Ngành Nông nghiệp và Môi trường Sơn La đang tập trung đẩy mạnh chuyển đổi số, bước đầu triển khai chính quyền điện tử, dịch vụ công trực tuyến… Phấn đấu đến năm 2030, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu số chuyên ngành, đồng bộ và số hóa toàn diện, đáp ứng lộ trình chuyển đổi số của tỉnh và cả nước.

Bắt nhịp chuyển đổi số
Xác định chuyển đổi số là xu hướng tất yếu, thời gian qua, ngành đã phối hợp với các đơn vị viễn thông tổ chức hội thảo, tập huấn cho cán bộ, công chức, viên chức; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực. Hiện, Sở đã thành lập Trung tâm chuyển đổi số với 15 biên chế và hợp đồng, là đầu mối thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số. 100% cán bộ, công chức được trang bị máy tính; hệ thống mạng nội bộ và thiết bị công nghệ, cơ bản đáp ứng yêu cầu công việc.

Ông Nguyễn Xuân Thao, Giám đốc HTX Cà phê Bích Thao Sơn La, cho biết: HTX đã ứng dụng công nghệ số vào quản lý sản xuất như xây dựng website, đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử, dán tem điện tử chống hàng giả; triển khai hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử. Thực hiện điều khiển tưới bằng điện thoại thông minh để tiết kiệm chi phí và bảo đảm dinh dưỡng cho cây trồng.
Công ty CP Chế biến nông sản BHL Sơn La gắn sản xuất với bảo vệ môi trường bằng việc lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, camera giám sát kết nối trực tiếp với Sở Nông nghiệp và Môi trường để theo dõi hoạt động thu gom, xử lý chất thải từ chế biến tinh bột sắn. Bà Chử Thị Thu Hằng, Phó Giám đốc Công ty, thông tin: Công ty đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng phần mềm quản lý hồ sơ, kế toán, giám sát sản xuất và xử lý nước thải. Việc này giúp nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm chi phí nhân công, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan chức năng theo dõi, hỗ trợ doanh nghiệp vận hành hệ thống xử lý môi trường hiệu quả hơn.
Việc ứng dụng công nghệ được ngành chú trọng, với phần mềm quản lý văn bản và điều hành triển khai hiệu quả; 100% văn bản đi, đến được xử lý qua môi trường mạng, ký số cơ quan và cá nhân lãnh đạo, góp phần nâng cao chất lượng quản lý, điều hành.
Các phần mềm phục vụ quản lý nhà nước trong ngành Nông nghiệp và Môi trường đã được triển khai ở một số lĩnh vực: Quản lý đất đai sử dụng phần mềm Vietbando; môi trường dùng phần mềm quản lý môi trường và Envisoft để theo dõi số liệu quan trắc tự động, liên tục; tài nguyên nước có phần mềm quản lý riêng; khí tượng thủy văn sử dụng QGIS để giám sát diễn biến rừng.
Nhận diện điểm nghẽn
Ông Phùng Kim Sơn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Sơn La, cho biết: Giai đoạn 2020 - 2025, ngành đã bắt đầu triển khai chuyển đổi số nhưng còn hạn chế do thiếu nhân lực công nghệ thông tin. Nhân sự chuyên trách chuyển đổi số và an toàn thông tin chưa đến 1% tổng biên chế, nên khó khăn trong vận hành hệ thống.
Hạ tầng số bước đầu được đầu tư với 100% cán bộ, công chức có máy tính, mạng nội bộ đã nâng cấp. Tuy nhiên, chưa xây dựng nền tảng dữ liệu dùng chung và trung tâm dữ liệu tập trung. Máy chủ hiện chủ yếu phục vụ lưu trữ riêng lẻ theo từng lĩnh vực; cơ sở dữ liệu còn phân tán, thiếu kết nối. Một số CSDL như đất đai, môi trường, tài nguyên nước, rừng... đã hình thành bước đầu nhưng chỉ phục vụ nội bộ, chưa khai thác giá trị dữ liệu hoặc tích hợp liên thông. Các CSDL khác như khoáng sản, địa lý, trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản... chưa được xây dựng.

Một số dữ liệu hiện đang được cung cấp định kỳ trên các nền tảng chuyên ngành như: CSDL giám sát, đánh giá ngành nông nghiệp (giamsatdanhgia.mard.gov.vn); hệ thống quản lý dịch bệnh động vật (vahis.vn); CSDL mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói xuất khẩu (farmdiary.online)...
Theo ông Phùng Kim Sơn, ngành Nông nghiệp và Môi trường Sơn La mới ở giai đoạn đầu của chuyển đổi số, dù đã có bước khởi động như triển khai chính quyền điện tử, dịch vụ công trực tuyến. Tuy nhiên, ngành vẫn thiếu cơ sở dữ liệu số, nhân lực công nghệ còn yếu, ứng dụng công nghệ hiện đại còn hạn chế. Đây là thách thức lớn, đòi hỏi toàn ngành phải quyết tâm cao hơn để theo kịp lộ trình chuyển đổi số của tỉnh và quốc gia.
Hợp tác toàn diện
Theo Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định ưu tiên chuyển đổi phương thức sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững, bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên và thích ứng biến đổi khí hậu; đồng thời, đề cao vai trò người nông dân là chủ thể phát triển, gắn với đổi mới tổ chức sản xuất và xây dựng nông thôn hiện đại.
Trung tuần tháng 5/2025, Sở Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Viễn thông Sơn La tổ chức hội thảo thúc đẩy chuyển đổi số ngành Nông nghiệp và Môi trường. Tại đây, đại diện Trung tâm Giải pháp đất đai và tài nguyên môi trường (Tập đoàn VNPT) giới thiệu kiến trúc tổng thể chuyển đổi số và trình diễn các nền tảng công nghệ lõi như: hạ tầng dữ liệu không gian địa lý, công nghệ viễn thám, GeoAI phục vụ dự báo, cảnh báo sớm trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.

Trong khuôn khổ hội thảo, VNPT Sơn La và Sở Nông nghiệp và Môi trường Sơn La đã ký biên bản thỏa thuận hợp tác chuyển đổi số giai đoạn 2025 - 2030. Theo đó, VNPT Sơn La cam kết đồng hành trong khảo sát, tư vấn quy hoạch, xây dựng mô hình chuyển đổi số, triển khai thí điểm phần mềm, phát triển cơ sở dữ liệu đồng bộ, liên thông, phù hợp với thực tiễn ngành nông nghiệp và môi trường tỉnh. Hai bên thống nhất phối hợp tổ chức bồi dưỡng, đào tạo chuyển đổi số cho cán bộ, chuyên gia công nghệ thông tin; đồng thời phổ cập kỹ năng số cho người dân, doanh nghiệp và HTX trong lĩnh vực nông nghiệp, môi trường.
Đến năm 2030, ngành Nông nghiệp và Môi trường Sơn La đặt mục tiêu xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu số chuyên ngành về đất đai, nông nghiệp, thủy lợi, rừng, môi trường, đa dạng sinh học... được số hóa toàn diện, cập nhật thường xuyên và kết nối liên thông với CSDL quốc gia.
Sở Nông nghiệp và Môi trường sẽ phát triển Cổng thông tin tích hợp AI, hỗ trợ phân tích dữ liệu lớn phục vụ quản lý, điều hành hiệu quả. Đồng thời, ứng dụng công nghệ viễn thám và thiết bị bay không người lái để giám sát đất đai, khoáng sản; xây dựng hạ tầng dữ liệu không gian GIS tích hợp bản đồ địa chính, quy hoạch, vùng cây trồng, vùng sạt lở...
Cùng với đó, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp thông minh, khuyến khích ứng dụng công nghệ số như tưới tự động, cảm biến vi khí hậu, phần mềm truy xuất nguồn gốc... Hướng tới xây dựng 1 khu và 24 vùng nông nghiệp công nghệ cao, nâng tỷ trọng giá trị nông nghiệp công nghệ cao lên 30-40% toàn ngành.
Kết quả thu thập thông tin chính xác sẽ kiến tạo nông thôn bền vững
Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp năm 2025 sẽ tiến hành thu thập thông tin tại địa bàn từ ngày 1/7. Đây là cuộc Tổng điều tra nhằm thu thập thông tin toàn diện về tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản; điều kiện kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn; sinh kế và đời sống của người dân. Do đó, kết quả thu thập thông tin chính xác của cuộc Tổng điều tra sẽ kiến tạo nông thôn bền vững.

Kết quả thu thập thông tin chính xác của cuộc Tổng điều trasẽ kiến tạo nông thôn bền vững
Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp là hoạt động thống kê quan trọng, được thực hiện định kỳ 10 năm 1 lần. Năm 2025, Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp thu thập 3 nhóm thông tin về nông thôn, nông nghiệp:
Một là, thực trạng nền sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, gồm: Số lượng đơn vị sản xuất, số lao động và cơ cấu lao động, thời gian lao động; Quy mô sản xuất; Năng lực sản xuất; Tình hình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, ứng dụng kinh tế số; Thực trạng tiếp cận thông tin của các đơn vị sản xuất; Thực hiện truy xuất nguồn gốc sản phẩm, liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; Tác động của sản xuất nông, lâm, thủy sản tới môi trường; thông tin về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và nước biển dâng; Tình hình phát triển kinh tế trang trại; Phát triển sản xuất hiệu quả và bền vững; Vai trò của phụ nữ trong sản xuất nông, lâm, thủy sản; Kết quả hoạt động tự sản, tự tiêu của các hộ dân cư; Tình hình sử dụng đất nông nghiệp.
Hai là, thực trạng nông thôn gồm: Thực trạng và những chuyển biến về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, trong đó có thông tin gắn với tình hình thực hiện mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021-2025; Các hình thức hỗ trợ kinh tế nông thôn (hệ thống khuyến nông, lâm, ngư; tiếp cận thị trường); Vệ sinh môi trường nông thôn; Phát triển sản xuất nông, lâm, thủy sản gắn với chế biến, dịch vụ và du lịch; Tổ hợp tác và làng nghề; Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của UBND xã.
Ba là, thông tin về cư dân nông thôn: Khả năng huy động vốn, tình hình vay vốn, khả năng tiếp cận tín dụng của hộ sản xuất nông, lâm, thủy sản; Đào tạo nghề cho lao động nông thôn và kết quả thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước về cư dân nông thôn; Tình hình sử dụng điện, nước sạch của cư dân nông thôn; Khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Theo Ban Chỉ đạo Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp năm 2025, cuộc điều tra có phạm vi trải rộng trên cả nước, đối tượng và đơn vị điều tra lớn, nội dung điều tra phức tạp, thời gian điều tra kéo dài, số lượng lớn điều tra viên, tổ trưởng, giám sát viên và Ban chỉ đạo các cấp tham gia.
Kết quả của cuộc Tổng điều tra là nguồn dữ liệu quan trọng, phục vụ công tác hoạch định chính sách, lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia.
Kinh tế hợp tác giúp đồng bào Giẻ Triêng ở Phước Sơn thay đổi nếp nghĩ, cách làm
Từ việc phát triển mô hình mới, cách làm mới, tạo chuỗi liên kết trong sản xuất nông nghiệp của các HTX, tổ hợp tác đã giúp cho đồng bào Giẻ Triêng ở huyện Phước Sơn (tỉnh Quảng Nam) thay đổi nếp nghĩ, cách làm nên hiệu quả kinh tế mang lại cao hơn trước rất nhiều. Nhờ vậy mà cảnh nghèo khó ở nơi đây đã dần được xóa bỏ.
Anh Hồ Văn Beo là người đồng bào Giẻ Triêng ở thôn 2 xã Phước Năng (huyện Phước Sơn). Vài năm trước, khi tham gia vào HTX Nông nghiệp và Dịch vụ Tổng hợp Phước Năng đã tạo ra bước ngoặt trong việc thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp của anh.
Thay đổi nhận thức từ cách làm mới
Anh Beo cho biết: Sau khi được tham gia cùng HTX, tôi được tạo điều kiện về công ăn việc làm, từ mô hình HTX giúp tôi học hỏi kinh nghiệm, quy trình sản xuất của cây trồng, kỹ thuật trồng, cũng như thay đổi nhận thức của bà con Giẻ Triêng về cách làm mới sao cho hiệu quả kinh tế.

Anh Hồ Văn Beo (bên phải) là người đồng bào Giẻ Triêng ở xã Phước Năng đã có những thay đổi trong tư duy sản xuất nông nghiệp nhờ tham gia HTX.
Với việc ươm các loại cây giống như keo, quế, ba kích, dỗi, đẳng sâm…anh Beo cùng với đồng bào Giẻ Triêng ở xã Phước Năng được HTX hướng dẫn kỹ thuật về quy trình chăm sóc, bón phân, trị sâu bệnh để nâng cao năng suất.
Riêng đối với anh Beo, qua mô hình vườn ươm cây giống, anh vừa có thêm thu nhập, vừa nâng cao trình độ sản xuất so với trước đây. “Khi tham gia HTX tôi có việc làm ổn định, từ mô hình của HTX mà tôi học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm, kiến thức bổ ích để áp dụng vào thực tiễn. Bản thân tôi sau khi được nâng cao nhận thức thì cũng mạnh dạn tuyên truyền cho bà con nhân dân phải thay đổi nếp nghĩ, cách làm để việc sản xuất được hiệu quả hơn”, anh nói.
Thực ra, thời gian đầu bà con Giẻ Triêng ở xã Phước Năng khá bỡ ngỡ khi tham gia vào HTX Nông nghiệp và Dịch vụ Tổng hợp Phước Năng. Tuy nhiên, nhờ có sự hỗ trợ của Nhà nước và tính hiệu quả của HTX nên bà con thấy được lợi ích của mình và tham gia ngày càng tích cực.
Lãnh đạo HTX này cho biết luôn cố gắng vận động bà con tham gia cùng HTX để sản xuất ra các sản phẩm đặc trưng để bán lấy tiền. HTX cũng đang hướng tới xây dựng sản phẩm OCOP lúa hữu cơ, gạo lứt hữu cơ để giúp bà con Giẻ Triêng ở Phước Năng thoát nghèo bền vững.
Từ việc vận động bà con Giẻ Triêng ở Phước Năng thay đổi nếp nghĩ, cách làm nên hiệu quả sản xuất hiện nay đạt cao hơn trước rất nhiều, khác hẳn so với cách làm truyền thống như trước đây.
Chẳng hạn, với mô hình trồng lúa hữu cơ của HTX thì bà con được tập huấn kỹ thuật, cách bón phân, chăm sóc, phòng trừ dịch hại…tất cả đều phải thực hiện theo hướng hữu cơ, không có sự can thiệp bởi hóa chất bảo vệ thực vật. Nhờ đó mà quy mô của mô hình trồng lúa hữu cơ tại địa phương tăng lên hàng chục héc ta, tăng năng suất và giá bán gấp 3-4 lần, giúp bà con nâng cao thu nhập.
Mang lại cuộc sống đủ đầy
Không chỉ ở Phước Năng, đồng bào Giẻ Triêng trong các xã khác của huyện Phước Sơn đang có những chuyển biến trong tư duy sản xuất nông nghiệp, thay đổi nếp nghĩ cách làm và tham gia vào hoạt động kinh tế hợp tác để có cuộc sống đủ đầy hơn.

Nhờ cách làm mới, tạo chuỗi liên kết trong sản xuất nông nghiệp của các HTX, tổ hợp tác đã giúp cho đồng bào Giẻ Triêng ở huyện Phước Sơn có nhà cửa khang trang.
Như ở thôn 1 xã Phước Đức (huyện Phước Sơn) là nơi mà người Bhnong (dân tộc Giẻ Triêng) chiếm hơn 60%, đã biết áp dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất nên nhiều hộ dân đã thoát nghèo và ổn định cuộc sống.
Điển hình như hộ gia đình chị Hồ Thị Nhé đã mạnh dạn đầu tư phát triển kinh tế trang trại tổng hợp, với cây trồng chủ lực là keo lai và phát triển chăn nuôi bò, heo đen (bản địa), gà ta thả vườn.
Để nâng cao hiệu quả mô hình, chị dành nhiều thời gian tham gia các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật do ở tỉnh Quảng Nam và huyện Phước Sơn tổ chức. Chị cũng tích cực tham gia sinh hoạt hội làm vườn nhằm học tập kinh nghiệm, mở rộng mối quan hệ để liên kết bao tiêu sản phẩm.
Nhờ vừa học hỏi vừa ứng dụng vào thực tế nên những năm qua, loại cây trồng, con vật nuôi trong trang trại của chị Nhé sinh trưởng và phát triển ổn định, cho nguồn thu năm sau cao hơn năm trước, như hồi năm rồi đạt doanh thu hơn 300 triệu đồng. Qua đó giúp gia đình chị vươn lên thoát nghèo bền vững, ổn định cuộc sống và xây được ngôi nhà khang trang, có tiền nuôi con ăn học…
Hay như ở thôn 1, xã Phước Chánh (huyện Phước Sơn) có tổ thu mua quế với 16 thành viên, trong đó chủ yếu là bà con Giẻ Triêng. Nhờ tổ này hoạt động hiệu quả, đầu ra ổn định, đã giúp tạo công ăn việc làm, tăng cao thu nhập cho bà con.
Như chia sẻ bà Hồ Thị Hương - người Giẻ Triêng, ở thôn 1, xã Phước Chánh, vừa là thành viên và vừa lao động ở tổ thu mua quế: Mỗi tháng tôi nhận được 5 - 6 triệu đồng, có tiền chăm lo cho gia đình, mà công việc cũng không nặng nhọc lắm khi tham gia vào các công đoạn, lột vỏ, tỉa cành, hạ cây, đập vỏ và phơi quế.
Lãnh đạo xã Phước Chánh cho biết bà con Giẻ Triêng trong xã ngày càng tích cực tham gia vào các mô hình liên kết sản xuất nông nghiệp. Chẳng hạn bên cạnh tổ thu mua cây quế thì chính quyền xã còn triển khai mô hình nuôi heo đen, trồng chanh không hạt, rừng kinh tế và nuôi bò sinh sản. Các mô hình liên kết giúp bà con Giẻ Triêng chia sẻ kỹ thuật, được bao tiêu sản phẩm, từ đó yên tâm sản xuất và tăng thu nhập.
Bắt nhịp thị trường trong sản xuất
Ngoài ra, có thể kể đến Tổ hợp tác sản xuất nông nghiệp và dịch vụ Phước Lộc đang thu hút đồng bào Giẻ Triêng ở xã Phước Lộc (huyện Phước Sơn) tham gia vào mô hình nuôi ong lấy mật.

Với tư duy bắt nhịp thị trường trong sản xuất kinh doanh, các mô hình HTX, tổ hợp tác ở Phước Sơn đang góp phần thay đổi nhận thức của đồng bào Giẻ Triêng.
Nhờ tham gia tổ hợp tác với sự khuyến khích của chính quyền địa phương nhằm tăng sản lượng mật ong và nuôi ong rừng tự nhiên liên kết theo chuỗi giá trị gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, đa số bà con Giẻ Triêng trong xã Phước Lộc đều sở hữu hàng chục bọng ong.
Là một người Giẻ Triêng và tham gia vào tổ hợp tác, anh Hồ Văn Thước, trú thôn 3, xã Phước Lộc, cho biết mỗi bọng ong nuôi trong rừng tự nhiên trong một năm thu ít nhất nửa lít mật, nhiều thì cũng được 5 lít. Nghề làm chỗ để nuôi ong trong rừng đang mang lại thu nhập cho bà con Giẻ Triêng trong xã.
Để góp phần giúp cho đời sống của đồng bào Giẻ Triêng ở Phước Sơn ngày càng đủ đầy thì thời gian qua Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Quảng Nam đã có những hỗ trợ cụ thể để hoạt động kinh tế hợp tác ở đây phát triển hiệu quả hơn nữa.
Nhất là nhân rộng mô hình HTX, tổ hợp tác sản xuất hiệu quả gắn với tiềm năng, lợi thế của huyện Phước Sơn và của đồng bào Giẻ Triêng (vốn chiếm khoảng 75% dân số toàn huyện), và tổ chức lớp tập huấn kỹ thuật cho bà con tiếp cận kiến thức mới, thay đổi tập quán canh tác truyền thống, góp phần cải thiện kinh tế. Thông qua đó giúp cho bà con Giẻ Triêng thay đổi nếp nghĩ, loại bỏ các phương thức sản xuất, canh tác cũ lạc hậu.
Với tư duy đổi mới, bắt nhịp thị trường trong sản xuất kinh doanh, các mô hình HTX, tổ hợp tác ở miền núi Phước Sơn đang góp phần thay đổi nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào Giẻ Triêng nói riêng trong sản xuất quy mô nhỏ lẻ sang sản xuất tập trung theo hướng hàng hóa. Từ đó, góp phần rất lớn trong giảm nghèo bền vững, tăng thu nhập bình quân đầu người.
Ngoài ra, Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Quảng Nam cũng quan tâm hỗ trợ phát triển, quảng bá, giới thiệu sản phẩm OCOP của các HTX, tổ hợp tác ở huyện Phước Sơn. Điều này đã tác động tích cực, mạnh mẽ đến sản xuất và tiêu thụ, giúp thu nhập của đồng bào Giẻ Triêng được nâng lên, thoát cảnh nghèo khó.
Từ nông nghiệp bền vững đến kết quả giảm nghèo đáng kinh ngạc nhờ HTX
Thành phố Ngã Bảy (Hậu Giang) gây ấn tượng mạnh mẽ với công cuộc giảm nghèo đầy hiệu quả. Điều đáng nói là thành tựu này có được phần lớn nhờ vào tầm nhìn chiến lược của địa phương trong việc phát triển nông nghiệp bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, và đặc biệt là sự phát huy vai trò của các mô hình kinh tế tập thể, mà chủ thể chính là các hợp tác xã (HTX).
Những cái tên như HTX Dịch vụ Vận tải Đường bộ Phụng Hiệp, HTX Thương mại Dịch vụ Ngã Bảy, HTX Toàn Thắng, HTX Chăn nuôi Hiệp Phát, HTX Nông nghiệp Sơn Phú, đã và đang trở thành những điểm sáng, trực tiếp góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người dân, đưa Ngã Bảy tiến gần hơn đến mục tiêu không còn hộ nghèo.
HTX là hạt nhân giảm nghèo
Thành phố Ngã Bảy đã đạt được những bước tiến dài trong công cuộc giảm nghèo. Đến năm 2024, toàn thành phố chỉ còn 187 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 1,21%. Năm 2025, thành phố phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 0,3% trở lên.
Những con số này không chỉ phản ánh nỗ lực vượt bậc của chính quyền và người dân mà còn minh chứng cho hiệu quả của các chính sách, đặc biệt là việc chú trọng phát triển kinh tế tập thể thông qua các HTX.
Sự thành công của Ngã Bảy trong giảm nghèo gắn liền với việc thực hiện hiệu quả Đề án “Phát triển nông nghiệp bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu tỉnh Hậu Giang giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030”.

HTX Sơn Phú là một trong những mô hình đang phát triển theo hướng bền vững.
Trong hơn 4 năm qua, thành phố Ngã Bảy đã có sự hỗ trợ mạnh mẽ, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các chủ thể kinh tế, đặc biệt là các mô hình kinh tế tập thể trong lĩnh vực nông nghiệp, tham gia hiệu quả vào đề án này. Sự hỗ trợ của địa phương được ví như đòn bẩy, giúp các HTX có thêm nguồn lực và định hướng rõ ràng để phát triển.
Trong số đó, HTX Nông nghiệp Sơn Phú nổi lên như một điểm sáng, được tỉnh và Liên minh HTX tỉnh chọn là một trong 5 HTX tham gia Đề án đợt 2 với nguồn vốn đầu tư lên đến hàng tỷ đồng. Trong số nguồn vốn đầu tư đó, HTX dành cho đầu tư hạ tầng và trang thiết bị. Những hỗ trợ ban đầu này đã tạo tiền đề vững chắc cho HTX Sơn Phú phát triển.
Nâng tầm sản phẩm, nâng cao thu nhập nhờ HTX
HTX Nông nghiệp Sơn Phú không chỉ được hỗ trợ về cơ sở vật chất mà còn nhận được sự quan tâm đặc biệt trong việc xây dựng thương hiệu và nâng cao giá trị sản phẩm từ chính quyền địa phương và Liên minh HTX tỉnh.
Điển hình là sản phẩm Mật ong thiên nhiên của HTX đã được Hội đồng đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP thành phố Ngã Bảy công nhận đạt chuẩn 3 sao. Đây là một thành quả đáng tự hào, chứng minh chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Việc đạt chuẩn OCOP không chỉ giúp mật ong Sơn Phú có chỗ đứng vững chắc hơn mà còn mở ra cơ hội tiếp cận các kênh phân phối lớn, mang lại thu nhập ổn định và cao hơn cho các thành viên.
Không dừng lại ở đó, Đề án còn hỗ trợ HTX Nông nghiệp Sơn Phú trong việc xây dựng mã vùng trồng đối với sản phẩm Chôm Chôm và Mít. Nhờ đó, các sản phẩm này đã được cấp mã vùng trồng, đảm bảo khả năng truy xuất nguồn gốc rõ ràng.
Đây là yếu tố then chốt giúp nông sản của HTX nói riêng, của Ngã Bảy nói chung đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường, đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Việc HTX thực hiện liên kết theo chuỗi giá trị gắn với kinh tế tuần hoàn là một bước tiến quan trọng, giúp tối ưu hóa hiệu quả sản xuất, giảm thiểu lãng phí và gia tăng giá trị kinh tế cho nông sản.
Bên cạnh HTX Nông nghiệp Sơn Phú, thành phố Ngã Bảy còn có nhiều mô hình HTX khác hoạt động hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển đa dạng của kinh tế địa phương.

Mô hình cung cấp cây giống của HTX Đại Thành trên địa bàn thành phố Ngã Bảy.
HTX Dịch vụ Vận tải Đường bộ Phụng Hiệp đã góp phần giải quyết bài toán vận chuyển hàng hóa, nông sản, tạo việc làm cho nhiều lao động, đặc biệt là các hộ nghèo, cận nghèo có phương tiện. HTX này còn đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối sản phẩm từ nông dân đến tay người tiêu dùng, đồng thời cung cấp các dịch vụ thiết yếu, góp phần ổn định thị trường và tạo thêm kênh phân phối cho sản phẩm địa phương.
Bên cạnh đó, HTX Toàn Thắng và HTX Chăn nuôi Hiệp Phát cũng là những minh chứng sống động cho thấy hiệu quả của mô hình HTX trong việc đa dạng hóa sinh kế. Cả hai HTX này đều hoạt động trong lĩnh vực chăn nuôi và đang giúp các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ liên kết, chia sẻ kinh nghiệm, áp dụng khoa học kỹ thuật, từ đó nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, giảm thiểu rủi ro dịch bệnh và ổn định đầu ra.
Sự hình thành và phát triển của những HTX này không chỉ nâng cao thu nhập trực tiếp cho các thành viên mà còn gián tiếp tạo ra một môi trường kinh doanh năng động, thúc đẩy các ngành nghề khác cùng phát triển.
Hỗ trợ toàn diện
Những thành công trên không thể tách rời khỏi sự hỗ trợ toàn diện từ chính quyền thành phố Ngã Bảy và Liên minh HTX tỉnh Hậu Giang khi đã thể hiện sự chủ động và quyết liệt trong việc triển khai các chính sách hỗ trợ cho mô hình kinh tế tập thể.
Đầu tiên là hỗ trợ về vốn và cơ sở hạ tầng. Như trường hợp của HTX Nông nghiệp Sơn Phú, việc phân bổ nguồn vốn lớn để đầu tư hạ tầng sản xuất đã tạo điều kiện thuận lợi cho HTX nâng cấp quy mô và năng lực hoạt động. Đây là yếu tố then chốt giúp HTX có nền tảng vững chắc để phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, việc HTX Nông nghiệp Sơn Phú được hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu OCOP, mã vùng trồng và truy xuất nguồn gốc cho thấy sự quan tâm của địa phương trong việc nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp. Các chương trình tập huấn, chuyển giao công nghệ mới về canh tác, chế biến, bảo quản cũng được chú trọng, giúp thành viên HTX nâng cao năng lực sản xuất và quản lý.
Chính quyền địa phương, Liên minh HTX tỉnh cũng đã khuyến khích và tạo điều kiện cho các HTX tham gia liên kết theo chuỗi giá trị, gắn với kinh tế tuần hoàn. Điều này giúp sản phẩm của các HTX có đầu ra ổn định, tiếp cận thị trường rộng lớn hơn, đồng thời tối ưu hóa lợi nhuận cho thành viên. Việc hỗ trợ đưa sản phẩm đạt chuẩn OCOP cũng là một hình thức xúc tiến thương mại hiệu quả, giúp sản phẩm có chỗ đứng trên thị trường và được người tiêu dùng tin tưởng.
Đặc biệt, để các HTX thực sự phát huy vai trò, chính quyền địa phương và Liên minh HTX tỉnh cũng quan tâm đến việc vận động, khuyến khích người dân, đặc biệt là các hộ nghèo, cận nghèo, tham gia HTX. Khi trở thành thành viên, họ sẽ được hưởng các quyền lợi về hỗ trợ vốn, kỹ thuật, bao tiêu sản phẩm và đảm bảo đầu ra, từ đó có cơ hội tăng thu nhập, cải thiện đời sống.
Kết quả giảm nghèo ấn tượng tại thành phố Ngã Bảy đã chứng minh rằng mô hình kinh tế tập thể, mà điển hình là các HTX, chính là một trong những giải pháp tối ưu để nâng cao thu nhập cho người dân, đặc biệt là ở khu vực nông nghiệp. Sự hỗ trợ kịp thời và đúng trọng tâm của chính quyền địa phương và Liên minh HTX tỉnh đã tạo động lực mạnh mẽ cho các HTX phát triển, không chỉ về quy mô mà còn về chất lượng và hiệu quả hoạt động.
Trong thời gian tới, để tiếp tục duy trì và phát huy những thành quả đã đạt được, thành phố Ngã Bảy tiếp tục đẩy mạnh các chính sách hỗ trợ để nâng cao năng lực sản xuất và chế biến cho HTX. Đồng thời, cần nhân rộng các mô hình HTX hiệu quả, khuyến khích sự đa dạng hóa ngành nghề, và tăng cường liên kết giữa các HTX với doanh nghiệp, thị trường để đảm bảo đầu ra bền vững cho sản phẩm.
Với những bước đi vững chắc và định hướng rõ ràng, thành phố Ngã Bảy không chỉ đang giảm nghèo một cách bền vững mà còn kiến tạo một nền nông nghiệp hiện đại, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Nỗ lực giảm phát thải trong ngành nông nghiệp
Nông nghiệp luôn được xem là trụ cột quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, không chỉ đóng góp lớn vào GDP mà còn đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Song, ngành này cũng đồng thời là nguồn phát thải khí nhà kính đáng kể, góp phần làm trầm trọng thêm biến đổi khí hậu toàn cầu.
Nhiều tín hiệu tích cực
Theo các báo cáo quốc tế, sản xuất nông nghiệp chiếm khoảng 20-25% tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu, trong đó hoạt động trồng trọt, đặc biệt là canh tác lúa nước, là một trong những thủ phạm chính phát sinh khí methane (CH4), một loại khí có sức nóng lên toàn cầu gấp 25 lần CO2.

Việc tuyên truyền, đào tạo kỹ thuật và chính sách giảm phát thải cần được đẩy mạnh để mọi người dân, từ cán bộ quản lý đến nông dân trực tiếp sản xuất, đều hiểu rõ lợi ích kinh tế, xã hội của sản xuất nông nghiệp phát thải thấp.
Tại Việt Nam, với diện tích trồng lúa hơn 7 triệu ha và trên 1 triệu ha cây ăn quả cùng nhiều loại cây công nghiệp dài ngày, việc kiểm soát và giảm phát thải trong nông nghiệp trở thành nhiệm vụ cấp bách.
Thách thức này càng lớn hơn khi ngành nông nghiệp còn đối mặt với nhiều hạn chế về công nghệ, nhận thức và thiếu một khuôn khổ pháp lý rõ ràng để triển khai các biện pháp giảm phát thải một cách bài bản và đồng bộ.
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường, ông Hoàng Trung, mặc dù Việt Nam đã có một số chương trình thử nghiệm như “1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp” ở Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng các hoạt động này vẫn mang tính nhỏ lẻ, thiếu sự kết nối và chưa có quy trình chuẩn hóa, chưa đủ để tạo ra tác động lan tỏa sâu rộng trên phạm vi toàn quốc.
Thêm vào đó, việc thiếu các công cụ đo đếm (MRV - Measurement, Reporting, Verification) chuẩn quốc tế làm cho việc đánh giá mức phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp trở nên khó khăn.
Cùng với đó, nhận thức của người nông dân, cán bộ kỹ thuật và các doanh nghiệp còn hạn chế, khiến cho việc thay đổi tập quán canh tác truyền thống sang các phương pháp thân thiện với môi trường chưa thực sự hiệu quả.
Một điểm đặc biệt cần lưu ý là nhiều loại cây ăn quả và cây công nghiệp dài ngày có khả năng hấp thụ CO2, do đó, việc tính toán phát thải không thể chỉ dựa trên lượng khí phát ra mà phải cân bằng với lượng khí hấp thụ để có quy trình canh tác phù hợp nhất. Tuy nhiên, hiện chưa có nghiên cứu sâu và hệ thống dữ liệu khoa học đầy đủ để thực hiện điều này một cách chính xác.
Nhằm khắc phục các tồn tại và tạo đà cho sự phát triển bền vững của ngành trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã chủ trì xây dựng Đề án sản xuất trồng trọt phát thải thấp giai đoạn 2025-2030. Đây được coi là bước đột phá quan trọng, không chỉ nhằm giảm thiểu tác động của ngành nông nghiệp đến môi trường mà còn tạo dựng nền tảng cho một ngành trồng trọt hiện đại, thân thiện với khí hậu.
Theo dự thảo Đề án, mục tiêu cụ thể đặt ra là đến năm 2030 sẽ giảm 30% lượng phát thải khí methane và ít nhất 10% tổng phát thải khí nhà kính từ lĩnh vực trồng trọt so với năm 2020. Đồng thời, diện tích áp dụng các biện pháp canh tác giảm phát thải sẽ đạt tối thiểu 2,5 triệu ha, tập trung vào các vùng sản xuất hàng hóa tập trung để tạo sức lan tỏa và hiệu quả cao nhất.
Ngoài ra, dự thảo Đề án chú trọng xây dựng hệ thống dữ liệu phát thải khí nhà kính chi tiết theo cây trồng, vùng sinh thái và biện pháp kỹ thuật. Đây là bước quan trọng để hình thành thị trường carbon cho nông nghiệp Việt Nam, một cơ chế hiện đang được nhiều quốc gia phát triển áp dụng nhằm khuyến khích các biện pháp giảm phát thải hiệu quả.
Khoa học đóng vai trò trọng tâm trong chuyển đổi nông nghiệp xanh
Các chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp cũng góp phần định hướng cho Đề án phát triển bền vững này. GS-TS.Nguyễn Hồng Sơn, Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam cho biết, việc đánh giá và phân tích sâu về đặc điểm phát thải và hấp thụ của từng loại cây trồng theo vùng sinh thái là điều kiện tiên quyết để xây dựng các quy trình canh tác phù hợp, tránh áp dụng máy móc, cứng nhắc các biện pháp giảm phát thải.
Ông cũng nhấn mạnh đến việc tận dụng phế phụ phẩm nông nghiệp trong sản xuất than sinh học, một giải pháp tiết kiệm và thân thiện môi trường giúp giảm phát thải đồng thời cải tạo đất trồng. Việc xây dựng hệ thống theo dõi, đánh giá liên tục hiệu quả các biện pháp thực hiện trên từng vụ, từng năm cũng rất cần thiết để điều chỉnh kịp thời, đảm bảo hiệu quả thực tế của đề án.
Việc giảm phát thải trong sản xuất trồng trọt không chỉ giúp Việt Nam thực hiện tốt các cam kết quốc tế trong Thỏa thuận Paris mà còn là bước đi chiến lược để ngành nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng thời nâng cao vị thế của nông sản Việt trên thị trường quốc tế.
Sản xuất nông nghiệp phát thải thấp không chỉ mang lại lợi ích về môi trường mà còn giúp nâng cao hiệu quả kinh tế cho người nông dân và doanh nghiệp thông qua giảm chi phí vật tư đầu vào, cải thiện chất lượng sản phẩm và xây dựng thương hiệu bền vững.
Với quyết tâm chính trị cao và sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương cùng cộng đồng khoa học và người dân, Đề án sản xuất trồng trọt phát thải thấp được kỳ vọng sẽ trở thành mô hình điển hình, mở đường cho nền nông nghiệp xanh, phát thải thấp, góp phần quan trọng vào mục tiêu phát triển bền vững và bảo vệ môi trường của đất nước.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung nhấn mạnh rằng, bên cạnh các biện pháp kỹ thuật, yếu tố con người, đặc biệt là sự thay đổi nhận thức và hành vi sản xuất của nông dân và doanh nghiệp là then chốt để đạt được mục tiêu giảm phát thải.
Việc tuyên truyền, đào tạo kỹ thuật và chính sách giảm phát thải cần được đẩy mạnh để mọi người dân, từ cán bộ quản lý đến nông dân trực tiếp sản xuất, đều hiểu rõ lợi ích kinh tế, xã hội của sản xuất nông nghiệp phát thải thấp.
“Tham gia sản xuất giảm phát thải không chỉ là trách nhiệm của người dân đối với cam kết quốc gia về biến đổi khí hậu (NDC), mà còn là cơ hội để giảm chi phí đầu vào, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và xây dựng thương hiệu nông sản Việt Nam thân thiện với môi trường”, Thứ trưởng Hoàng Trung khẳng định.
Vùng sản xuất nông nghiệp lớn của Việt Nam
Sau sáp nhập, diện tích đất sản xuất nông nghiệp của tỉnh Đồng Nai mới là hơn 728 ngàn hécta, gấp 2,6 lần so với diện tích cũ. Trong đó, có nhiều cây trồng chủ lực có diện tích thuộc tốp đầu của cả nước.

Vùng trồng sầu riêng xuất khẩu tại xã Hàng Gòn, thành phố Long Khánh. Ảnh: Bình Nguyên
Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục chuyển dịch tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp. Đặc biệt sau khi sáp nhập, tổng đàn chăn nuôi của tỉnh Đồng Nai mới tăng cao so với trước, tiếp tục là “thủ phủ” chăn nuôi của cả nước.
Tiềm năng lớn về trồng trọt
Sau sáp nhập, diện tích cây hàng năm của tỉnh đạt khoảng 150,5 ngàn hécta, tập trung các cây trồng chính như bắp, lúa, rau màu các loại.
Tỉnh Đồng Nai mới tiếp tục là "thủ phủ" cây công nghiệp và ăn trái của cả nước với tổng diện tích cây lâu năm đạt hơn 609 ngàn hécta. Trong đó, diện tích cây công nghiệp lâu năm đạt gần 511,5 ngàn hécta. Một số cây công nghiệp chủ lực có diện tích thuộc tốp đầu cả nước như: cao su, điều, hồ tiêu. Đặc biệt, nông dân quan tâm áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, quy trình canh tác bền vững, áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất. Tỉnh cũng đã hình thành được các vùng chuyên canh lớn những cây công nghiệp cho năng suất cao, chất lượng tốt. Đồng Nai cũng thu hút được nhiều tập đoàn, doanh nghiệp (DN) đầu tư vào lĩnh vực bảo quản, sơ chế, chế biến gắn kết với vùng nguyên liệu. Nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như cao su, điều, cà phê… của tỉnh thuộc tốp đầu cả nước.
Năm 2024, giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản trên địa bàn tỉnh đạt 50,6 ngàn tỷ đồng, tăng hơn 3,5% so với năm 2023. Giai đoạn 2021-2025, tăng trưởng bình quân giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản trên địa bàn tỉnh ước đạt 3,67%/năm, thuộc tốp đầu về tăng trưởng của khu vực Đông Nam Bộ.
Tổng diện tích cây ăn trái của tỉnh đạt gần 97,6 ngàn hécta, tập trung vào các cây chủ lực cho hiệu quả kinh tế cao như: sầu riêng, chuối cấy mô xuất khẩu, bưởi, xoài, chôm chôm...
Trong đó, vài năm trở lại đây, diện tích cây sầu riêng trên địa bàn tỉnh không ngừng tăng nhanh do cây trồng này mang lại lợi nhuận cao. Không chỉ tăng nhanh về diện tích, nông dân trồng sầu riêng quan tâm đầu tư giống đặc sản cho giá trị cao, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, làm mã số vùng trồng xuất khẩu để tăng lợi thế cạnh tranh cho cây trồng này. Tỉnh Đồng Nai mới thuộc tốp đầu cả nước về số lượng mã số vùng trồng sầu riêng xuất khẩu đi thị trường Trung Quốc.
Bà Trần Thị Thanh Dung, Giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thịnh Bách (Thành phố Hồ Chí Minh), cho biết DN đang nỗ lực kết nối với các vùng trồng sầu riêng tại các tỉnh lân cận, trong đó có tỉnh Đồng Nai để tìm nguồn sầu riêng đạt chuẩn cung cấp cho thị trường xuất khẩu. Tỉnh Đồng Nai mới có lợi thế đã hình thành được những vùng chuyên canh sầu riêng quy mô lớn, đạt chuẩn an toàn, nhất là chưa phát hiện tình trạng bị nhiễm Cadimi đang là rào cản xuất khẩu sầu riêng hiện nay. DN này cũng đánh giá cao vì Đồng Nai mới có nhiều mô hình trồng sầu riêng hiệu quả như: Queen Farm, trang trại trồng sầu riêng công nghệ cao quy mô lớn tại xã Đăng Hà; Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Phú Sơn (xã Phú Lâm) là hợp tác xã có diện tích mã số vùng trồng xuất khẩu lớn nhất tỉnh với 350 hécta…
Hình thành thủ phủ chăn nuôi công nghiệp
Sau khi sáp nhập, tổng đàn heo của tỉnh đạt hơn 4,1 triệu con; tổng đàn gia cầm đạt 35,9 triệu con. So sánh với tổng đàn heo trên cả nước là 31,8 triệu con, tổng đàn gia cầm đạt 584,4 triệu con, tỉnh Đồng Nai mới tiếp tục giữ vị trí là “thủ phủ” chăn nuôi của cả nước với tổng đàn lớn.
Theo Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai Nguyễn Trí Công, ngành chăn nuôi trên địa bàn tỉnh đẩy mạnh ứng dụng khoa học, kỹ thuật, chuyển đổi từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang hướng công nghiệp với quy mô hàng hóa lớn. Ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi đạt nhiều kết quả tích cực với nhiều mô hình ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại nhất hiện nay như: chăn nuôi sử dụng chuồng lạnh; sử dụng chíp điện tử kiểm soát nhiệt độ, nước uống, lượng thức ăn vật nuôi tiêu thụ; sử dụng các phần mềm trong quản lý trang trại...
Ngoài các vật nuôi chủ lực, với hàng ngàn hécta nuôi trồng thủy sản cùng diện tích mặt nước sông suối, ao hồ lớn, tỉnh Đồng Nai có lợi thế phát triển nuôi trồng thủy sản. Giá trị sản xuất ngành thủy sản trên địa bàn tỉnh luôn đứng tốp đầu về mức tăng trưởng. Đặc biệt, mô hình nuôi tôm công nghệ cao cho lợi nhuận tốt không ngừng được nhân rộng. Cụ thể, giá trị sản xuất/hécta nuôi tôm công nghệ cao đạt từ 700-800 triệu đồng, thuộc tốp đầu về thu nhập so với các mô hình sản xuất khác.
Ngoài ra, tỉnh cũng đang chú trọng phát triển một số đối tượng vật nuôi có giá trị kinh tế cao như ngành yến sào. Đồng Nai đang đứng đầu khu vực Đông Nam Bộ về phát triển nghề nuôi yến với khoảng 1.370 nhà nuôi yến, sản lượng khoảng 15 tấn/năm.
TP Hồ Chí Minh: Vinh danh 28 sản phẩm OCOP 4 sao, khẳng định vị thế nông nghiệp đô thị
Tối 29/6, Ủy ban nhân dân TP Hồ Chí Minh đã công bố và trao quyết định công nhận cho 28 sản phẩm đạt chứng nhận OCOP 4 sao năm 2024. Đây là dấu mốc quan trọng, ghi nhận nỗ lực không ngừng của các chủ thể sản xuất và sự đồng hành của chính quyền trong hành trình nâng tầm giá trị nông sản Thành phố.

TP Hồ Chí Minh vinh danh 28 sản phẩm OCOP 4 sao, khẳng định vị thế nông nghiệp đô thị.
Sự kiện do Sở Văn hóa và Thể thao TP Hồ Chí Minh phối hợp Sở Nông nghiệp và Môi trường TP Hồ Chí Minh, Sở Công Thương TP Hồ Chí Minh tổ chức. Sự kiện không chỉ là một lễ vinh danh mà còn là lời khẳng định mạnh mẽ cho vị thế và tiềm năng của nền nông nghiệp đô thị tại một trung tâm kinh tế năng động bậc nhất cả nước.
Tại buổi lễ, UBND TP Hồ Chí Minh đã trao quyết định cho đại diện chủ thể sản xuất có các sản phẩm OCOP đạt tiêu chuẩn 4 sao như Công ty TNHH Đầu tư Thương mại dịch vụ Yến Đảo Cần Giờ có 16 sản phẩm; Chi nhánh Tổng Công ty Nông nghiệp Sài Gòn một thành viên - Công ty chăn nuôi và chế biến thực phẩm Sài Gòn có 7 sản phẩm; Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ Sống Khỏe có 3 sản phẩm; Công ty TNHH Liên kết thương mại Toàn Cầu và Công ty Cổ phần Dừa nước Việt Nam có 1 sản phẩm được công nhận đạt tiêu chuẩn OCOP 4 sao năm 2024.


UBND TP Hồ Chí Minh trao quyết định cho đại diện chủ thể sản xuất có các sản phẩm OCOP đạt tiêu chuẩn 4 sao.
Phát biểu tại buổi lễ, ông Nguyễn Văn Dũng, Phó Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Trong không khí hân hoan kỷ niệm 327 năm hình thành và phát triển Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, chúng ta vui mừng có mặt tại Lễ công bố và trao Quyết định công nhận sản phẩm OCOP năm 2024. Đây là minh chứng cho sự đa dạng, nỗ lực không mệt mỏi, sáng tạo, nghiên cứu tìm tòi của quý doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ sản xuất và sự quyết tâm của các cấp, các ngành".

Ông Nguyễn Văn Dũng, Phó Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh phát biểu tại buổi lễ.
Ông Dũng cho biết, chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) được TP Hồ Chí Minh triển khai mạnh mẽ từ năm 2019 dựa trên kinh nghiệm thành công của hơn 40 quốc gia, đã có những bước tiến vượt bậc. Từ con số không, đến tháng 6 năm 2025, toàn Thành phố ghi nhận đã có 419 sản phẩm OCOP được công nhận từ 155 chủ thể, trong đó có 312 sản phẩm đạt 3 sao và 107 sản phẩm đạt 4 sao.

Trong chương trình còn diễn ra Lễ ký kết hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm OCOP giữa các hệ thống phân phối sản phẩm với các chủ thể OCOP.
Đáng chú ý, cơ cấu sản phẩm OCOP của Thành phố đã có sự chuyển dịch ấn tượng. Nếu trước đây chủ yếu là các sản phẩm truyền thống như nông sản chủ lực, thủ công mỹ nghệ hay sinh vật cảnh thì nay danh mục đã mở rộng sang các lĩnh vực giàu giá trị gia tăng như thực phẩm chế biến, đồ uống, dược liệu và đặc biệt là dịch vụ du lịch cộng đồng.


Khách tham quan và trải nghiệm các sản phẩm OCOP 4 sao được trưng bày tại sự kiện.
Tuy nhiên, Phó Chủ tịch UBND Thành phố Nguyễn Văn Dũng cũng thẳng thắn nhìn nhận rằng, kết quả đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của một đô thị đặc biệt. Ông bày tỏ kỳ vọng: "Trong thời gian tới, Thành phố sẽ có nhiều điều kiện và dư địa thuận lợi hơn để phát triển các sản phẩm OCOP, đặc biệt là khi các định hướng phát triển vùng đô thị lớn được hiện thực hóa".
Để chương trình OCOP tiếp tục phát triển bền vững, ông Nguyễn Văn Dũng đã đề nghị các Sở, ngành và địa phương tăng cường vai trò hỗ trợ một cách đồng bộ. “Sở Khoa học và Công nghệ sẽ tập trung hỗ trợ về đăng ký sở hữu trí tuệ và nhãn hiệu hàng hóa. Sở Công Thương được giao nhiệm vụ tăng cường kết nối, xúc tiến thương mại để đưa sản phẩm vào các kênh phân phối hiện đại. Sở Du lịch sẽ phối hợp xây dựng các tuyến du lịch hấp dẫn gắn liền với các cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm OCOP. Đồng thời, UBND các quận, huyện và cấp cơ sở cần chủ động hơn trong việc quảng bá sản phẩm tại địa phương và tăng cường giám sát chất lượng sau công nhận”, ông Dũng cho biết thêm.
Buổi lễ vinh danh là một điểm nhấn ý nghĩa trong khuôn khổ Ngày hội Văn hóa - Thể thao nông thôn mới cấp Thành phố lần thứ III năm 2025. Không gian của ngày hội còn là nơi trưng bày các sản phẩm OCOP tiêu biểu của TP Hồ Chí Minh và các tỉnh thành bạn, các mô hình nông nghiệp công nghệ cao cùng những sáng kiến sản xuất xanh, tiêu dùng xanh, tạo thành một diễn đàn kết nối hiệu quả giữa cộng đồng, doanh nghiệp và nhà sản xuất.


Ban tổ chức thiết kế không gian trưng bày sản phẩm OCOP riêng biệt nhằm quảng bá sản phẩm địa phương đến với du khách.
Qua sự kiện, Thành phố mong muốn và kêu gọi các chủ thể OCOP tiếp tục phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, không ngừng đổi mới và đặc biệt chú trọng duy trì, nâng cao chất lượng các sản phẩm đã được phân hạng sao, góp phần xây dựng thương hiệu nông sản TP Hồ Chí Minh vững mạnh trên thị trường trong và ngoài nước.
Khai mạc Không gian triển lãm quy hoạch; trưng bày, giới thiệu sản phẩm OCOP, nông nghiệp tiêu biểu, chào mừng thành lập tỉnh Lâm Đồng mới
Ngày 29/6, UBND tỉnh Lâm Đồng tổ chức Lễ khai mạc Không gian triển lãm quy hoạch; trưng bày, giới thiệu sản phẩm OCOP, nông nghiệp tiêu biểu (Không gian triển lãm, trưng bày) chào mừng thành lập tỉnh Lâm Đồng mới, với sự tham gia giới thiệu sản phẩm của hơn 60 doanh nghiệp 3 tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận, Đắk Nông.

Các đồng chí lãnh đạo tỉnh Lâm Đồng tham dự Lễ Khai mạc

Các đồng chí lãnh đạo tỉnh Bình Thuận và Đắk Nông tham dự Lễ Khai mạc
Tham dự Lễ Khai mạc Không gian triển lãm, trưng bày có các đồng chí: Y Thanh Hà Niê Kđăm - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Lâm Đồng; Phạm Thị Phúc - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Lâm Đồng; Lưu Văn Trung - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Đắk Nông; Đặng Hồng Sỹ - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bình Thuận; Trần Hồng Thái - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng; Hồ Văn Mười - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Nông; cùng các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, lãnh đạo, nguyên lãnh đạo HĐND, UBND và Ủy ban MTTQ Việt Nam 3 tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận, Đắk Nông…

Các đồng chí lãnh đạo 3 tỉnh Lâm Đồng - Bình Thuận - Đắk Nông cắt băng Khai mạc
Đây là sự kiện chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội nằm trong khuôn khổ các hoạt động chào mừng thành lập tỉnh Lâm Đồng mới (Lâm Đồng - Đắk Nông - Bình Thuận), nhằm tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá tiềm năng, thế mạnh địa phương, góp phần thu hút các tổ chức, doanh nghiệp đầu tư vào tỉnh Lâm Đồng mới; đồng thời, tăng cường giới thiệu các sản phẩm thế mạnh, sản phẩm OCOP, nông nghiệp tiêu biểu của tỉnh Lâm Đồng mới,... đến với du khách và Nhân dân; tạo điều kiện hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng mới quảng bá sản phẩm, tìm kiếm đối tác hợp tác kinh doanh và đầu tư...

Lãnh đạo tỉnh Lâm Đồng mới chung sức đồng lòng vững bước tương lai

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng Đinh Văn Tuấn phát biểu khai mạc
Phát biểu khai mạc Không gian triển lãm quy hoạch;trưng bày, giới thiệu sản phẩm OCOP, nông nghiệp tiêu biểu chào mừng thành lập tỉnh Lâm Đồng mới, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng Đinh Văn Tuấn, nhấn mạnh: Không gian triển lãm, trưng bày hôm nay vừa là nơi hội tụ những sản phẩm OCOP đặc sắc, các mô hình nông nghiệp tiêu biểu, từ khắp các xã, phường của 3 tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận, Đắk Nông, hòa quyện thành sản phẩm chất lượng cao của tỉnh Lâm Đồng mới; vừa là nơi trưng bày triển lãm quy hoạch chung và là nơi giới thiệu không gian văn hóa tiêu biểu.

Các đồng chí lãnh đạo tham quan các gian hàng OCOP

Đông đảo Nhân dân đến tham quan Không gian trưng bày, triển lãm
Đây không chỉ là dịp để quảng bá, giới thiệu tiềm năng, thế mạnh của địa phương mà còn là cơ hội để các tổ chức, doanh nghiệp, hợp tác xã của tỉnh Lâm Đồng mới gặp gỡ, giao lưu, kết nối tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị trong sản xuất - chế biến - tiêu thụ nông sản. Sự kiện triển lãm quy hoạch; trưng bày, giới thiệu sản phẩm OCOP, nông nghiệp tiêu biểu không chỉ góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển sản phẩm OCOP, nông nghiệp tiêu biểu, mà còn khẳng định vị thế ngành nông nghiệp của tỉnh Lâm Đồng mới trong tiến trình hội nhập, phát triển đất nước...

Các nghệ sĩ ở huyện Lạc Dương biểu diễn trong Không gian Cồng chiêng Tây Nguyên
Không gian triển lãm quy hoạch, trưng bày, giới thiệu sản phẩm OCOP, nông nghiệp tiêu biểu chào mừng thành lập tỉnh Lâm Đồng mới sẽ kéo dài đến hết ngày 2/7/2025, tại Khu vực Đài phun nước, Quảng trường Lâm Viên (Phường Xuân Hương - Đà Lạt). Ngoài các gian hàng trưng bày, giới thiệu sản phẩm OCOP, nông nghiệp tiêu biểu, tại Triển lãm còn có không gian cồng chiêng Tây Nguyên, không gian thưởng lãm trà và chương trình ca nhạc chào mừng trong 2 đêm 29 và 30/6/2025.
99% mẫu nông sản đáp ứng yêu cầu về an toàn thực phẩm
TP Đà Lạt tiếp tục tăng cường bảo đảm an toàn thực phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp, trong đó giám sát 100% chuỗi liên kết; 99% mẫu nông sản phân tích đáp ứng yêu cầu về an toàn thực phẩm.
Đồng thời kiểm soát an toàn thực phẩm đối với 100% siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi; 70% hộ kinh doanh tại các chợ; 90% chủ cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh cập nhật kiến thức an toàn thực phẩm.
Ngoài ra toàn TP Đà Lạt phát triển 5 - 8 mô hình liên kết chuỗi giá trị sản xuất, tiêu thụ nông sản; tiếp tục hỗ trợ phát triển mã vùng trồng, mở rộng diện tích đạt chứng nhận an toàn, bền vững lên 10.000 ha; tỷ lệ cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm nông, lâm, thủy sản đạt yêu cầu an toàn thực phẩm tăng 15 - 20% so với năm 2024…
Quản lý, vận hành kênh mương hiệu quả phục vụ sản xuất
Được giao nhiệm vụ quản lý các công trình kênh mương thủy lợi trên địa bàn tỉnh có diện tích tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp từ 50ha trở lên, thời gian qua Công ty TNHH một thành viên quản lý thủy nông Lai Châu đã có nhiều cách làm phù hợp để quản lý, vận hành, khai thác hiệu quả các công trình, đáp ứng nhu cầu sản xuất của bà con nông dân.

Các kênh mương do Công ty TNHH một thành viên quản lý thủy nông Lai Châu quản lý được nạo vét, điều tiết nước phù hợp, đảm bảo cung cấp đủ nước tưới phục vụ nông dân sản xuất nông nghiệp.
Cây lương thực được xác định là nguồn thu chính của nhiều hộ dân xã Thèn Sin (huyện Tam Đường). Chính vì vậy, bên cạnh việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đưa các giống ngô, lúa mới, năng suất cao, chất lượng tốt vào sản xuất, bà con còn chú trọng phối hợp với Công ty TNHH một thành viên quản lý thủy nông Lai Châu trong việc bảo vệ, vận hành, điều tiết nước từ các kênh mương. Với 5 tuyến kênh chính là: Thèn Sin 1, Thèn Sin 2, Thèn Sin 3, Lở Thàng, Na Đông và 2 tuyến nhánh là Thèn Sin 1, Na Đông, có tổng chiều dài 8km các kênh mương giúp mọi cánh đồng, mọi diện tích sản xuất trong xã đều được cấp nước đủ.
Giống như hàng trăm hộ dân của xã Thèn Sin, gia đình ông Đèo Văn Lơi ở bản Thèn Sin 1 vui mừng khi được hưởng lợi trực tiếp từ các công trình kênh mương. Hàng năm, 2.000m2 lúa của gia đình ông đều có đủ nước sản xuất 2 vụ và phát triển tốt, cho năng suất cao, đảm bảo nguồn lương thực cho gia đình.
Công ty TNHH một thành viên quản lý thủy nông Lai Châu được thành lập năm 2009. Hiện nay, công ty đang được tỉnh giao quản lý 96 công trình kênh mương thủy lợi, có tổng chiều dài 566,6km trong đó có 459,7km kênh kiên cố, 106,9km kênh đất. Để quản lý, vận hành, khai thác hiệu quả kênh mương, công ty đã thành lập các cụm thủy nông trực thuộc, trực tiếp đảm nhiệm vận hành các công trình. Vào cao điểm mùa khô, lượng nước tại các sông, suối ít, công ty phối hợp với các xã, các Nhà máy thủy điện điều tiết nước phù hợp. Bên cạnh đó, công ty xây dựng kế hoạch tưới luân phiên giữa các cánh đồng, đảm bảo mọi khu vực sản xuất đều được cấp nước, không để khô hạn kéo dài. Mùa mưa kênh mương hay bị sạt lở, công ty chỉ đạo công nhân thường xuyên kiểm tra, báo cáo tình hình để sớm khắc phục kịp thời, không để ảnh hưởng đến việc sản xuất của bà con.

Nước dẫn về ruộng, người dân xã Thèn Sin, huyện Tam Đường cấy lúa mùa đảm bảo khung lịch thời vụ.
Nhờ các giải pháp phù hợp, các công trình kênh mương do công ty quản lý phát huy hiệu quả, phục vụ tưới tiêu cho 6.255ha lúa mùa, 2.642ha lúa chiêm xuân, 782ha hoa màu, 131ha cây công nghiệp ngắn ngày (chủ yếu dong riềng) và 111ha thủy sản. Người dân có điều kiện phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, điều công ty đang trăn trở hiện nay là một số công trình kênh mương đưa vào sử dụng lâu ngày, dưới tác động của thời tiết, thiên tai bão lũ đã bị hư hỏng nhiều. Công ty mong muốn tỉnh tiếp tục quan tâm, bố trí cấp kinh phí sửa chữa, nâng cấp trong thời gian tới để các công trình khai thác tối đa công năng, hỗ trợ nông dân sản xuất nông nghiệp hiệu quả.
Chanh dây vàng hương mật ong: Vị ngọt từ nông nghiệp sạch
Được sản xuất theo hướng hữu cơ và đạt chuẩn OCOP 3 sao, chanh dây vàng hương mật ong trồng dưới chân núi Chư Nâm (xã Chư Đang Ya, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai) đã chinh phục được thị trường.
Mô hình này đã giúp nhiều hộ nông dân thay đổi tư duy sản xuất, yên tâm làm nông nghiệp sạch mà không phải lo đầu ra.
“Bén duyên” cùng giống chanh mới
Từ đồi chè Biển Hồ, men theo con đường bê tông uốn quanh triền dốc, chúng tôi tìm đến làng Ko (xã Chư Đang Ya), nơi những vườn chanh dây vàng hữu cơ đang vào vụ thu hoạch. Đây là mô hình được Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp-dịch vụ-du lịch Chư Nâm triển khai từ năm 2023.
Theo Phó Giám đốc HTX Phạm Văn Bền, ý tưởng trồng chanh dây vàng xuất phát từ việc HTX tìm kiếm một loại cây trồng có tính khác biệt, phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu địa phương và có giá trị kinh tế cao.
“Chúng tôi đã khảo sát nhiều mô hình, trong đó giống chanh dây vàng hương mật ong rất phù hợp với vùng đất Chư Đang Ya. Thổ nhưỡng đất đỏ bazan, độ cao vừa phải, khí hậu mát mẻ là điều kiện lý tưởng để giống cây này phát triển, đặc biệt khi áp dụng kỹ thuật canh tác hữu cơ thì chất lượng quả vượt trội so với nhiều vùng khác”-anh Bền chia sẻ.
Khác với giống chanh dây tím đã phổ biến nhiều năm qua tại Gia Lai nhưng đầu ra bấp bênh, chanh dây vàng chỉ mới phát triển thời gian gần đây đã chứng minh được tiềm năng rõ rệt. Vỏ dày, cơm nhiều, vị ngọt dịu và thơm mùi mật ong, giống chanh dây này có thể ăn trực tiếp mà không cần pha đường khiến người tiêu dùng rất ưa chuộng.
Ban đầu, một số thành viên của HTX tham gia thử nghiệm mô hình. Nhưng sau 1 vụ thu hoạch, chất lượng quả và hiệu quả kinh tế mang lại đã tạo động lực cho việc nhân rộng mô hình. Một trong những người tiên phong là chị Phạm Thị Thương (làng Ko). Từ vài trăm gốc ban đầu, gia đình chị đã mở rộng diện tích lên gần 2 ha.
“Trước kia, chúng tôi trồng chanh dây tím nhưng giá cả thất thường, năm được năm mất. Với chanh dây vàng, giá bán luôn ổn định, thấp nhất cũng đạt 15.000 đồng/kg, lại dễ tiêu thụ. Loại chanh này còn có thể bán trực tiếp cho người tiêu dùng, không phải phụ thuộc vào thương lái vì chất lượng và độ an toàn cao”-chị Thương chia sẻ.

Anh Đỗ Văn Phước (làng Ko, xã Chư Đang Ya, huyện Chư Păh) trồng mới 1 ha chanh dây vàng. Ảnh: N.S
Anh Đỗ Văn Phước-Thành viên HTX-cho biết: “Gia đình tôi đã trồng 2 ha chanh dây vàng, vừa thu hoạch xong và hiện đang cải tạo đất để trồng tiếp 1 ha mới. Thấy rõ hiệu quả nên bà con trong làng xin giống về trồng”.
Không chỉ tạo ra giá trị kinh tế cho từng hộ, mô hình chanh dây vàng hữu cơ của HTX Nông nghiệp-dịch vụ-du lịch Chư Nâm còn là “cú hích” cho phong trào phát triển nông nghiệp sạch tại địa phương. Hiện HTX đã có 20 thành viên cùng tham gia trồng, tổng diện tích đạt khoảng 50 ha và đang tiếp tục mở rộng theo nhu cầu thị trường.
OCOP là “đòn bẩy”
Theo anh Bền, mùa mưa ở Tây Nguyên kéo dài, dễ gây ngập úng và thối rễ cho cây chanh dây. Vì vậy, tất cả các vườn đều phải làm luống cao để thoát nước. Các vườn cây được bón hoàn toàn phân hữu cơ như trùn quế, phân bò hoai mục, đất vi sinh. Cỏ dại không bị diệt trừ mà được để mọc tự nhiên, giúp giữ ẩm và cải tạo đất.
“Đất khỏe thì cây mới khỏe, quả mới thơm ngon. Chúng tôi dùng đạm tôm tưới bổ sung giai đoạn cây non để kích thích sinh trưởng, không sử dụng thuốc hóa học hay thuốc trừ sâu. Mỗi cây trồng cách nhau 1-2 m nhằm đảm bảo đủ ánh sáng và độ thông thoáng, hạn chế sâu bệnh tự nhiên”-anh Bền cho hay.
Nhờ quy trình chăm sóc tỉ mỉ, 1 ha chanh dây vàng có thể đạt sản lượng khoảng 50 tấn/vụ, tương đương mỗi cây cho hơn 10 kg quả. Đặc biệt, tỷ lệ quả loại 1 cao do kích cỡ và độ đồng đều tốt, giúp giá trị thu về càng ổn định.
Một bước tiến quan trọng giúp sản phẩm chanh dây vàng hữu cơ khẳng định chỗ đứng là được công nhận đạt chuẩn OCOP 3 sao. Đây không chỉ là sự ghi nhận về chất lượng sản phẩm, mà còn là “giấy thông hành” để tiếp cận các kênh phân phối hiện đại.
Hiện nay, sản phẩm chanh dây vàng của HTX đã được kiểm nghiệm các chỉ số an toàn thực phẩm, đạt yêu cầu để phân phối vào siêu thị, trung tâm thương mại và các cửa hàng nông sản sạch.
“Khách hàng dùng thử đều khen ngon, sau đó quay lại đặt hàng và giới thiệu thêm bạn bè. Có thời điểm, chúng tôi không đủ hàng để cung cấp”-anh Bền bộc bạch.

Chị Phạm Thị Thương (làng Ko, xã Chư Đang Ya) thu hoạch chanh dây. Ảnh: N.S
Còn theo chị Thương, ngoài thị trường trong tỉnh, hiện nay, nhiều đầu mối từ TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng… cũng tìm đến đặt vấn đề thu mua nhưng HTX chưa đủ sản lượng để cung cấp. “Chỉ cần sản xuất theo đúng hướng hữu cơ, quả to và đẹp là bán được ngay, không cần lo đầu ra”-chị Thương khẳng định.
Trao đổi với P.V, ông Trần Đắc Thắng-Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Chư Păh-cho biết: Giống chanh dây vàng hương mật ong không chỉ phù hợp với đất đai Gia Lai mà còn có hương vị riêng, dễ tạo thương hiệu. Đặc biệt, sản xuất theo hướng hữu cơ là xu thế tất yếu, vì vậy chúng tôi đánh giá rất cao mô hình của HTX Nông nghiệp-dịch vụ-du lịch Chư Nâm.
Sản phẩm đạt chuẩn OCOP là cơ sở để phát triển vùng nguyên liệu tập trung, có liên kết, có đầu ra ổn định. Hiện địa phương đang có kế hoạch hỗ trợ mở rộng mô hình, gắn với chuỗi giá trị từ sản xuất-sơ chế-đóng gói đến tiêu thụ. Đồng thời, khuyến khích các HTX khác học hỏi và nhân rộng mô hình chanh dây hữu cơ, đặc biệt là các loại cây ăn quả có thể ăn trực tiếp.
Khánh Vĩnh có 15 hợp tác xã nông nghiệp hoạt động hiệu quả
Theo báo cáo của UBND huyện Khánh Vĩnh, đến nay, trên địa bàn huyện có 15 hợp tác xã (HTX) và 23 tổ hợp tác hoạt động hiệu quả. Các mô hình kinh tế tập thể này đã góp phần đẩy mạnh liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, tạo điều kiện thuận lợi đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, tạo vùng nguyên liệu và ổn định đầu ra cho sản phẩm.

Gian hàng của Hợp tác xã nông nghiệp ở Khánh Vĩnh tham gia phiên chợ tại Nha Trang.
Một số mô hình HTX nổi bật, điển hình với cách làm mới như: HTX sản xuất thu mua nông sản Hiệu Linh (xã Khánh Thành) liên kết kinh doanh vật tư nông nghiệp, thu mua nông sản; HTX nông nghiệp xanh Sơn Thái đầu tư máy móc xay xát lúa, sản xuất dứa xanh, lúa rẫy… Các HTX đã chú trọng đổi mới hình thức hoạt động, tiêu thụ các sản phẩm nông sản, thực phẩm an toàn của thành viên HTX ra thị trường, phục vụ người tiêu dùng những sản phẩm chất lượng, có giá trị như rau củ quả sạch, nông sản chế biến sạch… Ngoài ra, trên địa bàn huyện có 23 tổ hợp tác với 246 thành viên.
Thời gian qua, huyện đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh triển khai hỗ trợ máy móc, thiết bị cho 2 HTX với số tiền 215 triệu đồng; hỗ trợ tham gia sản phẩm OCOP cho 4 HTX với số tiền 412 triệu đồng; vận động và hỗ trợ các HTX tham gia các hội chợ, phiên chợ, hội thảo xúc tiến đầu tư nông nghiệp do cơ quan cấp tỉnh triển khai...
Sắp ra mắt phân viện nghiên cứu công nghệ hỗ trợ nông nghiệp Tây Nam Bộ
Ngày 5/7/2025 tới đây, tại Rạch Giá, Viện nghiên cứu công nghệ hỗ trợ nông nghiệp sẽ tổ chức lễ ra mắt phân viện miền Tây Nam Bộ và ký kết hợp tác với đối tác.
Đại diện Viện nghiên cứu công nghệ hỗ trợ nông nghiệp (Astri) cho biết, miền Tây Nam Bộ hay còn gọi là đồng bằng sông Cửu Long, trước đây bao gồm 13 tỉnh và thành phố - nơi đóng góp hơn 40% GDP của ngành nông nghiệp, hơn 50% sản lượng lúa quốc gia, 90% sản lượng gạo xuất khẩu, 60% tổng lượng thủy sản, 75% tổng giá trị xuất khẩu và hơn 70% tổng sản lượng cây ăn quả của cả nước.
Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết của Trung ương về phát triển kinh tế nông nghiệp, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã phát huy các thế mạnh của mình để hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh lúa, cây ăn trái, thủy sản áp dụng công nghệ cao và đã tạo ra khối lượng hàng hóa lớn, tăng lợi thế cạnh tranh trên thương trường, đóng góp cho kinh tế địa phương và quốc gia, tạo sinh kế cho người dân.
Mặc dù đã đạt được những thành quả nhất định, song vùng Đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn gặp nhiều thách thức, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt cũng như tình trạng biến đổi khí hậu và nhiều yếu tố khác. Do đó, việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ trong chuỗi sản xuất kinh tế nông nghiệp đảm bảo nâng cao sức cạnh tranh, phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu…là vấn đề cấp bách.
Là một tổ chức nghiên cứu khoa học có sứ mệnh hỗ trợ xây dựng một nền nông nghiệp Việt Nam hiện đại, bền vững và thịnh vượng, Viện Astri có mong muốn giúp các cơ quan, doanh nghiệp và nông dân ở miền Tây Nam Bộ chuyển giao, ứng dụng triển khai các thành quả nghiên cứu khoa học công nghệ cao của viện trong chuỗi sản xuất nhằm giảm phát thải; nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, góp phần nâng cao đời sống của người nông dân. Viện cũng sẽ hợp tác với các đối tác, doanh nghiệp có tiềm lực, năng lực, kinh nghiệm để chuyển giao công nghệ, hỗ trợ đào tạo, thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Trong khuôn khổ chương trình lễ ra mắt, bên cạnh phần giới thiệu các thành quả nghiên cứu khoa học công nghệ của Viện, bổ nhiệm nhân sự sẽ có lễ ký kết hợp tác chiến lược giữa Astri và Công ty TNHH nông nghiệp sạch hữu cơ Toàn Cầu để phát triển các dự án nghiên cứu sản xuất giống cây trồng, sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, các chế phẩm sinh học; phát triển rừng phòng hộ ven biển; phát triển mô hình nông nghiệp thông minh gắn với du lịch sinh thái.
Hà Nội phát triển 29 chuỗi liên kết sản xuất với tiêu thụ nông sản
Hiện nay, thành phố Hà Nội đã phát triển được 29 chuỗi liên kết sản xuất, thu hoạch, sơ chế hoặc chế biến gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Các chuỗi đã tạo ra diện mạo mới cho ngành nông nghiệp, tạo bước chuyển biến tích cực cho nông nghiệp Thủ đô theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển nông nghiệp bền vững và bắt kịp xu thế hội nhập kinh tế, quốc tế.
Ông Ngô Đức Mạnh ở xã Thượng Lâm (huyện Mỹ Đức) cho biết: Để có được cơ ngơi như hiện nay, gia đình ông đã dành nguồn lực khá lớn để đầu tư hệ thống xử lý nguồn nước, tưới tiết kiệm, trồng các loại cây ớt, rau ngót, dưa leo, dưa lê, chuối... theo quy trình VietGAP. Việc chăm sóc, bón phân, phòng trừ sâu bệnh... đều được ghi nhật ký đầy đủ. Nhờ mối liên kết chặt chẽ, sản phẩm đầu ra luôn ổn định.
Hiện nông trại của ông Mạnh đang tạo việc làm cho khoảng 20 - 30 lao động địa phương, thu nhập từ 150.000 - 250.000 đồng/người/ngày. Tổng doanh thu hằng năm của nông trại khoảng 2 - 3 tỷ đồng, cao gấp nhiều lần so với trồng lúa truyền thống. Đặc biệt, ông Mạnh luôn quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường trong sản xuất, như sử dụng phân bón hữu cơ và các chế phẩm sinh học để hạn chế dư lượng hóa chất trong đất, nước và sản phẩm.
Không dừng lại ở sản xuất, ông Mạnh còn chia sẻ kinh nghiệm cho nông dân địa phương, nhất là người trẻ khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp sạch. Những buổi chia sẻ về kỹ thuật trồng rau, ghi nhật ký canh tác và cách tiếp cận thị trường bước đầu đã lan tỏa tư duy làm nông chuyên nghiệp trong cộng đồng dân cư.
Bây giờ, thời đại cách mạng 4.0 người nông dân làm nông nghiệp không chỉ dùng sức mà còn cần kỹ thuật và sự cẩn thận. Trong sản xuất nông nghiệp hiện đại, bà con đã học được cách sản xuất nông sản sạch, an toàn và biết cách ghi chép, theo dõi cây trồng để minh chứng rõ ràng với người tiêu dùng, cơ quan quản lý.
Theo ông Chu Anh Tuấn, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Gia Lâm cho biết: Cán bộ, hội viên nông dân huyện luôn phát huy tính chủ động, cần cù, năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung sản xuất nông nghiệp sạch. Từ đó, góp phần hình thành các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh trên địa bàn như sản xuất rau an toàn, sản xuất hoa cây cảnh, cây ăn quả...
Điển hình như Hội Nông dân xã Văn Đức với mô hình sản xuất rau an toàn; mô hình sản xuất hoa giấy ở xã Phù Đổng; Hội Nông dân xã Đa Tốn với mô hình trồng rau thủy canh, mô hình nhân cấy cây cảnh, cây cảnh văn phòng nuôi cấy mô; Hội Nông dân xã Lệ Chi với mô hình hoa cắt cành, ứng dụng tưới nước tự động, tưới nhỏ giọt... tạo ra nông sản an toàn, có sức cạnh tranh và nâng cao giá trị sản xuất tại vùng chuyên canh với thu nhập trung bình từ 400 triệu đồng đến hơn 1 tỷ đồng/ha/năm.
Hội Nông dân huyện Gia Lâm cũng đã chủ động, sáng tạo xây dựng và phát động phong trào: Nông dân Gia Lâm thi đua thực hiện "3 nhóm mô hình 10 phần việc", xây dựng "Cánh đồng sạch"… góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu, phát triển đô thị gắn với bảo vệ môi trường.
Tính từ năm 2020 đến nay, các hội cơ sở đã triển khai xây dựng được 94 "Cánh đồng sạch", tổng diện tích 622,7 ha với hơn 4.100 hội viên tham gia; xây dựng 344 mô hình nông dân tham gia bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu với 8.053 hộ tham gia, góp phần bảo đảm vệ sinh môi trường nông thôn, nông nghiệp.
Để tiếp tục nhân rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp sạch trên địa bàn huyện, ông Nguyễn Văn Đức, Chủ tịch Hội Nông dân xã Đặng Xá (huyện Gia Lâm) đề nghị: Chính quyền địa phương và cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục hỗ trợ hội viên trong xã xây dựng phương án sản xuất trong nhà vòm, nhà lưới. Đồng thời, hướng dẫn hoàn thiện thủ tục để được cấp chứng nhận sản phẩm OCOP (Chương trình mỗi xã một sản phẩm); ưu tiên hỗ trợ vốn vay ưu đãi đối với các hộ tham gia chuyển đổi mô hình kinh tế sản xuất ra sản phẩm hữu cơ cho năng suất, chất lượng cao.
Về phía Hội Nông dân thành phố Hà Nội cần đẩy mạnh và nâng cao chất lượng phong trào "Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững" gắn với thực hiện chủ đề "Nông dân số - nông nghiệp sạch - môi trường xanh" cụ thể, thiết thực, hiệu quả hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho các hội viên tham gia phát triển mô hình sản xuất sạch, chuyển đổi số, tiêu thụ sản phẩm.
Cùng đó, tổ chức lại sản xuất, tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị; gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ nông sản trên cơ sở phát triển các hình thức hợp tác, liên kết đa dạng giữa hộ cá thể với các tổ chức hợp tác và doanh nghiệp, lấy doanh nghiệp làm trung tâm và động lực để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia; quán triệt phương châm "muốn đi nhanh hãy đi một mình, muốn đi xa hãy đi cùng nhau.

Các chuỗi đã tạo ra diện mạo mới cho ngành nông nghiệp, tạo bước chuyển biến tích cực cho nông nghiệp Thủ đô theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển nông nghiệp bền vững và bắt kịp xu thế hội nhập kinh tế, quốc tế.
Ông Ngô Đức Mạnh ở xã Thượng Lâm (huyện Mỹ Đức) cho biết: Để có được cơ ngơi như hiện nay, gia đình ông đã dành nguồn lực khá lớn để đầu tư hệ thống xử lý nguồn nước, tưới tiết kiệm, trồng các loại cây ớt, rau ngót, dưa leo, dưa lê, chuối... theo quy trình VietGAP. Việc chăm sóc, bón phân, phòng trừ sâu bệnh... đều được ghi nhật ký đầy đủ. Nhờ mối liên kết chặt chẽ, sản phẩm đầu ra luôn ổn định.
Hiện nông trại của ông Mạnh đang tạo việc làm cho khoảng 20 - 30 lao động địa phương, thu nhập từ 150.000 - 250.000 đồng/người/ngày. Tổng doanh thu hằng năm của nông trại khoảng 2 - 3 tỷ đồng, cao gấp nhiều lần so với trồng lúa truyền thống. Đặc biệt, ông Mạnh luôn quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường trong sản xuất, như sử dụng phân bón hữu cơ và các chế phẩm sinh học để hạn chế dư lượng hóa chất trong đất, nước và sản phẩm.
Không dừng lại ở sản xuất, ông Mạnh còn chia sẻ kinh nghiệm cho nông dân địa phương, nhất là người trẻ khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp sạch. Những buổi chia sẻ về kỹ thuật trồng rau, ghi nhật ký canh tác và cách tiếp cận thị trường bước đầu đã lan tỏa tư duy làm nông chuyên nghiệp trong cộng đồng dân cư.
Bây giờ, thời đại cách mạng 4.0 người nông dân làm nông nghiệp không chỉ dùng sức mà còn cần kỹ thuật và sự cẩn thận. Trong sản xuất nông nghiệp hiện đại, bà con đã học được cách sản xuất nông sản sạch, an toàn và biết cách ghi chép, theo dõi cây trồng để minh chứng rõ ràng với người tiêu dùng, cơ quan quản lý.
Theo ông Chu Anh Tuấn, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Gia Lâm cho biết: Cán bộ, hội viên nông dân huyện luôn phát huy tính chủ động, cần cù, năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung sản xuất nông nghiệp sạch. Từ đó, góp phần hình thành các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh trên địa bàn như sản xuất rau an toàn, sản xuất hoa cây cảnh, cây ăn quả...
Điển hình như Hội Nông dân xã Văn Đức với mô hình sản xuất rau an toàn; mô hình sản xuất hoa giấy ở xã Phù Đổng; Hội Nông dân xã Đa Tốn với mô hình trồng rau thủy canh, mô hình nhân cấy cây cảnh, cây cảnh văn phòng nuôi cấy mô; Hội Nông dân xã Lệ Chi với mô hình hoa cắt cành, ứng dụng tưới nước tự động, tưới nhỏ giọt... tạo ra nông sản an toàn, có sức cạnh tranh và nâng cao giá trị sản xuất tại vùng chuyên canh với thu nhập trung bình từ 400 triệu đồng đến hơn 1 tỷ đồng/ha/năm.
Hội Nông dân huyện Gia Lâm cũng đã chủ động, sáng tạo xây dựng và phát động phong trào: Nông dân Gia Lâm thi đua thực hiện "3 nhóm mô hình 10 phần việc", xây dựng "Cánh đồng sạch"… góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu, phát triển đô thị gắn với bảo vệ môi trường.
Tính từ năm 2020 đến nay, các hội cơ sở đã triển khai xây dựng được 94 "Cánh đồng sạch", tổng diện tích 622,7 ha với hơn 4.100 hội viên tham gia; xây dựng 344 mô hình nông dân tham gia bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu với 8.053 hộ tham gia, góp phần bảo đảm vệ sinh môi trường nông thôn, nông nghiệp.
Để tiếp tục nhân rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp sạch trên địa bàn huyện, ông Nguyễn Văn Đức, Chủ tịch Hội Nông dân xã Đặng Xá (huyện Gia Lâm) đề nghị: Chính quyền địa phương và cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục hỗ trợ hội viên trong xã xây dựng phương án sản xuất trong nhà vòm, nhà lưới. Đồng thời, hướng dẫn hoàn thiện thủ tục để được cấp chứng nhận sản phẩm OCOP (Chương trình mỗi xã một sản phẩm); ưu tiên hỗ trợ vốn vay ưu đãi đối với các hộ tham gia chuyển đổi mô hình kinh tế sản xuất ra sản phẩm hữu cơ cho năng suất, chất lượng cao.
Về phía Hội Nông dân thành phố Hà Nội cần đẩy mạnh và nâng cao chất lượng phong trào "Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững" gắn với thực hiện chủ đề "Nông dân số - nông nghiệp sạch - môi trường xanh" cụ thể, thiết thực, hiệu quả hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho các hội viên tham gia phát triển mô hình sản xuất sạch, chuyển đổi số, tiêu thụ sản phẩm.
Cùng đó, tổ chức lại sản xuất, tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị; gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ nông sản trên cơ sở phát triển các hình thức hợp tác, liên kết đa dạng giữa hộ cá thể với các tổ chức hợp tác và doanh nghiệp, lấy doanh nghiệp làm trung tâm và động lực để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia; quán triệt phương châm "muốn đi nhanh hãy đi một mình, muốn đi xa hãy đi cùng nhau.
Các chuỗi đã tạo ra diện mạo mới cho ngành nông nghiệp, tạo bước chuyển biến tích cực cho nông nghiệp Thủ đô theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển nông nghiệp bền vững và bắt kịp xu thế hội nhập kinh tế, quốc tế.
Ông Ngô Đức Mạnh ở xã Thượng Lâm (huyện Mỹ Đức) cho biết: Để có được cơ ngơi như hiện nay, gia đình ông đã dành nguồn lực khá lớn để đầu tư hệ thống xử lý nguồn nước, tưới tiết kiệm, trồng các loại cây ớt, rau ngót, dưa leo, dưa lê, chuối... theo quy trình VietGAP. Việc chăm sóc, bón phân, phòng trừ sâu bệnh... đều được ghi nhật ký đầy đủ. Nhờ mối liên kết chặt chẽ, sản phẩm đầu ra luôn ổn định.
Hiện nông trại của ông Mạnh đang tạo việc làm cho khoảng 20 - 30 lao động địa phương, thu nhập từ 150.000 - 250.000 đồng/người/ngày. Tổng doanh thu hằng năm của nông trại khoảng 2 - 3 tỷ đồng, cao gấp nhiều lần so với trồng lúa truyền thống. Đặc biệt, ông Mạnh luôn quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường trong sản xuất, như sử dụng phân bón hữu cơ và các chế phẩm sinh học để hạn chế dư lượng hóa chất trong đất, nước và sản phẩm.
Không dừng lại ở sản xuất, ông Mạnh còn chia sẻ kinh nghiệm cho nông dân địa phương, nhất là người trẻ khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp sạch. Những buổi chia sẻ về kỹ thuật trồng rau, ghi nhật ký canh tác và cách tiếp cận thị trường bước đầu đã lan tỏa tư duy làm nông chuyên nghiệp trong cộng đồng dân cư.
Bây giờ, thời đại cách mạng 4.0 người nông dân làm nông nghiệp không chỉ dùng sức mà còn cần kỹ thuật và sự cẩn thận. Trong sản xuất nông nghiệp hiện đại, bà con đã học được cách sản xuất nông sản sạch, an toàn và biết cách ghi chép, theo dõi cây trồng để minh chứng rõ ràng với người tiêu dùng, cơ quan quản lý.
Theo ông Chu Anh Tuấn, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Gia Lâm cho biết: Cán bộ, hội viên nông dân huyện luôn phát huy tính chủ động, cần cù, năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung sản xuất nông nghiệp sạch. Từ đó, góp phần hình thành các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh trên địa bàn như sản xuất rau an toàn, sản xuất hoa cây cảnh, cây ăn quả...
Điển hình như Hội Nông dân xã Văn Đức với mô hình sản xuất rau an toàn; mô hình sản xuất hoa giấy ở xã Phù Đổng; Hội Nông dân xã Đa Tốn với mô hình trồng rau thủy canh, mô hình nhân cấy cây cảnh, cây cảnh văn phòng nuôi cấy mô; Hội Nông dân xã Lệ Chi với mô hình hoa cắt cành, ứng dụng tưới nước tự động, tưới nhỏ giọt... tạo ra nông sản an toàn, có sức cạnh tranh và nâng cao giá trị sản xuất tại vùng chuyên canh với thu nhập trung bình từ 400 triệu đồng đến hơn 1 tỷ đồng/ha/năm.
Hội Nông dân huyện Gia Lâm cũng đã chủ động, sáng tạo xây dựng và phát động phong trào: Nông dân Gia Lâm thi đua thực hiện "3 nhóm mô hình 10 phần việc", xây dựng "Cánh đồng sạch"… góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu, phát triển đô thị gắn với bảo vệ môi trường.
Tính từ năm 2020 đến nay, các hội cơ sở đã triển khai xây dựng được 94 "Cánh đồng sạch", tổng diện tích 622,7 ha với hơn 4.100 hội viên tham gia; xây dựng 344 mô hình nông dân tham gia bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu với 8.053 hộ tham gia, góp phần bảo đảm vệ sinh môi trường nông thôn, nông nghiệp.
Để tiếp tục nhân rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp sạch trên địa bàn huyện, ông Nguyễn Văn Đức, Chủ tịch Hội Nông dân xã Đặng Xá (huyện Gia Lâm) đề nghị: Chính quyền địa phương và cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục hỗ trợ hội viên trong xã xây dựng phương án sản xuất trong nhà vòm, nhà lưới. Đồng thời, hướng dẫn hoàn thiện thủ tục để được cấp chứng nhận sản phẩm OCOP (Chương trình mỗi xã một sản phẩm); ưu tiên hỗ trợ vốn vay ưu đãi đối với các hộ tham gia chuyển đổi mô hình kinh tế sản xuất ra sản phẩm hữu cơ cho năng suất, chất lượng cao.
Về phía Hội Nông dân thành phố Hà Nội cần đẩy mạnh và nâng cao chất lượng phong trào "Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững" gắn với thực hiện chủ đề "Nông dân số - nông nghiệp sạch - môi trường xanh" cụ thể, thiết thực, hiệu quả hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho các hội viên tham gia phát triển mô hình sản xuất sạch, chuyển đổi số, tiêu thụ sản phẩm.
Cùng đó, tổ chức lại sản xuất, tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị; gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ nông sản trên cơ sở phát triển các hình thức hợp tác, liên kết đa dạng giữa hộ cá thể với các tổ chức hợp tác và doanh nghiệp, lấy doanh nghiệp làm trung tâm và động lực để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia; quán triệt phương châm "muốn đi nhanh hãy đi một mình, muốn đi xa hãy đi cùng nhau.
Tiền Giang mở rộng diện tích trồng cây ăn quả lên gần 88.400 ha
Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tiền Giang Trần Hoàng Nhật Nam, thực hiện mục tiêu phát huy tiềm năng kinh tế vườn trong tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa, tạo nguồn nông sản có giá trị tiêu dùng và xuất khẩu, địa phương đã mở rộng diện tích vườn trồng cây ăn quả lên gần 88.400 ha, tăng gần 4.200 ha so với năm 2024.

Thanh long ruột đỏ chín cây, sẵn sàng cho mùa hái quả. Ảnh: Đức Tâm/TTXVN
Tiền Giang cũng là tỉnh có diện tích và sản lượng trái cây các loại lớn nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long; trong đó, sầu riêng với tổng diện tích lên đến trên 24.500 ha, gần 16.000 ha mít, gần 15.000 ha dứa, khoảng 9.000 ha thanh long… đều là những nguồn nông sản hàng hóa có giá trị xuất khẩu lớn, thu hút nhiều ngoại tệ hàng năm để đầu tư phát triển, giúp đổi mới diện mạo nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới thành công tại địa phương.
Đặc biệt, địa phương khuyến khích chuyển đổi sản xuất những địa bàn khó khăn theo hướng thích ứng biến đổi khí hậu, hình thành những vùng chuyên canh cây ăn quả đặc sản phù hợp từng tiểu vùng: lợ, ngọt, nhiễm phèn Đồng Tháp Mười, vùng kiểm soát lũ phía Tây.
Bên cạnh đó, ứng dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp trong quá trình chăm sóc, thâm canh nhằm tăng năng suất, sản lượng. Tỉnh đặc biệt quan tâm tổ chức sản xuất theo hướng an toàn, sản xuất xanh nhằm cho ra sản phẩm chất lượng cao, an toàn cho sức khỏe và môi trường cung ứng theo nhu cầu thị trường vừa giúp phát triển bền vững tiềm năng kinh tế vườn quả của tỉnh.
Trong nỗ lực chuyển giao khoa học kỹ thuật nông nghiệp cho vùng chuyên canh, giúp nông dân đạt năng suất, sản lượng cao và chất lượng nông sản tham gia thị trường, trong thời gian qua, Tiền Giang triển khai Dự án xây dựng Chuỗi liên kết sản xuất - tiêu thụ sầu riêng, xoài tỉnh Tiền Giang giai đoạn 20.20 - 25 và định hướng đến năm 30 tại các huyện, thị vùng kiểm soát lũ phía Tây và Đề án “Phát triển cây thanh long tỉnh Tiền Giang đến năm 25” tại vùng chuyên canh thanh long Chợ Gạo mà mục tiêu giúp nông dân nâng cao trình độ thâm canh, tổ chức lại sản xuất theo hướng an toàn, sản xuất xanh, sản xuất hướng hữu cơ... phù hợp xu thế thị trường hiện nay.
Kết quả, tỉnh đã có gần 3.900 ha vườn chuyên canh cây ăn quả đặc sản được công nhận đạt tiêu chí VietGAP, GlobalGAP với sản lượng mỗi năm khoảng 110.000 tấn quả; trong đó, diện tích thanh long đạt chứng nhận GAP cho sản lượng thu hoạch hàng năm trên 67.000 tấn và chiếm khoảng 23,4% tổng sản lượng thanh long toàn tỉnh.
Tiền Giang đang phấn đấu đến năm 25, mở rộng diện tích thanh long đạt tiêu chí GAP lên 3.600 ha. Đồng thời, Tiền Giang còn có trên 51.000 ha, chiếm trên 60% tổng diện tích vườn cây ăn quả chuyên canh, đặc sản địa phương sử dụng các phân bón hữu cơ, sinh học trong quá trình thâm canh, tăng 2,4% so với năm trước.
Để ứng phó biến đổi khí hậu, phòng chống hạn mặn bảo vệ vườn cây trong mùa khô hạn hàng năm, nông dân vùng trồng cây ăn quả còn đầu tư lắp đặt các hệ thống tưới phun mưa, tưới tiết kiệm nước cho trên 59.000 ha vườn chuyên canh, chiếm đến gần 70% tổng diện tích vườn quả hiện có.
Ngoài ra, nông dân Tiền Giang đang áp dụng rộng rãi các giải pháp và kỹ thuật canh tác khoa học tiên tiến như: bón phân cân đối, tỉa cành tạo tán, điều tiết nước và kỹ thuật canh tác trong mùa hạn mặn; kềm hãm sinh trưởng nhằm xử lý cho trái rải vụ; sử dụng các chế phẩm sinh học phòng trừ ruồi đục quả hoặc phòng trị bệnh đốm nâu trên cây thanh long, sử dụng túi bao trái phòng trị ruồi đục quả…

Trồng bưởi ứng dụng công nghệ cao theo quy trình VietGAP ở Hợp tác xã Mỹ Phong (thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang). Ảnh: Hồng Đạt/TTXVN
Hiện nay, nhiều hợp tác xã đi đầu trong lĩnh vực sản xuất theo tiêu chí GAP, tạo nguồn nông sản an toàn xuất khẩu như: Hợp tác xã nông nghiệp sạch Hưng Thịnh Phát, Hợp tác xã Mỹ Tịnh An (huyện Chợ Gạo) chuyên canh thanh long VietGAP xuất khẩu; Hợp tác xã Ngũ Hiệp, Hợp tác xã Cẩm Sơn (huyện Cai Lậy) xây dựng vùng chuyên canh sầu riêng được cấp mã số vùng trồng xuất khẩu chính ngạch trên diện tích hơn 800 ha,…
Ông Trần Hoàng Nhật Nam khẳng định: Sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững, ít ô nhiễm môi trường, đảm bảo chất lượng nguồn nông sản hàng hóa, an toàn cho sức khỏe là định hướng quan trọng của tỉnh trong nỗ lực phát huy tiềm năng và thế mạnh kinh tế vườn địa phương. Từ đó, giúp phát triển bền vững các vùng chuyên canh vừa nâng cao sức cạnh tranh trái cây đặc sản của tỉnh trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
Thời gian tới, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tiền Giang kết hợp cùng Sở Công Thương tỉnh Tiền Giang và các ngành hữu quan tăng cường hướng dẫn, chuyển giao quy trình kỹ thuật sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP cho các hộ nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp đầu mối xuất khẩu trái cây gắn với đẩy mạnh xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu trái cây Tiền Giang, kết nối các đơn vị kiểm định, đánh giá chất lượng, đảm bảo nguồn hàng hóa đáp ứng và tuân thủ yêu cầu nhập khẩu của các đối tác…
Ngoài ra, nắm bắt cơ hội thuận lợi được chấp nhận xuất khẩu chính ngạch các loại trái cây chù lực có lợi thế cạnh tranh sang Trung Quốc và các nước khác, Tiền Giang đẩy nhanh tiến độ cấp và quản lý mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói nhằm đảm bảo chất lượng nguồn nông sản xuất khẩu, truy xuất nguồn gốc, giúp phát triển bền vững các vùng chuyên canh trái cây đặc sản tại địa phương.
Đến thời điểm hiện tại, tỉnh có 466 mã số vùng trồng cây ăn trái phục vụ xuất khẩu được phê duyệt với tổng diện tích trên 28.400 ha. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh cũng 323 mã số cơ sở đóng gói xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, Hoa Kỳ, Australia… Tiền Giang phấn đấu đến cuối năm 25, cơ bản toàn bộ diện tích cây ăn quả đặc sản của tỉnh sẽ được cấp mã số vùng trồng xuất khầu.
Trong 6 tháng đầu năm 25, Tiền Giang thu hoạch đạt sản sản lượng trên 1.050.000 tấn trái cây các loại cung ứng cho thị trường trong ngoài nước với nhiều chủng loại trái cây đặc sản nổi tiếng như: xoài cát Hòa Lộc, thanh long Chợ Gạo, sầu riêng Ngũ Hiệp, dứa Tân Phước…, gần 57% so kế hoạch và tăng 7,9 % so cùng kỳ năm trước. Dự kiến, trong năm 25, tỉnh đạt sản lượng trên 1,88 triệu tấn trái cây các loại đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.
Theo MINH TRÍ (TTXVN)/Báo Tin tức và Dân tộc
Ngành nông nghiệp quyết tâm hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng
Để đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng GDP cả nước năm 2025 ở mức 8% và tăng trưởng hai con số mỗi năm trong giai đoạn 2026-2030, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tăng trưởng của ngành nông, lâm, ngư nghiệp phải đạt tăng trưởng trên 4%/năm. Dù đây là nhiệm vụ đầy thách thức song ngành Nông nghiệp đang rất nỗ lực hiện thực hóa mục tiêu được giao.

Ngành Nông nghiệp và Môi trường đang thể hiện quyết tâm mạnh mẽ để đạt mục tiêu tăng trưởng năm 2025
Kết quả nền tảng cộng hưởng cùng tín hiệu tích cực
Những năm qua, ngành nông nghiệp đã thể hiện rõ vai trò trụ đỡ của nền kinh tế, đặc biệt năm 2020 thời điểm đại dịch COVID - 19 bùng phát mạnh và diễn biến khó lường, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt kinh tế - xã hội nước ta.
Trong năm 2024, ngành nông nghiệp có 11 mặt hàng tiếp tục duy trì kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó 7 mặt hàng đạt trên 3 tỷ USD, gồm: Gỗ và sản phẩm gỗ (16,2 tỷ USD), rau quả (7,12 tỷ USD), gạo (5,75 tỷ USD), cà phê (5,48 tỷ USD), hạt điều (4,38 tỷ USD), tôm (đạt 3,86 tỷ USD), cao su (đạt 3,46 tỷ USD). Kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt 62,5 tỷ USD, vượt xa mục tiêu xuất khẩu nông - lâm - thủy sản đặt ra là 55 tỷ USD cho cả năm 2024. So với mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 60-62 tỷ USD vào năm 2030, thì toàn ngành đã về đích trước 6 năm. Kết quả này đã tạo cơ sở, mở ra cơ hội tăng trưởng mạnh mẽ cho ngành nông nghiệp trong năm 2025 và những năm tiếp theo.
Theo Cục Thống kê (Bộ Tài chính), quý I/2025, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng đạt những kết quả khả quan, tăng 3,74% so với cùng kỳ năm 2024, đóng góp 6,09% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
Về kim ngạch xuất khẩu nông, lâm nghiệp và thủy sản, trong quý I/2025 đạt 15,72 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm 2024 (số liệu của Bộ Nông nghiệp và Môi trường). Các mặt hàng chủ lực như cà phê, thủy sản và lâm sản đều ghi nhận tăng trưởng giá trị xuất khẩu, trong đó cà phê tăng 49,5%, thủy sản tăng 18,1%, và lâm sản tăng 11,2%. Ba tháng đầu năm nay, cán cân thương mại ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản thặng dư 4,4 tỷ USD, tăng 13,1%, cho thấy tiềm năng lớn để đạt mục tiêu xuất khẩu 65 tỷ USD cả năm và là mức tăng trưởng khá cao của toàn ngành nông nghiệp.
Năm 2025, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng đẩy mạnh ứng dụng khoa học - kỹ thuật đem lại năng suất, chất lượng cao hơn; đồng thời tích cực tận dung tốt các cơ hội đến từ các hiệp định thương mại tự do (FTA),… góp phần tạo ra tăng trưởng rõ nét cho toàn ngành.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các thị trường quốc tế đang mở rộng hơn cơ hội cho nông sản Việt Nam. Đơn cử như Singapore đã mở cửa thị trường cho trứng và thịt gia cầm; Brazil giảm yêu cầu kỹ thuật đối với cá tra nhập khẩu; Mỹ tháo gỡ rào cản kỹ thuật để nông sản Việt - Mỹ thêm cơ hội hợp tác,…
Ngoài ra, tạo điều kiện cho nông nghiệp và môi trường phát triển, hệ thống thể chế, chính sách và môi trường kinh doanh đang được quyết liệt hoàn thiện và ngày càng đồng bộ. Đầu tư về cơ sở hạ tầng và nông nghiệp công nghệ cao đang được định hướng và tập trung thúc đẩy mạnh mẽ. Quá trình chuyển đổi số được triển khai rộng khắp trong cả nước, tạo động lực mới cho phát triển.
Giải pháp thực hiện mục tiêu tăng trưởng
Để đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng GDP cả nước năm 2025 ở mức 8% và tăng trưởng hai con số mỗi năm trong giai đoạn 2026-2030, ngành Nông nghiệp và Môi trường phấn đấu giá trị gia tăng khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản năm 2025 tăng 4,0% trở lên. Trong đó: Giá trị gia tăng lĩnh vực nông nghiệp tăng 3,85% (giá trị sản xuất trồng trọt tăng 2,4 - 2,9%; giá trị sản xuất chăn nuôi tăng 5,7 - 5,98%); giá trị gia tăng thủy sản tăng 4,35%; giá trị gia tăng lâm nghiệp tăng 5,47%. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm nghiệp, thủy sản năm 2025 đạt 65 tỷ USD, phấn đấu đạt 70 tỷ USD. Đây là mức mục tiêu đặt ra rất cao, so với kết quả tăng trưởng của toàn ngành trong những năm qua.
Nhằm hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng 4,0%, trong thời gian tới ngành Nông nghiệp và Môi trường tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ và giải pháp như: Rà soát toàn diện, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành, lĩnh vực nông nghệp và môi trường bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, phù hợp với mô hình tổ chức các cơ quan sau sáp nhập, hợp nhất, đặc biệt là mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.
Tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết số 19/NQ-TW ngày 16/6/2022 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Chiến lược phát triển các tiểu ngành, lĩnh vực như trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản, đất đai, môi trường; các quy hoạch ngành quốc gia lĩnh vực Nông nghiệp và Môi trường; các quy hoạch và các đề án, chương trình, kế hoạch đã ban hành.
Tập trung cơ cấu lại các tiểu ngành, lĩnh vực và trong từng ngành thực chất, hiệu quả, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng thông qua tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh.
Đẩy mạnh chuyển đổi sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo hướng nâng cao hiệu quả từ nông sản có giá trị thấp sang nông sản có giá trị cao. Chú trọng xây dựng những vùng nguyên liệu lớn, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, phát thải thấp cho những sản phẩm chủ lực cấp quốc gia, cấp tỉnh.
Phát triển nông nghiệp sinh thái, hiệu quả, bền vững, minh bạch, trách nhiệm gắn với môi trường bền vững; khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn; chú trọng phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao; phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương.
Tổ chức lại sản xuất theo vùng chuyên canh, gắn với chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc và xây dựng mã số vùng trồng, vùng nuôi... đáp ứng yêu cầu thị trường.
Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, tháo gỡ các rào cản, nút thắt cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, gắn với chuyển đổi số trong nông nghiệp, nông thôn, tài nguyên và môi trường để tạo động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng ngành.
Phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, đẩy mạnh cơ giới hóa đồng bộ, tăng tỷ trọng chế biến sâu để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm. Giảm chi phí sản xuất, chi phí trung gian và giảm mạnh tổn thất sau thu hoạch trong nông nghiệp. Phát triển hệ thống chế biến gắn với vùng nguyên liệu và nhu cầu của thị trường. Xây dựng, phát triển hệ thống logistics phục vụ nông nghiệp, nông thôn hiện đại.
Bên cạnh đó, thúc đẩy phát triển thị trường xuất khẩu thông qua đẩy mạnh xúc tiến thương mại, đàm phán để tháo gỡ rào cản kỹ thuật, rào cản thương mại và mở cửa xuất khẩu chính ngạch thêm nhiều nông sản vào các thị trường truyền thống, các thị trường có tổng kim ngạch xuất khẩu lớn như Trung Quốc, Hoa Kỳ, EU, Nga, Brazil, Nhật Bản, Hàn Quốc...; khai thông, phát triển các thị trường mới, có nhiều tiềm năng như: Thị trường thực phẩm Halal của các nước Hồi giáo, Trung Đông, châu Phi...
Xây dựng báo cáo thị trường xuất khẩu nông sản, giải pháp ứng phó đối với những thay đổi liên quan đến thuế, xuất xứ, tiêu chuẩn kỹ thuật… tại các thị trường Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc.
Tích cực triển khai chủ động, hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (nhất là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - CPTPP và Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu - EVFTA), các Hiệp định khu vực và song phương với các nước. Thực hiện nghiêm việc đáp ứng các quy định về tem nhãn, truy xuất nguồn gốc, chỉ dẫn vùng trồng, kiểm nghiệm, kiểm dịch, quy cách đóng gói, chất lượng, chủng loại nông sản; đăng ký mã cơ sở đóng gói, mã số doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu.
Thúc đẩy phát triển thị trường trong nước với lộ trình, giải pháp rõ ràng. Chú trọng xây dựng thương hiệu “Nông sản Việt” đối với các sản phẩm nông sản chủ lực của Việt Nam trên thị trường thế giới. Nghiên cứu xây dựng Nghị định về thương hiệu nông sản. Đồng thời, thúc đẩy mạnh mẽ các ngành, lĩnh vực hỗ trợ sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản như: Quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên; Xây dựng, cập nhật các kịch bản phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu lĩnh vực nông nghiệp và môi trường; Thực hiện đột phá chiến lược trong xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đồng bộ, hiện đại và bảo vệ môi trường bền vững.
Có thể thấy, với nền tảng là kết quả đạt được trong những năm qua và những tín hiệu tích cực của quý I/năm 2025, cùng các giải pháp chiến lược mở rộng thị trường, tối ưu hóa sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ và cải cách hành chính.... ngành Nông nghiệp và Môi trường đang thể hiện quyết tâm mạnh mẽ để đạt mục tiêu tăng trưởng năm 2025, góp phần quan trọng vào tăng trưởng hai con số mỗi năm trong giai đoạn 2026-2030.
Gia Lai công bố 103 thủ tục hành chính trực tuyến toàn trình lĩnh vực nông nghiệp và môi trường
Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai Rah Lan Chung vừa ký ban hành Quyết định số 612/QĐ-UBND công bố Danh mục gồm 103 thủ tục hành chính được cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình thuộc phạm vi chức năng quản lý của Sở Nông nghiệp và Môi trường.
Theo đó, 103 thủ tục hành chính được cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình thuộc chức năng quản lý của Sở Nông nghiệp và Môi trường gồm 19 lĩnh vực, gồm: Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; môi trường; khí tượng thủy văn; tài nguyên nước; đo đạc và bản đồ; đất đai; biển và hải đảo; bảo vệ thực vật; trồng trọt; thú ý; khoa học và công nghệ; lâm nghiệp và kiểm lâm; nông nghiệp; quản lý chất lượng nông-lâm sản và thủy sản; kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn; thủy lợi; thủy sản; tổng hợp; quản lý đê điều và phòng-chống thiên tai.

103 thủ tục hành chính được cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình thuộc phạm vi chức năng quản lý của Sở Nông nghiệp và Môi trường. Ảnh: P.V
Trong đó, có 13 thủ tục do cấp xã thực hiện, còn lại 90 thủ tục do cấp tỉnh thực hiện.
Chủ tịch UBND tỉnh giao Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Thủ trưởng các sở, ban, ngành tỉnh, Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh; Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố; Chủ tịch UBND các xã, phường, thị trấn và các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Bàn về tương lai ngành nông nghiệp, thực phẩm
Các nhà nghiên cứu, giảng viên trình bày các tham luận, nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp, thực phẩm và phát triển bền vững
Hội thảo quốc tế về phát triển bền vững trong nông nghiệp và thực phẩm, lần 1 - 2025 (ICA 2025) với chủ đề "Tương lai ngành nông nghiệp, thực phẩm - Xu hướng và thách thức" do Trường ĐH Công Thương chủ trì cùng sự phối hợp tổ chức của 8 trường ĐH trong và ngoài nước đã diễn ra ngày 27-6.
Có 112 bài báo khoa học đến từ nhiều nhóm nghiên cứu trong và ngoài nước được trình bày tại hội thảo, tập trung vào các chủ đề: Nông nghiệp thông minh, công nghệ số trong sản xuất nông nghiệp; Công nghệ thực phẩm xanh và bền vững; Kinh tế tuần hoàn, phát triển nông thôn và chuyển đổi số; Biến đổi khí hậu và an ninh lương thực toàn cầu.

GS Roberto Leonardo Rana - Trường Đại học Foggia (Ý), chuyên gia về khoa học hàng hóa và phát triển bền vững - trình bày báo cáo tại hội thảo
Các nhà nghiên cứu, giảng viên đến từ các trường ĐH trong và ngoài nước cũng trình bày các tham luận, nghiên cứu có giá trị khoa học và thực tiễn cao trong lĩnh vực nông nghiệp, thực phẩm và phát triển bền vững như: Phân tích chuyên sâu các kỹ thuật vi chiết trong nghiên cứu hiện đại; Tác động carbon trong chuỗi cung ứng thực phẩm nông nghiệp: Công cụ thực thi phát triển nông nghiệp bền vững; Phân tích vai trò của khoai lang trong thích ứng khí hậu và duy trì an ninh lương thực; Phát triển các hệ thống dẫn truyền cấp thực phẩm phục vụ dinh dưỡng chính xác và dinh dưỡng hướng đích…
Hội thảo là nơi các nhà khoa học, giảng viên, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên đến từ nhiều quốc gia có thể gặp gỡ, giao lưu, trao đổi kết quả nghiên cứu, cập nhật các xu hướng khoa học mới, từ đó tăng cường năng lực nghiên cứu và mở rộng cơ hội hợp tác quốc tế.