muốn chuyển đổi mục đích sử dụng đất, thậm chí đã hoàn tất thủ tục chuyển đổi, nhưng không có khả năng đóng tiền sử dụng. Điều này tác động rất lớn đến an sinh xã hội khi người dân muốn chuyển đổi, làm nhà cho các con theo quy định pháp luật, nhất là những xã, địa phương miền núi, thu nhập chính của họ chủ yếu là nông nghiệp.

Nhìn nhận về tình trạng trên, PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến (Trường Đại học Luật Hà Nội), cho rằng Luật Đất đai 2024 đã bỏ bao cấp trong xác định giá đất và xác lập 5 phương pháp định giá đất, trong số đó có phương pháp xác định giá đất dựa trên nguyên tắc thị trường.

Liên quan đến tiền sử dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng, tại dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2024 (quy định về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất) và Nghị định số 104/2024 (quy định về quỹ phát triển đất), Bộ Tài chính đã đề xuất bổ sung khoản 6 vào Điều 52 Nghị định 103 nhằm xử lý các trường hợp chuyển tiếp. Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất, tiền sử dụng đất nên được tính bằng 50% khoản chênh lệch giữa tiền sử dụng đất theo giá đất ở và theo giá đất nông nghiệp, tại thời điểm cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất.

Tuy nhiên, nhiều người lại hiểu việc xác định giá đất theo nguyên tắc thị trường là giá thị trường. Một số địa phương đang xác định giá đất theo giá thị trường. Ông Tuyến khẳng định cách hiểu và làm này chưa đúng tinh thần của khoản 1 Điều 158 Luật Đất đai 2024.

Theo ông Tuyến, điểm mấu chốt mà luật và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa rõ ràng và cụ thể đó là thế nào là nguyên tắc thị trường, nguyên tắc thị trường để xác định giá đất có giống nguyên tắc thị trường trong giao dịch thương mại không? Nội hàm của khái niệm này bao gồm những gì, phạm vi áp dụng ra sao, có những tiêu chí cụ thể nào để xác định? Nguyên tắc thị trường khác gì với giá đất thị trường? Ông Tuyến cho rằng phương pháp xác định giá đất theo nguyên tắc thị trường cần quy định cụ thể hơn.

Cũng theo ông Tuyến, sau một thời gian triển khai, Luật Đất đai 2024 bộc lộ một số điểm chưa phù hợp, nhất là xác định giá đất so với thu nhập của người dân ở nông thôn. Do đó, cần rà soát, sửa đổi một số quy định của Luật Đất đai 2024.

Ông Tuyến kiến nghị, trước mắt Nhà nước nên áp dụng mức giá cũ trong một thời hạn nhất định, có thể cộng thêm một tỷ lệ phần trăm hoặc hệ số K cho từng khu vực, nhưng phải căn cứ vào thu nhập thực tế của người dân để bảo đảm phù hợp với khả năng chi trả, đặc biệt tại các khu vực nông thôn, tránh gây sốc cho người dân khi chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở. Giá đất nông nghiệp cũng cần điều chỉnh theo từng khu vực, nhất là khu vực ven đô tốc độ đô thị hóa cao, có điều kiện phát triển kinh tế cao.

Nguyễn Hùng

 

Phát triển kinh tế từ mô hình du lịch nông nghiệp

Nhiều địa phương Hà Nội phát triển du lịch nông nghiệp gắn xây dựng nông thôn mới, góp phần tăng thu nhập và hướng tới nông nghiệp bền vững.

Với lợi thế đa dạng sinh thái, văn hóa và vị trí kết nối thuận lợi, nhiều địa phương của Thủ đô đã phát triển du lịch nông nghiệp gắn liền xây dựng nông thôn mới. Kết quả bước đầu giúp tăng thu nhập cho người dân và hướng tới nền nông nghiệp bền vững.

Một buổi trải nghiệm “lớp học không tường” của học sinh Trường mầm non tuổi Thần Tiên, thành phố Bắc Ninh, đã diễn ra tại Hợp tác xã nông nghiệp cao Vạn An, huyện Thanh Trì (cũ). Tại đây, học sinh được trực tiếp tìm hiểu các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Sự kết hợp trải nghiệm với giáo dục đã giúp các các cháu có thêm kiến thức thực tế và tạo ra thu nhập cho bà con trong vùng.

Hiện tại, trên địa bàn thành phố có hơn 100 mô hình du lịch nông nghiệp, nông thôn, các điểm đều được quan tâm, đầu tư và bước đầu mang lại hiệu quả tích cực. Điển hình, xã Hồng Vân từ một xã thuần nông, đến nay đã phát triển theo hướng làng nghề sinh vật cảnh kết hợp khai thác dịch vụ du lịch sinh thái trải nghiệm, Mỗi năm, xã Hồng Vân đón gần 6 vạn lượt khách đến du lịch trải nghiệm, thu nhập ước tính đạt trên 6 tỷ đồng/năm.

Trong bối cảnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp, hướng đến giá trị gia tăng và phát triển bền vững, Hà Nội đang tập trung đẩy mạnh chuyển đổi tư duy từ sản xuất đơn ngành sang đa giá trị, trong đó phát triển du lịch sinh thái nông nghiệp là một trong những mũi nhọn.

Ông Tạ Văn Tường – Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội cho biết: "Với Luật Thủ đô, chúng tôi cũng đưa vào những cơ chế hình thành khu trồng cây tập trung ở khu vực dân cư nông thôn, tạo ra không gian xanh, sinh hoạt cộng đồng. Thành phố sẽ tiệm cận với nền nông nghiệp đô thị, khai thác lợi thế Hà Nội để phát triển".

Từ trang trại giáo dục đến làng nghề sinh thái, các mô hình du lịch nông nghiệp không chỉ tạo sản phẩm đặc thù mà còn góp phần tái cơ cấu ngành nông nghiệp Thủ đô. Sự chuyển mình từ sản xuất đơn thuần sang đa giá trị đang mở ra hướng phát triển bền vững, biến nông thôn Hà Nội thành điểm đến hấp dẫn và nâng cao đời sống người dân.

Đỗ Bắc

 

Hiệu quả từ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao

Đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng mở rộng ứng dụng công nghệ cao và chuyển đổi số đã đem lại lợi ích kinh tế cho người dân tại các tỉnh miền núi phía bắc. Không chỉ đưa công nghệ cao vào sản xuất, người nông dân đã chủ động đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử nhằm nâng cao giá trị sản phẩm.

 Khu vực trồng rau thủy canh theo công nghệ Israel của nông trường VinEco Tam Đảo. (Ảnh TRẦN AN)

Khu vực trồng rau thủy canh theo công nghệ Israel của nông trường VinEco Tam Đảo. (Ảnh TRẦN AN)

Khi nông dân làm chủ công nghệ

Hợp tác xã (HTX) nông nghiệp Hảo Anh chuyên trồng, chế biến giống gạo Séng Cù là một trong những đơn vị đi đầu trong ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất tại tỉnh Lào Cai. Từ diện tích 20,5ha ban đầu đến nay, HTX đã sở hữu hàng trăm héc-ta với tổng doanh thu đạt hơn 9 tỷ đồng (năm 2024).

Chỉ riêng giống gạo Séng Cù, HTX đã liên kết với 63 hộ nông dân, canh tác 387ha áp dụng khoa học kỹ thuật từ việc chọn, bảo vệ giống đến việc thuê kỹ sư theo dõi, hướng dẫn kỹ thuật làm đất, nước và bón phân đúng định lượng và thời vụ cho nên sản lượng, chất lượng gạo Séng Cù được nâng cao. Đồng thời, HTX đã đầu tư 4,5 tỷ đồng mua máy móc gặt hái, bảo quản và chế biến, đóng gói bao bì sản phẩm.

Giám đốc HTX nông nghiệp Hảo Anh, bà Phạm Thị Hảo cho biết, sau khi xây dựng thành công thương hiệu gạo Séng Cù, HTX luôn duy trì công tác kiểm soát chất lượng sản phẩm, hướng dẫn bà con vùng trồng nguyên liệu áp dụng kỹ thuật sản xuất an toàn, dùng đúng quy trình. Định kỳ lấy mẫu sản phẩm phân tích, bảo đảm đủ điều kiện sử dụng mới đưa sản phẩm ra thị trường.

Lựa chọn phát triển đặc sản địa phương, áp dụng công nghệ cao vào sản xuất cũng là lựa chọn của HTX nông nghiệp hữu cơ Hồng Phát, xã Kim Bình, tỉnh Tuyên Quang.

Theo Giám đốc HTX nông nghiệp hữu cơ Hồng Phát, bà Đặng Thị Sính, nhờ ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất từ 43.000 sản phẩm được bán ra thị trường năm 2021 đến nay đã có hơn 100.000 sản phẩm của HTX được bán ra thị trường. Từ thương hiệu trà túi lọc và các loại nông sản (chuối sấy, ngô sấy, đậu đen sấy), đến nay, nhiều sản phẩm của HTX đã được xuất khẩu sang Thái Lan và Vương quốc Anh.

Để ổn định sản xuất, HTX luôn tìm những hướng sản xuất, kinh doanh hiệu quả, tạo việc làm ổn định cho thành viên và bà con địa phương. Bước đầu đã hình thành liên kết vùng trồng đậu đen xanh lòng với 55 hộ dân tộc H’Mông tại thôn Khuôn Làn, xã Tri Phú với tổng diện tích là 59ha/năm, cho thu nhập bình quân 180 triệu đồng/ha/năm (cao hơn các cây trồng khác từ 10-15 triệu đồng/ha).

Chị Phạm Thị Hồng, xã viên HTX nông nghiệp hữu cơ Hồng Phát chia sẻ, nhờ tham gia liên kết, chủ động áp dụng kỹ thuật sản xuất rải vụ và chọn lọc các loại giống mới phù hợp cho nên thu nhập của mỗi xã viên đạt khoảng 100-150 triệu đồng/năm.

Để sản phẩm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng về chất lượng, mẫu mã sản phẩm, Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc HTX không ngừng nghiên cứu, áp dụng khoa học kỹ thuật, đầu tư máy móc, thiết bị, theo hướng từng bước chuyển từ thủ công sang máy móc điều khiển tự động, giúp người dân yên tâm sản xuất và có thu nhập ổn định.

Tạo bứt phá cho kinh tế nông thôn

Theo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hiện nhiều địa phương trên cả nước đã chủ động đẩy mạnh mô hình HTX ứng dụng công nghệ cao, coi đây là đòn bẩy trong , đặc biệt đối với khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất chính là tiền đề để các HTX tích tụ ruộng đất, tổ chức liên kết, hình thành các khu sản xuất tập trung, cánh đồng mẫu lớn, vùng nguyên liệu lớn, tạo ra sản phẩm theo đúng quy trình chất lượng với khối lượng hàng hóa đủ lớn đáp ứng yêu cầu của thị trường, khắc phục những nhược điểm của mô hình kinh tế hộ nhỏ lẻ, manh mún.

Tuy nhiên, để đạt được thành công lâu dài, các chuyên gia kinh tế cho rằng, các địa phương cần tiếp tục đầu tư vào nghiên cứu, phát triển nông nghiệp công nghệ cao, cải thiện hạ tầng và mở rộng thị trường tiêu thụ. Khi đó, nông nghiệp có thể trở thành nền tảng kinh tế vững chắc cho sự phát triển bền vững của nông thôn Việt Nam.

Sự đồng hành của chính quyền, chung tay của doanh nghiệp đang mở ra những cơ hội mới cho các HTX nông nghiệp trong vai trò .

Theo Giám đốc HTX nông nghiệp Hảo Anh, bà Phạm Thị Hảo: Để sản phẩm của HTX vươn ra thị trường trong nước, quốc tế thì việc ứng dụng công nghệ luôn được ưu tiên trong chiến lược phát triển. Trong đó, đơn vị sử dụng phần mềm quản lý khách hàng, quản lý bán hàng, nhật ký điện tử, hệ thống quản lý sản xuất bằng điện thoại thông minh, hệ thống camera giám sát, tem truy xuất nguồn gốc mã QR gắn với bộ nhận diện nhãn hiệu... Đến nay, HTX đã góp phần giảm nghèo cho 63 hộ gia đình có liên kết sản xuất với đơn vị, đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động tại HTX từ ngày 1/1/2024.

Tiên phong trong ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, tiết giảm nhân lực, chi phí sản xuất, mang lại nguồn lợi kinh tế cao cũng là trái ngọt mà HTX nông nghiệp hữu cơ Hồng Phát, tỉnh Tuyên Quang đang thụ hưởng. Nhờ đi đúng hướng nên đời sống kinh tế của các thành viên, các hộ dân liên kết sản xuất khởi sắc.

Theo Giám đốc HTX nông nghiệp hữu cơ Hồng Phát, Đặng Thị Sính để ổn định kinh tế cho thành viên, HTX chủ trương ứng dụng công nghệ chế biến sâu, tạo thế mạnh riêng cho sản phẩm trên thị trường. Đây cũng sẽ là kế hoạch dài hơi của HTX.

Tìm hướng đi riêng trong phát huy thế mạnh của địa phương thông qua sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật đang là hướng đi mới, hiệu quả được nhiều địa phương trên cả nước thực hiện trong đó có các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đây cũng là lợi thế để giảm khoảng cách chênh lệch về kinh tế giữa các vùng miền, từng bước hoàn thành mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo bền vững và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.

SƠN HÀ

 

Tiên phong làm nông nghiệp hiện đại, HTX tạo sinh kế giúp người dân làm giàu bền vững

Ở phường Đông Triều (Quảng Ninh), nhiều người biết tới HTX dịch vụ nông nghiệp chất lượng cao Hoa Phong, với định hướng hiện đại hóa nông nghiệp và nâng cao giá trị sản phẩm, là một trong những HTX tiên phong triển khai nhiều giải pháp công nghệ hiệu quả với các sản phẩm hành thái lát sấy khô, bột sắn dây tinh khiết, gạo nếp cái hoa vàng,... Không chỉ mang lại giá trị kinh tế cao cho các sản phẩm nông sản, mà còn tạo sinh kế giúp người dân thoát nghèo.

Sau 15 năm kể từ khi thành lập (năm 2010) đến nay, HTX được biết đến là một trong những mô hình tiên phong ứng dụng hiệu quả công nghệ cao trong sản xuất với hệ thống bảo quản sản phẩm xây dựng đồng bộ hiện đại, gồm nhà sơ chế, kho lạnh và xưởng sấy khô để hoàn thiện quy trình khép kín trong sản xuất nông nghiệp.

Chuyện bỏ phố về làng lập nghiệp

Đặc biệt, trong quá trình sản xuất, HTX luôn duy trì và mở rộng liên kết trồng, bao tiêu sản phẩm với nông dân trên địa bàn để trồng các loại rau, củ, nông sản địa phương, thúc đẩy việc hợp tác tiêu thụ sản phẩm. Đến nay, HTX đã cung ứng cho các bếp ăn công nghiệp và bán ra thị trường khoảng 2 tấn rau, củ, quả mỗi ngày; thương hiệu nếp cái hoa vàng Đông Triều cũng được cung cấp đều đặn thị trường trong tỉnh và phục vụ để xuất khẩu.

 Mô hình trồng rau sạch tại HTX Dịch vụ nông nghiệp chất lượng cao Hoa Phong.

Mô hình trồng rau sạch tại HTX Dịch vụ nông nghiệp chất lượng cao Hoa Phong.

Anh Hoàng Đức Mạnh, Phó Giám đốc HTX cho hay, sau khi tốt nghiệp ngành môi trường tại Học viện nông nghiệp Việt Nam, anh đã quyết định “bỏ phố về làng” lập nghiệp.

"Gia đình tôi vốn làm nghề nông nên tôi thấu hiểu sự vất vả của người nông dân. Chính vì lẽ đó, tôi quyết tâm trở về, đồng cam cộng khổ cùng nông dân quê mình, từ đó thay đổi cách sản xuất và giúp họ làm giàu ngay trên quê hương mình, đó là xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp xanh ", Hoàng Đức Mạnh chia sẻ.

Để nâng cao chất lượng sản phẩm, anh Mạnh luôn phải là “mũi tiên phong” tìm hiểu, cập nhật công nghệ mới trong sản xuất và kinh doanh và tập huấn tới người dân là các thành viên của HTX.

Không chỉ trong sản xuất, anh Mạnh cùng ban quản trị HTX còn chủ động tìm hiểu và học hỏi thêm về dây chuyền sấy, nghiên cứu chế biến sản phẩm, qua đó giúp HTX trở thành một trong những đơn vị tiên phong về sản xuất các sản phẩm OCOP của tỉnh. Hiện HTX có rất nhiều sản phẩm nổi tiếng như hành thái lát sấy khô, bột sắn dây tinh khiết, gạo nếp cái hoa vàng…

HTX đã và đang ứng dụng hệ thống trồng dưa giá thể (gieo hạt trong khay ở nhà màng); ứng dụng công nghệ tưới tự động 4.0 có thể kiểm soát và điều khiển qua điện thoại, ghi chép lịch trình tưới tự động; hệ thống máy gieo hạt tự động 6 trong 1 hiện đại công suất 25.000 hạt cây giống/giờ…

Với tư duy khác biệt của vị “thuyền phó” Hoàng Đức Mạnh, HTX Hoa Phong ngày càng phát triển. Nhờ sản xuất quy mô lớn, giàu khoa học kỹ thuật, chất lượng sản phẩm vượt trội, các loại nông sản của HTX liên tục chinh phục các thị trường trong nước và xuất khẩu.

Tạo thương hiệu để phát triển bền vững

Được biết, từ đầu năm 2025 đến nay, HTX Dịch vụ nông nghiệp chất lượng cao Hoa Phong đã đưa vào hoạt động Cửa hàng nông sản sạch và thực phẩm tiêu dùng để giới thiệu, tiêu thụ gần 300 loại mặt hàng nông sản sạch, đạt tiêu chuẩn OCOP, trong đó có hơn 60% sản phẩm là thương hiệu OCOP của Quảng Ninh. Đây là mô hình mới, được HTX thực hiện, nhằm góp phần tăng cường kết nối cung - cầu, tạo thành chuỗi giá trị tiêu thụ sản phẩm cho nông dân Quảng Ninh. Đồng thời, giúp người tiêu dùng dễ dàng tiếp cận, tiêu thụ những nông sản, thực phẩm sạch, an toàn, chất lượng tốt, rõ nguồn gốc xuất xứ.

 Hoành Đức Mạnh là đồng sáng lập HTX Hoa Phong kết nối nông dân sản xuất xanh.

Hoành Đức Mạnh là đồng sáng lập HTX Hoa Phong kết nối nông dân sản xuất xanh.

Không dừng lại ở đó, để mở rộng thị trường tiêu thụ cho sản phẩm của HTX, anh Mạnh đã đẩy mạnh các hoạt động liên kết với các đối tác nước ngoài để xuất khẩu. Đồng thời anh cũng liên hệ tìm các nhà máy, cơ sở chế biến, qua đó gia tăng giá trị cho các sản phẩm nông nghiệp làm ra.

Đặc biệt, anh Mạnh đã triển khai dự án "Tăng thu nhập cho các tiểu nông có sử dụng dịch vụ của HTX nông nghiệp và giảm tỷ lệ hao hụt trong phân phối nông sản thông qua chuỗi cung ứng lạnh" trên địa bàn thị xã Đông Triều. Bước đầu dự án đã góp phần liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản cho nông dân, phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn.

“Hiện nay, chúng tôi đang duy trì liên kết sản xuất nông nghiệp với người dân trên diện tích khoảng 40ha. Cùng với đó, duy trì và bán nhiều sản phẩm hàng hóa uy tín, có chất lượng chủ yếu mang thương hiệu Quảng Ninh. Tôi nhận thấy, việc tăng cường liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đã giúp tăng quy mô sản xuất hàng hóa, thuận lợi để áp dụng các quy trình sản xuất phù hợp, hiện đại, nhằm đưa ra được thị trường những sản phẩm chất lượng, an toàn và nâng cao năng lực quản lý, điều hành, tránh tình trạng “được mùa, mất giá” – anh Mạnh chia sẻ.

Cũng theo vị Phó giám đốc trẻ, thời gian tới, HTX sẽ tiếp tục đẩy mạnh liên kết sản xuất với người dân để thúc đẩy chuỗi giá trị sản xuất. Đồng thời, nghiên cứu, tìm hiểu thị trường và đẩy mạnh hoạt động trưng bày, giới thiệu, liên kết tiêu thụ các sản phẩm đặc trưng của Quảng Ninh tại cửa hàng.

Không chỉ tạo ra nguồn nông sản sạch và chất lượng, HTX đã tạo công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động địa phương, nhất là những phụ nữ ngoài độ tuổi lao động, hộ nghèo.

Bà Lê Thị Tập (Phường Đông Triều) cho biết: “Gia đình tôi tham gia vào HTX đến nay đã hơn chục năm, góp vào gần 5 sào đất. Bản thân tôi hiện cũng đang làm trong HTX và có nguồn thu nhập ổn định mỗi tháng để chăm lo cho gia đình”.

HTX là thành phần kinh tế quan trọng của địa phương

HTX dịch vụ nông nghiệp chất lượng cao Hoa Phong chỉ là một trong số hàng trăm HTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đang tiên phong trong ứng dụng công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Thực tế, với sự hỗ trợ của Liên minh HTX Việt Nam, trực tiếp là Liên minh HTX tỉnh Quảng Ninh, trong thời gian qua khu vực KTTT, HTX ở Quảng Ninh đã phát triển mạnh mẽ, giúp đời sống của các thành viên ngày một phát triển.

Đến nay, toàn tỉnh Quảng Ninh có 3 Liên hiệp HTX và 1.087 HTX, trong đó có 710 HTX đang hoạt động, có kê khai thuế, nằm trong tốp các địa phương có số HTX tăng nhanh nhất cả nước. Các HTX trên địa bàn tỉnh phát triển theo chiều sâu, năng động, chất lượng, hiệu quả, bền vững với nhiều mô hình hợp tác, liên kết.

Các HTX đang huy động trên 3.500 tỷ đồng vào sản xuất kinh doanh, đóng góp vào nền kinh tế tỉnh 1,2% GRDP; tạo việc làm cho gần 75.000 lao động, chiếm 10,9% lực lượng lao động toàn tỉnh, là một nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế.

Phát biểu tại buổi làm việc cùng Liên minh HTX tỉnh Quảng Ninh mới đây, ông Phạm Đức Ấn - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh nhấn mạnh, HTX đã trở thành một kênh huy động nguồn lực trong dân, thành phần kinh tế quan trọng để phát triển, sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, tăng thu nhập, thúc đẩy phát triển KT-XH. Vì thế, việc phát triển kinh tế hợp tác là nhiệm vụ trọng tâm, cần đổi mới, thúc đẩy để phát triển.

Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh đề nghị các đơn vị liên quan cần đẩy mạnh phối hợp, đồng hành, hỗ trợ các HTX tháo gỡ khó khăn, ứng dụng công nghệ... để nâng cao năng lực, chất lượng sản xuất. Trong quá trình thực hiện, cần quan tâm đẩy mạnh tổ chức sản xuất và mô hình quản lý sản xuất tập trung, tham gia liên kết sản xuất vào HTX, thúc đẩy sáp nhập HTX nhằm tạo ra xu hướng liên kết, hợp nhất, sáp nhập để là động lực cho các HTX phát triển.

Có thể thấy những chuyển đổi về tư duy, hành động của từng thành viên, HTX và các tổ hợp tác, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi từ sản xuất truyền thống sang sản xuất công nghệ cao đã từng bước mang lại kết quả tích cực. Đây là cơ sở để Quảng Ninh xây dựng một nền nông nghiệp xanh, hiện đại, có giá trị, có sức cạnh tranh cao, tạo sinh kế cho người dân và góp phần giảm nghèo bền vững.

Hồng Hương

 

Cần nâng cao năng lực chế biến sâu và bảo quản nông sản sau thu hoạch

Thứ trưởng Trần Thanh Nam đề nghị lãnh đạo các tỉnh Tây Bắc phải đặc biệt quan tâm đến công tác quy hoạch sau sáp nhập đơn vị hành chính. Cần rà soát, quy hoạch lại từng xã để xác định các vùng trồng chủ lực, quy mô sản xuất phù hợp, từ đó định hướng lại và tích hợp vào quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp địa phương...

Sáng 2/7, tiếp nối diễn đàn Diễn đàn "Kết nối sản xuất và thương mại nông lâm sản các tỉnh Tây Bắc" diễn ra tại tỉnh Sơn La, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam đã đến dự lễ khánh thành dây chuyền đồ hộp giấy dành cho rau quả với công nghệ Thụy Điển đầu tiên trị giá 4 triệu USD tại Việt Nam. Hôm nay lô hàng ngô ngọt đóng gói trong bao bì giấy đầu tiên tại Việt Nam được xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, mở ra hướng đi mới cho ngành rau quả Việt Nam.

Hiện nay, Sơn La là một trong những vùng nông sản lớn nhất cả nước. Những năm qua, tỉnh chú trọng ngành công nghiệp chế biến sâu, hướng tới xây dựng Sơn La trở thành trung tâm chế biến nông sản vùng Tây Bắc.

Đến năm 2025 toàn tỉnh có 560 nhà máy, cơ sở chế biến nông sản (trong đó có 17 nhà máy, 543 cơ sở); có trên 40 kho lạnh, góp phần kéo dài thời gian bảo quản, giảm thất thoát sau thu hoạch giảm áp lực tiêu thụ sản phẩm quả tươi.

 Chế biến sâu giúp nâng cao giá trị sản phẩm cho bà con nông dân.

Chế biến sâu giúp nâng cao giá trị sản phẩm cho bà con nông dân.

Nhờ tăng cường chế biến sâu, giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam liên tục tăng trưởng, góp phần quan trọng trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, hoạt động chế biến nông sản ở địa phương vẫn gặp nhiều hạn chế khiến tình trạng nông sản được mùa, mất giá vẫn diễn ra.

Phát biểu tại buổi lễ, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam cho rằng, cần nâng cao năng lực chế biến sâu và bảo quản sau thu hoạch, trong đó, các cơ quan quản lý và hợp tác xã cần tiếp tục phối hợp với các doanh nghiệp lớn để xây dựng hệ thống sơ chế, đóng gói, kho lạnh tại các hợp tác xã, tổ hợp tác và đại lý thu gom, bảo đảm chất lượng nông sản theo yêu cầu thị trường.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La Nguyễn Thành Công khẳng định, tỉnh cam kết đồng hành với doanh nghiệp (Nhà máy chế biến nông sản Doveco ở tỉnh Sơn La, Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Thực phẩm Đồng Giao), phát triển Sơn La, nông nghiệp Sơn La theo hướng nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ và hướng tới kinh tế tuần hoàn.

Thứ trưởng Trần Thanh Nam cho biết, đây là dây chuyền mới đảm bảo an toàn thực phẩm, với công suất 52 ngàn tấn/năm. Theo ông Nam, trước đây, Bộ NN&PTNT (cũ) đã có đề án phát triển cây ăn quả đến năm 2030, trong đó riêng Sơn La xây dựng đề án phát triển trên 80 ngàn ha cây ăn quả, sản lượng hàng năm trên 500 ngàn tấn.

Thứ trưởng Nam nhấn mạnh, sự kiện hôm nay tiếp tục khẳng định sự chỉ đạo, kêu gọi của tỉnh Sơn La về phát triển vùng nguyên liệu và xây dựng nhà máy chế biến sâu, nâng cao giá trị sản phẩm cho bà con nông dân. Theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam, đối với các tỉnh trung du miền núi phía Bắc có diện tích cây ăn quả trên 275 ngàn ha, đứng thứ hai cả nước, sau đồng bằng sông Cửu Long, nên có lợi thế rất lớn để các tỉnh phát triển vùng nguyên liệu gắn với chế biến sâu, nâng cao giá trị sản phẩm.

Không riêng gì Doveco mà rất nhiều doanh nghiệp hàng đầu khác của Việt Nam đã lên Sơn La. Đây là minh chứng khẳng định với chủ trương cởi mở của Sơn La đã thu hút nhiều doanh nghiệp vào đầu tư phát triển vùng nguyên liệu và nhà máy chế biến ở Sơn La.

Ông Nam cũng đề nghị lãnh đạo các tỉnh Tây Bắc phải đặc biệt quan tâm đến công tác quy hoạch sau sáp nhập đơn vị hành chính. Cần rà soát, quy hoạch lại từng xã để xác định các vùng trồng chủ lực, quy mô sản xuất phù hợp, từ đó định hướng lại và tích hợp vào quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp địa phương...

TL

 

Chính quyền hai cấp đã hoạt động, nông nghiệp không thể chậm chân

Chính quyền địa phương hai cấp đi vào hoạt động đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tái quy hoạch sản xuất nông nghiệp từ xác định lại cây trồng, vật nuôi chủ lực đến tổ chức vùng sản xuất phù hợp với thực tiễn mới.

Địa bàn quản lý thay đổi, quy hoạch nông nghiệp cũng cần điều chỉnh

Từ ngày 1/7, mô hình chính quyền địa phương hai cấp chính thức được triển khai trên phạm vi toàn quốc. Theo chỉ đạo của Trung ương, các tỉnh, thành phố đã hoàn tất việc sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp xã nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở. Việc sáp nhập, điều chỉnh địa giới hành chính đã làm thay đổi toàn diện hệ thống quản lý ở cơ sở, với hàng chục xã và hàng trăm thôn, bản được tổ chức lại.

Sự thay đổi không chỉ dừng ở bản đồ hành chính mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến cấu trúc sản xuất nông nghiệp. Nhiều địa phương vốn sản xuất manh mún, phân tán nay đứng trước cơ hội quy hoạch lại vùng sản xuất một cách bài bản và hiệu quả hơn. Đây chính là lý do tại sao các chuyên gia gọi thời điểm này là “cơ hội vàng” để tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp.

 Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam đề nghị các địa phương xác định cây, con chủ lực và tích hợp đồng bộ vào quy hoạch tổng thể

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam đề nghị các địa phương xác định cây, con chủ lực và tích hợp đồng bộ vào quy hoạch tổng thể

Phát biểu tại Diễn đàn “Kết nối sản xuất và thương mại nông lâm sản các tỉnh Tây Bắc” tổ chức tại Sơn La, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam đặc biệt nhấn mạnh vai trò của quy hoạch trong giai đoạn sau sáp nhập: “Lãnh đạo các tỉnh Tây Bắc cần đặc biệt quan tâm đến công tác quy hoạch nông nghiệp sau sáp nhập đơn vị hành chính. Cần rà soát, quy hoạch lại từng xã để xác định các vùng trồng chủ lực, quy mô sản xuất phù hợp, từ đó định hướng lại và tích hợp vào quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp địa phương”.

Không chỉ là yêu cầu về tổ chức sản xuất, việc tái quy hoạch vùng nguyên liệu cũng nhằm chuẩn hóa điều kiện sản xuất, phục vụ cho truy xuất nguồn gốc, tiêu chuẩn hóa sản phẩm để tham gia các chuỗi cung ứng trong nước và quốc tế cũng là điều kiện bắt buộc trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng hiện nay.

Ông Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng Thông báo và điểm hỏi đáp Quốc gia về vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động, thực vật Việt Nam (Văn phòng SPS Việt Nam) cho biết: “Các quy định 248 và 249 của Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) yêu cầu cập nhật chính xác thông tin vùng trồng và cơ sở chế biến. Nếu doanh nghiệp thay đổi địa chỉ hoặc người đại diện pháp luật mà không cập nhật lên hệ thống CIFER, hàng hóa có thể bị từ chối thông quan”.

Thực tế, đã có trường hợp doanh nghiệp nông sản Việt bị ách tắc tại cửa khẩu vì thông tin trên hệ thống không trùng khớp với thực tế sau khi địa bàn hành chính thay đổi.

Trước tình trạng đó, tại kỳ họp thứ 92 của Ủy ban SPS thuộc WTO diễn ra tháng 6/2025, phía Việt Nam đã chính thức làm việc với GACC để đề nghị tạo sự liên thông và linh hoạt trong cập nhật thông tin địa danh vùng trồng. Phía Trung Quốc đã cơ bản đồng thuận và cam kết thông báo đến các cơ quan chức năng liên quan nhằm đảm bảo duy trì chuỗi cung ứng nông sản song phương không bị gián đoạn.

Xác định cây, con chủ lực và tích hợp đồng bộ vào quy hoạch tổng thể

Thực tế, sau khi mô hình chính quyền hai cấp chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/7, các tỉnh Tây Bắc đã và đang chủ động triển khai rà soát lại vùng sản xuất. Tại Sơn La – một trong những địa phương đi đầu trong công tác quy hoạch lại vùng sản xuất – việc xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Tỉnh hiện có hơn 50.000 ha vùng nguyên liệu dứa và chanh leo đạt chuẩn, được đầu tư đồng bộ về giống, hạ tầng kỹ thuật và quy trình canh tác. Đây là kết quả của quá trình quy hoạch có tầm nhìn, xuất phát từ thực tiễn địa bàn sau sáp nhập và nhu cầu xây dựng chuỗi giá trị nông sản theo chuẩn xuất khẩu.

Tỉnh Hòa Bình đã quy hoạch vùng trồng nhãn chín muộn và bưởi đỏ Tân Lạc theo hướng hữu cơ. Tại Điện Biên và Lai Châu, những loại cây công nghiệp có giá trị như mắc ca, chè, cao su đang được định hướng trở thành cây trồng chủ lực phù hợp với điều kiện đất đai và khí hậu sau sắp xếp địa giới.

Tuy nhiên, đi kèm với cơ hội là không ít thách thức. Một trong những vấn đề nổi bật hiện nay là sự thay đổi mã địa lý và địa giới hành chính sau sáp nhập, gây khó khăn trong việc quản lý mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói nhất là với các sản phẩm nông sản xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, nơi yêu cầu rất khắt khe về thông tin trên hệ thống CIFER.

Trước thực tế này, Thứ trưởng Trần Thanh Nam đề nghị các địa phương cần tiếp tục tập trung quy hoạch lại từ cấp xã, làm rõ quy mô sản xuất, xác định cây, con chủ lực và tích hợp đồng bộ vào quy hoạch tổng thể nông nghiệp: “Các địa phương cần khuyến khích doanh nghiệp và nông dân hợp tác theo chuỗi sản xuất khép kín, đảm bảo tiêu chuẩn từ đầu vào đến đầu ra, thay vì chỉ ký hợp đồng mua bán đơn thuần”.

Bên cạnh việc tổ chức lại sản xuất, theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam, xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn là bước đi cốt lõi nếu muốn tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, bởi ai làm chủ được vùng nguyên liệu sẽ làm chủ được chuỗi giá trị nông sản.

Không chỉ giúp tăng sản lượng và chất lượng nông sản, vùng nguyên liệu tập trung còn là giải pháp căn cơ để các địa phương kiểm soát đầu vào, đầu ra, giảm phụ thuộc vào thương lái và hình thành các hợp đồng xuất khẩu ổn định, dài hạn. Từ góc độ thị trường, đây chính là cơ sở để đặc sản vùng cao tiếp cận hệ thống siêu thị, sàn thương mại điện tử và thị trường quốc tế một cách bền vững. Đồng thời, cần phát triển hệ thống sơ chế, đóng gói, kho lạnh ngay tại các hợp tác xã, tổ hợp tác và điểm thu gom, để rút ngắn thời gian lưu thông nông sản, hạn chế hao hụt và giữ chất lượng sau thu hoạch.

 Người dân Lai Châu làm giàu nhờ trồng dược liệu dưới tán rừng.

Người dân Lai Châu làm giàu nhờ trồng dược liệu dưới tán rừng.

Song song đó, các chuyên gia cũng cảnh báo không nên bỏ qua tiềm năng dược liệu tại Tây Bắc bởi đây là “kho báu” tự nhiên chưa được quy hoạch và khai thác xứng tầm. GS. Nguyễn Lân Hùng, Tổng Thư ký Hội Các ngành sinh học Việt Nam cho biết: “Tây Bắc có nguồn tài nguyên dược liệu phong phú nhưng chưa được tổ chức sản xuất chuyên nghiệp. Trong khi đó, nhiều nước như Singapore không có vùng trồng, nhưng lại đứng đầu thế giới về xuất khẩu dược phẩm. Vì thế, cần đặt mục tiêu mỗi héc-ta đất miền núi đạt thu nhập tối thiểu 100 triệu đồng/năm. Đây là tư duy sản xuất mới, phù hợp với thời kỳ hiện đại hóa nông nghiệp”.

Thực tế cho thấy, sáp nhập hành chính là bước đầu trong cải cách bộ máy, nhưng nếu không đi kèm với tái thiết sản xuất nông nghiệp, thì hiệu quả sẽ khó bền vững. Ngược lại, nếu tận dụng đúng thời điểm để quy hoạch lại vùng nguyên liệu, xác định đúng cây, con chủ lực và kết nối chặt chẽ với thị trường, thì đây chính là cơ hội có một không hai để nâng tầm nông nghiệp vùng cao Tây Bắc.

Từ cơ sở chính sách, điều quan trọng lúc này là sự vào cuộc đồng bộ: chính quyền các cấp, doanh nghiệp, hợp tác xã và cả người dân. Chỉ khi dữ liệu vùng trồng được minh bạch, thương hiệu OCOP được củng cố, công nghệ và thương mại điện tử được ứng dụng rộng rãi, thì đặc sản vùng cao mới có thể mở rộng kênh tiêu thụ, gia tăng giá trị và từng bước chiếm lĩnh thị trường trong nước lẫn quốc tế.

Vân Hồng/VOV.VN

 

Ngành nông nghiệp quyết tâm chinh phục mục tiêu xuất khẩu 65 tỷ USD

Sáu tháng đầu năm 2025, ngành nông nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu 33,5 tỷ USD, tăng 14,3% so với cùng kỳ. Để đạt mục tiêu 65 tỷ USD cả năm, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang chỉ đạo toàn ngành tăng tốc, triển khai quyết liệt các giải pháp theo từng nhóm hàng, tận dụng cơ hội thị trường và thúc đẩy tiêu thụ vào dịp cuối năm.

 Chế biến thủy sản xuất khẩu tại Công ty cổ phần Thủy sản Cafatex (Hậu Giang). (Ảnh: nhandan.vn)

Chế biến thủy sản xuất khẩu tại Công ty cổ phần Thủy sản Cafatex (Hậu Giang). (Ảnh: nhandan.vn)

Tăng tốc xuất khẩu nông, lâm, thủy sản, quyết tâm cán đích 65 tỷ USD

Trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục biến động phức tạp, ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn ghi nhận bước tăng trưởng tích cực trong Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, 6 tháng đầu năm 2025, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản ước đạt 33,5 tỷ USD, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, nông sản đạt 18,3 tỷ USD (tăng 16,8%), thủy sản đạt 5 tỷ USD (tăng 14,5%), lâm sản đạt 8,7 tỷ USD (tăng 8,8%), sản phẩm chăn nuôi đạt 264 triệu USD (tăng 10,1%).

Tăng trưởng khả quan đến từ nhiều mặt hàng chủ lực như cà-phê, cao su, hồ tiêu, hạt điều, gỗ và sản phẩm gỗ. Dù vậy, vẫn còn hai nhóm hàng ghi nhận sụt giảm kim ngạch là gạo (2,6 tỷ USD, giảm 9,8%) và rau quả (2,7 tỷ USD, giảm 17,1%).

Những kết quả trên có được nhờ việc ngành nông nghiệp tập trung duy trì sản xuất, củng cố chuỗi cung ứng, đa dạng hóa đầu vào, kiểm soát chất lượng sản phẩm, chuẩn hóa quy trình theo tiêu chuẩn quốc tế, bảo đảm minh bạch và truy xuất nguồn gốc. Đồng thời, các hoạt động xúc tiến thương mại được đẩy mạnh, tận dụng hiệu quả 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết, góp phần mở rộng thị trường và hỗ trợ doanh nghiệp gia tăng xuất khẩu.

  Sơ chế sản phẩm cà rốt tại Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Đức Chính, huyện Cẩm Giàng (Hải Dương). (Ảnh: Nhandan.vn)

Sơ chế sản phẩm cà rốt tại Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Đức Chính, huyện Cẩm Giàng (Hải Dương). (Ảnh: Nhandan.vn)

Để hoàn thành mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt 65 tỷ USD trong năm 2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường giao chỉ tiêu cụ thể đến từng mặt hàng. Dự kiến quý III toàn ngành cần đạt 14 đến 15 tỷ USD và quý IV tăng tốc đạt tối thiểu 16 tỷ USD.

Một số chỉ tiêu xuất khẩu trong 6 tháng cuối năm được giao như sau: gỗ và sản phẩm gỗ đạt 10,1 tỷ USD; thủy sản đạt 5,4 tỷ USD; gạo đạt 3,1 tỷ USD; rau quả đạt 4,9 tỷ USD; hồ tiêu đạt 0,53 tỷ USD; hạt điều đạt 2,3 tỷ USD. Đáng chú ý, mặt hàng cà-phê đã đạt 5,5 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm, vượt kế hoạch cả năm (5,5 tỷ USD) và dự kiến sẽ chạm mốc 7,5 tỷ USD trong năm 2025, tăng 36,9% so với năm 2024.

Theo Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy, bên cạnh kết quả đạt được, ngành vẫn phải đối mặt với những rủi ro từ biến động chính sách thuế quan, xu hướng bảo hộ, các biện pháp phòng vệ thương mại và sự siết chặt tiêu chuẩn kỹ thuật từ nhiều quốc gia. Vì vậy, trong 6 tháng cuối năm, toàn ngành phải có hành động quyết liệt hơn để duy trì thị phần tại các thị trường truyền thống và mở rộng xuất khẩu tại các thị trường tiềm năng như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN, Liên minh châu Âu (EU)...

Xây nền tảng cho xuất khẩu bền vững

Theo Kế hoạch của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong giai đoạn còn lại của năm 2025 và những năm tiếp theo, ngành tiếp tục bám sát định hướng phát triển theo chuỗi giá trị kinh tế nông nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm, mở rộng thị trường, đồng thời đẩy mạnh chuyển đổi số, nâng cao chất lượng thống kê, dự báo thị trường.

Bên cạnh đó, ngành cũng sẽ hoàn thiện thể chế, chính sách về phát triển thị trường nông sản, triển khai đồng bộ các chiến lược phát triển ngành hàng, kiểm soát chặt chất lượng, truy xuất nguồn gốc và đẩy mạnh xúc tiến thương mại nội địa và quốc tế.

 Công nhân đang đóng bưởi vào túi lưới để chuẩn bị xuất khẩu.  

Công nhân đang đóng bưởi vào túi lưới để chuẩn bị xuất khẩu.

Với nhóm trái cây tươi, đại diện Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật nhấn mạnh yêu cầu hàng đầu là bảo đảm chất lượng và an toàn thực phẩm, đặc biệt tại các thị trường khắt khe như EU, Nhật Bản, Trung Quốc. Các địa phương, doanh nghiệp cần tuân thủ nghiêm ngặt quy định về mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói, quy trình kiểm dịch thực vật và quy định về bảo vệ rừng.

Riêng thị trường Trung Quốc, Văn phòng SPS Việt Nam đã phối hợp Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) để tạo thuận lợi trong cập nhật thông tin địa danh, hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết các vướng mắc khi có thay đổi địa chỉ vùng trồng hay cơ sở đóng gói.

Đối với mặt hàng gỗ, cà-phê và thủy sản, các nhóm hàng đang chịu áp lực từ thị trường Hoa Kỳ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường yêu cầu các doanh nghiệp tăng cường năng lực quản trị rủi ro, tuân thủ các quy định về xuất xứ, môi trường và tiêu chuẩn kỹ thuật. Đồng thời, cần nghiên cứu chuyển hướng thị trường, tập trung vào các phân khúc có giá trị gia tăng cao như sản phẩm chế biến sâu, hữu cơ, thân thiện môi trường.

Với quyết tâm cao và hành động đồng bộ, ngành nông nghiệp đặt mục tiêu không chỉ cán đích 65 tỷ USD trong năm 2025 mà còn tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn phát triển bền vững tiếp theo.

THANH TRÀ

 

TPHCM: Giá thóc thu thuế sử dụng đất nông nghiệp là 8.200 đồng/kg

UBND TPHCM vừa ban hành Quyết định về giá thóc thu thuế sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố. Quyết định này quy định chi tiết Điều 17 Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993. Đối tượng áp dụng là các tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp theo quy định hiện hành. Giá thóc thu thuế sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn TPHCM là 8.200 đồng/kg.

UBND TPHCM yêu cầu Chi cục Thuế Khu vực II có trách nhiệm hướng dẫn triển khai thực hiện quyết định này; căn cứ tình hình thực tế và tham khảo giá thóc thu thuế sử dụng đất nông nghiệp tại các tỉnh, thành lân cận, có ý kiến cụ thể về giá thóc thu thuế hàng năm, gửi Sở Tài chính tổng hợp, tham mưu UBND TPHCM ban hành Quyết định về giá thóc thu thuế sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố.

Sở Tài chính có trách nhiệm chủ trì, phối hợp Chi cục Thuế Khu vực II và các cơ quan có liên quan tham mưu UBND khi giá thóc trên thị trường thay đổi, làm cho giá thóc thu thuế sử dụng đất nông nghiệp không phù hợp với quy định tại Điều 17 Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993.Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10-7-2025 và thay thế Quyết định số 14/2024/QĐ-UBND.

ĐỨC MINH

 

Khẳng định vai trò là ngành 'nền tảng của nền kinh tế'

Trong bối cảnh tỉnh An Giang mở rộng, sau khi hợp nhất sẽ mở ra giai đoạn phát triển mới, với nhiều cơ hội, nhưng cũng không ít thách thức. Ngành Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) tập trung giải pháp để tiếp tục là trụ cột trong phát triển bền vững.

 Khai thác thế mạnh nuôi, chế biến, thủy sản xuất khẩu An Giang

Khai thác thế mạnh nuôi, chế biến, thủy sản xuất khẩu An Giang

Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Ngô Công Thức khẳng định: “Việc hợp nhất tỉnh và Sở NN&MT, công việc của đơn vị trong thời gian tới được giao rất nặng nề. Ngành NN&MT phải đóng vai trò tiên phong trong tái cơ cấu không gian phát triển nông nghiệp, khai thác hiệu quả thế mạnh mới của tỉnh sau sáp nhập. Phải phát huy lợi thế vùng ngọt - lợ, vùng nuôi biển - rừng ngập mặn của khu vực Hà Tiên - Kiên Lương - U Minh Thượng, kết hợp chặt chẽ với vùng lúa - cá, nếp - cây ăn trái, rau màu công nghệ cao của vùng Châu Phú, Tri Tôn, Tịnh Biên, Chợ Mới. Chủ động đề xuất quy hoạch vùng nông nghiệp chuyên biệt, sản phẩm chủ lực theo địa bàn cũ - mới”.

Ông Ngô Công Thức đề nghị: “Cần phát triển nông nghiệp xanh - tuần hoàn - hữu cơ gắn với bảo vệ môi trường là yêu cầu chiến lược. Để làm được điều này, cần tăng cường phối hợp các cấp, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để phát triển nông nghiệp xanh, tuần hoàn. Sở cần tập trung đề xuất các mô hình kinh tế nông nghiệp tuần hoàn, phát triển sinh kế bền vững cho nông hộ, giảm phụ thuộc vào hóa chất, phân bón vô cơ. Đồng thời, xử lý triệt để các vấn đề môi trường tồn đọng, chú trọng hoàn thiện hệ thống thu gom, xử lý chất thải nông thôn, bao bì thuốc bảo vệ thực vật; tăng cường kiểm soát ô nhiễm từ nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi tập trung, các cụm công nghiệp”.

Cùng với đó, ngành NN&MT phải đi đầu trong việc ứng dụng chuyển đổi số, khoa học - công nghệ, công nghệ sinh học trong sản xuất và quản lý. Đặc biệt là hệ thống mã số vùng trồng, vùng nuôi, nhật ký điện tử, truy xuất nguồn gốc, bản đồ số hóa tài nguyên đất - nước - môi trường phục vụ quản lý thông minh và thích ứng biến đổi khí hậu. Công tác quản lý tài nguyên - bảo vệ môi trường phải được nâng tầm chiến lược cấp tỉnh.

Cần sớm hoàn thiện cơ sở dữ liệu môi trường liên tỉnh; thống nhất đầu mối quản lý, thanh kiểm tra môi trường từ cấp tỉnh đến cơ sở. Đặc biệt, quan tâm phát triển mô hình xã/phường “xanh - sạch - an toàn môi trường”, gắn với xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu. Phải tổ chức thực hiện tốt việc quản lý đất đai hiệu quả. Trong vấn đề về khai thác khoáng sản, tham mưu UBND tỉnh thực hiện theo đúng quy hoạch, bảo đảm cung cấp nguyên liệu cho phát triển kinh tế, quản lý đất đai hiệu quả.

Vấn đề then chốt là kiện toàn đội ngũ cán bộ, tăng cường vai trò hạt nhân lãnh đạo của các tổ chức Đảng trong toàn ngành. 5 năm qua, các nhiệm vụ chuyên môn được Sở NN&MT quan tâm chỉ đạo thực hiện hiệu quả. Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, tổng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản giai đoạn 2020 - 2025 đạt 131.603 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân 3,35%/năm (vượt so với nghị quyết đề ra là 2,8%/năm).

Công tác chỉ đạo thực hiện các quy hoạch, các chương trình để phát triển nông nghiệp, nông thôn như: “Đề án Cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030 tỉnh An Giang” được quan tâm thực hiện. Về công tác giảm nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giai đoạn 2021 - 2025 của tỉnh bình quân 0,77%/năm, đạt kế hoạch đề ra (mục tiêu từ 0,5% - 1,2%/năm). Đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu ở nông thôn; triển khai có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn nông thôn. Lĩnh vực tài nguyên và môi trường thực hiện tốt các nhiệm vụ về quản lý đất đai, khoáng sản, môi trường, quan trắc tài nguyên và môi trường, quản lý tài nguyên nước và khí tượng thủy văn…

Ngành đặt mục tiêu từ nay đến năm 2030, triển khai quyết liệt “bộ tứ trụ cột” đột phá: Phát triển ngành NN&MT hiện đại, bền vững, có sức cạnh tranh cao, phát huy tối đa lợi thế kết hợp “núi - đồng bằng - biên giới - biển đảo”, tích hợp kinh tế biên giới và kinh tế biển. Chuyển mạnh sang mô hình phát triển dựa trên tri thức, công nghệ cao và kinh tế tư nhân làm động lực chiến lược... góp phần quan trọng đưa tỉnh An Giang mới trở thành trung tâm phát triển năng động, toàn diện và bền vững của vùng ĐBSCL; hướng tới mục tiêu trở thành trung tâm kinh tế biển quốc gia, tạo nên một cực tăng trưởng quan trọng và một hình mẫu về cải cách tổ chức và phát triển bền vững. Tập trung giải pháp tăng giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản bình quân 4%, sản lượng lúa bình quân đạt trên 8 triệu tấn/năm, xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, bền vững.

HẠNH CHÂU

 

Thực hiện '4 đẩy mạnh', '3 tiên phong' để đạt mục tiêu nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại

Ngày 1/7, Văn phòng Chính phủ đã ban hành Thông báo số 339/TB-VPCP kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và phong trào 'Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới', phong trào 'Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau' giai đoạn 2021-2025.

 Diện mạo nông thôn Tây Ninh ngày càng khởi sắc, từng bước thay da đổi thịt nhờ Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Ảnh: Giang Phương/TTXVN

Diện mạo nông thôn Tây Ninh ngày càng khởi sắc, từng bước thay da đổi thịt nhờ Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Ảnh: Giang Phương/TTXVN

Chương trình xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững đã góp phần cơ cấu lại, phát triển kinh tế đất nước theo hướng nhanh, bền vững

Thông báo nêu hai Chương trình (Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững) đã cơ bản đạt và vượt các mục tiêu được giao thực hiện trong giai đoạn 2021-2025. Đến thời điểm hiện tại, cả nước có 6.084/7.669 xã (79,3%) đã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới (tăng 10,6% so với cuối năm 2021 và cơ bản hoàn thành mục tiêu cả giai đoạn 2021-2025 được giao); có 2.567 xã (42,4%) đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao (tăng 2.064 xã so với cuối năm 2021, vượt mục tiêu cả giai đoạn 2021-2025 được giao) và 743 xã (12,3%) đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu (tăng 700 xã so với cuối năm 2021, vượt mục tiêu cả giai đoạn 2021-2025 được giao); bình quân cả nước đạt 17,5 tiêu chí/xã (tăng 0,5 tiêu chí so với cuối năm 2021)…

Thực tế cho thấy, những kết quả đạt được đã minh chứng rõ nét về định hướng, giải pháp thực hiện giảm nghèo nhanh, bền vững tại các Nghị quyết Đại hội X, XI, XII, XIII của Đảng, tính đúng đắn của chủ trương xây dựng và triển khai Nghị quyết số 26-NQ/TW và Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, hiệu quả mang lại rất tích cực: Góp phần cơ cấu lại, phát triển kinh tế đất nước theo hướng nhanh, bền vững; cơ sở hạ tầng, diện mạo nông thôn, đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn được nâng lên toàn diện; Việt Nam trở thành hình mẫu thế giới về thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, trong đó có giảm nghèo, phát triển nông thôn…

Nhưng trong thực tiễn triển khai thực hiện 2 Chương trình vẫn còn một số hạn chế, vướng mắc và thách thức như: Tỷ lệ giải ngân vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, giải ngân vốn sự nghiệp còn thấp; một số nơi còn rủi ro tái nghèo. Với 2 phong trào thi đua, mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, vẫn còn những điểm nghẽn cần được giải quyết một cách căn cơ để đảm bảo sự phát triển bền vững và bao trùm cho khu vực nông thôn trong giai đoạn tiếp theo. Nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của một số cấp ủy đảng, chính quyền có nơi có lúc chưa đầy đủ; công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai phong trào thi đua của một số cấp ủy, chính quyền chưa thật sự sâu sát và đi vào thực chất, thiếu sự phân công theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thường xuyên.

Đẩy mạnh phát triển hạ tầng chiến lược cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn

Thủ tướng khẳng định đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc; cần tiếp tục thực hiện các chương trình, phong trào thi đua, kiên trì, kiên định để thực hiện bằng được mục tiêu xây dựng "nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh" và "giảm nghèo toàn diện, bao trùm và bền vững".

Để đạt mục tiêu đề ra, cả hệ thống chính trị cần tập trung thực hiện "4 đẩy mạnh": Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế để nông dân là trung tâm, là chủ thể, nông nghiệp là động lực, nông thôn là nền tảng của sự phát triển; thực hiện giảm nghèo cả khu vực nông thôn và thành thị, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; Đẩy mạnh phát triển hạ tầng chiến lược cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn (gồm hạ tầng giao thông, thủy lợi, năng lượng, y tế, văn hóa, giáo dục, thể thao, hạ tầng số…) theo hướng xanh và bền vững; Đẩy mạnh xây dựng, phát triển yếu tố con người, nhất là nông dân phù hợp với yêu cầu phát triển giai đoạn mới, mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, thực hiện "bộ tứ trụ cột" theo 4 Nghị quyết của Bộ Chính trị; Đẩy mạnh đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm OCOP phù hợp nhu cầu, yêu cầu, xu hướng tiêu dùng của thị trường trong nước và thế giới; đa dạng hóa chuỗi cung ứng, thị trường xuất khẩu trong nông nghiệp.

Người nông dân cần thực hiện "3 tiên phong": Tiên phong thoát nghèo và thi đua làm giàu; Tiên phong xây dựng nông dân văn minh; Tiên phong sản xuất xanh, bền vững, chuyển đổi số và đặc biệt là hưởng ứng phong trào Bình dân học vụ số, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số, công dân số.

Ngăn chặn tham nhũng, tiêu cực trong xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững

Thủ tướng yêu cầu các Bộ, cơ quan địa phương tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc, đồng bộ, hiệu quả các chỉ đạo của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhất là của đồng chí Tổng Bí thư; khẩn trương xây dựng các Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2026-2035 theo hướng tích hợp thành 1 Chương trình; huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, phân công 6 rõ: "Rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm, rõ thẩm quyền"; tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để giải phóng nguồn lực, lấy nguồn lực nhà nước đóng vai trò "vốn mồi" dẫn dắt, kích hoạt mọi nguồn lực xã hội, kêu gọi đoàn kết, chung tay của tất cả người dân, doanh nghiệp, thúc đẩy hợp tác công tư; đào tạo nhân lực; đầu tư hạ tầng; làm tốt các chính sách xã hội, bảo đảm an sinh, không để ai bị bỏ lại phía sau, không hy sinh tiến bộ, công bằng, an sinh xã hội và môi trường nông thôn để chạy theo tăng trưởng đơn thuần…

Tích hợp hai chương trình thành một

Thủ tướng yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan khẩn trương hoàn thiện Báo cáo tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 trước ngày 15/7/2025, báo cáo cấp có thẩm quyền theo quy định; nghiên cứu xây dựng dự thảo Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới các cấp, đảm bảo đầy đủ căn cứ pháp lý, nguồn lực thực hiện, phù hợp với giai đoạn tới; báo cáo Đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình giai đoạn 2026-2035 theo hướng tích hợp 2 Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững thành 1 Chương trình mục tiêu quốc gia trong giai đoạn 2026-2035 trình Chính phủ cho ý kiến trong tháng 7/2025 trước khi báo cáo, trình Quốc hội tại kỳ họp tháng 10/2025.

Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến, sớm hoàn thiện báo cáo tổng kết 2 Phong trào thi đua; nghiên cứu, tham mưu Thủ tướng Chính phủ phát động, lồng ghép 2 Phong trào thi đua của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững thành 1 Phong trào thi đua cho giai đoạn 2026-2035.

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khẩn trương kiện toàn Ban Chỉ đạo các cấp ngay sau khi kiện toàn chính quyền địa phương 2 cấp để bảo đảm không gián đoạn công tác chỉ đạo thực hiện 2 Chương trình từ nay đến hết năm 2025; quan tâm chỉ đạo ổn định đội ngũ cán bộ, bộ máy làm công tác xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn tới…

TTXVN/Báo Tin tức và Dân tộc

 

Cung cấp nền tảng xây dựng chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn kỷ nguyên mới

Tổng điều tra lần này diễn ra trong bối cảnh có nhiều đổi thay mạnh mẽ ở khu vực nông thôn – từ tổ chức sản xuất đến đời sống dân cư, trong khi yêu cầu về chất lượng thông tin lại ngày càng cao. Mỗi con số ghi nhận, mỗi thông tin thu thập là nền tảng xây dựng chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn cho trong kỷ nguyên mới.

 Phiếu điều tra điện tử ngay trên thiết bị điện thoại di động giúp quá trình thu thập thông tin của điều tra viên cơ sở nhanh, gọn, chính xác hơn. (Ảnh: HNV)

Phiếu điều tra điện tử ngay trên thiết bị điện thoại di động giúp quá trình thu thập thông tin của điều tra viên cơ sở nhanh, gọn, chính xác hơn. (Ảnh: HNV)

Chia sẻ với Báo Nhân Dân, bà Nguyễn Thị Hương, Cục trưởng Cục Thống kê (Bộ Tài chính) nhấn mạnh, cuộc Tổng điều tra lần này có nhiều điểm mới đáng chú ý: Nội dung điều tra được mở rộng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin phục vụ h; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong thu thập và xử lý số liệu; khai thác hiệu quả các nguồn dữ liệu hành chính sẵn có, giúp giảm thiểu gánh nặng cho người dân; triển khai song song các hình thức thu thập thông tin qua phiếu điện tử trên thiết bị điện tử di động (CAPI), phiếu trực tuyến sử dụng internet (webform) để bảo đảm tính linh hoạt và chính xác cùng cách thức quản lý dữ liệu trực tuyến nhằm kiểm soát tiến độ, chất lượng điều tra trong quá trình thu thập thông tin tại địa bàn; nâng cao trách nhiệm giải trình và quản lý dữ liệu tập trung, khai thác sử dụng phân tán.

Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ hiện đại trong Tổng điều tra 2025

  Bà Nguyễn Thị Hương, Cục trưởng Cục Thống kê. (Ảnh: HNV)

Bà Nguyễn Thị Hương, Cục trưởng Cục Thống kê. (Ảnh: HNV)

Theo bà Hương, thông tin của Tổng điều tra năm 2025 tăng so với năm 2016 nhằm đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu thông tin của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Bộ, ngành, địa phương về thực trạng nông nghiệp, nông dân, nông thôn và chuyển dịch cơ cấu ngành nông, lâm, thủy sản, cơ cấu lao động nông thôn.

Cũng năm 2025 này, thay đổi về phương pháp thực hiện lập bảng kê đơn vị điều tra phiếu hộ giúp đồng thời thu thập đầy đủ thông tin và tiết kiệm kinh phí. Bảng kê trang trại được bổ sung thu thập thông tin bảo đảm kết nối giữa phiếu hộ và phiếu trang trại giúp công tác làm sạch, xử lý số liệu và phân tích kết quả điều tra. Việc khai thác tối đa dữ liệu hành chính và dữ liệu điều tra hiện có nhằm giảm thiểu thu thập từ thực địa giúp nâng cao hiệu quả của tổng điều tra.

  Vợ chồng ông bà Lê Thọ Kim và Nguyễn Thị Phương thôn 4, xã Thọ Phú bày tỏ sự ủng hộ chủ trương của Đảng, Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn, tin tưởng chắc chắn với đổi mới và Tổng điều tra này sẽ đạt hiệu quả, góp phần làm phát triển đời sống nông dân, nông thôn. (Ảnh: HNV)

Vợ chồng ông bà Lê Thọ Kim và Nguyễn Thị Phương thôn 4, xã Thọ Phú bày tỏ sự ủng hộ chủ trương của Đảng, Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn, tin tưởng chắc chắn với đổi mới và Tổng điều tra này sẽ đạt hiệu quả, góp phần làm phát triển đời sống nông dân, nông thôn. (Ảnh: HNV)

Đáng chú ý, ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, làm sạch và hoàn thiện số liệu. Trong đó, ứng dụng học máy để kiểm tra hoàn thiện mã ngành của hộ kinh doanh cá thể dựa trên căn cứ về ngành; sử dụng định vị và bản đồ số trong một số công đoạn của Tổng điều tra.

Với sự hỗ trợ của Tổ chức Nông lương thế giới (FAO), Cục Thống kê đã xây dựng 2 loại mẫu điều tra phục vụ suy rộng các chỉ tiêu phát triển bền vững (SDGs) và các chỉ tiêu chuyên sâu về nông, lâm, thủy sản vừa nhằm đáp ứng mục tiêu thông tin vừa nâng cao hiệu quả của công tác thu thập thông tin.

  Ứng dụng công nghệ trong điều tra, thống kê từ cơ sở. (Ảnh: HNV)

Ứng dụng công nghệ trong điều tra, thống kê từ cơ sở. (Ảnh: HNV)

Cũng theo bà Hương, để chuẩn bị cho cuộc Tổng điều tra với phạm vi lớn và có ý nghĩa quan trọng lần này, ngay từ năm 2023, Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê) đã lên kế hoạch, xây dựng phương án và chuẩn bị thực hiện điều tra thí điểm để làm cơ sở xây dựng phương án Tổng điều tra chính thức.

Trong năm 2024, đơn vị đã thực hiện điều tra thí điểm, đồng thời rà soát toàn bộ nhu cầu các chỉ tiêu đầu ra từ đó làm cơ sở trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt việc Tổ chức Tổng điều tra trong năm 2025.

Cùng trong năm 2024, Cục Thống kê đã nghiên cứu, thiết kế 7 loại phiếu điều tra phục vụ công tác thu thập thông tin, xây dựng các tài liệu, quy trình hướng dẫn thực hiện Tổng điều tra; xây dựng các chương trình phần mềm ứng dụng phục vụ công tác thu thập thông tin, xử lý làm sạch và tổng hợp kết quả điều tra.

Từ đầu năm 2025 đến nay, tiếp tục hoàn thiện các phần mềm ứng dụng, chuẩn bị và tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ và công nghệ thông tin các cấp: trung ương, tỉnh và huyện nhằm trang bị các kiến thức về nghiệp vụ, phần mềm cho toàn bộ đội ngũ điều tra viên, giám sát viên, Ban chỉ đạo và Tổ thường trực các cấp từ trung ương đến địa phương hướng tới việc thu thập thông tin đầy đủ, chính xác nhất để biên soạn, tổng hợp các chỉ tiêu thống kê liên quan phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Đảng, chính phủ và chính quyền địa phương các cấp.

“Trước xu thể chuyển đổi số mạnh mẽ, ngành thống kê nói chung và Cục Thống kê nói riêng đã ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng và hiệu quả trong điều tra thống kê. Tính đến năm 2025, trên 90% tổng số cuộc điều tra được sử dụng phiếu điều tra điện tử trên thiết bị di động (CAPI) hoặc trực tuyến (Webform) và trong Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp năm 2025, chúng tôi tiếp tục ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các công đoạn gồm: Lập bảng kê, quản lý mạng lưới điều tra, phân công điều tra viên và giám sát viên, thu thập thông tin, giám sát điều tra và làm sạch số liệu, khai thác”, bà Nguyễn Thị Hương nói.

  Điều tra viên cơ sở Trần Thị Phượng (ngoài cùng bên trái ảnh) thu thập thông tin trực tiếp tại hộ gia đình. (Ảnh: HNV)

Điều tra viên cơ sở Trần Thị Phượng (ngoài cùng bên trái ảnh) thu thập thông tin trực tiếp tại hộ gia đình. (Ảnh: HNV)

Ngoài ra, Cục Thống kê đã nghiên cứu áp dụng công nghệ học máy hỗ trợ kiểm tra, rà soát mã ngành kinh tế, ứng dụng AI hỗ trợ công tác thu thập thông tin, sử dụng định vị GPS của đơn vị điều tra trong công tác điều hành tác nghiệp, giám sát thực hiện điều tra và phổ biến kết quả.

Kết quả cuộc điều tra sẽ được phổ biến thông tin dưới dạng dữ liệu tổng hợp, hình ảnh trực quan hóa (infographic, video graphic …) bằng biểu đồ và trên không gian địa lý, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dùng tin.

Cục Thống kê đã chuẩn bị hạ tầng công nghệ thông tin đủ năng lực quản lý, vận hành hệ thống phần mềm, quản trị dữ liệu từ trung ương đến địa phương bảo đảm hoạt động thông suốt 24/7; bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, an ninh mạng.

Trước xu thể chuyển đổi số mạnh mẽ, ngành thống kê nói chung và Cục Thống kê nói riêng đã ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng và hiệu quả trong điều tra thống kê. Tính đến năm 2025, trên 90% tổng số cuộc điều tra được sử dụng phiếu điều tra điện tử trên thiết bị di động (CAPI) hoặc trực tuyến (Webform) và trong Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp năm 2025, chúng tôi tiếp tục ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các công đoạn gồm: Lập bảng kê, quản lý mạng lưới điều tra, phân công điều tra viên và giám sát viên, thu thập thông tin, giám sát điều tra và làm sạch số liệu, khai thác.

Bà Nguyễn Thị Hương, Cục trưởng Cục Thống kê

Nông thôn, nông nghiệp Thanh Hóa trước vận hội mới

Nhắc đến Thanh Hóa là nhắc đến một vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa, đồng thời cũng là một tỉnh có thế mạnh và tiềm năng lớn trong phát triển nông nghiệp, nông thôn. Với diện tích rộng, địa hình đa dạng và dân số đông, khu vực nông thôn, nông nghiệp đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ cấu kinh tế-xã hội của tỉnh.

Thanh Hóa là tỉnh có diện tích lớn thứ năm trong cả nước, dân số đông, với hơn 61,98% dân cư sinh sống ở khu vực nông thôn. Nông nghiệp, nông thôn đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.

  Tổng điều tra giúp cung cấp số liệu tạo nền tảng chính sách phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn. (Ảnh: HNV)

Tổng điều tra giúp cung cấp số liệu tạo nền tảng chính sách phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn. (Ảnh: HNV)

Thanh Hóa có đủ ba vùng sinh thái: Đồng bằng ven biển, trung du và miền núi. Mỗi vùng có những đặc trưng riêng, tạo nên sự đa dạng về cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tập quán canh tác cũng như điều kiện sống của người dân.

Những năm qua, tỉnh đã triển khai mạnh mẽ chương trình xây dựng nông thôn mới và đạt nhiều kết quả tích cực. Đến nay, toàn tỉnh có nhiều xã đạt chuẩn nông thôn mới và nâng cao chất lượng các tiêu chí. Sản xuất nông nghiệp đang chuyển dần từ nhỏ lẻ sang tập trung, ứng dụng công nghệ cao, liên kết theo chuỗi giá trị. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, khu vực nông thôn-nông nghiệp vẫn còn đối mặt với không ít khó khăn như biến đổi khí hậu, thiếu lao động trẻ, thu nhập chưa ổn định…

  Ông Nguyễn Ngọc Tân và ông Dương Văn Đồng, thôn 4, xã Thọ Phú, tỉnh Thanh Hóa cho rằng quá trình tiếp cận Tổng điều tra lần này đa dạng, dễ dàng hơn. (Ảnh: HNV)

Ông Nguyễn Ngọc Tân và ông Dương Văn Đồng, thôn 4, xã Thọ Phú, tỉnh Thanh Hóa cho rằng quá trình tiếp cận Tổng điều tra lần này đa dạng, dễ dàng hơn. (Ảnh: HNV)

Trong bối cảnh đó, Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp năm 2025 có ý nghĩa rất quan trọng, giúp Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh có cái nhìn toàn diện, chính xác về hiện trạng và xu hướng phát triển, từ đó xây dựng chính sách phù hợp hơn để phát triển bền vững nông thôn, nông nghiệp trên địa bàn trong thời gian tới.

Đáng chú ý, trong bối cảnh hệ thống chính trị đang từng bước được , bước vào kỷ nguyên mới, yêu cầu về việc có được những nguồn dữ liệu đầy đủ, chính xác, kịp thời phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành là vô cùng cấp thiết. Do đó, tỉnh Thanh Hóa đặt nhiều kỳ vọng vào kết quả của cuộc Tổng điều tra lần này.

Cụ thể, thông tin thu thập từ cuộc điều tra sẽ phản ánh chân thực và toàn diện bức tranh hiện nay của khu vực nông thôn, nông nghiệp trên địa bàn tỉnh – từ cơ sở hạ tầng, điều kiện sống, việc làm, thu nhập, tổ chức sản xuất đến những chuyển biến trong quản lý đất đai, tài nguyên và áp dụng khoa học kỹ thuật, chuyển đổi số trong nông nghiệp.

Từ đó, dữ liệu điều tra sẽ trở thành căn cứ khoa học và thực tiễn quan trọng, giúp các cấp chính quyền hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn sát thực tế, phù hợp từng vùng, từng địa phương.

Đồng thời, cũng là cơ sở để tỉnh tiếp tục rà soát, phân bổ hợp lý các nguồn lực đầu tư, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tránh chồng chéo, lãng phí và tăng cường công khai, minh bạch trong thực thi chính sách.

Đặc biệt, trong quá trình tinh giản biên chế, tổ chức lại bộ máy, kết quả điều tra sẽ giúp các cấp, các ngành xác định rõ đâu là những lĩnh vực, khu vực cần ưu tiên nguồn lực, đâu là những mô hình tổ chức cần điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn, góp phần xây dựng nền hành chính phục vụ, gần dân, sát dân và vì sự phát triển bền vững của khu vực nông thôn.

  Ra quân Tổng điều tra tại trụ sở xã Thọ Phú, tỉnh Thanh Hóa ngày 1/7/2025. (Ảnh: HNV)

Ra quân Tổng điều tra tại trụ sở xã Thọ Phú, tỉnh Thanh Hóa ngày 1/7/2025. (Ảnh: HNV)

Chứng kiến tinh thần sẵn sàng, nghiêm túc và đầy quyết tâm của lực lượng giám sát viên, điều tra viên toàn tỉnh tại buổi lễ ra quân, tin tưởng rằng, với những “cánh tay nối dài” của ngành thống kê, của chính quyền các cấp, họ chính đang góp phần mang lại những con số biết nói – chân thực, sống động và đầy giá trị.

Chính các điều tra viên, giám sát viên sẽ trực tiếp “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng” để thu thập thông tin một cách chính xác, trung thực, khách quan trong cuộc Tổng điều tra.

TÔ HÀ-VIỆT HÀ

 

HTX hữu cơ 'đau đầu' tìm đơn vị chứng nhận để 'chọn mặt gửi vàng'

Vụ việc Công ty Cổ phần Chứng nhận và Kiểm nghiệm FAO (Việt Nam) bị xử phạt vì những sai phạm trong hoạt động chứng nhận và kiểm nghiệm đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về chất lượng và sự minh bạch của thị trường dịch vụ này. Đặc biệt, đối với các hợp tác xã (HTX) và nông dân đang nỗ lực theo đuổi nông nghiệp hữu cơ, vụ việc này càng làm tăng thêm mối lo ngại về việc tìm kiếm một đơn vị chứng nhận uy tín, đáng tin cậy.

Ông N.V.T, Giám đốc một HTX nông nghiệp ở Hòa Bình (nay là Phú Thọ), chia sẻ: HTX đã đầu tư rất nhiều để chuyển đổi sang sản xuất hữu cơ. Và muốn có thương hiệu, thuyết phục được khách hàng, HTX cần có chứng nhận. Vấn đề là hiện nay có quá nhiều đơn vị quảng cáo dịch vụ chứng nhận hữu cơ, từ các công ty lớn đến các tổ chức nhỏ lẻ. HTX không biết đơn vị nào thực sự có đủ năng lực và uy tín để cấp chứng nhận đúng quy định.

HTX băn khoăn về sự minh bạch

Đặc biệt, vụ FAO Việt Nam bị xử phạt càng khiến thành viên HTX hoang mang hơn. Nếu chứng nhận mà không đúng chuẩn, không đúng thực tế, thì công sức của nông dân, thành viên HTX đổ ra coi như vô ích, niềm tin của người tiêu dùng cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Vụ việc của Công ty Cổ phần Chứng nhận và Kiểm nghiệm FAO (Việt Nam) đã phơi bày nhiều góc khuất đáng lo ngại trong hoạt động chứng nhận và kiểm nghiệm tại Việt Nam.

Một trong những điểm đáng chú ý nhất được bà Từ Tuyết Nhung, Trưởng ban điều phối PGS Việt Nam, Ủy viên Ban Thường vụ Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam, chỉ ra là việc công ty này sử dụng tên "FAO". Bà Nhung bày tỏ sự "giật mình" ban đầu khi nghe tên, bởi FAO (Tổ chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc) là một tổ chức quốc tế uy tín hàng đầu. Bà Nhung cho rằng, công ty bị xử phạt không sai khi đăng ký tên này tại Việt Nam, nhưng chính cái tên này lại tạo một cảm giác lẫn lộn cho mọi người nhầm tưởng tổ chức uy tín là Lương Nông thế giới vẫn hay gọi là FAO.

Điều này đặt ra vấn đề về việc quản lý tên gọi doanh nghiệp, đặc biệt là với những cái tên dễ gây nhầm lẫn với các tổ chức quốc tế có tầm ảnh hưởng lớn. Mặc dù việc đăng ký tên có thể hợp pháp về mặt hành chính, nhưng nếu việc sử dụng tên đó gây hiểu lầm cho khách hàng hoặc đối tác, HTX, nó có thể trở thành một hình thức "gian lận danh xưng" để tạo dựng lòng tin giả mạo.

Một khía cạnh khác được không ít nhà chuyên môn nhấn mạnh từ vụ việc này là việc Công ty FAO Việt Nam không được các tổ chức quốc tế có thẩm quyền như IFOAM, Nhật Bản (tiêu chuẩn JAS), USDA (Hoa Kỳ) và Canada ủy quyền đánh giá. Vì tên của doanh nghiệp này không có trong danh sách các đơn vị được ủy quyền đánh giá theo tiêu chuẩn của các nước trên.

Điều này có nghĩa là, ngay cả khi các sản phẩm được Công ty FAO Việt Nam chứng nhận đạt chuẩn, chúng cũng sẽ gặp rào cản lớn khi muốn xuất khẩu sang các thị trường quốc tế đòi hỏi các chứng nhận được công nhận bởi các tổ chức có thẩm quyền toàn cầu. Điều này không chỉ gây thiệt hại cho HTX, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ của công ty này mà còn ảnh hưởng đến uy tín chung của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.

 Các tổ chức chứng nhận và kiểm nghiệm hoạt động đúng chuẩn mực, HTX, người tiêu dùng mới yên tâm về chất lượng sản phẩm.

Các tổ chức chứng nhận và kiểm nghiệm hoạt động đúng chuẩn mực, HTX, người tiêu dùng mới yên tâm về chất lượng sản phẩm.

Hiện có rất nhiều tổ chức trong và ngoài nước đang tham gia cấp chứng nhận hữu cơ tại Việt Nam, tuy nhiên chưa có một danh sách minh bạch, thống nhất được công khai cho người tiêu dùng, HTX, nông dân và cả doanh nghiệp tra cứu.

Thực tế hiện nay, nhiều HTX sản xuất hữu cơ, có chứng nhận hữu cơ chân chính ở Việt Nam rất đau đầu với vấn đề gian lận, giả mạo chứng nhận hữu cơ. Như HTX Lương Sơn (Phú Thọ hiện nay) đang trồng rau hữu cơ và có chứng nhận hữu cơ PGS nhưng cũng có thời điểm phải đối mặt với tình trạng cạnh tranh không lành mạnh từ những đơn vị cũng quảng bá có chứng nhận hữu cơ tương tự tại những cửa hàng bán nông sản hữu cơ.

Theo khảo sát năm 2024 của Viện Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách nông nghiệp, có hơn 60% người tiêu dùng nghi ngờ về độ tin cậy của nhãn hữu cơ đang bán trên thị trường.

Giám đốc HTX Nông nghiệp Hữu cơ Phúc Hưng (Lâm Đồng), bà Nguyễn Thị Hạnh, cho biết HTX đã nỗ lực không ngừng từ việc cải tạo đất đến tập huấn nông dân, để đáp ứng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt và đạt được chứng nhận hữu cơ theo chuẩn EU. Tuy nhiên, tình trạng tràn lan các sản phẩm gắn mác "organic" trên thị trường khiến người tiêu dùng hoài nghi, thậm chí còn đặt câu hỏi về tính xác thực của các chứng nhận mà Phúc Hưng đã dày công gây dựng. Điều này gây ra không ít tổn thương cho những người làm nông nghiệp hữu cơ chân chính.

Nguy cơ "tiền mất tật mang"?

Theo chuẩn thế giới, phòng kiểm nghiệm muốn làm dịch vụ kiểm nghiệm phải được chứng nhận phương pháp kiểm nghiệm từng chỉ tiêu đạt TC ISO17025. Cơ quan chứng nhận là Văn phòng Công nhận Chất lượng quốc gia (BoA), nằm trong hệ thống BoA quốc tế. Ở Việt Nam này thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ.

Và muốn được kiểm nghiệm các chỉ tiêu phục vụ quản lý nhà nước thuộc bộ nào lại phải được bộ ấy ủy quyền bằng văn bản. Nếu chấm dứt ủy quyền, không được gia hạn ủy quyền mà vẫn cấp báo cáo kiểm nghiệm thì gọi là 'cấp gian' hoặc 'cấp khống.

Vụ việc FAO Việt Nam một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của việc siết chặt quản lý hoạt động chứng nhận và kiểm nghiệm để bảo vệ quyền lợi của nông dân, HTX, người tiêu dùng và sự phát triển bền vững của nền nông nghiệp hữu cơ Việt Nam.

Việc có nhiều đơn vị chứng nhận hữu cơ, bên cạnh mặt tích cực là tạo ra sự cạnh tranh và đa dạng lựa chọn thì cũng tiềm ẩn nhiều vấn đề gây rối loạn cho nông dân và HTX. Bởi theo đại diện của các HTX, khó khăn đầu tiền là việc làm sao có thể lựa chọn được đơn vị chứng nhận uy tín để hợp tác. Như vụ FAO Việt Nam cho thấy, không phải đơn vị nào cũng hoạt động đúng chuẩn mực. Nông dân, HTX thường thiếu thông tin và kinh nghiệm để đánh giá năng lực, uy tín thực sự của một đơn vị chứng nhận. Việc một số công ty lợi dụng tên tuổi các tổ chức quốc tế (như "FAO") càng làm tăng sự nhầm lẫn.

Đi liền với đó, mỗi đơn vị có thể có quy trình, chi phí và thời gian cấp chứng nhận khác nhau. Chất lượng đánh giá, kiểm nghiệm cũng không phải lúc nào cũng được đảm bảo, dẫn đến tình trạng chứng nhận "hình thức" hoặc không phản ánh đúng thực tế khiến HTX đã khó lại càng khó hơn.

Trong khi quy trình chứng nhận hữu cơ thường tốn kém, bao gồm chi phí kiểm tra, đánh giá, phí cấp chứng nhận và các chi phí duy trì hàng năm. Việc phải tìm hiểu, so sánh giữa nhiều đơn vị để tìm ra mức giá hợp lý và dịch vụ chất lượng là một gánh nặng không nhỏ cho nông dân, HTX có nguồn lực hạn chế.

Đặc biệt, trong quá trình sản xuất, có nhiều tiêu chuẩn hữu cơ khác nhau (USDA Organic, EU Organic, JAS...). Mỗi tiêu chuẩn lại có yêu cầu riêng biệt và giá trị trên thị trường khác nhau. Nông dân, HTX cần được tư vấn rõ ràng về tiêu chuẩn nào phù hợp với mục tiêu sản xuất và thị trường tiêu thụ. Do đó, nếu lựa chọn phải đơn vị chứng nhận không uy tín hoặc gian lận, nông dân, HTX có thể mất tiền, mất thời gian, thậm chí mất đi uy tín sản phẩm khi bị phát hiện không đạt chuẩn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh.

Để giảm bớt sự rối loạn này, cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội… để nâng cao nhận thức, minh bạch thông tin và siết chặt quản lý hoạt động chứng nhận hữu cơ tại Việt Nam.

Huyền Trang

 

Sầu riêng sấy thăng hoa: Định hình hướng đi mới cho nông sản Gia Lai

Giữa bối cảnh ngành nông nghiệp liên tục đối mặt với bài toán 'được mùa-mất giá', nhiều doanh nghiệp tại Gia Lai đang tìm lối đi mới bằng cách ứng dụng công nghệ vào chế biến sâu nông sản. Nổi bật trong số đó là sản phẩm sầu riêng sấy thăng hoa.

Sản phẩm sầu riêng sấy thăng hoa của Công ty cổ phần Chế biến Xuất nhập khẩu Green Tropical (số 108 Võ Thị Sáu, thị trấn Chư Sê), đã mở ra hướng đi mới cho trái cây của tỉnh tiếp cận thị trường quốc tế với giá trị cao và chất lượng ổn định.

Công nghệ tạo đột phá cho trái cây địa phương

Là một trong những đơn vị tiên phong theo đuổi hướng chế biến sâu tại Gia Lai, Công ty Green Tropical đã mạnh dạn đầu tư dây chuyền công nghệ sấy thăng hoa hiện đại để nâng cao giá trị cho trái cây địa phương, đặc biệt là sầu riêng.

Ông Bùi Duy Hải-Giám đốc Công ty-chia sẻ: Nỗi lo thường trực của người làm nông là điệp khúc “được mùa rớt giá, mất mùa thì giá cao”. Sự phụ thuộc lớn vào thị trường xuất khẩu thô, cộng với tác động bất lợi bởi thời tiết, giá cả, mùa vụ đã khiến nông dân luôn trong tình thế bị động.

“Tôi muốn tìm một hướng đi căn cơ và bền vững hơn, vừa giúp nông dân ổn định thu nhập, vừa đưa sản phẩm Việt Nam tiến xa hơn trên thị trường quốc tế”-ông Hải chia sẻ.

  Ông Bùi Duy Hải-Giám đốc Công ty Cổ phần Chế biến Xuất nhập khẩu Green Tropical (thứ 2 từ phải sang) giới thiệu và kiểm tra quy trình sấy thăng hoa tại nhà máy chế biến. Ảnh: Hoàng Hoài

Ông Bùi Duy Hải-Giám đốc Công ty Cổ phần Chế biến Xuất nhập khẩu Green Tropical (thứ 2 từ phải sang) giới thiệu và kiểm tra quy trình sấy thăng hoa tại nhà máy chế biến. Ảnh: Hoàng Hoài

Từ đó, Green Tropical ra đời với mục tiêu xây dựng chuỗi chế biến khép kín cho trái cây, tạo ra các sản phẩm tiện lợi, có giá trị gia tăng cao và đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Trong đó, sản phẩm chủ lực là sầu riêng sấy thăng hoa Tropi Durian.

Công nghệ sấy thăng hoa (freeze-drying) là phương pháp tiên tiến giúp bảo toàn hình dạng, hương vị và dinh dưỡng gần như nguyên vẹn của thực phẩm. Quá trình này bắt đầu bằng việc cấp đông sâu múi sầu riêng ở nhiệt độ âm 40 độ C, sau đó chuyển vào môi trường chân không để nước đá bay hơi trực tiếp (thăng hoa) mà không qua giai đoạn hóa lỏng.

Thời gian sấy kéo dài 30-40 giờ, giúp thành phẩm khô giòn, thơm đậm và có độ ẩm chỉ từ 6-8%. Đặc biệt, công nghệ này cho phép bảo quản sản phẩm lên tới 12 tháng, không cần chất bảo quản, dễ vận chuyển xa, không lo vấn đề kiểm dịch nghiêm ngặt như sầu riêng tươi. Người tiêu dùng cũng không còn gặp rủi ro do mua phải quả non, sượng hay bị hư do bảo quản kém.

  Múi sầu riêng được cấp đông sâu trước khi đưa vào buồng sấy thăng hoa. Ảnh: Hoàng Hoài

Múi sầu riêng được cấp đông sâu trước khi đưa vào buồng sấy thăng hoa. Ảnh: Hoàng Hoài

Green Tropical phải mất 3 tháng để thử nghiệm nhiều giống sầu riêng như Ri6, Thái, Musang King… trước khi lựa chọn công thức tối ưu. Đến tháng 2-2025, sản phẩm sầu riêng sấy Tropi Durian chính thức đạt các chứng nhận ISO, HACCP, FDA và kiểm định chất lượng bởi Avatek, đủ điều kiện xuất khẩu.

Theo ông Hải, để sản xuất 1 tấn cơm sầu riêng sấy, nhà máy cần sơ chế khoảng 4 tấn quả tươi. Tỷ lệ hao hụt lớn do phải loại bỏ vỏ, hạt và chỉ chọn phần cơm đạt chuẩn. Tuy nhiên, chính yếu tố trọng lượng nhẹ sau sấy giúp sản phẩm có giá trị kinh tế rất cao.

“Một xe sầu riêng sấy có thể tương đương giá trị với gần 20 xe sầu riêng tươi. Đây là lợi thế lớn cho xuất khẩu vì giảm chi phí vận tải, bảo quản và hạn chế rủi ro kiểm dịch”-ông Hải phân tích.

Hiện nay, Green Tropical đã giải quyết đầu ra ổn định cho một lượng lớn sầu riêng địa phương, đồng thời tạo việc làm cho gần 20 lao động thường xuyên với mức thu nhập bình quân 8 triệu đồng/tháng. Đây là tín hiệu tích cực cho sự chuyển dịch từ sản xuất thô sang chế biến sâu, chuyên nghiệp hơn ở vùng nông thôn Gia Lai.

Xây hệ sinh thái chế biến khép kín, hướng đến xuất khẩu

Không dừng lại ở sản phẩm sầu riêng sấy, Green Tropical đang mở rộng danh mục chế biến với nhiều nông sản đặc trưng như: bột chuối xanh, lá mãng cầu khô, nước chanh dây cô đặc… hướng tới phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp đa dạng, lành mạnh và an toàn. Công ty cũng đặt mục tiêu phát triển các dòng thực phẩm tiêu dùng chất lượng cao như bánh kẹo, nước ép tự nhiên từ trái cây tươi thay vì các sản phẩm công nghiệp không rõ nguồn gốc đang tràn lan trên thị trường.

“Người tiêu dùng xứng đáng được sử dụng sản phẩm sạch, có lợi cho sức khỏe và đó cũng là cách để nông sản Việt nâng tầm trên thị trường”-ông Hải chia sẻ.

Đáng chú ý, Green Tropical đang xây dựng mô hình sản xuất khép kín: từ liên kết xây dựng vùng nguyên liệu đến chế biến và tiêu thụ. Cụ thể, công ty đã phát triển vùng nguyên liệu cà phê hữu cơ hơn 100 ha, đồng thời phối hợp với các hộ dân và hợp tác xã trồng cây ăn quả như sầu riêng, chanh dây theo hướng hữu cơ.

Doanh nghiệp chịu trách nhiệm hướng dẫn kỹ thuật, bao tiêu toàn bộ sản phẩm sau thu hoạch để đưa vào dây chuyền chế biến. Không chỉ giúp nông dân tăng thu nhập, mô hình này còn giảm thiểu rủi ro mùa vụ, nâng cao chất lượng đồng đều cho sản phẩm đầu vào-một yếu tố then chốt trong tiêu chuẩn xuất khẩu.

  Nhà máy chế biến sâu của Green Tropical góp phần tạo việc làm cho gần 20 lao động địa phương với thu nhập ổn định. Ảnh: Hoàng Hoài

Nhà máy chế biến sâu của Green Tropical góp phần tạo việc làm cho gần 20 lao động địa phương với thu nhập ổn định. Ảnh: Hoàng Hoài

Bên cạnh đó, việc sáp nhập tỉnh Gia Lai với Bình Định đang tạo nhiều kỳ vọng cho cộng đồng doanh nghiệp trong vùng. Từ đó, dễ dàng tiếp cận hệ thống cảng biển Quy Nhơn và hạ tầng logistics khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, giúp rút ngắn thời gian và chi phí đưa hàng hóa ra thị trường quốc tế, tạo thêm cú hích cho ngành chế biến nông sản công nghệ cao của Gia Lai.

Từ một vùng đất vốn chỉ quen với cà phê, hồ tiêu và cây công nghiệp, Gia Lai đang chứng kiến sự chuyển mình mạnh mẽ trong lĩnh vực nông nghiệp chế biến nhờ sự vào cuộc của các doanh nghiệp như Green Tropical. Sầu riêng sấy thăng hoa không chỉ là một sản phẩm mới, mà còn là biểu tượng cho chiến lược chuyển đổi từ sản xuất truyền thống sang mô hình giá trị gia tăng cao, từ lệ thuộc thị trường sang chủ động chuỗi cung ứng.

  Sản phẩm sầu riêng sấy Tropi Durian giữ nguyên hình dáng, mùi vị và màu sắc tự nhiên sau quá trình chế biến. Ảnh: Hoàng Hoài

Sản phẩm sầu riêng sấy Tropi Durian giữ nguyên hình dáng, mùi vị và màu sắc tự nhiên sau quá trình chế biến. Ảnh: Hoàng Hoài

“Tư duy làm nông nghiệp bằng công nghệ không còn là xu hướng, mà đang trở thành yêu cầu sống còn trong bối cảnh hội nhập sâu và cạnh tranh toàn cầu. Khi những quả sầu riêng Gia Lai được xuất khẩu đi châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc… dưới dạng sản phẩm tinh chế chất lượng cao, đó cũng là lúc nông sản Việt bước vào cuộc chơi lớn-bền vững hơn, chủ động hơn và hiệu quả hơn”-ông Hải kỳ vọng.

Mới đây, Green Tropical đã tham gia Hội nghị giao thương trái cây ASEAN-Trung Quốc 2025 tại Quảng Tây, không chỉ giới thiệu sản phẩm sầu riêng sấy Tropi Durian mà còn gây ấn tượng với đối tác quốc tế nhờ công nghệ chế biến hiện đại, mẫu mã chuyên nghiệp và định hướng phát triển bền vững. Nhiều khách hàng và nhà nhập khẩu đánh giá cao chất lượng sản phẩm, mở ra triển vọng đưa sầu riêng sấy của Gia Lai thâm nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị nông sản khu vực ASEAN-Trung Quốc. Đây được xem là bước tiến quan trọng cho ngành nông sản chế biến của Tây Nguyên trên thị trường quốc tế.

HOÀNG HOÀI

 

An Giang - 'Vựa lúa' quốc gia

Tỉnh An Giang (mới) với tiềm năng nông nghiệp vượt trội, xứng tầm 'vựa lúa' của ĐBSCL và cả nước.

Tiềm năng vượt trội

Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường An Giang, từ năm 1975 đến nay, lĩnh vực nông nghiệp trên địa bàn An Giang cũ đã từng bước khắc phục khó khăn, nỗ lực khẳng định vị thế trong cơ cấu kinh tế địa phương. Trong từng giai đoạn, ngành nông nghiệp chuyển đổi từ cơ chế tập trung sang “đổi mới” để tiến tới hội nhập và phát triển.

Từ canh tác 1 vụ lúa sang 2 vụ tập trung trong thời kỳ 1975 - 1986, ngành nông nghiệp đã hướng tới việc chuyển đổi từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp trong giai đoạn 2016 - 2025. Cùng với đó là quá trình đẩy mạnh cơ cấu lại sản xuất theo hướng phát triển nông nghiệp sinh thái - xanh - tuần hoàn. Năm 2024, tổng diện tích xuống giống lúa của tỉnh khoảng 618.600ha, sản lượng ước đạt gần 4,072 triệu tấn, xuất khẩu gạo ước đạt 510.000 tấn, tương đương 295 triệu USD. Qua đó, tiếp tục khẳng định vai trò “bệ đỡ” kinh tế của ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế địa phương.

An Giang đang hướng đến mục tiêu đưa hạt gạo chinh phục các thị trường khó tính trên thế giới. Việc tích cực đổi mới phương thức sản xuất, tăng cường áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, các giải pháp tổng hợp trong sản xuất lúa song song với cấp mã số vùng trồng, cho thấy những nỗ lực của tỉnh trong việc “chuẩn hóa” chất lượng hạt gạo xuất khẩu. Hiện, trên địa bàn tỉnh An Giang đã cấp 193 mã số vùng trồng lúa với tổng diện tích 11.862ha, chiếm khoảng 5,6% tổng diện tích trồng lúa. Trong đó, có 131/193 mã số vùng trồng xuất khẩu, với diện tích 7.922ha.

 Nông dân Hợp tác xã nông nghiệp Tân Thuận, xã Mỹ Thuận canh tác lúa theo Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao. Ảnh: THÙY TRANG

Nông dân Hợp tác xã nông nghiệp Tân Thuận, xã Mỹ Thuận canh tác lúa theo Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao. Ảnh: THÙY TRANG

Tại địa bàn Kiên Giang cũ, thời gian qua đã tập trung khai thác tối đa tiềm năng, thế mạnh sẵn có để phát triển ngành hàng lúa gạo theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại và bền vững. Hàng năm, tỉnh cũ duy trì diện tích gieo trồng lúa ổn định khoảng 725.680ha, tổng sản lượng lúa thu hoạch trên 4,7 triệu tấn, đứng đầu cả nước về sản lượng. Năng suất thu hoạch bình quân đạt 6,5 tấn/ha. Trong đó, lúa đặc sản, chất lượng cao chiếm trên 95% diện tích gieo trồng.

Đặc biệt, ngành chuyên môn chủ động ứng dụng khoa học - kỹ thuật mới, nhất là công nghệ số và trí tuệ nhân tạo vào sản xuất. Trong đó, đã sử dụng công nghệ cảm biến môi trường, drone (thiết bị bay không người lái) để canh tác trên 83% diện tích gieo trồng. Thiết lập và sử dụng hệ thống dự báo sớm về hạn hán, lũ lụt và các hiện tượng cực đoan để lên kế hoạch sản xuất phù hợp. Tăng cường cơ giới hóa vào đồng ruộng, áp dụng các quy trình canh tác hiện đại đạt chuẩn VietGAP, GlobalGAP, SRP, hữu cơ… giúp năng suất lúa của tỉnh, chất lượng gạo được nâng lên, đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường quốc tế.

Hướng đến tương lai

Hợp nhất thành tỉnh An Giang, sẽ mở nhiều cơ hội và lợi thế vượt trội cho ngành lúa gạo, gắn liền vai trò đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường: “Tỉnh An Giang sẽ tạo ra vùng sản xuất lúa gạo tập trung, có quy mô lớn nhất cả nước, hỗ trợ kinh tế lẫn nhau trong chuỗi giá trị lúa gạo. Sản lượng lúa chất lượng cao của tỉnh khi đó sẽ đạt hơn 9 triệu tấn, giúp địa phương dẫn đầu xuất khẩu gạo, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, là “trụ đỡ” của nền kinh tế”.

Tỉnh mới sẽ thuận lợi hơn trong việc xây dựng chuỗi giá trị lúa gạo lớn và bền vững, giúp nâng cao giá trị và khả năng cạnh tranh của ngành hàng lúa gạo. Bên cạnh, hạ tầng thủy lợi, logistics, hệ thống kho chứa, chế biến… có điều kiện đầu tư đồng bộ và kết nối vùng, nâng cao hiệu quả chuỗi giá trị lúa gạo. Việc hợp nhất tỉnh kỳ vọng sẽ tạo ra động lực lớn để phát triển nông nghiệp, nhất là sản xuất lúa gạo theo hướng bền vững và có giá trị gia tăng cao hơn.

Để khai thác hiệu quả thế mạnh ngành hàng lúa gạo, Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Ngô Công Thức yêu cầu ngành nông nghiệp tập trung phát triển nông nghiệp hiện đại và bền vững, chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ vào sản xuất, chế biến và bảo quản nông sản, xây dựng thương hiệu nông sản đặc trưng địa phương. Tích cực tái cơ cấu ngành nông nghiệp song song với tăng cường ứng dụng chuyển đổi số, như: Sử dụng drone, hệ thống tưới tiêu tự động, phần mềm quản lý hiện đại. Quan tâm phát triển nông nghiệp xanh, thân thiện với môi trường. Tập trung chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ sang sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn, hình thành các vùng nguyên liệu bền vững. Đặc biệt, tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng các giống lúa mới, các quy trình sản xuất tiên tiến, công nghệ bảo quản và chế biến hiện đại; xây dựng các chuỗi liên kết bền vững giữa sản xuất, doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ. Nỗ lực xây dựng thương hiệu “Gạo An Giang”, tăng cường quảng bá và xúc tiến thương mại. Triển khai các giải pháp thích ứng và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất lúa gạo, tiêu biểu là Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao…

Với sự cộng hưởng nhiều thế mạnh, tiềm năng phát triển nông nghiệp, tỉnh An Giang (mới) không dừng lại ở việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, mà còn hướng tới mục tiêu trở thành trung tâm nông nghiệp quy mô, kiểu mẫu của vùng ĐBSCL và cả nước.

THÙY TRANG - THANH TIẾN

 

Vùng sản xuất nông nghiệp lớn của Việt Nam

Sau sáp nhập, diện tích đất sản xuất nông nghiệp của tỉnh Đồng Nai mới là hơn 728 ngàn hécta, gấp 2,6 lần so với diện tích cũ. Trong đó, có nhiều cây trồng chủ lực có diện tích thuộc tốp đầu của cả nước.

 Vùng trồng sầu riêng xuất khẩu tại xã Hàng Gòn, thành phố Long Khánh. Ảnh: Bình Nguyên

Vùng trồng sầu riêng xuất khẩu tại xã Hàng Gòn, thành phố Long Khánh. Ảnh: Bình Nguyên

Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục chuyển dịch tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp. Đặc biệt sau khi sáp nhập, tổng đàn chăn nuôi của tỉnh Đồng Nai mới tăng cao so với trước, tiếp tục là “thủ phủ” chăn nuôi của cả nước.

Tiềm năng lớn về trồng trọt

Sau sáp nhập, diện tích cây hàng năm của tỉnh đạt khoảng 150,5 ngàn hécta, tập trung các cây trồng chính như bắp, lúa, rau màu các loại.

Tỉnh Đồng Nai mới tiếp tục là "thủ phủ" cây công nghiệp và ăn trái của cả nước với tổng diện tích cây lâu năm đạt hơn 609 ngàn hécta. Trong đó, diện tích cây công nghiệp lâu năm đạt gần 511,5 ngàn hécta. Một số cây công nghiệp chủ lực có diện tích thuộc tốp đầu cả nước như: cao su, điều, hồ tiêu. Đặc biệt, nông dân quan tâm áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, quy trình canh tác bền vững, áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất. Tỉnh cũng đã hình thành được các vùng chuyên canh lớn những cây công nghiệp cho năng suất cao, chất lượng tốt. Đồng Nai cũng thu hút được nhiều tập đoàn, doanh nghiệp (DN) đầu tư vào lĩnh vực bảo quản, sơ chế, chế biến gắn kết với vùng nguyên liệu. Nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như cao su, điều, cà phê… của tỉnh thuộc tốp đầu cả nước.

Năm 2024, giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản trên địa bàn tỉnh đạt 50,6 ngàn tỷ đồng, tăng hơn 3,5% so với năm 2023. Giai đoạn 2021-2025, tăng trưởng bình quân giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản trên địa bàn tỉnh ước đạt 3,67%/năm, thuộc tốp đầu về tăng trưởng của khu vực Đông Nam Bộ.

Tổng diện tích cây ăn trái của tỉnh đạt gần 97,6 ngàn hécta, tập trung vào các cây chủ lực cho hiệu quả kinh tế cao như: sầu riêng, chuối cấy mô xuất khẩu, bưởi, xoài, chôm chôm...

Trong đó, vài năm trở lại đây, diện tích cây sầu riêng trên địa bàn tỉnh không ngừng tăng nhanh do cây trồng này mang lại lợi nhuận cao. Không chỉ tăng nhanh về diện tích, nông dân trồng sầu riêng quan tâm đầu tư giống đặc sản cho giá trị cao, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, làm mã số vùng trồng xuất khẩu để tăng lợi thế cạnh tranh cho cây trồng này. Tỉnh Đồng Nai mới thuộc tốp đầu cả nước về số lượng mã số vùng trồng sầu riêng xuất khẩu đi thị trường Trung Quốc.

Bà Trần Thị Thanh Dung, Giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thịnh Bách (Thành phố Hồ Chí Minh), cho biết DN đang nỗ lực kết nối với các vùng trồng sầu riêng tại các tỉnh lân cận, trong đó có tỉnh Đồng Nai để tìm nguồn sầu riêng đạt chuẩn cung cấp cho thị trường xuất khẩu. Tỉnh Đồng Nai mới có lợi thế đã hình thành được những vùng chuyên canh sầu riêng quy mô lớn, đạt chuẩn an toàn, nhất là chưa phát hiện tình trạng bị nhiễm Cadimi đang là rào cản xuất khẩu sầu riêng hiện nay. DN này cũng đánh giá cao vì Đồng Nai mới có nhiều mô hình trồng sầu riêng hiệu quả như: Queen Farm, trang trại trồng sầu riêng công nghệ cao quy mô lớn tại xã Đăng Hà; Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Phú Sơn (xã Phú Lâm) là hợp tác xã có diện tích mã số vùng trồng xuất khẩu lớn nhất tỉnh với 350 hécta…

Hình thành thủ phủ chăn nuôi công nghiệp

Sau khi sáp nhập, tổng đàn heo của tỉnh đạt hơn 4,1 triệu con; tổng đàn gia cầm đạt 35,9 triệu con. So sánh với tổng đàn heo trên cả nước là 31,8 triệu con, tổng đàn gia cầm đạt 584,4 triệu con, tỉnh Đồng Nai mới tiếp tục giữ vị trí là “thủ phủ” chăn nuôi của cả nước với tổng đàn lớn.

Theo Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai Nguyễn Trí Công, ngành chăn nuôi trên địa bàn tỉnh đẩy mạnh ứng dụng khoa học, kỹ thuật, chuyển đổi từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang hướng công nghiệp với quy mô hàng hóa lớn. Ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi đạt nhiều kết quả tích cực với nhiều mô hình ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại nhất hiện nay như: chăn nuôi sử dụng chuồng lạnh; sử dụng chíp điện tử kiểm soát nhiệt độ, nước uống, lượng thức ăn vật nuôi tiêu thụ; sử dụng các phần mềm trong quản lý trang trại...

Ngoài các vật nuôi chủ lực, với hàng ngàn hécta nuôi trồng thủy sản cùng diện tích mặt nước sông suối, ao hồ lớn, tỉnh Đồng Nai có lợi thế phát triển nuôi trồng thủy sản. Giá trị sản xuất ngành thủy sản trên địa bàn tỉnh luôn đứng tốp đầu về mức tăng trưởng. Đặc biệt, mô hình nuôi tôm công nghệ cao cho lợi nhuận tốt không ngừng được nhân rộng. Cụ thể, giá trị sản xuất/hécta nuôi tôm công nghệ cao đạt từ 700-800 triệu đồng, thuộc tốp đầu về thu nhập so với các mô hình sản xuất khác.

Ngoài ra, tỉnh cũng đang chú trọng phát triển một số đối tượng vật nuôi có giá trị kinh tế cao như ngành yến sào. Đồng Nai đang đứng đầu khu vực Đông Nam Bộ về phát triển nghề nuôi yến với khoảng 1.370 nhà nuôi yến, sản lượng khoảng 15 tấn/năm.

Bình Nguyên

 

Doanh nghiệp nông nghiệp chỉ bị kiểm tra định kỳ không quá 1 lần mỗi năm

Nhằm xóa bỏ rào cản hành chính, cải cách thể chế và thúc đẩy môi trường kinh doanh thông thoáng hơn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường yêu cầu chấm dứt kiểm tra chồng chéo, chỉ kiểm tra định kỳ không quá một lần mỗi năm và chuyển tư duy quản lý từ kiểm soát sang phục vụ doanh nghiệp tư nhân.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường vừa ban hành Kế hoạch hành động thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chính phủ về phát triển kinh tế tư nhân. Trong đó, nội dung trọng tâm là yêu cầu chấm dứt tình trạng kiểm tra trùng lặp, đảm bảo doanh nghiệp nông nghiệp và môi trường chỉ bị kiểm tra định kỳ không quá một lần mỗi năm, trừ trường hợp đột xuất có dấu hiệu vi phạm rõ ràng.

Kế hoạch của Bộ nhấn mạnh yêu cầu chuyển mạnh tư duy quản lý từ kiểm soát sang phục vụ, lấy doanh nghiệp làm trung tâm trong thiết kế và thực thi chính sách. Bộ yêu cầu thống nhất trong toàn hệ thống chính trị ngành, nghiêm cấm tình trạng lạm dụng quyết định hành chính và tư duy xin - cho, bảo hộ cục bộ ngành.

 Bộ Nông nghiệp và Môi trường yêu cầu chấm dứt kiểm tra chồng chéo, chỉ kiểm tra định kỳ không quá một lần mỗi năm và chuyển tư duy quản lý từ kiểm soát sang phục vụ doanh nghiệp tư nhân.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường yêu cầu chấm dứt kiểm tra chồng chéo, chỉ kiểm tra định kỳ không quá một lần mỗi năm và chuyển tư duy quản lý từ kiểm soát sang phục vụ doanh nghiệp tư nhân.

Đặc biệt, Bộ yêu cầu công bố công khai kế hoạch kiểm tra trên cổng thông tin để cộng đồng doanh nghiệp biết và phối hợp thực hiện. Đồng thời đẩy mạnh hình thức kiểm tra từ xa, kiểm tra điện tử để giảm ít nhất can thiệp trực tiếp và chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp.

Song song với cải cách hành chính, Bộ cũng định hướng điều chỉnh luật pháp để tháo gỡ các nút thắt về đất đai và môi trường - hai yếu tố then chốt trong sản xuất nông nghiệp. Cụ thể, Bộ đang xây dựng các kiến nghị sửa đổi Luật Đất đai và Luật Bảo vệ môi trường nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho doanh nghiệp tiếp cận đất đai và nguồn vốn xanh.

Bộ đề xuất bổ sung quy định kiểm soát giá đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, đồng thời yêu cầu các địa phương dành quỹ đất phát triển hạ tầng cho các doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, startup nông nghiệp thuê lại với hỗ trợ chi phí phù hợp.

Về môi trường, Bộ đang xây dựng chính sách hỗ trợ lãi suất cho các dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng tiêu chuẩn ESG, đồng thời trình Thủ tướng ban hành hướng dẫn xác định dự án xanh trong năm 2025.

Trong bối cảnh số hóa trở thành công cụ bắt buộc, Bộ Nông nghiệp và Môi trường coi đây là đòn bẩy quan trọng để giảm chi phí tuân thủ pháp luật, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển bền vững. Do đó, cùng với cải cách thể chế, Bộ chỉ đạo đẩy mạnh chuyển đổi số toàn ngành, ưu tiên xây dựng các nền tảng dữ liệu phục vụ doanh nghiệp và giảm chi phí hành chính.

Trong năm 2025, Bộ sẽ hoàn thiện Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai và kết nối với các hệ thống dữ liệu quốc gia khác. Song song đó, Cục Chuyển đổi số sẽ phát triển các phần mềm chuyên ngành, cung cấp công cụ cảnh báo sớm nguy cơ vi phạm cho doanh nghiệp và hộ kinh doanh, đồng thời đảm bảo khả năng liên thông giữa các hệ thống dữ liệu trong nước và quốc tế.

Tại Cổng thông tin điện tử của Bộ, một chuyên mục riêng sẽ được xây dựng để tiếp nhận và xử lý phản ánh, kiến nghị từ doanh nghiệp - kênh tương tác trực tiếp giữa cơ quan quản lý và cộng đồng kinh doanh.

Đặc biệt, để hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân hiệu quả, Bộ nông nghiệp và môi trường còn quan tâm tới chính sách tài chính, tín dụng và đề xuất đổi mới theo hướng tiếp cận dễ hơn, nhanh hơn.

Bộ yêu cầu rà soát toàn bộ hệ thống chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, đề xuất sửa đổi theo hướng đơn giản hóa thủ tục, tăng định mức hỗ trợ sát với thực tế thị trường và khuyến khích các hiệp hội, viện nghiên cứu, trường đại học tham gia vào quá trình thực hiện chính sách.

Các chính sách này tập trung vào doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, hộ kinh doanh trong hợp tác xã, trang trại, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng tiếp cận các nguồn lực đất đai, tín dụng và đổi mới công nghệ.

Ngoài ra, Bộ cũng thúc đẩy kết nối giữa doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI, tham gia các chuỗi cung ứng, hình thành nhóm doanh nghiệp vừa và lớn đủ năng lực vươn tầm khu vực, toàn cầu, đặc biệt thông qua chương trình phát triển 1.000 doanh nghiệp tiêu biểu tiên phong.

Nhằm bảo đảm hiệu quả thực thi, Bộ yêu cầu các đơn vị trực thuộc theo dõi tiến độ triển khai, báo cáo định kỳ về Bộ Tài chính trước ngày 30/11 hàng năm. Các đơn vị thực hiện tốt sẽ được khen thưởng và tôn vinh, đặc biệt là các mô hình doanh nghiệp sáng tạo, hiệu quả trong khu vực nông nghiệp và môi trường.

Hồng Hương

 

Khát vọng về một nền nông nghiệp sạch, bền vững của chàng trai du học sinh tại Nga

Nông nghiệp là lĩnh vực mà chàng trai Nguyễn Hoàng Duy lựa chọn. Giờ đây, du học tại Nga, Duy không chỉ theo đuổi nghiên cứu về khả năng chống chịu mặn của cây trồng mà còn ấp ủ khát vọng góp sức xây dựng một nền nông nghiệp sạch, hiện đại và bền vững cho quê hương.

Chàng trai có vóc dáng cao lớn và gương mặt thân thiện. Anh cho biết mình đang học về nông nghiệp, Thạc sĩ ngành Sinh lý Thực vật, tại ĐH Nông nghiệp Quốc gia Nga mang tên K.A.Timiryazev.

Con đường đến với nông nghiệp

Sao lại chọn nông nghiệp, một ngành không phải là “thời thượng” đối với giới trẻ bây giờ? Nguyễn Hoàng Duy tâm sự rằng: nông nghiệp chính là trái tim của quá trình sản xuất. Khi còn là học sinh lớp 3 của một ngôi trường tiểu học ở thành phố Thanh Hóa, Duy được biết tới nhà khoa học Lương Định Của và những câu chuyện về ông qua sách giáo khoa khiến cậu bé Duy trở nên yêu thích nông nghiệp.

Năm 2010, khi mới 10 tuổi, xem phim “Bí thư Tỉnh ủy”, cậu ấn tượng với nhân vật Kim – nguyên mẫu của Bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc, người luôn trăn trở về đồng ruộng và cuộc sống của nông dân. Những câu chuyện đó khơi gợi trong Duy khát vọng cống hiến cho quê hương, đất nước.

 Nguyễn Hoàng Duy làm việc trong khu thực hành cây giống của trường

Nguyễn Hoàng Duy làm việc trong khu thực hành cây giống của trường

Từng có ước mơ làm thầy giáo, rồi bác sĩ y học cổ truyền, nhưng sau đó Duy chọn nông nghiệp. Khi lên đại học, được một thầy giáo từng du học ở Nga hướng dẫn; những câu chuyện về nước Nga, về các nhà bác học Nga, nền nông nghiệp tiên tiến của Nga đã khiến Duy lựa chọn hướng sang Nga du học và năm 2023, Duy được học bổng Nhà nước đi du học Thạc sĩ ngành Sinh lí Thực vật tại Nga.

Duy chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ là nghiên cứu về khả năng chống chịu của cây dưa chuột trong môi trường đất mặn. Duy cho biết, nghiên cứu này của mình là tiền đề để ứng dụng các thành tựu khoa học để sản xuất rau xanh phục vụ những vùng đất bị nhiễm mặn và nơi hải đảo tiền tiêu của Tổ quốc.

“Hiến kế” phát triển nông nghiệp Việt Nam

Là một người trẻ luôn khát khao cống hiến, Nguyễn Hoàng Duy cũng trăn trở giãi bày về những điều mà theo anh, có thể áp dụng để phát triển nền nông nghiệp nước nhà. Bằng kinh nghiệm của bản thân, Duy chỉ ra những điểm còn hạn chế của nông nghiệp của Việt Nam như: phần lớn nông dân vẫn đang làm nông dựa trên kinh nghiệm và tư duy cũ; lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật; quy hoạch vùng trồng trọt và dự báo thời tiết phục vụ cho nông nghiệp còn chưa tốt; tình hình kiểm định nông sản chưa tốt; sản xuất chưa gắn liền với hoạt động bảo quản và chế biến nông sản; công tác thu thập nguồn gen quý còn hạn chế…

Duy mạnh dạn đề xuất: “Để Việt Nam có thể tận dụng tối đa các thành tựu khoa học nông nghiệp hiện đại, chúng ta không chỉ cần thay đổi tư duy và nâng cao nhận thức của người nông dân, mà còn cần một cuộc cách mạng toàn diện mang tính đột phá trong phương pháp tiếp cận và chính sách phát triển nông nghiệp”

Thứ nhất, cần xây dựng một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo nông nghiệp, trong đó các trung tâm nghiên cứu và doanh nghiệp công nghệ cao trở thành những “trung tâm đổi mới mở”, hợp tác chặt chẽ với cộng đồng nông dân qua các nền tảng số hóa, thực hiện chuyển đổi số toàn diện trong sản xuất và tiêu thụ. Áp dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, và blockchain (công nghệ chuỗi khối) để theo dõi, quản lý, tối ưu hóa từng khâu trong chuỗi giá trị nông nghiệp, từ giống cây trồng, phân bón, thuốc trừ sâu, đến tiêu thụ, xuất khẩu.

Thứ hai, cần thành lập các “đặc khu nông nghiệp công nghệ cao”, nơi tập trung các nhà khoa học, doanh nghiệp khởi nghiệp, và nông dân tiên phong trong các dự án thử nghiệm và ứng dụng các mô hình sản xuất mới. Những khu vực này sẽ trở thành các “trường đại học thực tế”, nơi sáng tạo và đổi mới được thúc đẩy mạnh mẽ, giúp hình thành các chuẩn mực mới về sản xuất nông nghiệp bền vững và hiện đại.

Thứ ba, cần thúc đẩy mạnh mẽ việc bảo tồn và phát triển nguồn gen quý hiếm bằng cách thành lập các “quỹ nguồn gen quốc gia”, kết hợp với công nghệ lưu trữ số hóa và trí tuệ nhân tạo (AI) để phân tích, phục tráng giống và nhân giống và mở rộng quy mô các giống cây trồng, vật nuôi đặc biệt phù hợp với biến đổi khí hậu và thích ứng cao.

Thứ tư, cần xây dựng một hệ thống chính sách đột phá, khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ, các cuộc thi khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp, đồng thời áp dụng các hình thức tài chính mới như quỹ đầu tư mạo hiểm, hợp tác chiến lược quốc tế để rót vốn vào các dự án nông nghiệp công nghệ cao.

Để thực hiện những bước đột phá này, chúng ta cần một chiến lược quốc gia dài hạn, rõ ràng, có tầm nhìn xa trông rộng, kết hợp giữa chính sách, công nghệ và cộng đồng. Mỗi người dân, từ nông dân đến các nhà khoa học, doanh nghiệp, chính quyền đều phải đoàn kết vào một “liên minh đổi mới sáng tạo quốc gia”, nơi sức mạnh tập thể sẽ giúp đất nước vươn lên trở thành trung tâm nông nghiệp hiện đại, tự chủ, sáng tạo và bền vững.

Tích cực đóng góp cho cộng đồng, dù ở bất cứ đâu

Ở Nga, Nguyễn Hoàng Duy luôn tích cực tham gia các hoạt động của Đoàn thanh niên, Hội sinh viên Việt Nam, Hội người Việt và Đại sứ quán Việt Nam tại LB Nga. Là thành viên của câu lạc bộ “6730 – Đồng hành cùng du học Nga” (trực thuộc Hội sinh viên Việt Nam tại Nga), Duy nhiệt tình tư vấn cho các bạn sinh viên có nguyện vọng du học Nga về thủ tục, giấy tờ và chia sẻ kinh nghiệm sống để sớm thích nghi với môi trường mới. Duy cũng thường xuyên hỗ trợ phiên dịch cho cộng đồng người Việt tại Nga, giúp đỡ thủ tục hành chính và cập nhật các quy định pháp luật của Nga cho bà con.

Là Bí thư Chi Đoàn và Phó trưởng ban Văn hóa của Hội đồng Sinh viên Quốc tế tại trường, Duy luôn cố gắng hết mình để góp phần nâng cao phong trào sinh viên quốc tế tại trường, đồng thời quảng bá vẻ đẹp văn hóa, lịch sử Việt Nam đến bạn bè quốc tế.

 Duy tích cực tham gia mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ ở trường

Duy tích cực tham gia mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ ở trường

Mới đây, tham gia Cuộc thi “Olympic tiếng Nga như ngoại ngữ Quốc tế lần thứ XI “Chúng ta nói tiếng Nga” với chủ đề dành cho các thí sinh thi trực tuyến “Lòng yêu Tổ Quốc nghĩa là gì” do Trường Đại học Tambov tổ chức; Duy đã giành được giải Nhất. Cuộc thi này do cô giáo Elena Leonidovna Cherkashina giới thiệu và khuyến khích Duy tham gia.

Duy bày tỏ những cảm xúc chân thành về đất nước và trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với Tổ quốc, trong đó nhấn mạnh rằng tình yêu quê hương là giá trị thiêng liêng, luôn cháy bỏng trong trái tim mỗi người và thể hiện qua những hành động cụ thể hàng ngày để góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển, mạnh giàu hơn.

Thúy Hoa/VOV

 

Argentina mở Văn phòng Tùy viên chuyên trách Công - Nông nghiệp tại Việt Nam

Ngày 1.7.2025, Lễ khai trương Văn phòng Tùy viên chuyên trách Công - Nông nghiệp Argentina tại Việt Nam đã diễn ra tại Hà Nội. Tiến sĩ Alonso Pablo Ferrando là đại diện Văn phòng Tùy viên. Đây là văn phòng thứ 6 của Argentina trên toàn cầu.

 Lễ khai trương Văn phòng Tùy viên chuyên trách Công - Nông nghiệp Argentina tại Việt Nam

Lễ khai trương Văn phòng Tùy viên chuyên trách Công - Nông nghiệp Argentina tại Việt Nam

Tham dự Lễ khai trương có ngài Marcos A. Bednarski, Đại sứ Cộng hòa Argentina tại Việt Nam; ông Agustín Tejeda Rodriguez, Phó Quốc vụ khanh phụ trách Thị trường Thực phẩm và Hội nhập quốc tế, Bộ Kinh tế Cộng hòa Argentina; TS. Alonso Pablo Ferrando, Tùy viên chuyên trách Công - Nông nghiệp Cộng hòa Argentina; ông Nguyễn Quang Vinh, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); ông Santiago Bonifacio, Giám đốc Quốc gia về Hợp tác và Điều phối Quốc tế; các thành viên của phái đoàn Argentina.

Dự buổi lễ còn có đại diện các Liên đoàn công nghiệp, sàn giao dịch, Phòng Thương mại công nghiệp của Argentina, đại diện Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, đại diện các cơ quan thông tấn, báo chí; các cơ quan chức năng; đại diện của các tổ chức và học viện; các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và những người bạn của Argentina.

 Đại sứ Cộng hòa Argentina tại Việt Nam Marcos A. Bednarski phát biểu tại Lễ khai trương

Đại sứ Cộng hòa Argentina tại Việt Nam Marcos A. Bednarski phát biểu tại Lễ khai trương

Việt Nam là đối tác quan trọng của Argentina

Phát biểu tại buổi lễ, Đại sứ Marcos A. Bednarski cho biết: “Việt Nam là đối tác quan trọng của Argentina, là đối tác thương mại khu vực lớn thứ 3 của Argentina tại châu Á (sau Trung Quốc và Ấn Độ) và lớn thứ 7 trên toàn cầu”.

“Chúng tôi hy vọng, tại Hội thảo cơ hội kinh doanh Argentina - Việt Nam và các cuộc gặp gỡ B2B giữa các doanh nghiệp hôm nay, các cơ quan chức năng Việt Nam sẽ cùng chúng tôi tham gia vào giai đoạn mới này.

Từ đó, mang lại động lực lớn hơn cho hợp tác nông nghiệp, công nghiệp và các cuộc đàm phán mở cửa thị trường cho các sản phẩm mới, nâng cao sự đa dạng hóa thương mại song phương của chúng ta”, Đại sứ nhấn mạnh.

Tháng 12.2023, TS. Javier Milei nhậm chức Tổng thống Argentina, mở ra một giai đoạn rất tích cực cho nền kinh tế Argentina, với cam kết mạnh mẽ ổn định các biến số kinh tế vĩ mô và kiểm soát hiệu quả chi tiêu công.

Đại sứ phát biểu: “Các từ “phi quản lý”, “phi quan liêu hóa”, “mở cửa nền kinh tế và hội nhập quốc tế”… là một phần của vốn từ vựng đi kèm với xã hội của chúng tôi, thể hiện nhận thức về “những thay đổi sâu sắc” cuối cùng sẽ cho phép Argentina thoát khỏi tình trạng trì trệ, đánh dấu sự phát triển kinh tế của nước trong những năm gần đây.

 Đại sứ quán Argentina tại Việt Nam và Phái đoàn Quan chức và Kinh tế - Thương mại Argentina tham gia họp báo sau Lễ khai trương

Đại sứ quán Argentina tại Việt Nam và Phái đoàn Quan chức và Kinh tế - Thương mại Argentina tham gia họp báo sau Lễ khai trương

Hoạt động mua bán nước ngoài đã được tạo điều kiện thuận lợi, các thủ tục đã được linh hoạt hơn, thuế nhập khẩu đã được hạ xuống, trong số nhiều biện pháp khác được thực hiện với mục đích tạo ra một môi trường kinh doanh năng động hơn và trên hết là mang lại khả năng dự đoán cao hơn cho các hoạt động kinh tế của Argentina.

Trong quý đầu tiên của năm 2025, theo dữ liệu từ Viện Thống kê và Điều tra Dân số Quốc gia, nền kinh tế Argentina đã tăng trưởng 5,8% so với cùng kỳ năm 2024, đầu tư tăng 31,8% và tiêu dùng tư nhân tăng 11,6%. Xuất khẩu tăng 7,2% và nhập khẩu tăng 42,8%.

Ông Agustín Tejeda Rodriguez, Phó Quốc vụ khanh phụ trách Thị trường Thực phẩm và Hội nhập quốc tế, Bộ Kinh tế Cộng hòa Argentina cho biết: “Đây là lần thứ 2 tôi đến Việt Nam trong vòng 1 năm và tôi thấy, Việt Nam rất gần gũi, đến Việt Nam như trở về nhà”.

 Các đại biểu của Argentina tham dự Lễ khai trương

Các đại biểu của Argentina tham dự Lễ khai trương

“Tôi rất vui khi được có mặt tại Hà Nội hôm nay để khai trương Văn phòng Tùy viên Chuyên trách Công - Nông nghiệp Argentina tại Việt Nam. Điều này đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của thị trường Việt Nam và nhấn mạnh sự hiện diện của Argentina tại đất nước các bạn”, ông Agustín Tejeda Rodriguez nói.

Chuyến thăm của Phái đoàn Quan chức và Kinh tế - Thương mại Argentina tới Việt Nam lần này cũng thể hiện chính sách của Argentina trong mối quan hệ đối với Việt Nam, ông Tejeda nhấn mạnh: “Trong bối cảnh thế giới đang có nhiều căng thẳng, dịch bệnh, xung đột địa chính trị, kinh tế nhiều nước đi vào khủng hoảng, Chính phủ Argentina rất coi trọng mối quan hệ tốt đẹp với Việt Nam và mong muốn thúc đẩy phát triển kinh tế, thương mại, đầu tư giữa 2 nước”.

“Sau chuyến đi này, ngoài các hợp tác về công - nông nghiệp, công nghệ sinh học, chúng tôi cũng sẽ đề xuất dự án hợp tác về bảo vệ động thực vật”, ông Tejeda cho biết.

 Đại sứ Cộng hòa Argentina tại Việt Nam Marcos A. Bednarski phát biểu tại Hội thảo cơ hội kinh doanh Argentina - Việt Nam

Đại sứ Cộng hòa Argentina tại Việt Nam Marcos A. Bednarski phát biểu tại Hội thảo cơ hội kinh doanh Argentina - Việt Nam

Hợp tác cùng có lợi

Từ ngày 30.6-4.7, Phái đoàn Quan chức và Kinh tế - Thương mại Argentina đã đến thăm và làm việc tại Việt Nam.

Phái đoàn do Phó Quốc vụ khanh phụ trách Thị trường Thực phẩm và Hội nhập quốc tế, Bộ Kinh tế Cộng hòa Argentina, ông Agustín Tejeda Rodriguez làm Trưởng đoàn.

Phái đoàn chính thức bao gồm các công ty Argentina trong lĩnh vực thực phẩm và đồ uống cùng đại diện từ các tổ chức sau: Sàn giao dịch ngũ cốc Buenos Aires; Trung tâm Các doanh nghiệp chế biến gia cầm (CEPA); Phòng Thương mại Công nghiệp Chế biến Dầu và Trung tâm Xuất khẩu Ngũ cốc (CIARA - CEC); Liên đoàn Công nghiệp Chế biến thịt Argentina (FIFRA) và Viện Xúc tiến Thịt bò Argentina (IPCVA).

Phái đoàn sẽ có các hoạt động tại Hà Nội và TP.HCM, với sự đồng hành của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). Chương trình sẽ bao gồm Hội thảo “Cơ hội kinh doanh Argentina - Việt Nam” và các cuộc họp B2B giữa các công ty Argentina và Việt Nam tại cả hai thành phố.

Phái đoàn sẽ có các cuộc họp với các quan chức từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Công thương Việt Nam để thúc đẩy trao đổi về nhiều chủ đề khác nhau trong chương trình nghị sự song phương.

Argentina và Việt Nam đã có quan hệ Đối tác toàn diện từ năm 2010 và thương mại song phương đạt 4 tỉ đô la vào năm 2024.

 Ông Nguyễn Quang Vinh, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng Argentina và Việt Nam có nhiều dư địa để phát triển, hợp tác, có thể mở ra các lĩnh vực khác như: Giáo dục, Y tế, Du lịch, năng lượng sạch...

Ông Nguyễn Quang Vinh, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng Argentina và Việt Nam có nhiều dư địa để phát triển, hợp tác, có thể mở ra các lĩnh vực khác như: Giáo dục, Y tế, Du lịch, năng lượng sạch...

Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, xuất khẩu của Argentina sang thị trường Việt Nam tăng 40,4% trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2025, trong khi xuất khẩu của Việt Nam sang Argentina tăng 316% so với cùng kỳ năm 2024. Tổng thương mại song phương tăng 67,1%.

Ở chiều ngược lại, từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2025, xuất khẩu của Việt Nam sang Argentina tăng 243,6% so với cùng kỳ năm 2024. Một số mặt hàng tăng trưởng theo cấp số nhân: Điện thoại di động và linh kiện tăng 636%; giày dép tăng 146%.

Tại Hội thảo cơ hội kinh doanh Argentina - Việt Nam, Đại sứ Marcos A. Bednarski đưa ra một ví dụ cụ thể về cách chính sách kinh tế hiện tại tác động trực tiếp đến mối quan hệ song phương của 2 nước.

“Vài tuần trước, lô hàng sản phẩm đầu tiên do Viettel sản xuất đã cập cảng Buenos Aires: 560 km cáp quang và 500 modem sẽ được sử dụng để cải thiện viễn thông. Đây là khởi đầu của một quá trình mới”, Đại sứ nói.

 Ông Agustín Tejeda Rodriguez, Phó Quốc vụ khanh phụ trách Thị trường Thực phẩm và Hội nhập quốc tế, Bộ Kinh tế Cộng hòa Argentina, Trưởng phái đoàn Quan chức và Kinh tế - Thương mại Argentina thăm và làm việc tại Việt Nam lần này, tin tưởng vào sự phát triển, hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư sắp tới giữa 2 nước

Ông Agustín Tejeda Rodriguez, Phó Quốc vụ khanh phụ trách Thị trường Thực phẩm và Hội nhập quốc tế, Bộ Kinh tế Cộng hòa Argentina, Trưởng phái đoàn Quan chức và Kinh tế - Thương mại Argentina thăm và làm việc tại Việt Nam lần này, tin tưởng vào sự phát triển, hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư sắp tới giữa 2 nước

Chúng ta sẽ thấy sự phát triển của hàng xuất khẩu của Argentina, với thặng dư đáng kể cho đất nước chúng ta, nhưng tập trung nhiều vào một số lĩnh vực, chủ yếu là thức ăn chăn nuôi.

“Tôi cũng đã nhấn mạnh trong nhiều cuộc họp khác nhau mà tôi tổ chức rằng thặng dư cho Argentina càng lớn thì nền kinh tế Việt Nam càng được hưởng lợi. Chúng tôi cung cấp cho bạn da sống, được chế biến tại đây bởi lao động Việt Nam và đóng vai trò là đầu vào cho ngành công nghiệp Việt Nam. Bạn sản xuất giày và sau đó bán chúng cho chúng tôi”, Đại sứ chia sẻ.

Khi chúng ta đang đối mặt với một thế giới với nhiều bất ổn, với những thách thức về mặt mô hình sản xuất và tiêu dùng, chúng ta cách nhau 17.000 km, nhưng bất chấp điều này, chúng ta đã tìm ra cách để thương mại song phương của 2 nước tiếp tục tăng trưởng.

Vào năm 2025, Việt Nam và Argentina sẽ kỷ niệm 52 năm kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao.

“Cá nhân tôi tin rằng đây là những năm thành công của sự tăng trưởng, hợp tác và hiểu biết lẫn nhau, là sự phù hợp giữa các nền kinh tế bổ sung. Chúng ta đang ở giai đoạn đầu của một kỷ nguyên mới, rất hứa hẹn dựa trên dữ liệu tôi đã cung cấp. Các biện pháp mới mà đất nước chúng ta đang thực hiện sẽ tạo ra những thay đổi về mặt cấu trúc cho các tác nhân kinh tế và tạo ra các cơ hội kinh doanh và đầu tư mới”, Đại sứ tin tưởng.

NGUYỄN ANH

 

Hiếu Giang tổng hợp

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop