Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 30 tháng 8 năm 2024

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 30 tháng 8 năm 2024

 

Lâm Đồng: Măng cụt Bảo Lộc vào vụ thu hoạch

 

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Thông tin từ Phòng Kinh tế TP Bảo Lộc (Lâm Đồng) cho biết, măng cụt trên địa bàn đã bước vào vụ thu hoạch. Măng cụt Bảo Lộc chính vụ thu hoạch vào tháng 8, tháng 9 hàng năm, trễ hơn vụ măng cụt miền Tây Nam bộ 2-3 tháng. Được biết, hiện măng cụt Bảo Lộc đang có giá từ 60-70 ngàn đồng/kg. Tháng 9/2023, măng cụt Bảo Lộc đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp nhãn hiệu chứng nhận và TP Bảo Lộc đang tích cực xây dựng quy chế sử dụng nhãn hiệu; quảng bá, phổ biến rộng rãi để nông dân đăng ký sử dụng nhãn hiệu cũng như người tiêu dùng biết tới thương hiệu măng cụt từ thành phố cao nguyên.

Được biết, hiện trên địa bàn Bảo Lộc có 232 ha măng cụt; diện tích măng cụt trên địa bàn thành phố đang tăng bền vững, mang lại thu nhập ổn định cho người nông dân.

D.Q

 

Lô hàng chuối đầu tiên được xuất khẩu chính ngạch sang Mông Cổ

 

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Ngày 28/8, Công ty Cổ phần Banana Brothers Farm (huyện M’Drắk, tỉnh Đắk Lắk) đã tổ chức Lễ xuất khẩu chính ngạch lô sản phẩm chuối đầu tiên sang thị trường Mông Cổ.

Tham dự buổi lễ có Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Thiên Văn và đại diện một số sở, ngành, địa phương, doanh nghiệp (DN).

Sự kiện này là kết quả của Chương trình kết nối DN Đắk Lắk và DN Mông Cổ. Đồng thời, cụ thể hóa nội dung Bản ghi nhớ hợp tác giữa UBND tỉnh Đắk Lắk và chính quyền tỉnh Orkhon (Mông Cổ). Chuyến hàng có khối lượng 20 tấn, được xuất chính ngạch trực tiếp đến đối tác Mông Cổ.

Bà Lê Thị Mỹ Hạnh, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Banana Brothers Farm cho biết, công ty có trên 100 ha chuối, sản lượng bình quân hằng năm đạt 10.000 tấn, xuất khẩu 400 – 500 container đi Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản.

Hiện nhu cầu của thị trường thế giới rất lớn, trong đó Mông Cổ và các nước lân cận có nhiều tiềm năng, yêu cầu khắt khe về chất lượng và dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, nhưng đơn vị hoàn toàn có thể đáp ứng được.

 

 

Lãnh đạo Công ty Cổ phần Banana Brothers Farm giới thiệu với lãnh đạo UBND tỉnh Đắk Lắk về sản phẩm chuối xuất khẩu

Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Thiên Văn, UBND tỉnh Đắk Lắk và chính quyền tỉnh Orkhon (Mông Cổ) đã ký kết Bản ghi nhớ hợp tác với nội dung trọng tâm liên quan đến việc thực hiện các chương trình trao đổi đoàn, giao lưu văn hóa, hợp tác phát triển kinh tế trên các lĩnh vực du lịch, xúc tiến thương mại sản phẩm nông nghiệp, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, chia sẻ thông tin, hỗ trợ, tư vấn và kết nối các tổ chức DN hai tỉnh.

Sự kiện xuất khẩu lô hàng chuối đầu tiên sang nước bạn là nỗ lực lớn của DN. Thời gian tới, tỉnh sẽ đồng hành, hỗ trợ DN xuất khẩu chuối và các sản nông sản chủ lực nhằm nâng cao giá trị nông sản địa phương, tăng thu nhập cho người dân, DN.

Minh Chi

 

Rộng mở giao thương trái cây Việt – Mỹ

 

Nguồn tin: Báo Chính Phủ

Bộ NN&PTNT cho biết trong khuôn khổ chuyến thăm và làm việc tại Mỹ, Thứ trưởng Bộ NN& PTNT Hoàng Trung và đoàn công tác đã có buổi làm việc với Thứ trưởng Hafemeister và đại diện các cơ quan hữu quan của Bộ Nông nghiệp Mỹ về mở rộng thị trường đối với một số loại trái cây mà Việt Nam có lợi thế xuất khẩu như chanh dây, chanh không hạt, ổi, mít…

 

 

Thứ trưởng Bộ NN& PTNT Hoàng Trnung (đứng giữa) chứng kiến Lễ ký thỏa thuận về khung hợp tác giữa Cơ quan Kiểm dịch Động Thực vật Mỹ và Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT) - Ảnh: Vụ HTQT - Bộ NN&PTNT

Chuyến thăm của Thứ trưởng Hoàng Trung nhằm đẩy nhanh công tác mở cửa thị trường đối với một số loại trái cây mà Việt Nam có lợi thế xuất khẩu; tăng cường hợp tác giữa hai Bộ trong lĩnh vực bảo vệ thực vật; thúc đẩy hợp tác kỹ thuật và đầu tư trong sản xuất nông nghiệp bền vững, giảm phát thải.

Tại buổi làm việc, hai Thứ trưởng cùng bày tỏ sự vui mừng khi quả đào/xuân đào của Mỹ được phép xuất khẩu qua thị trường Việt Nam; đồng thời đã đạt được những bước tiến quan trọng trong tiếp cận thị trường đối với một số loại trái cây khác của hai nước.

Cụ thể, hai bên đã thống nhất về yêu cầu kỹ thuật đối với chanh dây của Việt Nam và tiến thêm một bước trong quy trình xem xét đối với quả quýt của Mỹ. Thứ trưởng Hafemeister cho biết, Mỹ chưa từng có quan hệ hợp tác chặt chẽ như vậy với bất kỳ đối tác nào tại khu vực; đồng thời cam kết sẽ củng cố hơn nữa quan hệ hợp tác kỹ thuật, nâng cao năng lực của cơ quan quản lý hai nước trong kiểm soát dịch hại, phân tích nguy cơ và nghiên cứu phát triển, áp dụng các sáng kiến mới, cải tiến giống cây trồng.

Để hỗ trợ việc duy trì đà tăng trưởng và thị phần của nông lâm thủy sản Việt Nam, Thứ trưởng Hoàng Trung bày tỏ mong muốn Bộ Nông nghiệp Mỹ sẽ có tiếng nói thích hợp trong quá trình tham vấn liên quan đến các vụ việc về phòng vệ thương mại đối với các sản phẩm nông lâm thủy sản của Việt Nam, cụ thể là đối với gỗ, tôm nước ấm và mật ong của Việt Nam.

Liên quan đến việc áp dụng các biện pháp mới áp dụng trong lĩnh vực kiểm dịch động thực vật, hai Thứ trưởng đã trao đổi trên tinh thần hợp tác, cởi mở về hệ thống pháp quy hiện có; thống nhất với nguyên tắc chung về việc tuân thủ cam kết quốc tế thương mại đa phương mà hai bên là thành viên, phù hợp với pháp luật trong nước nhưng vẫn cập nhật kịp thời các xu thế mới trong thương mại, sản xuất và quản lý dịch bệnh đối động thực vật. Phía Mỹ cũng cam kết tiếp tục hỗ trợ Việt Nam thực hiện các dự án trong quản lý phân bón, thuốc bảo vệ sinh học và sản xuất lúa gạo tại vùng ĐBSCL.

Cuối buổi làm việc, hai bên đã chia sẻ quan điểm về phát triển nền sản xuất nông nghiệp xanh, có trách nhiệm với môi trường, chung tay đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu, từ đó khẳng định sẽ tăng cường hợp tác và tương trợ lẫn nhau trong việc thực hiện các sáng kiến toàn cầu về nông nghiệp thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, thân thiện với môi trường, đặc biệt là sáng kiến "Đổi mới nông nghiệp để ứng phó với biến đổi khí hậu" (AIM4C) và Liên minh hành động "Thúc đẩy tăng trưởng năng suất bền vững cho an ninh lương thực và bảo tồn tài nguyên" (SPG).

Trước đó, tại buổi làm việc với Cơ quan Kiểm dịch Động Thực vật Mỹ, Thứ trưởng Hoàng Trung đã nghe Cơ quan Kiểm dịch Động Thực vật Mỹ và Cục Bảo vệ thực vật báo cáo kết quả phiên họp kỹ thuật năm 2024 giữa hai bên. Thứ trưởng Hoàng Trung ghi nhận nỗ lực và đánh giá cao kết quả mà hai bên đạt được trong việc cải thiện khả năng tiếp cận thị trường sản phẩm thực vật hai nước bằng việc đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa biện pháp xử lý bổ sung trong quản lý sâu hại của hai nước.

Về tiếp cận thị trường, hai nước thống nhất kết thúc thảo luận kỹ thuật, chuyển sang thực hiện các thủ tục pháp lý, cho phép nhập khẩu chanh leo của Việt Nam; khởi động quy trình xem xét đối với sản phẩm mới của Việt Nam, gồm chanh không hạt, ổi, mít; thống nhất danh sách dịch hại và các bước tiếp theo trong quy trình xem xét đối với quả quýt, mận, chanh vàng, lựu và một số sản phẩm khác để làm giống cây trồng của phía Mỹ.

Về biện pháp xử lý bổ sung và cải tiến quy trình kiểm dịch thực vật, phía Mỹ ghi nhận các đề xuất của Việt Nam về đa dạng hóa các biện pháp kiểm dịch thực vật như xử lý hơi nước nóng, xử lý Methyl Bromide và xử lý lạnh nhằm giảm chi phí tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại hai nước và khẳng định sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ, triển khai hoạt động khảo nghiệm cần thiết để đưa ra ý kiến cuối cùng; hai bên cũng đã nhất trí triển khai biện pháp phun khử trùng hàng khô trong container tại cảng nhập khẩu. Phía Mỹ cũng cam kết hỗ trợ Việt Nam để chuyển đổi sang sử dụng chứng thư kiểm dịch thực vật điện tử (ePhyto).

Cơ quan chức năng hai nước đã đạt được thỏa thuận Khung hợp tác trong thời gian tới, đặt trọng tâm vào tăng cường năng lực trong phân tích nguy cơ và giám định dịch hại, chia sẻ kiến thức, kết quả nghiên cứu trong quản lý dịch hại đối với thực vật cũng như ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý kiểm dịch.

Theo Bộ NN&PTNT, từ năm 2015 đến nay thị trường tiêu thụ, đặc biệt là chế biến xuất khẩu chanh dây được mở rộng, tốc độ tăng trưởng bình quân về diện tích giai đoạn 2015-2022 đạt 31,1%/năm (tương ứng 1.000 ha/năm).

Chanh dây hiện có diện tích trồng lên tới 9.500ha với sản lượng đạt 188.900 tấn, nằm trong nhóm 18 loại quả có sản lượng trên 100.000 tấn mỗi năm của Việt Nam.

So với một số nước sản xuất chanh dây lớn trên thế giới, Việt Nam có thể sản xuất chanh quanh năm. Trong đó, Tây Nguyên là vùng sản xuất chanh dây thương mại chính, chiếm hơn 90% diện tích trồng chanh dây cả nước với khoảng 8.200ha.

Việt Nam đã trở thành một trong những nhà sản xuất và xuất khẩu chanh dây lớn trên thế giới, nằm trong top 10 nước cung ứng chanh dây lớn nhất thế giới.

Đỗ Hương

 

Trồng dừa dứa xen cau, thu lãi hơn 20 triệu đồng mỗi tháng

 

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Trồng hơn 2ha dừa dứa xen cây cau, anh Huỳnh Quốc Khởi (40 tuổi, ngụ xã Ðại Tâm, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng) thu lãi hơn 20 triệu đồng mỗi tháng.

 

 

Chỉ tính riêng cây dừa dứa đã giúp anh thu lãi hơn 20 triệu đồng/tháng.

Dẫn chúng tôi tham quan 2ha vườn dừa dứa trồng xen với cây cau ngay giữa đồng. Anh Khởi cho biết, nhờ sự kết hợp này, đất trồng dừa cằn cỗi dinh dưỡng, tưởng chừng khó có thể trồng kết hợp cây nào khác, nhưng cây cau lại chịu “sống chung” và đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Anh Khởi quê ở thị xã Ngã Năm (Sóc Trăng), hơn 20 năm trước anh đến vùng đất Mỹ Xuyên lập nghiệp với hai bàn tay trắng. Sau thời gian làm lụng, anh tích cóp được một số tiền để mua đất trồng lúa. Nhờ chịu khó làm ăn, tiền kiếm được anh dồn hết mua đất canh tác. Ðến nay, anh sở hữu hơn 3ha đất, trong đó khoảng 1ha trồng lúa và 2ha trồng dừa dứa xen cau. Năm 2020, anh mua 200 cây dừa dứa giống với giá 90.000 đồng/cây, cùng hơn 5.000 cây cau giống với giá 5.000 đồng/cây để trồng kết hợp trên diện tích 2ha đất vườn nhà. Chia sẻ lý do trồng dừa dứa xen cau, anh Khởi cho biết, dừa dứa dễ trồng, đầu ra ổn định, thương lái tìm đến thu mua không đủ giao hàng nên ông quyết định trồng số lượng lớn. Ngoài ra, do trồng dừa khó có thể chen loại cây khác vào được do hút hết dinh dưỡng làm đất cằn cỗi, lấn hết những cây khác. Riêng chỉ có cây cau có thể trồng chung, vì sau thời gian trồng cây cau sẽ cao hơn dừa, tàn cau nhỏ, không che nắng làm ảnh hưởng cây dừa phát triển.

Với mô hình trồng dừa dứa xen cau, anh Khởi trồng khoảng cách thưa, khoảng cách giữa những cây dừa 7m, ở giữa trồng xen 2 cây cau. Với khoảng cách này tận dụng tối đa diện tích trồng. Dừa dứa trồng khoảng 18 tháng có lưỡi mèo, 24-25 tháng cây cho trái chiếng. Muốn cho năng suất cao, chất lượng thơm mùi dứa, khách hàng ưa chuộng, phải bón phân, tưới nước đều đặn. Ðiều quan tâm hàng đầu là phải thường xuyên xịt thuốc trừ bọ cánh cứng chuyên làm hại đọt dừa. Nếu không cây sẽ chết. Cây cau trồng khoảng 4 năm thì cho trái. Cách chăm sóc cũng tương tự như cây dừa. Sau khi cây bắt đầu ra trái khoảng 2 năm là thời điểm cây bắt đầu cho năng suất ổn định. Một cây cau có tuổi thọ rất lâu, trung bình khoảng 40 năm.

Với kiểu trồng sinh thái 2 tầng, cây cau có kiểu hình lá xẻ nên dừa phía dưới thấp không che hết ánh sáng, mà cả hai loại cây cùng nhau chia sẻ năng lượng tự nhiên từ ánh sáng mặt trời. Còn về mặt kinh tế, khi chăm sóc, bón phân cho cây dừa thì cây cau được hưởng, giúp tiết kiệm chi phí đầu tư so với trồng riêng lẻ. Với mô hình trồng hai loại cây trên cùng 1 vườn này sẽ đảm bảo có lợi nhuận hằng năm. Cả hai loại này đều được thương lái đến vườn cắt, vận chuyển đi, anh Khởi chỉ cần phụ coi cân và thu tiền.

Hiện nay, bình quân mỗi cây dừa dứa cho 15 quày/năm, mỗi quày từ 15-20 trái. Mỗi tuần thương lái đến tận vườn thu mua dừa tươi với giá 10.000 đồng/trái. Chỉ tính riêng cây dừa dứa đã giúp anh thu lãi hơn 20 triệu đồng. Sắp tới, anh Khởi dự định giảm diện tích trồng lúa để tiếp tục mở rộng diện tích trồng dừa dứa xen canh cau. Anh cũng sẵn sàng chia sẻ kỹ thuật trồng nếu nhà vườn muốn chuyển đổi sang mô hình sinh thái 2 tầng này.

Bài, ảnh: NGUYỄN TRINH

 

Giá cây mít ruột đỏ giống giảm còn 80.000 đồng/cây

 

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Tổ hợp tác (THT) trồng mít ruột đỏ, ở ấp 3, xã Vị Đông, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang (đơn vị chuyên cung ứng cây giống mít ruột đỏ cho thị trường), cho biết hiện đơn vị giao cây giống này cho khách hàng với mức giá 80.000 đồng/cây, giảm 20.000 đồng/cây so với thời điểm năm 2023. Theo đánh giá của lãnh đạo THT trồng mít ruột đỏ, hiện trên thị trường có nhiều điểm cung ứng loại cây giống này, từ đó dẫn đến nguồn cung đa dạng nên kéo theo giá bán cũng giảm. Tuy nhiên, về nguồn gốc cây giống thì THT trồng mít ruột đỏ tại xã Vị Đông là đơn vị sản xuất và cung ứng cây giống mít ruột đỏ đầu tiên tại Hậu Giang.

 

 

Ông Trắng kiểm tra sự sinh trưởng của cây mít giống trước khi giao cho khách hàng.

Ông Nguyễn Minh Trắng, Tổ trưởng THT trồng mít ruột đỏ tại ấp 3, xã Vị Đông, huyện Vị Thủy, cho biết: “Do giá trị kinh tế cao từ trái mít ruột đỏ nên những năm gần đây, mô hình trồng mít ruột đỏ tại Hậu Giang nói riêng và nhiều tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL nói chung đang phát triển; từ đó kéo theo nhu cầu về cây giống cũng tăng cao. Chính vì vậy, nhiều nhà vườn đã liên hệ đến THT để đặt mua cây giống và trao đổi kỹ thuật trồng như thế nào nhằm đạt hiệu quả. Tính từ đầu năm đến nay, THT đã cung ứng cho thị trường hơn 20.000 cây mít ruột đỏ giống, hiện đơn vị cũng chuẩn bị cung ứng tiếp 10.000 cây giống theo đơn đặt hàng của người dân trong và ngoài tỉnh”.

HỮU PHƯỚC

 

Lão nông làm giàu từ mít không hạt

 

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Ðến khu vực 2, phường Ba Láng, quận Cái Răng (TP Cần Thơ), có lẽ không ai không biết đến ông Trần Minh Mẫn - cha đẻ của giống mít không hạt Ba Láng vốn nức tiếng gần xa nhiều năm nay. Từ giống mít lạ, ông Mẫn không chỉ thu về tiền tỉ cho gia đình mà còn nhân giống, hỗ trợ kỹ thuật trồng cho nhà vườn từ Nam ra Bắc vươn lên cải thiện thu nhập, làm giàu chính đáng.

 

 

Ông Trần Minh Mẫn và sản phẩm mít không hạt Ba Láng.

Ông Trần Minh Mẫn năm nay 75 tuổi, dáng người cao ráo, nước da ngăm đen, rắn rỏi. Trong quá trình trò chuyện với tôi, ông vừa nghe điện thoại từ một số siêu thị ở TP Hồ Chí Minh thúc giao hàng mít tươi và chốt đơn hàng bán cây giống mít không hạt từ nhiều nhà vườn. Ông Mẫn cho biết, trước khi nổi danh với giống mít không hạt, ông được biết đến là nông dân mát tay trong trồng quýt hồng rồi đến sầu riêng nghịch vụ. Từ năm 2007, vườn sầu riêng của gia đình thoái hóa nên ông quyết định đi tìm giống cây mới để thay thế và cơ duyên gắn bó với giống mít không hạt cũng bắt nguồn từ đây. Năm 2010, trong lần đi dự hội thảo tại Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam, ông ghé thăm nhà một người bạn ở tỉnh Tiền Giang được người bạn giới thiệu về một giống mít có nguồn gốc từ Myanmar với những đặc tính “rất lạ” và được cho 1 trái mang về làm quà. Vài ngày sau, mít bắt đầu chín, tỏa mùi thơm nhẹ. Ðiều rất lạ là khi cắt ra, mít không có hạt, không có mủ. Ðây có thể nói là 2 nhược điểm lớn nhất của các giống mít truyền thống nhưng giống mít này hoàn toàn khắc chế được. Không chỉ vậy, múi và xơ có màu vàng, cơm dày, vị ngọt thanh nên có thể ăn cả xơ.

Vốn là người nhạy bén, giàu sáng kiến, nhìn thoáng qua, ông Mẫn nhận thấy ngay cơ hội làm giàu từ giống mít lạ này. Thế là ông tức tốc quay lại nhà người bạn ở Tiền Giang để chiết nhánh làm giống. “Ðây là giống mít đột biến, nói đúng hơn là giống mít “trời cho”. Qua những ngày nghiên cứu, đợt đầu tiên, ông Mẫn làm được 100 cây giống và trồng xen trong vườn sầu riêng. Sau khoảng hơn 2 năm trồng, mít bắt đầu cho rất nhiều trái, trái to nhất có thể nặng đến 20kg” - ông Mẫn nhớ lại. Mít không hạt được nhân giống và trồng thành công, nhưng ông Mẫn khổ tâm nhất ở khâu đưa ra thị trường vì “người ta không tin có giống mít như vậy”. Từ đó, ông Mẫn nghĩ ngay đến việc phải quảng bá đứa con tâm huyết bằng cách cho người dân dùng thử ở các chợ, giới thiệu cho các sở ngành... Năm 2014 đánh dấu sự thăng hoa của giống mít lạ khi ông Mẫn đem sản phẩm của mình tham gia Hội thi Trái cây ngon - an toàn Nam Bộ và được ban tổ chức trao giải Nhất.

Sau hội thi trên, giống mít lạ của ông Mẫn đã chính thức được đặt tên: mít không hạt Ba Láng và được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu độc quyền. Khi được hỏi tại sao không lấy tên mình đặt cho giống mít, ông Mẫn bộc bạch: “Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Ðiền là những địa danh gắn liền với vùng trồng cây ăn trái, trồng lúa nổi tiếng của Cần Thơ. Ông bà, cha mẹ của tôi bao đời gắn với vùng đất này nên khi sở hữu giống mít lạ và trồng thành công tôi nghĩ ngay đến việc đặt tên gắn liền với địa danh Ba Láng như một lời tri ân đến quê hương mình”.

Hiện với diện tích khoảng 4.000m2, trồng khoảng 50 gốc mít không hạt, mỗi năm ông Mẫn bán ra hàng tấn mít tươi (giá 50.000 đồng/kg) cùng hàng ngàn cây mít giống (giá 60.000 đồng/cây) và thu về hàng tỉ đồng. Từ thành công của bản thân, ông Mẫn bắt đầu nhân giống và chia cho bà con trong vùng trồng, nhân rộng. Trong 10 năm qua, giống mít không hạt Ba Láng không chỉ được đặt hàng từ Nam chí Bắc mà còn được bán sang các nước bạn như Campuchia, Myanmar, Thái Lan, Lào,... Theo ông Mẫn, quy trình trồng mít không hạt nói khó không khó, nói dễ không dễ, điều cốt yếu là phải để tâm trong quá trình trồng cũng như chăm sóc. Muốn phát triển lâu dài với cây mít, theo ông Mẫn, người trồng phải trau dồi và học hỏi kỹ thuật và biết cách thu hoạch để mít cho trái quanh năm. Mít không hạt thích hợp trồng ở vùng đất cao, đồi núi, còn trồng ở ÐBSCL phải đặc biệt lưu ý lên mô cao như trồng sầu riêng. Ðó cũng là lý do tại sao hầu hết các đơn hàng bán giống của tôi chủ yếu ở miền Bắc, Trung và khu vực Tây Nguyên.

“Tôi đã phối hợp với các thầy Trường Ðại học Cần Thơ để hoàn thiện quy trình trồng mít không hạt Ba Láng đạt năng suất, hiệu quả cao. Nếu tuân thủ theo quy trình này, bà con sẽ thu được kết quả như mong muốn. Mặt khác, nhược điểm của mít không hạt Ba Láng là trái dễ bị méo, do đó bà con đảm bảo bón phân đạm theo đúng tỷ lệ mới cho ra trái mít tròn đều, đẹp mắt. Ngoài ra, loại cây này rất chuộng phân chuồng, nên chỉ bón phân hóa học lượng ít khi cây trên một năm tuổi”.

Sự nỗ lực của ông Mẫn những năm qua đã dược Ðảng, Nhà nước và chính quyền địa phương ghi nhận và tôn vinh như danh hiệu Nông dân Việt Nam xuất sắc, Nông dân sản xuất kinh doanh giỏi; kỷ niệm chương Vì sự phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam… Ông Mẫn khẳng định, nhiều năm qua, ông không hề kêu gọi người dân hãy mua cây giống của mình về trồng, cũng không quảng bá bằng cách này, cách kia lôi kéo khách hàng, kể cả nhà ông cũng không treo bảng hiệu bán mít không hạt và cây giống. Phần lớn người dân trong và ngoài nước biết đến ông Mẫn và mít không hạt qua báo đài, nếu ai muốn tìm hiểu thì đến tận nhà ăn thử thấy ngon thì mua về ăn, hoặc đem cây giống về trồng.

Ông Mẫn trải lòng: “Tôi năm nay tuổi đã lớn, niềm mong ước lớn nhất của tôi là tiếp tục đưa cây mít không hạt Ba Láng đi xa hơn, được người dân nhiều nơi tiếp nhận và nhân rộng. Tôi vui vì dù mít không hạt Ba Láng không còn nổi như khoảng 5-7 năm về trước nhưng vẫn có nhiều đoàn khách đến tìm hiểu về mít không hạt. Và càng vui hơn khi nhận các cuộc gọi từ nhiều địa phương đến đặt mua cây giống về trồng. Ðiều đó chứng tỏ mít không hạt Ba Láng không chỉ đem lại lợi nhuận cho gia đình tôi mà còn thực sự mang lại hiệu quả kinh tế cho nhiều nhà vườn khắp mọi miền đất nước”.

Bài, ảnh: MỸ THANH

 

Phát triển thương hiệu ‘Hồ tiêu Lộc Ninh’

 

Nguồn tin: Báo Bình Phước

Sau Chư Sê (tỉnh Gia Lai), Lộc Ninh là địa phương thứ 2 trong cả nước được cấp chứng nhận nhãn hiệu tập thể về hồ tiêu và cũng là nông sản đầu tiên của Bình Phước có đăng ký sở hữu trí tuệ. Đây là hướng đi theo chương trình tái cơ cấu phát triển nông nghiệp bền vững của Chính phủ, góp phần phát triển kinh tế bền vững tại Bình Phước.

Giữ vững thương hiệu

Lộc Ninh đã góp phần đưa Việt Nam trở thành “vương quốc hồ tiêu” với hơn 30% sản lượng thế giới và 50% thị phần xuất khẩu. Năm 2014, hồ tiêu Lộc Ninh được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp chứng nhận nhãn hiệu tập thể “Hồ tiêu Lộc Ninh” và bảo vệ tổng thể tại Việt Nam. Để có thương hiệu là quá trình nỗ lực của nông dân trồng hồ tiêu Lộc Ninh và cả hệ thống chính trị, đặc biệt là kinh nghiệm của những nông dân trồng tiêu giỏi. Năm 2010, Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) phối hợp với Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam vinh danh 12 người trồng tiêu giỏi nhất Việt Nam, trong đó huyện Lộc Ninh có 6 người.

 

 

Nhà vườn đang thu hoạch tiêu tại xã Lộc Quang, huyện Lộc Ninh. Ảnh: Nguyễn Tuyền

Theo thống kê của Hội Nông dân huyện Lộc Ninh, năm 2012, toàn huyện có 3.873 ha hồ tiêu, chiếm 40% diện tích và gần 50% sản lượng hồ tiêu toàn tỉnh, năng suất trung bình 3-4 tấn/ha. Thương hiệu hồ tiêu Lộc Ninh đã được bảo hộ là nền tảng vững chắc để người trồng tiêu yên tâm gắn bó với loại cây trồng này, đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đưa hồ tiêu Lộc Ninh đến gần hơn với người tiêu dùng trong và ngoài nước.

Trong xu thế hội nhập, thị trường tiêu thụ nông sản ngày càng yêu cầu khắt khe về chất lượng sản phẩm. Vì vậy, nông dân cũng chuyển đổi mô hình sản xuất, hướng đến nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, đáp ứng các tiêu chuẩn như VietGAP, GlobalGAP... Và nông dân trồng hồ tiêu Lộc Ninh cũng không ngoài xu thế này. Giai đoạn 2014-2024, trên địa bàn huyện Lộc Ninh đã thành lập 24 câu lạc bộ trồng tiêu sạch với hơn 600 thành viên, tổng diện tích 645 ha. Hằng năm, các câu lạc bộ trồng tiêu sạch đã đăng ký cung ứng gần 1.180 tấn hạt tiêu khô, tiêu sạch với Công ty TNHH chế biến gia vị Nedspice Bình Phước. Bên cạnh đó, có 8 hợp tác xã sản xuất tiêu với tổng diện tích hơn 250 ha. Các câu lạc bộ, hợp tác xã đã góp phần nâng cao chất lượng, sản lượng tiêu, đảm bảo nguồn tiêu sạch cung ứng cho thị trường trong nước và quốc tế.

Người tiêu dùng ngày càng đòi hỏi sự minh bạch hơn về quy trình, nguồn gốc sản phẩm. Vì vậy hiện nay, việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm đang dần trở thành xu thế tất yếu và là yêu cầu bắt buộc. Qua truy xuất, người tiêu dùng có đầy đủ thông tin, từ sản phẩm cuối cùng về nơi sản xuất ban đầu, rà soát từng công đoạn trong chế biến và phân phối. Do đó, để khẳng định thương hiệu thì các chủ thể sản phẩm phải tuân thủ những khuyến cáo của chính quyền, ngành nông nghiệp, đồng thời kiểm soát nghiêm chất lượng trong toàn bộ chuỗi cung ứng.

Phát huy nhãn hiệu tập thể

Để phát huy hiệu quả nhãn hiệu tập thể “Hồ tiêu Lộc Ninh” và gia tăng giá trị xuất khẩu hồ tiêu, mở rộng thị trường, nhất là các thị trường khó tính như Mỹ, Canada, Đức, Hà Lan… thì các yêu cầu về chất lượng sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và truy xuất nguồn gốc đòi hỏi rất cao. Vì vậy, sản xuất hồ tiêu hữu cơ bền vững là giải pháp mà nông dân trồng hồ tiêu cần hướng đến. Và để thương hiệu hồ tiêu phát huy hiệu quả hơn nữa, huyện Lộc Ninh đang vận động thành lập Hội hồ tiêu Lộc Ninh, tạo sự liên kết trong thu mua, chế biến, xuất khẩu, đầu tư; đảm bảo liên kết chặt chẽ giữa “4 nhà” (nhà nông - doanh nghiệp - nhà khoa học và Nhà nước) để tạo ra sản phẩm chất lượng, ổn định, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Ông Lê Văn Thuận ở ấp Tam Nguyên, xã Lộc Quang cho biết: “Gia đình tôi trồng tiêu hơn 15 năm nay. Trải qua nhiều giai đoạn biến động của thị trường nhưng gia đình vẫn quyết tâm gắn bó với cây tiêu. Được Chi hội Nông dân ấp vận động, tôi hướng đến sẽ tham gia Hội hồ tiêu Lộc Ninh để phát triển bền vững. Tôi nghĩ đây là hoạt động rất thiết thực để nông dân trồng tiêu có cơ hội kết nối với người tiêu dùng, đặc biệt là tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi để đầu tư, chăm sóc cũng như kiến thiết vườn cây”.

Thời gian gần đây, giá tiêu có dấu hiệu phục hồi. Đây là thông tin phấn khởi cho người trồng tiêu, cũng là cơ hội để các cấp, ngành tăng cường thúc đẩy thương hiệu “Hồ tiêu Lộc Ninh” phát triển. Hiện tổng diện tích hồ tiêu Bình Phước tăng lên gần 13.000 ha, trong đó Lộc Ninh có 5.200 ha, năng suất bình quân đạt 19,17 tạ/ha.

Bà Vũ Thị Thuận ở ấp Bù Tam, xã Lộc Quang cho biết: “Gia đình tôi có 1 ha tiêu trồng và chăm sóc theo hướng hữu cơ. Năng suất thu hoạch trung bình 4 tấn. Nhãn hiệu tập thể “Hồ tiêu Lộc Ninh” đã mở ra hướng phát triển cây tiêu bền vững, đầu ra ổn định và giá cả tốt so với thị trường nên nguồn thu từ cây tiêu mang lại cho gia đình luôn ổn định”.

Để nâng cao giá trị hồ tiêu, giảm bớt khó khăn cho nông dân cũng như phát huy giá trị nhãn hiệu tập thể “Hồ tiêu Lộc Ninh”, Hội Nông dân huyện Lộc Ninh cho rằng, các đơn vị cần thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về nhãn hiệu hàng hóa; xử lý nghiêm đối với tổ chức, cá nhân làm ảnh hưởng đến danh tiếng, chất lượng và nhãn hiệu “Hồ tiêu Lộc Ninh”. Các ngành chức năng cần quan tâm hỗ trợ để nông dân trồng tiêu xây dựng chuỗi phân phối, cung ứng sản phẩm hồ tiêu, mở rộng thị trường xuất khẩu; hỗ trợ giới thiệu, quảng bá các sản phẩm mang nhãn hiệu tập thể “Hồ tiêu Lộc Ninh” trong và ngoài nước.

Chủ tịch Hội Nông dân huyện Lộc Ninh HOÀNG NGỌC ANH: Thời gian tới, hội tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, thông tin kịp thời để nông dân chủ động sản xuất hồ tiêu theo hướng hữu cơ, bền vững. Những sản phẩm từ hồ tiêu phải đảm bảo chất lượng để giữ vững thương hiệu, đáp ứng tiêu chí xuất khẩu. Đồng thời phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức tập huấn, hỗ trợ nông dân trồng tiêu để tạo ra vùng nguyên liệu, các sản phẩm hồ tiêu chất lượng cao; hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm mang nhãn hiệu tập thể “Hồ tiêu Lộc Ninh”.

Nguyệt Cát

 

Nỗi ám ảnh... ‘trồng - chặt’

 

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Mới đây, đại diện một doanh nghiệp chuyên kinh doanh, xuất khẩu hạt mắc ca tại Đắk Lắk đã bày tỏ lo lắng về việc phát triển vùng nguyên liệu của mình, bởi hiện tượng chặt cây mắc ca để trồng sầu riêng của người dân đang có dấu hiệu bắt đầu "nóng" lên.

Thông tin trên khiến người viết bài này không khỏi giật mình bởi nỗi ám ảnh trồng – chặt có thể trở lại.

Trong nhiều năm qua, điệp khúc trồng rồi chặt vẫn diễn ra ở khắp nơi chứ không riêng gì Đắk Lắk. Việc canh tác "chạy theo đuôi thị trường" khiến tình trạng đua nhau trồng cây, đua nhau chặt cây mỗi khi một loại nông sản nào đó tăng giá vẫn tiếp diễn mãi chưa có hồi kết. Giật mình là bởi đối với những loại cây trồng ngắn ngày thì tạm chấp nhận được, nhưng đối với các loại cây công nghiệp dài ngày thì hậu quả của điệp khúc này là rất lớn do chu kỳ phát triển dài, kéo theo mức đầu tư là khá lớn.

 

 

Tiêu là loại cây công nghiệp cũng từng lâm vào tình trạng trồng - chặt. Ảnh: Minh Thuận

Đơn cử như cây mắc ca, nếu trồng từ cây thực sinh (tức là cây trồng từ hạt) thì phải 6 - 7 năm hoặc lâu hơn nữa cây mới ra hoa. Nếu trồng từ cây ghép thì mất 3 - 4 năm mới ra bói. Đến năm thứ 6, cây bắt đầu cho nhiều quả. Còn từ năm thứ 10 trở đi, cây mới cho năng suất ổn định 20 - 30 kg/cây/năm, nếu chăm sóc tốt, cây còn cho năng suất cao hơn. Như vậy, để có được cây mắc ca cho hiệu quả kinh tế, người nông dân sẽ phải bỏ thời gian, công sức, chi phí rất lớn. Thế nhưng, khi giá sầu riêng "lên ngôi", họ cũng sẵn sàng chặt bỏ.

Không chỉ với cây mắc ca, nhiều loại cây công nghiệp chủ lực của Tây Nguyên nói chung, Đắk Lắk nói riêng như cà phê, tiêu... cũng từng lâm vào tình trạng trên. Khi giá nông sản khác tăng, một số chủ vườn đã chặt bỏ cà phê, tiêu hoặc bỏ bê không chăm sóc khiến nhiều vườn cây xơ xác hoặc vườn chỉ mãi có cây con. Không ít nông dân đã điêu đứng khi chặt xong, giá lại tăng hoặc khi cho thu hoạch thì sản phẩm lại rớt giá.

Càng giật mình hơn nữa khi theo các nhà quản lý, diện tích trồng cây sầu riêng của Đắk Lắk đang tăng trưởng rất "nóng", nhiều vùng có diện tích đã vượt xa quy hoạch. Cùng với đó là liên tiếp xuất hiện những thông tin không tốt về việc tiêu thụ sầu riêng những ngày gần đây càng khiến nhiều người lo lắng.

Về lý thuyết, để tạo dựng, phát triển nông nghiệp bền vững thì phải có vùng trồng bền vững. Đồng thời, phải xây dựng chuỗi liên kết sản xuất, tạo thị trường tiêu thụ ổn định cho các mặt hàng nông sản. Nhưng cứ với cái kiểu "chạy theo đuôi thị trường" như hiện nay, giải quyết được câu chuyện bền vững là rất khó cho tất cả các bên. Cơ quan quản lý thì “đau đầu” với công tác quy hoạch, phá vỡ quy hoạch; doanh nghiệp thì không có vùng nguyên liệu ổn định; người nông dân lại luôn đối mặt với nguy cơ thiệt hại nặng do biến động giá của thị trường…

Để giải quyết tình trạng trồng – chặt thì yếu tố tiên quyết vẫn là làm sao cho người nông dân có được thu nhập tốt nhất trên mảnh đất của họ, bất chấp biến động của thị trường. Để giải bài toán này cần có quyết tâm rất lớn, sự chung tay của tất cả các thành tố trong chuỗi từ sản xuất đến thương mại sản phẩm. Qua đó, xây dựng được chuỗi liên kết đủ mạnh để có thể “cầm trịch” thị trường hoặc tối thiểu cũng phải đứng vững mỗi khi thị trường có bất trắc. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách đối với nông nghiệp sát sườn hơn nữa thông qua việc hỗ trợ giám sát quá trình sản xuất, phân phối, chế biến, tìm thị trường xuất khẩu. Đồng thời, sớm nghiên cứu xây dựng các quỹ bảo hiểm, trợ giá cho một số nông sản chủ lực để kịp thời hỗ trợ nông dân khi họ đối mặt với rủi ro do thiên tai, biến động thị trường... Có như vậy, người nông dân mới có thể yên tâm gắn bó với cây trồng mình đã chọn, mới hy vọng hạn chế được tình trạng trồng - chặt như hiện nay.

Giang Nam

 

Phun tưới nước tự động trong sản xuất nông nghiệp: Hiệu quả cao

 

Nguồn tin:  Báo Bình Dương

Phun tưới nước tự động là một trong những hình thức ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Giải pháp này có nhiều ưu điểm, như tiết kiệm điện, nước, giảm công lao động, giảm chi phí sản xuất… đang được nhiều nông dân trong tỉnh Bình Dương áp dụng.

Nhiều ưu điểm

Những năm gần đây, nhiều trang trại, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ nông dân trên địa bàn tỉnh mạnh dạn đầu tư công nghệ tưới nhỏ giọt, tưới phun sương tự động vào quy trình sản xuất nông nghiệp. Công nghệ mới này có nhiều ưu thế như tiết kiệm nước, giảm nhân công, chi phí, tăng hiệu quả kinh tế trong trồng trọt, với những phương thức như tưới quấn quanh gốc, tưới cục bộ, phun mưa... đáp ứng nhu cầu sản xuất đa dạng các loại cây trồng trên mọi địa hình.

 

 

Mô hình trồng rau sạch của Hợp tác xã Rau sạch Gia đình (TP.Thủ Dầu Một)

Ghi nhận cho thấy, đầu tư hệ thống phun nước tự động tuy khá cao, khoảng từ 100 triệu đồng/ha nhưng hiệu quả mang lại cao, thời gian sử dụng trên 10 năm. Đặc biệt, khi sử dụng hệ thống tưới phun tự động chỉ cần bật công tắc điện cho mô tơ chạy, sau đó đi kiểm tra hệ thống ống nước là có thể tưới cho cả một diện tích lớn trong mọi thời điểm và có thể điều chỉnh mức độ tưới theo ý muốn; tùy theo từng loại cây trồng, cách thiết kế diện tích đất trồng mà chiều cao ống phun và số lượng lắp đặt vòi phun tăng, giảm, cao, thấp trên một diện tích đất canh tác.

Anh Lê Quốc Hải, Giám đốc Hợp tác xã Rau sạch Gia đình (phường Định Hòa, TP.Thủ Dầu Một), cho hay hợp tác xã đã đầu tư trang thiết bị công nghệ cao, áp dụng phương pháp tưới nước tiết kiệm để các thành viên hợp tác xã không phải tốn công đào mương dẫn nước, đồng thời điều chỉnh lượng nước tưới theo nhu cầu của từng loại cây trồng nên tiết kiệm đáng kể nguồn nước. Ngoài ra, việc áp dụng phương pháp tưới nước này có thể hòa lẫn các loại phân bón dễ hòa tan như đạm, kali hay các loại phân bón dạng nước... thông qua bồn pha chế gắn tại van điều chỉnh tổng. Từ đó, phân bón được hòa lẫn vào nước tưới nên cây hấp thụ tốt hơn, năng suất và hiệu quả kinh tế cao hơn so với cách tưới truyền thống.

Mang lại hiệu quả cao

Anh Hải cho biết thêm, việc sử dụng hệ thống tưới phun mưa tự động tia nước phun ra đều, tự động hóa các khâu điều khiển và dễ dàng vận hành, cây trồng được cung cấp vừa đủ nước giúp cây sinh trưởng và phát triển tốt. Đặc biệt, với hệ thống tưới phun tự động nước tưới thấm đều hơn, tiết kiệm nước, tiết kiệm điện. Đơn cử, với 6.000m2 đất trồng cây rau các loại, sử dụng hệ thống này thời gian tưới tiêu cùng một lúc khoảng 10 phút là xong, nước thấm đều vào gốc và thân cây; so với trước đây nếu tưới bằng ống dẫn nước, phải tưới cả nửa ngày. Việc sử dụng hệ thống phun nước tự động còn giúp tiết kiệm tiền điện so với tưới bằng ống dẫn nước trước đây.

Có thể thấy, việc ứng dụng rộng rãi khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp ở các địa phương trong tỉnh đã mang lại hiệu quả thiết thực, không chỉ giúp người dân, doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp tiết kiệm chi phí, mà còn góp phần bảo đảm an ninh năng lượng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Hiện nay, nhiều trang trại, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ nông dân trên địa bàn tỉnh áp dụng mô hình tưới phun tự động, mô hình này không những mang lại hiệu quả kinh tế cao, mà còn góp phần khắc phục tình trạng thiếu hụt lao động ở nông thôn. Việc áp dụng mô hình này cũng từng bước đưa tự động hóa, cơ giới hóa vào sản xuất, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản xuất, nâng cao tính cạnh tranh hàng nông sản của Bình Dương trên thị trường.

THOẠI PHƯƠNG - HẢI DƯƠNG

 

Nông trại tuần hoàn của nông dân trẻ

 

Nguồn tin:  Báo Lâm Đồng

Một nông dân còn rất trẻ đang thực hiện trồng trọt, chăn nuôi theo mô hình kinh tế tuần hoàn mang lại thu nhập ổn định. Người bạn trẻ đang thực hiện giấc mơ xây dựng kinh tế gia đình trên đất quê hương.

 

 

Huỳnh Tường Dùng bên chuồng dê lai

Huỳnh Tường Dùng, bạn trẻ người gốc Hoa cư trú tại Thôn 6, xã Lộc Nam, huyện Bảo Lâm (tỉnh Lâm Đồng) hiện đang là một mô hình kinh tế điển hình trong giới trẻ địa phương. Trên diện tích 2 ha đất, Huỳnh Tường Dùng nuôi dê và trồng sầu riêng. Vừa dẫn khách đi tham quan vườn sầu riêng, Tường Dùng vừa chia sẻ, đất Lộc Nam hợp với cây sầu riêng, rất nhiều gia đình đã cho thu nhập ổn định từ loại cây trồng có giá trị cao này. Tuy nhiên, cây sầu riêng có đặc trưng là mức đầu tư, chăm sóc lớn nhưng thu hoạch dồn vào một vụ. Nếu xảy ra rủi ro, nông dân sẽ thiệt hại rất lớn. Đồng thời, chỉ trông vào thu nhập một vụ nên quanh năm, nông dân không có nguồn thu nhập phụ trợ. Vì vậy, Huỳnh Tường Dùng quyết định chuyển sang chăn nuôi bên cạnh canh tác sầu riêng.

Vật nuôi được Huỳnh Tường Dùng lựa chọn là con dê lai. Đây là loại dê được lai từ dê boer Nam Phi và dê bách thảo địa phương. Huỳnh Tường Dùng chia sẻ, năm 2020, bạn quyết định làm chuồng và bắt thử nghiệm một vài cặp dê nuôi ngay trong vườn nhà. Nhận thấy dê lai có vóc dáng to, hình thái đẹp, nhiều thịt, được thị trường ưa chuộng, Huỳnh Tường Dùng đã bắt về lứa dê đầu tiên. Bạn cho biết: “Con dê lai thực sự rất dễ nuôi, hầu hết dê chỉ ăn thức ăn địa phương, các loại cỏ, các loại lá, trái non… Đặc biệt, dê chỉ nuôi tầm 6-8 tháng là đã có thể có thu nhập. Vì vậy, chuồng dê đã hỗ trợ rất lớn cho kinh tế của gia đình tôi, mang lại nguồn thu đều đặn”.

Theo Huỳnh Tường Dùng, chuồng đang nuôi dê theo cả hai hướng, dê giống và dê thịt. Dê giống chủ yếu là dê cái có vóc dáng to, cân nặng. Đặc trưng của dê lai là sinh sản rất nhanh. Dê mẹ, sau khi lên giống 5 tháng sẽ đẻ và cho con bú. Khi dê con được ba tháng, dê mẹ cách li con và tiếp tục lên giống để chuẩn bị cho lứa dê sau. Dê con được nuôi chỉ 6 tháng là đạt trọng lượng 35 kg, đủ tiêu chuẩn xuất bán. Huỳnh Tường Dùng cho biết, thương lái tới tận chuồng để thu mua, nhu cầu luôn rất lớn.

“Dê ăn trái bơ, lá bơ, sầu riêng rụng…, rất nhanh lớn và khỏe. Phân dê được thu lại, ủ hoai mục sau đó bỏ lại trong vườn cà phê. Vườn cà phê được bón phân dê hoai mục đất tốt, sầu riêng lớn nhanh, khỏe, cải tạo đất hiệu quả”, Huỳnh Tường Dùng đánh giá và cho biết thêm, lượng phân dê đã giúp giảm bớt 50% lượng phân hữu cơ phải mua, giảm chi phí khá lớn cho gia đình.

Hiện tại, gia đình Huỳnh Tường Dùng đang có 120 cây sầu riêng cho trái và 100 cây đang giai đoạn kiến thiết. Đất Lộc Nam gió rất lớn, gây rụng trái, thiệt hại cho người nông dân, Huỳnh Tường Dùng phải làm cọc níu trái, bảo đảm năng suất cho vườn sầu riêng. Năm 2022, người bạn trẻ cũng đã xây dựng mã số vùng trồng cho vườn sầu riêng của gia đình. Vụ sầu riêng 2023, gia đình có 15 tấn đạt chuẩn xuất khẩu. Niên vụ 2024, Tường Dùng dự tính có 20 tấn đạt chuẩn xuất khẩu. Chỉ cần giá 60.000 đồng/kg, vườn sầu riêng đã giúp gia đình thu nhập trên 1 tỷ đồng. Bạn chia sẻ: “Trồng sầu riêng xuất khẩu cần đảm bảo dinh dưỡng cũng như chất lượng trái theo đúng nhu cầu của doanh nghiệp và đối tác. Vì vậy, gia đình chăm sóc sầu riêng theo đúng quy trình canh tác, chú trọng đặc biệt tới phân hữu cơ. Đất Lộc Nam cho thu sầu riêng rất muộn, tới tháng 10, 11 mới cho thu hoạch nên chúng tôi cũng rất hy vọng sẽ đạt giá cao”.

Huỳnh Tường Dùng nhận xét, chăn nuôi dê và trồng sầu riêng là một mô hình kinh tế hiệu quả. Con dê lai cho quay vòng vốn rất nhanh, một năm có thể thu nhiều lần tiền bán dê giống và dê thịt. Phân bón từ chuồng dê có thể ủ làm phân hữu cơ sử dụng cho vườn sầu riêng, giúp mảnh đất được canh tác bền vững, giảm chi phí cho người nông dân.

Ông Trần Văn Tuyển - Chủ tịch Hội Nông dân xã Lộc Nam, huyện Bảo Lâm đánh giá, Huỳnh Tường Dùng là một thanh niên nông dân còn rất trẻ, nhưng đã nhanh chóng nắm bắt được mô hình chăn nuôi, trồng trọt tuần hoàn, mang lại thu nhập ổn định cho gia đình. Đồng thời, mô hình chăn nuôi, trồng trọt cũng là mô hình được Hội Nông dân khuyến khích phát triển nhằm đảm bảo canh tác bền vững, giúp đất đai có được lượng hữu cơ dồi dào bổ sung cho đất, giảm chi phí cho người nông dân.

DIỆP QUỲNH

 

Nuôi gà sao an toàn sinh học hiệu quả cao

 

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Mô hình nuôi gà sao đã và đang mang lại thu nhập ổn định cho người dân, góp phần tích cực vào quá trình chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, đa dạng sản phẩm nông nghiệp của địa phương.

 

 

Mô hình chăn nuôi gà sao của ông Phạm Văn Đen, ở xã Vĩnh Thuận Tây, huyện Vị Thủy đang mang lại nguồn thu nhập ổn định cho gia đình.

Hiệu quả cao

Sau nhiều lần thất bại trong đầu tư chăn nuôi, năm 2022, ông Phạm Văn Đen, ở ấp 4, xã Vĩnh Thuận Tây, huyện Vị Thủy (tỉnh Hậu Giang) đã nuôi thử nghiệm giống gà sao vốn có nguồn gốc từ gà rừng tại Quảng Ngãi. Sau hơn 4 tháng nuôi, gà sao nhanh lớn, ít bị dịch bệnh, tỷ lệ sống đạt 97%, phù hợp với môi trường sống ở địa phương. Nhận thấy gà sao dễ nuôi, nhu cầu tiêu thụ của thị trường rất tốt, ông Đen đã đầu tư mở rộng quy mô nuôi gà sao xung quanh nhà với diện tích trên 100m2, gồm 3 chuồng, số lượng khoảng 1.000 con/năm. Hiện đàn gà đang phát triển tốt, gần đạt kích cỡ thương phẩm.

Ông Đen cho biết: “Qua nhiều năm chăn nuôi gà sao theo hướng an toàn sinh học bằng đệm lót sinh học như trấu, rơm, tôi thấy gà có sức đề kháng cao. Giống gà này có thể nuôi theo hình thức thả vườn, nuôi bán chăn thả hoặc nuôi nhốt đều được. Thức ăn của gà sao rất đa dạng, có thể sử dụng thức ăn công nghiệp, lúa, cám, bắp hoặc các loại rau xanh... Trung bình 100 con gà sẽ ăn khoảng 12 bao thức ăn cho tới khi đạt khối lượng (giá thức ăn là 360.000 đồng/bao). Ngoài ra, nuôi gà sao tỷ lệ hao hụt thấp, nên tiết kiệm được chi phí đầu tư về con giống”.

Trong quá trình nuôi ông luôn tuân thủ rất nghiêm về tiêm phòng, vệ sinh chuồng trại để hạn chế dịch bệnh. Đặc tính của loài gà này là bay xa, chạy nhảy thường xuyên nên thịt săn chắc và thơm ngon được thị trường ưa chuộng. Sau khoảng 3 tháng thả nuôi, trọng lượng bình quân đạt từ 1,2kg đến 1,5kg/con. Hiện giá bán gà sao ra thị thường dao động từ 105.000-110.000 đồng/con, mang về lợi nhuận khoảng 20.000 đồng/con. Mỗi lần nuôi khoảng 400 con trong thời gian hơn 2 tháng thu nhập dao động từ 4-5 triệu đồng.

Chia sẻ về dự định sắp tới, ông Đen cho biết, hiện gia đình sẽ tiếp tục tận dụng diện tích xung quanh vườn để nuôi gà sao, dự kiến trong năm nay gia đình sẽ đầu tư mở rộng thêm chuồng trại với quy mô chăn nuôi khoảng 5 chuồng. Ông Đen mong muốn địa phương quan tâm tạo điều kiện để gia gia đình tiếp cận các nguồn vốn vay nhằm đầu tư phát triển trang trại mở rộng quy mô chăn nuôi.

Tương tự, ông Lê Quốc Hưng, ở ấp 4, xã Lương Tâm, huyện Long Mỹ, bộc bạch: “Giống gà sao này tuy dễ nuôi nhưng cũng nên quan tâm đến vệ sinh chuồng trại, đặc biệt là trong mùa mưa gió như hiện nay đàn gà dễ bị nhiễm bệnh dẫn đến số lượng hao hụt. Gia đình tôi có 7 chuồng được lót bằng trấu và bón men balasa, với số lượng dao động mỗi lần nuôi là từ 1.000-2.000 con, hiện đang trong quá trình sinh trưởng và phát triển tốt. Với giá bán hiện nay, sau khi trừ đi chi phí đầu tư như con giống, thức ăn, tiêm phòng,… lợi nhuận thu về đạt khoảng 30 triệu đồng/1 lần nuôi (khoảng 75 ngày).

Cần đảm bảo đầu ra

Hiện nay, tính riêng trên địa bàn huyện Vị Thủy đã có khoảng 26 hộ nuôi gà sao thương phẩm. Bước đầu cho thấy các hộ dân đã tích cực chuyển đổi vật nuôi, lựa chọn đối tượng mới phù hợp với điều kiện khí hậu của địa phương và có giá trị kinh tế cao. Mô hình được thành lập từ năm 2018, tính đến nay đã mang về nguồn lợi nhuận cao cho bà con chăn nuôi. Trạm Khuyến nông huyện Vị Thủy cũng thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ bà con như cung cấp con giống chất lượng, liên kết các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh để bao tiêu cho bà con, giúp bà con có nguồn thu nhập ổn định.

Tại Hợp tác xã (HTX) Dịch vụ Nông nghiệp Lộc Phát, ở ấp 4, xã Lương Tâm, huyện Long Mỹ, với quy mô gần 7.000 con/lứa nuôi, việc ổn định và có bao tiêu đầu ra trở thành một vấn đề quan trọng để bà con yên tâm chăn nuôi dài hạn. HTX đã ký hợp đồng với nhà hàng Lúa Đất ở Cần Thơ, mỗi tháng sẽ giao 1.500 con với giá niêm yết là 103.000 đồng/con (từ 1kg trở lên). Nhờ đó mà đời sống của bà con chăn nuôi được đảm bảo ổn định hơn.

Với hiệu quả mà mô hình đã mang lại cho bà con, Trạm Khuyến nông huyện Vị Thủy dự kiến sẽ tiếp tục phối hợp với phòng chuyên môn tổ chức các lớp tập huấn hướng dẫn kỹ thuật cho bà con trong chăn nuôi và tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh đó, tìm kiếm và liên kết nơi tiêu thụ để mở rộng đầu ra, tăng cường biện pháp giúp người chăn nuôi đạt hiệu quả, tăng thu nhập, ổn định cuộc sống.

MAI THANH

 

Lâm Đồng: Dê lai phát triển tốt ở vùng sâu Tân Thượng

 

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Tạo sinh kế bền vững, đưa những cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế tốt về cho nông dân nghèo, xã Tân Thượng, huyện Di Linh (Lâm Đồng) đã triển khai Dự án mô hình Nuôi dê sinh sản cho đồng bào khó khăn. Những con dê lai Boer đang sinh trưởng tốt trên mảnh đất xa này.

 

 

Anh K'Tít đang chăm sóc bầy dê

Chị Ka Bích Ngọc, nông dân Thôn 2, xã Tân Thượng vừa cầm nắm cỏ cho dê ăn, vừa phấn khởi cho biết, gia đình chị ít đất sản xuất, cây cà phê năng suất không cao nên kinh tế còn rất khó khăn. Chị tâm sự: “Gia đình tôi thuộc hộ nghèo của xã, 2 vợ chồng ít đất sản xuất và nuôi 2 cháu nhỏ ăn học. Vừa qua, gia đình được xã hỗ trợ 6 con dê lai, tôi đã làm khu chuồng có quy mô phù hợp để chăn nuôi dê đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó học hỏi thêm kỹ thuật chăm sóc, các bệnh thường gặp và cách phòng trị bệnh trên loài vật nuôi này, cách chăm sóc dê sinh sản… Hy vọng rằng, với bước khởi đầu này sẽ giúp gia đình cải thiện đời sống, tăng thu nhập”. Chị Ka Bích Ngọc là một trong những nông hộ của xã Tân Thượng được Nhà nước hỗ trợ dê Boer lai sinh sản trong đợt này.

Cũng giống chị Ka Bích Ngọc, gia đình anh K’Tít cũng thuộc diện hộ nghèo trong xã. Anh được dự án hỗ trợ 6 con dê giống, giống dê lai có vóc to nhưng được lai với dê bản địa nên dễ ăn, dễ chăm, rất phù hợp với điều kiện địa phương. Hàng ngày, sau giờ làm vườn, anh tranh thủ nhặt lá, cắt cỏ thêm cho dê. Anh K’Tít chia sẻ: “Dê Boer lai dễ chăm, ăn toàn cây lá quanh vườn nên nhà tôi tự cắt cỏ, nhặt lá được, tốn ít chi phí. Mà giống dê này nuôi nhanh lớn, chỉ vài tháng nữa là hy vọng có bầy dê con. Giá dê thịt, dê giống bây giờ cũng cao, 100 ngàn đồng/kg nên gia đình đang rất hy vọng nhân mạnh giống đàn dê”.

Bà Lê Thị Thanh Nga - Chủ tịch UBND xã Tân Thượng thông tin, Dự án Nuôi dê sinh sản tạo sinh kế cho người nghèo trên địa bàn xã Tân Thượng nhằm hỗ trợ xây dựng, nhân rộng các mô hình tại gia đình bằng việc hỗ trợ nguồn vốn từ Chương trình mục tiêu Quốc gia Giảm nghèo bền vững năm 2024. Các hộ tham gia được tiếp cận và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi, tiết kiệm chi phí, tạo ra sản phẩm có giá trị, tăng thu nhập, góp phần giải quyết việc làm ở địa phương. Bà Nga chia sẻ, Tân Thượng là xã vùng xa của huyện Di Linh, có trên 87% người đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, điều kiện kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn. Nhiều hộ còn nghèo, thiếu đất sản xuất và chưa tìm ra hướng đi phù hợp.

Thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia Giảm nghèo bền vững, xã Tân Thượng đã hỗ trợ 6 hộ nghèo, hộ cận nghèo phát triển chăn nuôi dê sinh sản với kinh phí 107 triệu đồng; trong đó nguồn vốn giảm nghèo bền vững của huyện 82 triệu đồng và UBND xã Tân Thượng hỗ trợ 25 triệu đồng. Việc hỗ trợ giống dê Boer lai sinh sản cho các hộ dân nhằm tạo điều kiện để bà con có mô hình sinh kế, tạo công ăn việc làm ổn định, nâng cao thu nhập, còn là động lực giúp cho người dân vươn lên thoát nghèo, góp phần thúc đẩy việc tái cơ cấu ngành Nông nghiệp. Bà Nga đánh giá: “Việc chọn hỗ trợ bà con chăn nuôi dê được xã, ngành Nông nghiệp và cả bà con cùng đánh giá thực tế xem vật nuôi nào phù hợp với Tân Thượng. Con dê lai này có vóc to, thịt nhiều, lại dễ nuôi, có thể sử dụng thức ăn xanh địa phương bà con tự kiếm được. Dê sinh sản nhanh, bà con có thể có thu nhập, nhân đàn trong thời gian ngắn. Chúng tôi rất hy vọng vào việc đàn dê có thể giúp bà con thoát nghèo”.

Các hộ dân được hỗ trợ đều là các hộ người dân tộc ít người đang thường trú tại địa phương, có chuồng trại nuôi nhốt đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, có nhân lực để chăm sóc nuôi dưỡng, có mong mỏi thực hiện chương trình nhưng thiếu vốn sản xuất. Để mô hình nuôi dê có hiệu quả, chính quyền xã Tân Thượng đã phân công nhiệm vụ cụ thể cho các ban, ngành, đoàn thể, các thôn trên địa bàn thường xuyên thăm nắm tình hình, theo dõi quá trình chăn nuôi cũng như hỗ trợ các hộ chăn nuôi về kỹ thuật. Ông K’Đức, khuyến nông viên xã Tân Thượng cho biết, bản thân ông cũng như cán bộ Hội Nông dân đều thường xuyên tới nhà, theo dõi đàn dê. Khi bầy dê có dấu hiệu không ổn, bỏ ăn, nông dân đều liên lạc và cán bộ kỹ thuật hướng dẫn chu đáo. Ông K’Đức chia sẻ: “Cơ bản là dê lai cũng dễ nuôi, dễ chăm sóc. Chúng tôi hướng dẫn bà con cho dê ăn sạch, uống sạch, giữ vệ sinh môi trường… Đến hôm nay, cả bầy dê đang phát triển rất tốt và tôi tin rằng bầy dê sẽ phát triển mạnh”.

DIỆP QUỲNH

 

Triển vọng nuôi hươu sao lấy nhung ở Sóc Trăng

 

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Thời gian gần đây, một số bà con nông dân ở xã Thuận Hưng (huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) đã mạnh dạn đầu tư chuyển đổi sang mô hình nuôi hươu sao lấy nhung, bước đầu đem lại thành công.

 

 

Hươu nuôi hơn 2 năm cho nhung, nhưng do hươu còn tơ nên nhung nhỏ, hươu đạt độ tuổi trưởng thành sẽ cho nhung to và chất lượng.

Dẫn chúng tôi tham quan trại nuôi hươu sao được đầu tư bài bản, được xem là mô hình nuôi hươu sao đầu tiên ở Sóc Trăng, ông Lâm Khên (70 tuổi) chia sẻ những điều tâm huyết. Năm 2022, đang chuyên tâm làm ruộng, làm vườn, tình cờ thông qua báo đài, ông biết đến mô hình nuôi hươu sao lấy nhung ở tỉnh Tiền Giang.

Sau khi đến tận trang trại tìm hiểu, nhận thấy đây là mô hình mới, hươu sao lại là loài động vật hoang dã nên dễ nuôi, ít tốn công chăm sóc, thị trường lại đang rất ưa chuộng. Từ đó, ông quyết định dốc hết tiền tích lũy để tiến hành xây dựng chuồng trại và nhập hươu sao giống về nuôi với số lượng 14 con (2 con đực, 12 con cái). Chi phí ban đầu khoảng 1 tỉ đồng. Sau một thời gian nuôi, đã có hươu cái sinh sản. Hiện trong chuồng còn 16 con.

Hươu sao vốn là loài hoang dã nên sức đề kháng mạnh, ít bệnh, dễ thích nghi với mọi điều kiện khí hậu. Đặc biệt, đối với vùng đất miền Tây, khí hậu ôn hòa, thức ăn tươi xanh quanh năm nên thuận lợi để phát triển mô hình nuôi hươu sao.

Theo ông Khên, chuồng trại nuôi hươu được làm đơn giản, nhưng phải đảm bảo khô ráo, thông thoáng. Chuồng được làm thành từng ô nhỏ có rào, mỗi chuồng chỉ nuôi một con. Nền chuồng lót trấu và mạt xơ dừa để hươu không bị đau chân và đảm bảo vệ sinh, thấm hút chất thải hươu thải ra mỗi ngày.

So với các loài vật nuôi khác như trâu, bò, heo, dê… vốn đầu tư ban đầu tuy cao, nhưng hươu sao nhẹ công chăm sóc, không cần phải dọn vệ sinh chuồng trại hằng ngày. Thức ăn của hươu được ông tận dụng các loại cỏ, lá cây, rau, trái trong vườn nhà cho hươu ăn. Mỗi ngày, cho hươu ăn 3 bữa. Nhờ đó, chi phí nuôi hươu không tốn kém nhiều.

Hươu sao nuôi hơn 2 năm cho nhung, nhưng do hươu còn tơ nên nhung nhỏ. Phải từ 5-7 tuổi, hươu đạt độ tuổi trưởng thành sẽ cho nhung to và chất lượng. Nhung hươu từ 45-50 ngày đạt chuẩn thu hoạch, nếu trễ từ 55-60 ngày nhung hươu bị già, giảm giá trị. Cứ khoảng 8 tháng, hươu đực cho nhung một lần, trung bình từ 500-800 gram/con. Hiện nhung hươu tươi được bán với giá 13-15 triệu đồng/kg.

Để quản lý chặt chẽ mô hình chăn nuôi có giá trị kinh tế cao này, gia đình ông Khên rất quan tâm đến quá trình sinh trưởng, phát triển của vật nuôi thông qua việc ghi chép sổ theo dõi chăn nuôi.

"Hiện sản phẩm nhung hươu cũng được một công ty bao tiêu đầu ra, họ hướng dẫn cắt nhung, rồi thu mua lại nhung nên giá đình ông Khên rất yên tâm. Mỗi chuồng nuôi tôi đều ghi chép lại đầy đủ khi nào tiêm ngừa bệnh, khi nào đến ngày lấy nhung. Khi nhung bung mày, thì 45 ngày sau là bắt đầu cắt, trên 45 ngày là nhung già, rất khó bán", ông Khên cho biết.

Bà Châu Thị Muỗi, Chủ tịch UBND xã Thuận Hưng cho biết: "Mô hình nuôi hươu sao lấy nhung của hộ ông Khên là mô hình mới ở địa phương, hiện chỉ mới có gia đình ông nuôi. Từ mô hình này đã mở ra hướng đi mới trong chăn nuôi, giúp đa dạng hóa vật nuôi tại địa phương, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy là mô hình mới, nhưng bước đầu đã cho hiệu quả kinh tế cao. Địa phương rất ủng hộ, sắp tới sẽ nghiên cứu để nhân rộng mô hình theo điều kiện thực tế của địa phương, tạo điều kiện để bà con có thể tiếp cận với nhiều nguồn vốn ưu đãi và liên kết đầu ra cho sản phẩm, góp phần phát triển đàn hươu, tăng thu nhập cho bà con".

Bài, ảnh: NGUYỄN TRINH

 

Trại gà độc lạ ở thành phố Rạch Giá

 

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Ít ai ngờ tại phường Vĩnh Quang (TP Rạch Giá, Kiên Giang) lại có một trang trại với nhiều giống gà cảnh độc lạ từ nhiều quốc gia trên thế giới. Chủ nhân của trang trại này là anh Phan Thành Thế , 37 tuổi...

 

 

Anh Thế bên cặp gà Serama có nguồn gốc từ Malaysia.

Hiện trang trại gà độc lạ Rạch Giá - Kiên Giang của anh Thế có 10 giống gà các loại được nhập giống từ các nước Ba Lan, Anh, Malaysia, Mỹ… và các giống gà quý của Việt Nam như gà Ðông Tảo (Hưng Yên), gà H'Mong (miền núi phía Bắc) với số lượng khoảng 200 con. Chúng được chăm sóc đặc biệt để bộ lông luôn bóng mượt, màu sắc tươi sáng. Chính sự đầu tư kỹ lưỡng giúp anh Thế nuôi thành công nhiều loại gà quý.

Ngoài 50 cặp gà bố mẹ đang sinh sản, trại còn có 100 gà con đã được tiêm ngừa dịch bệnh đầy đủ chuẩn bị xuất bán. Tại trang trại của anh Thế, nhiều người thích thú khi nhìn giống gà Serama của Malaysia, trọng lượng mỗi con thường dưới 500gr, nhưng một số con chỉ nặng 250g và được mệnh danh là giống gà nhỏ nhất thế giới. Nhiều người thích nuôi gà Serama để làm cảnh vì bộ lông đẹp, có nhiều màu khác nhau. Một trong những giống gà được khách hàng săn lùng đó là gà mặt quỷ nhập từ đảo Java của Indonesia, dáng vóc thon gọn, toàn thân đen tuyền. Màu sắc đặc trưng cùng khuôn mặt sắc cạnh khiến nhiều người muốn sở hữu gà mặt quỷ dù phải bỏ ra 3-5 triệu đồng để mua một cặp, gà con 300.000-500.000 đồng/con. Những ai thích dáng vẻ dũng mãnh của chúa tể rừng xanh có thể chọn gà sư tử Ba Lan có lông quanh đầu xù lên như bờm sư tử thể hiện sự dũng mãnh, uy nghiêm, giá một cặp gà bố mẹ khoảng 2-3 triệu đồng, còn gà con là 200.000-500.000 đồng/con.

Một điều thú vị, những giống gà này dù có nguồn gốc từ các nước khác nhau nhưng đã được anh Thế nhân giống, thuần dưỡng và phát triển thuận lợi trong môi trường khí hậu Việt Nam. Trải qua nhiều lần thất bại, nhưng với sự nhiệt huyết và đam mê, anh Thế phải lăn lộn nghiên cứu, tìm hiểu nên sau 5 năm gầy đàn, hiện anh Thế đã thành công xây dựng cho mình quy trình nuôi và cho gà ngoại nhập sinh sản khép kín.

Trứng gà sau khi được nhặt từ chuồng sẽ cho vào máy ấp trứng tự động. Theo anh Thế, so với việc để gà mái tự ấp trứng, việc dùng máy ấp trứng mang lại hiệu cao hơn, nhiệt độ của máy ấp được điều chỉnh tốt nhất, kích thích trứng nở hoàn hảo. Lúc này gà con sau khi nở sẽ nhanh thích nghi với môi trường bên ngoài và lớn lên khỏe mạnh. Bên cạnh đó, khi ứng dụng máy ấp trứng vào chăn nuôi, giúp gà mái sau khi đẻ trứng sẽ có thời gian để nghỉ ngơi, dưỡng sức và sớm tiếp tục chu kỳ đẻ trứng tiếp theo.

Hiện mỗi ngày đều có 5-6 khách đến tận trại mua hoặc đặt hàng qua mạng xã hội. Xu hướng nuôi gà độc lạ làm cảnh trở nên phổ biến trong những năm gần đây, chủ yếu nuôi chơi cảnh tại nhà để thư giãn, hoặc nuôi tại quán cà phê, thả vườn tiểu cảnh để phục vụ nhu cầu giải trí của khách.

Nghề tay trái này giúp anh Thế có thêm khoảng thu nhập bình quân 5-6 triệu đồng/tháng, tuy nhiên, đây không phải là mục tiêu ban đầu đưa anh đến với những chú gà độc lạ này. "Ban đầu tôi nuôi gà là muốn các con và vợ có nơi thư giãn trong những ngày dịch COVID-19 bùng phát. Ngoài ra, công việc hằng ngày như chăm sóc, cho ăn, vệ sinh chuồng trại và nhặt trứng gà đẻ trên nền trại sẽ là cách để các con anh có thêm vốn sống, biết yêu thương loài vật, gần gũi với thiên nhiên hơn thay vì chỉ chăm chú học rồi chơi điện thoại", anh Thế cho biết. Hiện tại, ngoài việc kinh doanh gà cảnh, anh Thế còn nhân giống và nuôi gà nòi chân vàng, gà nòi Bình Ðịnh lấy thịt theo hướng an toàn, đáp ứng nhu cầu thịt gà sạch cho cư dân TP Rạch Giá. Không chỉ có gà, anh còn khá mát tay trong việc nhân giống thỏ New Zealand, bồ câu Pháp, bồ câu Titan Thái Lan.

Bài, ảnh: ÐẶNG LINH

 

Bình Định: Chăn nuôi theo liên kết chuỗi: Hướng phát triển bền vững cho người chăn nuôi

 

Nguồn tin: Báo Bình Định

Những năm gần đây, lĩnh vực chăn nuôi đã ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ nhờ việc áp dụng các mô hình liên kết chuỗi sản xuất và tiêu thụ. Những mô hình này đang mở ra hướng phát triển bền vững cho người chăn nuôi, giúp họ ổn định thu nhập và tiếp cận được những cơ hội kinh tế mới.

Nhiều mô hình liên kết hiệu quả

Được thành lập năm 2020, HTX Sản xuất và Thương mại dịch vụ Chăn nuôi tổng hợp Nhơn Khánh (TX An Nhơn, Bình Định) nhanh chóng trở thành một hình mẫu thành công trong việc áp dụng mô hình liên kết chuỗi trong chăn nuôi. Với quy mô lớn, HTX hiện có hơn 300 heo nái và sản xuất trên 4.300 heo thịt mỗi năm. Đặc biệt, HTX đã ký kết hợp đồng hợp tác với Công ty Becofood Đà Nẵng để sản xuất và tiêu thụ heo thảo mộc. Sự hợp tác này không chỉ giúp HTX đảm bảo đầu ra ổn định cho sản phẩm, mà còn góp phần xây dựng thương hiệu thịt heo thảo mộc uy tín tại thị trường Đà Nẵng.

Ông Nguyễn Anh Kiều, Giám đốc HTX, cho biết, hiện tại, HTX có hơn 100 thành viên, đều là các hộ chuyên chăn nuôi heo. Tham gia vào HTX, các thành viên được đảm bảo đầu ra cho sản phẩm, đồng thời nhận được sự hỗ trợ từ Công ty Becofood Đà Nẵng trong việc chăm sóc, phòng bệnh cho đàn heo, tiêm vắc xin, cung cấp giống và thức ăn với giá ưu đãi. Đặc biệt, giá heo tại HTX luôn được Becofood thu mua cao hơn thị trường từ 1.000 - 2.000 đồng/kg và cam kết không bao giờ thu mua dưới mức 40.000 đồng/kg, ngay cả khi thị trường biến động mạnh. Nhờ sự hợp tác này, các hộ chăn nuôi trong HTX không chỉ có lợi nhuận ổn định mà còn yên tâm hơn về chất lượng đàn heo, giảm thiểu nguy cơ dịch bệnh.

Một điển hình khác là bà Trần Thị Lệ, ở thôn Lương Lộc, xã Phước Hưng (huyện Tuy Phước). Bà Lệ là một trong những hộ chăn nuôi tiêu biểu của huyện, mỗi năm xuất bán hơn 3.000 con heo thịt. Đặc biệt, bà đã thành công trong việc liên kết với hơn 30 hộ chăn nuôi khác trong xã, với quy mô trung bình mỗi lứa nuôi lên đến 600 con heo thịt. Các hộ tham gia liên kết này được bà Lệ trả công 300 nghìn đồng cho mỗi con heo nuôi, điều này không chỉ giúp tăng giá trị sản phẩm mà còn mang lại nguồn thu ổn định cho các hộ chăn nuôi.

Bà Lệ cho biết, toàn bộ heo thịt được bà xuất bán cho các thương lái tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Trung. Các hộ tham gia liên kết với bà được hỗ trợ đầy đủ về quy trình chăm sóc, thức ăn, vắc xin… Nhờ sự liên kết chặt chẽ và giá heo duy trì ở mức cao, các hộ chăn nuôi trong chuỗi liên kết này đều có lãi. Bên cạnh cơ sở chăn nuôi tại thôn Lương Lộc, bà Lệ còn xây dựng một gia trại chăn nuôi heo hiện đại rộng 1.200 m² tại thôn Biểu Chánh (xã Phước Hưng), với mỗi lứa thả nuôi 500 con heo thịt, trung bình 3 - 4 tháng xuất chuồng.

 

 

HTX Sản xuất và Thương mại dịch vụ Chăn nuôi tổng hợp Nhơn Khánh (TX An Nhơn) thực hiện phát triển chăn nuôi heo theo chuỗi liên kết mang lại hiệu quả kinh tế cao.

- Trong ảnh: Một hộ chăn nuôi heo theo chuỗi liên kết tại thôn An Hòa, xã Nhơn Khánh. Ảnh: NGUYỄN ANH

Ổn định đầu ra và phát triển bền vững

Ngoài các mô hình HTX và hộ chăn nuôi liên kết, Bình Định còn thu hút sự tham gia của các DN lớn trong lĩnh vực chăn nuôi gia công. Công ty CP Chăn nuôi CP Việt Nam mỗi năm thực hiện liên kết gia công quy mô lớn với 60.000 con heo thịt và 100 nghìn con gà thịt; Công ty TNHH CJ Vina Agri - chi nhánh Bình Định cũng thực hiện liên kết gia công 30.000 con heo thịt mỗi năm..., mang lại lợi ích kinh tế cho DN cùng người chăn nuôi, đảm bảo nguồn cung sản phẩm ổn định cho thị trường.

Thời gian qua, tỉnh đã ban hành những chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi thông qua việc hỗ trợ các mô hình liên kết, thu hút sự quan tâm của nhiều DN. Công ty TNHH Giống gia cầm Cao Khanh (huyện Phù Cát) tham gia chính sách liên kết chăn nuôi bao tiêu sản phẩm gà thả đồi, cung cấp con giống và liên kết gia công với các hộ dân tại TX An Nhơn, huyện Phù Cát và Hoài Ân. Cách làm này giúp đảm bảo chất lượng sản phẩm, tạo sự an tâm về đầu ra cho các hộ chăn nuôi.

Một trong những mô hình mới trong việc hỗ trợ phát triển chăn nuôi là Dự án hỗ trợ liên kết chăn nuôi và tiêu thụ bò thịt vỗ béo chất lượng cao, được phê duyệt theo Quyết định số 2814/QĐ-UBND ngày 6.8.2024. Dự án do HTX Nông nghiệp Thanh niên Hoài Ân thực hiện, với sự tham gia của 80 hộ tại huyện Hoài Ân, gồm các hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo. Công ty TNHH sản xuất thương mại Thủy Thiên và hộ kinh doanh Trương Thị Niệm là các đầu mối tiêu thụ sản phẩm trong dự án này. Dự án được kỳ vọng giúp ổn định đầu ra, nâng cao thu nhập cho người chăn nuôi và góp phần nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm bò thịt vỗ béo.

Ông Huỳnh Ngọc Diệp, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y (Sở NN&PTNT), chia sẻ: Những mô hình liên kết chăn nuôi giúp nâng cao hiệu quả sản xuất, ổn định đầu ra và phát triển bền vững, đồng thời đảm bảo cung cấp thực phẩm an toàn cho thị trường. Thời gian tới, ngành chăn nuôi của tỉnh sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương và các tổ chức liên quan để nâng cao nhận thức của người chăn nuôi, DN về lợi ích của liên kết chuỗi, mở rộng và triển khai các mô hình hiệu quả.

TRỌNG LỢI

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop