Mùa hồng Yên Du lại về...
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Hà Tĩnh
Vào khoảng giữa tháng 9 đến giữa tháng 10 dương lịch hằng năm, người dân thôn Yên Du, xã Đức Lĩnh, Vũ Quang (Hà Tĩnh) lại hối hả bước vào mùa thu hoạch hồng giòn.
Hồng giòn Yên Du là sản phẩm nổi tiếng của huyện Vũ Quang, Hà Tĩnh. Quả hồng sau khi hái từ cây xuống có vị chát. Sau đó, hồng được rửa sạch rồi đổ vào chậu nhôm, múc nước lạnh ngâm hồng trong hai ngày một đêm.
Thôn Yên Du nổi tiếng với đặc sản hồng giòn không hạt. Hồng Yên Du quả không lớn, khi chín ruột chuyển màu vàng đậm, vị ngọt, thơm và rất giòn, lại không có hạt như những loại hồng khác nên được rất nhiều người ưa thích. Ngoài ra, chính khí hậu, chất đất và nguồn nước ở Yên Du đã khiến cho những quả hồng nơi đây có vị giòn đặc trưng mà những vùng miền khác không có được.
Hồng Yên Du được xem là thức quà quý của huyện Vũ Quang, đã được tỉnh Hà Tĩnh công nhận đạt OCOP 3 sao - chương trình mỗi xã một sản phẩm. Do nắng nóng kéo dài nên năm nay sản lượng hồng toàn xã chỉ đạt khoảng 20 tấn, sụt giảm hơn 10 tấn so với năm ngoái.
Quả hồng không hạt nên không thể ươm giống. Phương pháp chiết hay ghép cành cũng kém hiệu quả. Vì vậy, các chủ vườn thường chặt rễ tách ra từ cây mẹ, sau đó đào hố sâu khoảng nửa mét, đổ phân chuồng xuống dưới để trồng.
Cây sau 5 năm cho quả bói, đến năm thứ 10 mới bắt đầu thu hoạch đại trà. Trung bình mỗi cây tán rộng hơn 4 m, cao 5-10 m, cho 2-3 tạ quả. Cây càng nhiều tuổi thì sản lượng và năng suất càng cao, có gốc đạt hơn 5 tạ quả. Vì thế, chủ vườn chỉ thay mới khi cây bị gãy hoặc bật gốc do thiên tai.
Hồng Yên Du dễ trồng, công chăm sóc ít, người dân thường trồng tại các vườn đồi thoải, xen với các cây ăn quả khác như cam, chanh, bưởi, mít... "Loại cây này hầu như ít bị sâu bọ tấn công, do đó hàng năm tôi chỉ bón phân chuồng dưới gốc để cung cấp sức đề kháng", vào mùa đông cây rụng hết lá để lấy chất dinh dưỡng nuôi thân. Tháng 2 cây ra hoa, tháng 8 thì đậu quả.
Bước vào mùa vụ thu hoạch, bình quân mỗi hộ gia đình có 15/100 cây hồng cho quả chính, sản lượng ước tính 3 tấn. Thu hoạch hồng khá vất vả, với cây cao gần 10 m, người dân phải đeo đai lưng, dùng móc sắt neo vào thân hoặc cành lớn để tránh sự cố.
Quả hồng sau khi hái từ cây xuống có vị chát, phải rửa sạch quả rồi đổ vào chậu nhôm, múc nước lạnh ngâm hồng trong hai ngày một đêm. Sau thời gian này, chất mủ nhựa sẽ thoát ra ngoài thông qua phần cuống, từ đó ruột bên trong sẽ kết tủa đường và mang lại vị ngọt đặc trưng.
Từ loài cây được trồng nhằm tạo bóng mát, đến nay hồng Yên Du đã trở thành cây hàng hóa giúp nông dân làm giàu. Mỗi vụ, trung bình một gia đình thu 100-200 triệu đồng, nhiều hộ sở hữu diện tích lớn, lời 300 triệu đồng một năm. Để giúp người dân xây dựng thương hiệu hồng Yên Du, xã đã hỗ trợ lập tổ hợp tác hồng với 10 thành viên. Sắp tới địa phương sẽ quy trình hóa các khâu trong sản xuất như đóng bao bì, nhãn mác, truy xuất nguồn gốc để nâng cao giá trị sản vật, giúp các hộ dân trồng hồng có thêm thu nhập.
Hồng Yên Du được người dân Vũ Quang bán cho thương lái trong tỉnh, nhập tại các chợ trên địa bàn hoặc gửi vào miền Nam, ra Hà Nội tiêu thụ.
BBT
Hậu Giang: Đu đủ ruột vàng hút hàng, giá bán cao
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Đu đủ ruột vàng hiện tại được thương lái vào tận vườn thu mua với giá từ 17.000 - 19.000 đồng/kg, tăng hơn 6.000 đồng/kg so với đầu năm. Đây được xem là mức giá cao nhất trong nhiều năm trở lại đây. Ông Châu Thành Khoa, thương lái mua đu đủ cho biết, nguyên nhân giá đu đủ ruột vàng tăng là do ít người trồng, nên cung không đủ cầu. Mặt khác, loại đu đủ này có vỏ dày nên thuận lợi trong khâu vận chuyển đi xa.
Đu đủ ruột vàng từ khi trồng đến thu hoạch khoảng 8 tháng và thời gian thu hoạch từ 3-5 tháng, ít sâu bệnh, nhẹ công chăm sóc. Trung bình 1 công đất (1.000m2) trồng đu đủ ruột vàng, nếu được chăm sóc tốt, có thể cho năng suất cả vụ từ 5-7 tấn, với giá bán cao như hiện nay, sau khi trừ hết chi phí, lợi nhuận hơn 50 triệu đồng/công.
Toàn huyện Phụng Hiệp (Hậu Giang) hiện có khoảng 100ha trồng đu đủ, nhưng có rất ít người trồng đu đủ ruột vàng, phần lớn là trồng đu đủ ruột đỏ, nên nhiều khả năng giá đu đủ ruột vàng tiếp tục ổn định ở mức cao trong mùa nước nổi.
LÊ ĐĨNH
Thanh long cuối vụ đạt giá cao
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang
Hiện nay, thanh long tại vùng chuyên canh lớn nhất của tỉnh Tiền Giang là huyện Chợ Gạo đang được các thương lái thu mua với giá cao gấp 3 lần so với giá mua ở các tháng trước đây.
Phân loại thanh long tại một cơ sở thu mua.
Các vựa thu mua thanh long với giá dao động từ 14.000 - 24.000 đồng/kg tùy loại. Các nhà vườn trồng thanh long cho biết, giá thanh long hiện nay cao vì mùa chính vụ đã sắp hết, hầu hết các vườn đã sắp hết trái nên nguồn cung thấp hơn cầu. Giai đoạn thanh long chính vụ kéo dài từ tháng 3 đến giữa tháng 9 dương lịch. Sau khi kết thúc thu hoạch thanh long chính vụ, người trồng sẽ tiếp tục chăm sóc vườn để chuẩn bị cho sản xuất nghịch vụ (xử lý ra hoa trái vụ bằng cách xông đèn).
Là vùng chuyên canh thanh long lớn nhất của tỉnh Tiền Giang, huyện Chợ Gạo có 6.600 ha thanh long, diện tích thanh long đang cho trái 5.545 ha với sản lượng thu hoạch 180.000 tấn/năm. Trong đó, diện tích thanh long sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP khoảng 2.200 ha, theo tiêu chuẩn GlobalGAP trên 300 ha. Huyện Chợ Gạo hiện có 101 mã số vùng trồng xuất khẩu với diện tích 5.923 ha tại các thị trường: Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ, Úc, New Zealand cùng 5 mã số cơ sở đóng gói thanh long.
Theo ông Cao Tấn Hưởng, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Chợ Gạo, thanh long Chợ Gạo đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bảo hộ nhãn hiệu tập thể. Đây được xem như giấy thông hành quan trọng để thanh long Tiền Giang có thể thâm nhập mạnh mẽ vào các thị trường khó tính trên khắp thế giới.
Để đảm bảo phát triển bền vững cho cây thanh long trong tương lai, Ủy ban nhân dân huyện Chợ Gạo định hướng và tạo điều kiện thuận lợi để các hợp tác xã, các doanh nghiệp phối hợp với nhà vườn trồng thanh long tạo được sản phẩm có giá trị để tăng kim ngạch xuất khẩu cũng như vượt qua những rào cản kỹ thuật của các hiệp định thương mại nhằm hướng đến những thị trường tiêu thụ lớn hơn thông qua con đường xuất khẩu chính ngạch.
Tại vùng chuyên canh, địa phương hình thành các hợp tác xã và tổ hợp tác quy tụ nông dân, tập huấn, chuyển giao kỹ thuật canh tác theo hướng GAP cho ra sản phẩm an toàn và truy xuất nguồn gốc, tăng cường quảng bá sản phẩm và xúc tiến thương mại cho nông sản hàng hóa...
Điển hình như Hợp tác xã Nông nghiệp sạch Hưng Thịnh Phát đã xây dựng vùng trồng cây thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP với 39 thành viên tham gia sản xuất ở 8 tổ hợp tác tại các ấp trong xã Quơn Long, huyện Chợ Gạo. Tổng diện tích vườn cây của xã viên là 132 ha với các loại thanh long ruột trắng, ruột đỏ, ruột tím hồng...
Ông Nguyễn Trung Quý, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp sạch Hưng Thịnh Phát cho biết: Mỗi tháng, Hợp tác xã sơ chế trung bình được từ 60 - 100 tấn trái thanh long cùng hơn 60 tấn trái cây khác để xuất khẩu sang các nước: Nhật, Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc... và đưa vào các siêu thị, trung tâm thương mại trong cả nước. Qua đó, góp phần đảm bảo đầu ra ổn định cho các xã viên cũng như nhà vườn trồng thanh long ở địa phương.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tỉnh đã xây dựng được vùng chuyên canh thanh long xuất khẩu gần 9.400 ha với sản lượng thu hoạch hàng năm trên 236.000 tấn trái tập trung ở các huyện như Chợ Gạo, Gò Công Tây, Gò Công Đông...
Đến nay, toàn tỉnh đã có trên 2.300 ha diện tích thanh long được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn GAP, trong đó có 2.196 ha đạt chứng nhận VietGAP và 110 ha đạt chứng nhận GlobalGAP. Tỉnh Tiền Giang đã cấp 33 mã số vùng trồng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc cùng 5.493 ha, 92 mã số vùng trồng xuất sang thị trường Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Úc với 1.271 ha.
Từ năm 2017, tỉnh Tiền Giang đã triển khai thực hiện Đề án "Phát triển cây thanh long tỉnh Tiền Giang đến năm 2025" mà một trong những trọng tâm là ứng dụng khoa học - công nghệ nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của trái thanh long trên thị trường xuất khẩu. Đồng thời, tỉnh cũng kêu gọi và khuyến khích các doanh nghiệp chế biến đầu tư xây dựng những nhà máy sản xuất các sản phẩm chế biến đa dạng từ trái thanh long để góp phần giải quyết phần nào sản lượng trái thanh long khi vào mùa thu hoạch rộ.
Hữu Chí
Sử dụng phân bón hữu cơ: hướng đi tất yếu
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Sử dụng phân bón hữu cơ mang lại nhiều hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp.
Nhằm hướng tới một nền nông nghiệp (NN) bền vững, Vĩnh Long đã và đang tích cực thực hiện các mô hình sản xuất NN hữu cơ và khuyến khích tăng cường sử dụng phân bón (PB) hữu cơ.
Sử dụng phân bón hữu cơ: Nhiều lợi ích
Theo ngành chức năng, trong trồng trọt, PB là thành phần quan trọng được sử dụng với một lượng lớn mỗi năm, góp phần đáng kể trong việc tăng năng suất, chất lượng nông sản và nâng cao giá trị kinh tế NN. Tuy nhiên, việc lạm dụng PB hóa học trong chăm sóc cây trồng cùng với hóa chất BVTV (các loại hóa chất diệt sâu, bệnh) đang khiến người nông dân và ngành NN phải đối mặt với các nguy cơ nông sản mất an toàn thực phẩm, ô nhiễm môi trường đất, nước- tư liệu sản xuất, làm giảm khả năng cạnh tranh của nông sản trên thị trường. Vì vậy, việc sử dụng PB hữu cơ đang là hướng đi ngày càng được người sản xuất lựa chọn để hướng đến sản xuất NN xanh, hiệu quả và bền vững.
Sử dụng phân hữu cơ cho vườn bưởi nhiều năm nay, chú Phạm Văn Minh (xã Mỹ Hòa, TX Bình Minh) cho hay: “Trước đây tôi sử dụng nhiều phân hóa học, xịt thuốc nhiều nên vườn bưởi của tôi bị suy yếu, vàng lá, cành nhánh không phát triển, thậm chí có cây còn bị chết nhánh và chết luôn cả cây. Sau khi được cán bộ NN hướng dẫn các biện pháp chăm sóc, phục hồi vườn bưởi, sử dụng phân hữu cơ thì vườn bưởi đã hồi phục, đến nay đã cho năng suất tốt”.
Theo chú Minh, PB hữu cơ có rất nhiều lợi ích với đất, cây trồng, môi trường và con người, không chỉ cung cấp nhiều chất dinh dưỡng cho cây trồng, giúp cây phát triển cân đối, ổn định, làm tăng chất lượng nông sản mà còn tăng hàm lượng dinh dưỡng, cung cấp chất mùn, cân bằng vi sinh vật trong đất, cải tạo đất trồng, không gây ô nhiễm môi trường.
Dẫn chúng tôi tham quan vườn thanh long, anh Lâm Hoàng Chí (xã Thanh Đức, huyện Long Hồ) cho hay: Nhờ bón phân hữu cơ mà vườn thanh long mới xanh tốt, chất lượng trái cũng đẹp hơn. Bởi phân hữu cơ có tác dụng làm tơi xốp đất, giúp tăng khả năng giữ nước, khả năng chịu đựng các điều kiện bất lợi cũng tốt hơn. Do vậy, cây ít bị sâu bệnh gây hại, năng suất, chất lượng trái cũng tốt hơn.
Tuy nhiên, theo ngành NN, tỷ lệ nông dân sử dụng PB hữu cơ trong sản xuất chưa nhiều. Nguyên nhân là do áp lực thâm canh tăng năng suất và những tiện dụng như gọn nhẹ, tác động nhanh đến sinh trưởng cây trồng nên nông dân chủ yếu sử dụng PB vô cơ. Bên cạnh đó, phân hữu cơ có tác dụng chậm, chỉ có một số ít các vùng trồng cây ăn trái, trồng rau, nông dân vẫn còn duy trì việc sử dụng phân chuồng, phân có nguồn gốc thực vật để chăm bón. Còn lại trên các cây trồng khác, đặc biệt là lúa hầu như bà con chỉ sử dụng phân hóa học.
Sử dụng phân bón hữu cơ: hướng đi tất yếu
Theo Sở NN-PTNT, phát triển sản xuất và sử dụng PB hữu cơ trên nền sử dụng tối đa phụ phẩm NN là hướng đi tất yếu, kể cả trước mắt và lâu dài để tiến đến nền NN sinh thái, tuần hoàn, thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm phát thải và tạo ra nông sản an toàn, có giá trị gia tăng cao. Cơ quan nhà nước đóng vai trò định hướng, dẫn dắt, doanh nghiệp là hạt nhân chủ chốt và người nông dân là trọng tâm. Bên cạnh đó phải coi sản xuất, sử dụng PB hữu cơ là giải pháp lâu dài dựa trên cơ sở ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại kết hợp với kinh nghiệm truyền thống, khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế về nguồn nguyên liệu hữu cơ sẵn có tại địa phương để thay thế một phần PB vô cơ, giảm sự phụ thuộc vào PB nhập khẩu, phục vụ phát triển NN bền vững.
Mới đây, UBND tỉnh vừa phê duyệt kế hoạch triển khai Đề án Phát triển sản xuất và sử dụng PB hữu cơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó, mục tiêu đến 2030, lượng PB hữu cơ công nghiệp sử dụng chiếm tối thiểu 30% so với tổng lượng PB sử dụng trong sản xuất NN; đến 2050 phấn đấu tăng tỷ lệ diện tích trồng trọt có sử dụng PB hữu cơ chiếm 50%...
Để đạt được mục tiêu đó, ngành NN và các địa phương trong tỉnh đang và sẽ tích cực thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức, hiểu biết của cộng đồng về NN hữu cơ, từng bước thay đổi nhận thức về sản xuất truyền thống, tiến đến nền NN hữu cơ an toàn, bền vững. Đồng thời, tổ chức các lớp tập huấn về sử dụng PB, bón phân cân đối, hiệu quả theo nguyên tắc “5 đúng”. Đổi mới phương thức, hướng dẫn người dân sử dụng PB thông qua các mô hình thực tế, hội thảo đầu bờ. Phối hợp với chính quyền địa phương, doanh nghiệp, hiệp hội, tổ chức đoàn thể, đại lý kinh doanh PB, hướng dẫn người dân kiến thức sử dụng PB hữu cơ hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng, tiết kiệm chi phí và hạn chế ô nhiễm môi trường. Tăng cường công tác khuyến nông, trong đó chú trọng đến PB hữu cơ có hiệu quả sử dụng cao, hướng dẫn nông dân áp dụng các giải pháp khoa học công nghệ, tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất NN…
Theo ông Nguyễn Văn Liêm- Phó Giám đốc Sở NN-PTNT, hiện nay, diện tích sản xuất các loại cây trồng toàn tỉnh sử dụng PB hữu cơ chiếm khoảng 25% trên tổng lượng PB sử dụng. Trong đó, có khoảng 72% là PB hữu cơ công nghiệp và 28% là phân hữu cơ nông dân tự ủ sử dụng. Vì vậy, việc xác định mục tiêu và định hướng các nội dung cho kế hoạch sản xuất và sử dụng PB hữu cơ trong thời gian tới là rất cần thiết nhằm góp phần xây dựng nền NN sản xuất hàng hóa dựa trên lợi thế hiện có của tỉnh, theo hướng hiện đại hóa, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, có sức cạnh tranh, góp phần đảm bảo an ninh lương thực, ổn định kinh tế- xã hội, bảo vệ môi trường và ứng phó được với biến đổi khí hậu.
Bài, ảnh: NGUYÊN KHANG
Thanh niên 9X thành công với dưa lưới
Nguồn tin: Báo Long An
Khởi nghiệp từ nông nghiệp đang trở thành hướng đi đầy tiềm năng cho nhiều bạn trẻ. Anh Nguyễn Văn Hiền (SN 1994, ngụ phường 1, thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An) là một minh chứng. Trước đây, anh từng gắn bó với nghề bảo trì xe nhưng công việc này không phải đam mê và không mang lại nguồn thu nhập tốt. Sau thời gian suy nghĩ, anh quyết định tìm một hướng đi mới.
Năm 2016, anh Hiền trở về nhà và bắt đầu thử sức với nông nghiệp, nuôi bò và trồng rau màu. Mặc dù thu nhập cải thiện so với trước kia nhưng anh nhanh chóng nhận ra rằng, mô hình này không bền vững. Những yếu tố như dịch bệnh, sâu rầy và thời tiết không thuận lợi khiến anh thường xuyên đối mặt với nhiều khó khăn. Nhận thấy rủi ro từ việc chăn nuôi và trồng rau theo kiểu truyền thống, anh quyết định đầu tư nhà lưới để trồng rau màu.
Ban đầu, với khoảng 35 triệu đồng tích lũy, anh đầu tư xây dựng hơn 110m2 nhà lưới để trồng rau. Dịp Tết năm 2019, sau khi tình cờ thấy các mô hình trồng dưa lưới trên mạng, anh nảy sinh ý định thử trồng loại cây này. Thời điểm đó, tại thị xã Kiến Tường chưa có ai thực hiện mô hình trồng dưa lưới trong nhà lưới. Không biết giống dưa nào phù hợp với vùng đất này, anh mạnh dạn mua gần 20 loại giống khác nhau về trồng thử.
Thời gian đầu, do thiếu kinh nghiệm và kiến thức, chất lượng dưa lưới chưa đạt như mong đợi. Tuy nhiên, không nản lòng, anh tích cực học hỏi thêm từ các nguồn tài liệu trên mạng và không ngừng cải tiến phương pháp trồng. Chỉ trong vòng 1 năm, anh tiếp tục mở rộng thêm 1.000m2 nhà lưới. Đến nay, anh Hiền sở hữu tổng cộng khoảng 4.000m2 nhà lưới với số vốn đầu tư hơn 1 tỉ đồng.
Nhà trồng dưa lưới của anh Nguyễn Văn Hiền (phường 1, thị xã Kiến Tường) rất thoáng mát, sạch sẽ
“Mô hình này giúp sản xuất tránh được nhiều rủi ro do sâu, bệnh gây hại và thời tiết. Tôi cũng áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt thông minh, tiết kiệm công sức vì có thể tưới nước từ xa qua Internet. Hiện nay, vườn nhà tôi có 2 loại dưa lưới: Dưa da xanh TL3 và dưa da vàng Kim Ngọc Đường, trong đó dưa da vàng là chủ yếu. Với diện tích 1.000m2, tôi có thể trồng gần 3.000 hạt dưa, khi thu hoạch mỗi quả nặng từ 1,6-2,5kg” - anh Hiền chia sẻ.
Theo anh Hiền, sau khi xuống giống, cây được xếp thành hàng và treo dây cố định; giai đoạn ra hoa sẽ tiến hành thụ phấn. Mỗi cây chỉ để lại 1 trái, nếu cây khỏe thì để lại 2 trái. Khi trái có đường kính 2-4cm (khoảng 40 ngày sau trồng) thì hãm ngọn để tập trung dinh dưỡng nuôi trái. Mỗi vụ dưa lưới sau khoảng 75-85 ngày thu hoạch. Anh Hiền luôn sắp xếp trồng xoay vòng để bảo đảm cung cấp dưa lưới đều đặn cho thị trường.
Với mức giá bán khoảng 45.000 đồng/kg cho khách lẻ và 30.000 đồng/kg cho khách sỉ, mỗi tháng, anh cung cấp từ 5-6 tấn dưa lưới ra thị trường, con số này có thể tăng gấp 3 lần vào dịp tết. Nhờ những nỗ lực không ngừng, hiện nay, anh Hiền có lợi nhuận ước tính ít nhất hơn 300 triệu đồng mỗi năm. Anh tiếp tục mở rộng diện tích trồng dưa lưới để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Hiện nay, anh ấp ủ mong muốn đưa sản phẩm dưa lưới trở thành sản phẩm OCOP, góp phần nâng cao giá trị và thương hiệu của nông sản địa phương.
Phó Bí thư Thị Đoàn Kiến Tường - Nguyễn Thị Kim Thảo cho biết: “Anh Hiền làm kinh tế giỏi. Tháng 8 vừa qua, anh vinh dự được nhận Bằng khen “Doanh nhân trẻ, thanh niên khởi nghiệp tiêu biểu năm 2024” của Tỉnh Đoàn. Thị Đoàn Kiến Tường luôn đồng hành, hỗ trợ anh Hiền cùng các bạn đoàn viên, thanh niên trên địa bàn thị xã trong việc phát triển các ý tưởng, dự án khởi nghiệp gắn với Chương trình OCOP, khơi dậy tinh thần khởi nghiệp của đoàn viên, thanh niên”./.
Khánh Duy
Khởi động Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao trên vùng lúa - tôm
Nguồn tin: Báo Kiên Giang
Sáng 26-9, Cục Trồng trọt Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức khởi động Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 trên vùng lúa - tôm tại huyện An Minh (Kiên Giang).
Nông dân tham quan mô hình trình diễn máy bay phun thuốc tại lễ khởi động Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao trên vùng lúa - tôm tại huyện An Minh.
Mô hình thí điểm lúa hữu cơ - tôm sinh thái được thực hiện tại Hợp tác xã Dịch vụ tôm cua lúa Thạnh An, xã Đông Thạnh, huyện An Minh với diện tích 10ha, có 13 hộ thành viên tham gia.
Đây được xem là bước khởi đầu để hợp tác xã và nông dân sản xuất theo mô hình lúa - tôm hướng tới phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững, tăng trưởng xanh. Mô hình thí điểm này có nhiều điểm mới, nông dân sẽ có những thay đổi về tập quán sản xuất, giảm chi phí đầu tư, thông qua việc giảm lượng lúa giống gieo sạ và vật tư đầu vào và sản xuất phải giảm phát thải.
Huyện An Minh đăng ký 20.000ha lúa - tôm tham gia đề án này. Từ cánh đồng khởi động thí điểm, các đơn vị chuyên môn của huyện sẽ tập huấn cho nông dân áp dụng đúng quy trình kỹ thuật sản xuất lúa chất lượng cao đã được Cục Trồng trọt ban hành.
Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Kiên Giang Nguyễn Văn Nghĩa, mô hình thí điểm sản xuất lúa hữu cơ - tôm sinh thái ở huyện An Minh là cánh đồng thứ 2 tại tỉnh Kiên Giang được khởi động tham gia Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030.
Đây là mô hình sản xuất mới, được thí điểm trong đề án tại tỉnh Kiên Giang, với nhiệm vụ trọng tâm là đưa những tiến bộ kỹ thuật và những công nghệ mới vào quy trình sản xuất...
Từ 2 cánh đồng đã được khởi động tại huyện An Minh và huyện Tân Hiệp, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Kiên Giang tiếp tục triển khai thực hiện tại 10 huyện còn lại trong năm 2024 và các năm tiếp theo. Với mục tiêu phấn đấu đến năm 2025, Kiên Giang thực hiện đạt 60.000ha, đến năm 2030 thực hiện 200.000ha...
Tin và ảnh: THÙY TRANG
Bảo vệ rau màu mùa mưa
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Những ngày qua, mưa kéo dài kèm theo mực nước triều cường dâng cao, nên nông dân trồng rau màu trong tỉnh Vĩnh Long thực hiện nhiều giải pháp nhằm bảo vệ năng suất, chất lượng các loại rau màu.
Mùa mưa là thời điểm nông dân trồng rau phải đối mặt với nhiều khó khăn do thời tiết không thuận lợi, mưa lớn kéo dài gây ngập úng, sâu bệnh dễ phát sinh, ngày công chăm sóc rau cũng nhiều hơn khiến chi phí tăng. Nhiều nông dân cho hay, khoảng 1 tuần qua, mưa kéo dài kèm theo mực nước triều cường dâng cao nhiều ngày. Đây là điều kiện bất lợi đối với việc sản xuất các loại rau màu ăn lá.
Tại vùng trồng rau thuộc xã Long Phước (huyện Long Hồ), những ngày qua nông dân tập trung thu hoạch các loại rau màu để tránh bị mưa lớn làm ảnh hưởng. Cùng với đó, nông dân chuẩn bị nhiều máy bơm tát khác nhau để đảm bảo ruộng rau không bị ngập úng trong thời gian này.
Có 2 công trồng rau ăn lá các loại, cô Nguyễn Thị Mỹ (xã Long Phước, huyện Long Hồ) cho hay: “Khi có cảnh báo mưa lớn, triều cường dâng cao của ngành chức năng, tôi đã tự gia cố các liếp trồng rau để phòng trường hợp rau bị úng nước do mưa nhiều, tôi cũng làm thêm mái che để rau gặp nước mưa sẽ không bị giập. Tôi cũng chuẩn bị máy dầu để phòng khi mưa lớn, thoát nước không kịp sẽ bơm nước ra để bảo vệ ruộng rau. Rau thu hoạch mỗi ngày mà mưa ngập là thiệt hại nhiều lắm. Nhờ chuẩn bị trước nên hiện ruộng rau của tôi vẫn an toàn”.
Đang nâng liếp trồng rau diếp cá, anh Nguyễn Văn Trọng (xã Thuận An, TX Bình Minh) cho hay: “Trồng rau màu ở thời điểm này thường xuyên phải đối mặt với tình trạng ngập úng do triều cường dâng cao, mưa dầm, rau không đạt năng suất bằng mùa nắng, rau hư hại nhiều, sâu bệnh cũng sẽ nhiều hơn. Do đó, thấy mưa lớn là phải tìm cách thoát nước nhanh. Tôi cũng trang bị thêm mái che để làm giảm tối đa tác động của mưa”.
Tại HTX Rau an toàn Phước Hậu (xã Phước Hậu, huyện Long Hồ) hiện có 15ha rau an toàn, trong đó 4,5ha sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Sản lượng hàng năm của HTX đạt trên 780.000 tấn rau màu các loại và phân bố đều trong năm. Những ngày qua, do mưa kéo dài kết hợp với triều cường cũng đã làm năng suất các ruộng giảm từ 10-15%. Hiện nông dân cùng chính quyền địa phương tập trung các giải pháp tiêu thoát nước và giảm tác động của mưa lớn đến rau màu. Song song đó, nông dân cũng sử dụng các loại phân bón hữu cơ để cải tạo đất và tăng khả năng chống chịu cho rau, sử dụng các loại thuốc trừ sâu sinh học thân thiện với môi trường.
Ông Nguyễn Minh Hùng- thành viên HTX Rau an toàn Phước Hậu cho biết: “Mưa lớn gây ngập úng một số diện tích rau, việc tháo nước kéo dài nên ảnh hưởng đến năng suất. Mưa lớn cũng gây giập úng lá, ảnh hưởng đến năng suất. HTX cũng đã xin cho nạo vét tất cả các kênh để đảm bảo tưới tiêu nước. Riêng việc mưa làm giập lá, úng lá thì cũng có một số xã viên làm mái che. Mái che có lợi ích che chắn lá không bị giập úng cũng như đảm bảo dịch hại trên cây trồng”.
Mùa mưa là thời điểm nông dân trồng rau phải đối mặt với nhiều khó khăn.
Theo Đài Khí tượng thủy văn tỉnh Vĩnh Long, trong thời gian tới, mực nước trên các sông sẽ còn ở mức cao. Trong khi đó, mưa trên địa bàn tỉnh còn có thể tiếp tục diễn ra.
Do đó, để rau màu phát triển tốt trong mùa mưa, thời điểm triều cường dâng cao, ngành chức năng khuyến cáo nông dân nên chọn nền đất cao ráo, tầng canh tác dày, đất tơi xốp, cũng như tránh làm đất quá nhuyễn vì nếu gặp mưa to dễ bị nén gây thiếu oxy, dẫn đến nghẹt rễ. Đồng thời, nên dọn các tàn dư ở vụ trước để loại bỏ nơi trú ẩn của côn trùng, sâu bệnh gây hại.
Bên cạnh đó, cần có bờ bao và hệ thống thoát nước tốt để tránh nước bị tồn đọng khi gặp mưa to hoặc mưa dầm lâu ngày gây ngập úng rau; lựa chọn các giống rau có thị trường tiêu thụ ổn định và cho hiệu quả kinh tế cao. Song song, cần theo dõi, cập nhật thông tin diễn biến thời tiết để kịp thời ứng phó, hạn chế thấp nhất ảnh hưởng thiệt hại do mưa bão gây ra.
Bài, ảnh: NGUYÊN KHANG
Hướng đi hiệu quả từ trồng cây dược liệu
Nguồn tin: Báo Hòa Bình
Chuyển đổi cây trồng kém hiệu quả và vườn tạp sang trồng cây dược liệu là hướng đi hiệu quả của nhiều địa phương trong tỉnh Hòa Bình.
Năm 2018, HTX dược liệu Big Farm đã tiến hành khảo sát, thuê lại 10ha đất vườn tạp của nông dân xóm Men, xã Yên Hòa (Đà Bắc) và trồng thử nghiệm một số cây dược liệu.
Xã Yên Trị (Yên Thủy) là một trong những "điểm sáng” về phát triển cây dược liệu. Đồng chí Bùi Phi Diệp, Chủ tịch UBND xã cho biết: Bắt tay vào xây dựng nông thôn mới (NTM), bài toán đầu tiên được đặt ra với cấp ủy, chính quyền xã là làm sao nâng cao thu nhập cho người dân. Chủ trương chuyển đổi cây trồng kém hiệu quả và các khu vườn tạp sang trồng cây dược liệu xuất phát từ đó.
Để đem lại hiệu quả cao nhất, địa phương chủ động chọn các cây dược liệu có giá trị kinh tế cao, cây dược liệu quý bản địa và tuyên truyền người dân đưa vào trồng thay thế. Đồng thời, xã đề xuất với huyện đồng hành, phối hợp với các trung tâm dược liệu, các công ty dược để xây dựng mô hình liên kết sản xuất. Không như cây trồng mùa vụ, đặc thù của cây dược liệu chủ yếu là dài ngày, trồng một lần thu nhiều năm, công chăm sóc ít mà giá trị kinh tế mang lại cao gấp khoảng 3 lần so với trồng lúa. Từ hướng đi đúng, đời sống của nhiều hộ dân Yên Trị ngày càng khấm khá. Diện tích trồng dược liệu tại xã được mở rộng khoảng 35ha, thu hút 45 hộ tại HTX Nông nghiệp Yên Trị và 100 hộ cùng tham gia.
Cùng với xã Yên Trị, trồng và phát triển cây dược liệu đã được nhiều địa phương triển khai. Tính đến nay, toàn tỉnh có khoảng 2.350 ha dược liệu, trong đó có 197,6 ha trồng xen trên đất rừng, còn lại được trồng trên đất cây hàng năm, cây lâu năm... Một số loại dược liệu chính có diện tích và sản lượng lớn như: sả 1.600 ha cho thu hoạch trên 11 nghìn tấn/năm; cà gai leo 167 ha, thu hoạch trên 1,2 nghìn tấn/năm; xạ đen 218 ha, thu hoạch 1,62 nghìn tấn/năm... Cùng với đó là các dược liệu khai thác tự nhiên với đa dạng về loài, giống như: chè dây, lạc tiên, thất diệp nhất chi hoa, lan kim tuyến...
Trong những năm qua, tỉnh Hòa Bình đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư trồng, chế biến dược liệu. Các dự án, Chương trình phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Chương trình mỗi xã một sản phẩm đã giúp đẩy mạnh và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào canh tác, sơ chế, chế biến cây dược liệu.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 13 cơ sở, doanh nghiệp thu mua, sơ chế dược liệu; 10 cơ sở chế biến dược liệu với quy mô doanh nghiệp nhỏ, hộ gia đình, bước đầu tạo đầu ra ổn định cho cây dược liệu trên địa bàn tỉnh. Bắt nguồn từ các bài thuốc gia truyền với sự đa dạng về nguồn cây thuốc tại địa phương, một số HTX sản xuất được sản phẩm OCOP đạt chứng nhận 3 - 4 sao như: cao cà gai leo Yên Thủy của HTX Nông lâm nghiệp Bảo Hiệu, cao xạ đen của HTX Nông nghiệp Yên Trị (Yên Thủy); cao xạ đen và cao cà gai leo của HTX Tuyết Nhi (Lương Sơn); an phế Triệu Gia của HTX thuốc nam gia truyền Triệu Gia (Kim Bôi); an phục khớp của HTX H20 Việt Nam (TP Hòa Bình)... Trong đó, các sản phẩm cà gai leo Yên Thủy và xạ đen Hòa Bình được cấp văn bằng chứng nhận bảo hộ nhãn hiệu.
Tuy nhiên, theo đồng chí Vương Đắc Hùng, Phó Giám đốc Sở NN& PTNT, hiện nay, tổng sản lượng dược liệu của tỉnh đưa vào chế biến mới chiếm khoảng 30%. Một phần còn lại (khoảng 10%) được sử dụng trong các bài thuốc đông y gia truyền; còn phần lớn (khoảng 60%) vẫn tiêu thụ ngoài tỉnh dưới dạng sản phẩm thô. Thực tế đó đòi hỏi cần có những giải pháp căn cơ để phát triển vùng trồng cây dược liệu tương xứng tiềm năng, lợi thế của tỉnh, trở thành sinh kế để thoát nghèo bền vững, tiến tới nâng cao thu nhập, tạo ra các sản phẩm dược liệu đặc trưng trên địa bàn.
Cũng theo lãnh đạo ngành NN& PTNT, thời gian tới, dựa trên điều kiện tự nhiên, nhu cầu thị trường, giá trị kinh tế và tiềm năng xuất khẩu, tỉnh sẽ xây dựng danh mục các loại cây dược liệu ưu tiên phát triển. Đồng thời, xây dựng cơ chế, chính sách, phương án hỗ trợ nuôi trồng, phát triển, thu hoạch cây dược liệu trong rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất và cho thuê môi trường để phát triển cây dược liệu, đảm bảo phù hợp với quy chế quản lý rừng và quy định của Luật Đất đai năm 2024.
Ngoài việc tập huấn nâng cao năng lực quản lý và tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm dược liệu; hỗ trợ chế biến sâu, tạo ra những thương hiệu dược liệu có giá trị gia tăng lớn gắn với phát triển du lịch và xây dựng nông thôn mới... ngành nông nghiệp sẽ tập trung hỗ trợ lập hồ sơ quản lý, cấp mã số vùng trồng và truy xuất nguồn gốc đối với các diện tích trồng cây dược liệu tập trung; tiếp tục thực hiện tốt công tác tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư... từ đó phát triển bền vững cây dược liệu trên địa bàn tỉnh.
Minh Vũ
Đồng Tháp: Khẩn trương thu hoạch rau màu và lúa đã đến thời kỳ thu hoạch
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Tháp
Để giảm thiểu thiệt hại do ảnh hưởng mực nước lũ kết hợp với kỳ triều cường 30/8 Âm lịch sắp tới, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đồng Tháp đề nghị Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố tổ chức tuyên truyền, vận động nông dân khẩn trương thu hoạch nhanh, gọn diện tích rau màu và lúa đã đến thời kỳ thu hoạch nhằm hạn chế thiệt hại.
Cánh đồng lúa đang vào đợt thu hoạch tại huyện Tháp Mười. Ảnh tư liệu
Đối với các vườn cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, hoa kiểng nếu đã đến thời kỳ thu hoạch cần tập trung thu hoạch sớm; xẻ mương, rãnh thoát nước để tăng tiêu thoát nước, tổ chức bơm tiêu úng bảo vệ an toàn cho các vườn cây ăn quả bị ngập úng.
Những ô bao đã thu hoạch lúa, hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày của vụ Hè Thu mà không xuống giống vụ Thu Đông và ô bao đã thu hoạch lúa Thu Đông cần chủ động xả lũ lấy phù sa và vệ sinh đồng ruộng để chuẩn bị mùa vụ mới.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị Ủy ban nhân dân huyện Tam Nông khẩn trương chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã Phú Cường tiến hành gia cố, nâng cấp các đoạn xung yếu tại ô bao số 37 và ô bao số 41, nhằm đảm bảo an toàn trong sản xuất, đồng thời thành lập tổ giám sát thường xuyên kiểm tra để sớm phát hiện những trường hợp bất thường để kịp xử lý và chỉ đạo tổ chức dịch vụ bơm tưới tiêu chủ động túc trực 24/24 để tăng cường bơm rút nước để tránh thiệt hại không đáng có.
Đối với các huyện Tháp Mười, Cao Lãnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị tăng cường kiểm tra rà soát hệ thống cống, trạm bơm, đặc biệt là các tuyến ô bao, bờ bao xung yếu, đồng thời chuẩn bị lực lượng, vật tư, thiết bị, máy bơm tiêu úng sẵn sàng ứng phó, xử lý khi có mưa lớn kết hợp nước nội đồng đang lên nhanh.
Nguyệt Ánh
Vĩnh Long: Xây dựng ngành hàng khoai lang hướng đến sự phát triển bền vững
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi, người sản xuất giàu kinh nghiệm, hiện nay cây khoai lang huyện Bình Tân được trồng quanh năm. Ảnh: NGỌC LIỄU
Là một trong những cây trồng chủ lực của tỉnh Vĩnh Long, tuy nhiên thời gian qua, tình hình sản xuất khoai lang (KL) phục hồi chậm do giá cả, thị trường tiêu thụ không ổn định, người dân chưa yên tâm đầu tư sản xuất, chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và người dân trong sản xuất- tiêu thụ nông sản. Để phát triển bền vững chuỗi giá trị ngành hàng KL đòi hỏi cần có nhiều giải pháp đồng bộ.
Vướng nhiều khó khăn
KL Vĩnh Long có vùng sản xuất thâm canh tập trung với nhiều chủng loại, trong đó, giống KL tím Nhật chiếm đến 90%. Đây là giống có thể trồng quanh năm, những năm trước đây, KL đã đem lại thu nhập cao cho người nông dân. Theo Phòng Nông nghiệp-PTNT huyện Bình Tân, diện tích KL của huyện chiếm gần 2/3 diện tích KL của cả khu vực ĐBSCL. Có những năm lên đến 13.000ha, sản lượng ước đạt trên 390.000 tấn, với các giống KL được trồng phổ biến gồm: tím Nhật, trắng giấy, trắng sữa, bí đường,…
Với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi, người sản xuất giàu kinh nghiệm, hiện nay cây KL huyện Bình Tân được trồng quanh năm. Đồng thời, theo đề án tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp của tỉnh đã xác định cây KL là 1 trong 3 cây trồng chủ lực. Trong những năm qua việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đưa cây màu xuống ruộng đang phát triển mạnh. Cây KL góp phần đáng kể cho sự phát triển kinh tế, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân tại địa phương.
Tuy nhiên, những năm gần đây tình hình sản xuất KL gặp khó khăn. Cụ thể, tập quán sản xuất của người dân vẫn còn thói quen sử dụng hom giống từ ruộng sản xuất hàng hóa cho vụ sau, dẫn đến tình trạng thoái hóa giống làm giảm năng suất, chất lượng KL. Hiện nay, các cơ sở chế biến sản phẩm KL rất ít, quy trình công nghệ chế biến, bảo quản còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, nông dân còn sản xuất theo diện tích nhỏ lẻ, còn lạm dụng thuốc BVTV trong phòng trừ sâu bệnh hại đã làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm; bón phân chưa hợp lý, mất cân đối giữa các yếu tố dinh dưỡng, sự suy thoái đất nông nghiệp trong vùng chuyên canh. Nông dân còn thiếu thông tin dự báo, thị trường sản xuất, tiêu thụ. Đó là chưa kể, những năm gần đây, biến đổi khí hậu, thời tiết diễn biến thất thường và dịch hại sâu bệnh cản trở việc phát triển cây KL.
Chú Nguyễn Hoàng Trung (xã Mỹ Thuận, huyện Bình Tân) chia sẻ: Khoảng 2 năm nay giá khoai bấp bênh. Nếu canh vụ, giá KL tím ở mức 500.000 đ/tạ thì mới có lời, còn không là cầm chắc lỗ. Trong khi đó, thương lái thu mua khi giá khoai giảm thì bỏ cọc, doanh nghiệp hứa thu mua bao tiêu thì bẻ kèo. Tình hình này kéo dài, nông dân sản xuất tụi tui rất lo lắng, mong ngành chức năng sớm có biện pháp hỗ trợ, ổn định giá cả, thị trường đầu ra”.
Bà Đinh Thị Tuyết Hạnh- Phó Phòng Nông nghiệp-PTNT huyện Bình Tân cho biết: Tính đến nay, toàn huyện xuống giống 813ha KL, so cùng kỳ giảm 220ha. Trong đó, KL tím là 330ha. Hiện còn trên đồng 194ha. Cây KL đã hình thành vùng sản xuất KL thâm canh tập trung. Tuy nhiên, mặt trái là tình hình dịch hại xuất hiện và gây hại ngày càng nhiều. Đặc biệt là thời gian gần đây, bệnh thối gốc và thối củ trên cây KL xuất hiện nhiều hơn, gây thiệt hại nặng đến năng suất và lợi ích kinh tế của người dân. Trong khi người nông dân vẫn giữ tập quán canh tác cũ như trồng với mật độ dày, lạm dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật hóa học để quản lý sâu, bệnh hại. Điều này sẽ dẫn đến chất lượng sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu khắt khe của các thị trường tiêu thụ (nhiễm dư lượng nitrat, thuốc BVTV).
Cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp
Xác định KL là cây trồng chủ lực của tỉnh trong nhiều năm qua vì vậy có nhiều nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu chuyên sâu đã được nghiên cứu và ứng dụng tại các vùng trồng KL chuyên canh của tỉnh. Bà Đinh Thị Tuyết Hạnh cho hay: Xác định cây KL là 1 trong 3 cây trồng chủ lực của tỉnh, vì vậy hàng năm bằng các nguồn kinh phí từ tỉnh đến huyện, ngành nông nghiệp đã đầu tư khá nhiều vào các chương trình, dự án, các mô hình nhằm bảo vệ, duy trì và phát triển cây KL. Đồng thời giúp nâng cao nhận thức của người dân trong việc ứng dụng khoa học- công nghệ vào sản xuất, khai thác và tận dụng được thế mạnh của địa phương, mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần phát triển kinh tế- xã hội của địa phương.
Ông Nguyễn Thành Thái- Phó Chủ tịch xã Mỹ Thuận (huyện Bình Tân) cho hay: Để cây KL phát triển ổn định, địa phương đã khuyến cáo nông dân phải đăng ký thực hiện mã số vùng trồng, từ đó, trồng theo quy trình, ghi chép nhật ký canh tác, nâng cao nhận thức trong sản xuất, nâng cao chất lượng từ đó giúp bán được giá ổn định hơn. Đồng thời phải biết nắm bắt quy luật thị trường, mạnh dạn sản xuất theo mô hình hiệu quả.
Ông Nguyễn Vĩnh Phúc- Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và BVTV (Sở Nông nghiệp-PTNT) cho biết: Bà con cần đưa các giống KL có năng suất cao, chất lượng tốt vào sản xuất; xây dựng các chuỗi liên kết trong chế biến và tiêu thụ sản phẩm KL. Cần đẩy mạnh áp dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn; xây dựng nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, mã vùng trồng để nâng cao giá trị.
Thời gian tới, ngành nông nghiệp sẽ tăng cường hướng dẫn nông dân thực hiện quy trình kỹ thuật canh tác, không lạm dụng thuốc BVTV gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe, áp dụng các biện pháp IPHM, các giải pháp sinh học, bón phân cân đối… vào canh tác KL. Đồng thời, phối hợp xúc tiến hình thành liên kết chuỗi sản phẩm hàng hóa từ cung ứng dịch vụ- sản xuất- thu mua- tiêu thụ sản phẩm, thông qua vai trò các HTX, tổ hợp tác; hỗ trợ người nông dân, tổ hợp tác, HTX, doanh nghiệp tiếp cận với các chính sách hỗ trợ trong nông nghiệp…
Theo ngành chức năng, để cây KL phát triển bền vững rất cần thiết xây dựng các mô hình nhân giống đạt chất lượng hom giống nhằm cải thiện năng suất, chất lượng củ cũng như chống chịu tốt với các loài dịch hại quan trọng trên cây KL, giảm chi phí sản xuất, từng bước nâng cao nhận thức của nông dân sử dụng hom giống đạt chất lượng. Đồng thời nông dân cần sản xuất KL đạt GAP, chứng nhận an toàn thực phẩm, thực hiện mã số vùng trồng, có truy xuất nguồn gốc để tạo ra sản phẩm sạch, chất lượng, an toàn.
Để tạo được thị trường ổn định cho sản phẩm KL, cần có những chiến lược marketing, xúc tiến thương mại tốt; cần kêu gọi đầu tư để phát triển hệ thống sản xuất chế biến sản phẩm, chú trọng đến hệ thống logistics tạo điều kiện thuận lợi trong bảo quản, vận chuyển sản phẩm tăng cao giá trị lợi nhuận, từ đó nâng cao lợi thế cạnh tranh giúp KL có thể thâm nhập vào các thị trường khó tính.
Bài, ảnh: TRÀ MY
Tôm, lúa và cuộc đua tăng giá
Nguồn tin: Báo Sóc Trăng
Từ giữa tháng 8, giá tôm bất ngờ quay đầu tăng và từ đó đến nay, giá tôm liên tiếp có nhiều đợt thiết lập nên mặt bằng giá mới theo hướng “giá sau cao hơn giá trước”. Cũng từ tháng 8, dù tình hình mưa bão có xu hướng tăng dần lên, nhưng giá lúa Hè - Thu vẫn luôn giữ ở mức cao, thậm chí có thời điểm tăng rất cao, ngoài sự kỳ vọng của nông dân. Cuộc đua tăng giá của lúa và tôm vẫn chưa dừng lại khi dư địa tăng giá từ nay đến cuối năm của cả 2 mặt hàng chủ lực trên vẫn còn khá nhiều.
Theo lịch mùa vụ, thường từ tháng 8 trở đi, vùng trọng điểm nuôi tôm nước lợ đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bước vào cao điểm thu hoạch và kéo dài cho đến tận tháng 10. Giai đoạn này, giá tôm thường không cao, thậm chí sụt giảm mạnh, do nguồn cung dồi dào trong khi công suất của các nhà máy thì có hạn. Tuy nhiên, năm nay thì khác, khi từ giữa tháng 8, giá tôm đã bất ngờ bật tăng và duy trì đà tăng giá ngày càng mạnh cho đến những ngày gần cuối tháng 9 này. Dù các đơn hàng xuất khẩu tôm từ nay đến cuối năm được đánh giá là khá dồi dào, nhưng theo các doanh nghiệp, việc giá tôm bất ngờ tăng mạnh trở lại chủ yếu là do vụ nuôi năm nay gặp rất nhiều khó khăn, sản lượng tôm thu hoạch sụt giảm mạnh khi vào cao điểm. Với tình hình hiện nay, các doanh nghiệp không chỉ lo thiếu tôm cỡ lớn cho các hợp đồng trong năm mà còn đắn đo trước khi đặt bút ký các hợp đồng tôm cỡ lớn cho những tháng đầu năm 2025.
Dù có đôi chút muộn màng, nhưng với việc tăng giá tôm mạnh trở lại từ trung tuần tháng 8 cũng giúp thị trường tôm trở nên sôi động hơn trong những tháng cuối năm. Ảnh: TÍCH CHU
Bên cạnh khó khăn do giá tôm giảm mạnh kéo dài khiến nhiều hộ phải ngưng nuôi thì những hộ có điều kiện thả nuôi tiếp lại gặp phải khó khăn khác, đó chính là thời tiết và dịch bệnh, trong đó, bệnh phân trắng, chậm lớn do EHP được đánh giá như là một “sát thủ thầm lặng” đối với tôm nuôi hiện nay. Tình hình trên khiến tôm phát triển không như ý và thiệt hại dần nên phải thu hoạch sớm. Thu sớm thì sản lượng giảm và nhất là thiếu hụt tôm cỡ lớn. Thực tế cho thấy, từ cuối tháng 6 kéo dài đến gần hết tháng 7, số diện tích thu hoạch sớm ở ĐBSCL là khá nhiều với đa phần là tôm cỡ nhỏ và cỡ trung, nên giá tôm thời điểm này cũng rất rẻ, nên có hộ dù thu hoạch có sản lượng nhưng cũng không có lời, thậm chí là thua lỗ. Diễn biến trên đã dẫn đến hệ quả là tình trạng thiếu tôm nguyên liệu xuất hiện khá sớm so với mọi năm và nguy cơ thiếu hụt được dự báo sẽ càng trầm trọng hơn trong các tháng cuối năm.
Cung ít, cầu nhiều khiến giá tôm trong hơn 1 tháng trở lại đây liên tục tăng mạnh. Ban đầu, chỉ có giá tôm cỡ lớn là tăng mạnh nhất, nhưng càng về cuối tháng 9 này, cả tôm cỡ trung lẫn cỡ nhỏ cũng bắt đầu tăng nhanh và tăng mạnh khi cả nước hầu như chỉ còn vùng nuôi ở ĐBSCL là còn tôm để cung cho thị trường xuất khẩu lẫn tiêu thụ nội địa. Nếu việc thả nuôi được tăng tốc ở thời điểm hiện tại thì chí ít cũng gần cuối tháng 12 mới có tôm để thu hoạch, còn muốn có tôm cỡ lớn thì phải đợi đến gần hết tháng 1 của năm 2025. Đây cũng chính là một trong những cơ sở quan trọng để các dự báo về giá tôm sẽ còn tiếp tục tăng thêm từ nay đến cuối năm.
Tương tự như con tôm, giá lúa ở vụ Hè - Thu thường không cao, do chất lượng sụt giảm và chi phí cho việc phơi sấy khá nhiều. Tuy nhiên, ở vụ lúa Hè - Thu này, dù mưa bão vẫn diễn ra dồn dập nhưng giá lúa chẳng những không giảm mà còn có xu hướng tăng thêm, do nhu cầu tiêu thụ đang tăng lên. Đặc biệt, các giống lúa đặc sản như: ST24, ST25 hay các giống lúa thơm: OM 18, OM 5451… luôn trong tình trạng thiếu hàng, giá tăng mạnh. Đã có thời điểm giá lúa ST25 được thu mua tại ruộng lên đến 11.050 đồng/kg, còn OM 18 luôn giữ ở mức trên 8.000 đồng/kg lúa tươi. Theo các doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo, mặc dù sản lượng lúa ở vụ Hè - Thu này không thấp hơn so với cùng kỳ những năm trước, nhưng do nhu cầu nhập khẩu gạo từ các nước tăng mạnh, nhất là Philippines và Indonesia, nên giá lúa gần như chỉ có tăng, chứ ít khi giảm.
Các động thái gọi thầu mới đây từ Philippines và Indonesia với số lượng khá lớn cho thấy, nhu cầu gạo thế giới từ nay đến cuối năm vẫn rất cao, dư địa cho việc tăng giá lúa từ nay đến cuối năm là không nhỏ. Cũng có ý kiến lo ngại giá lúa gạo sẽ không duy trì được ở mức cao khi Ấn Độ mở đường cho việc xuất khẩu gạo Basmati bằng việc bãi bỏ mức giá trần. Tuy nhiên, cho dù Ấn Độ có đẩy mạnh xuất khẩu gạo Basmati nhiều cũng không ảnh hưởng đến gạo xuất khẩu trong nước bởi Basmati không cùng phân khúc thị trường với phần lớn gạo xuất khẩu dưới dạng 5% hay 25% tấm của Việt Nam. Không những thế, tình hình thiên tai trong nước cũng như trên thế giới vừa qua cũng làm cho nguồn cung giảm đi phần nào, trong khi nhu cầu thì lại tăng thêm. Như vậy, việc giá lúa tiếp tục duy trì ở mức cao từ nay đến cuối năm là gần như chắc chắn và người trồng lúa sẽ còn tận hưởng niềm vui lớn hơn nếu sản xuất trúng mùa.
Lúa gạo và con tôm nước lợ cũng chính là 2 mặt hàng chủ lực của các tỉnh khu vực ĐBSCL vốn có thế mạnh về sản xuất nông nghiệp. Việc giá cả 2 mặt hàng trên tăng mạnh không chỉ là tín hiệu vui cho nhà nông mà còn góp phần giúp ngành nông nghiệp các tỉnh, thành vùng ĐBSCL sớm đạt tốc độ tăng trưởng như kế hoạch đã đề ra.
TÍCH CHU
Lễ hội trái cây Việt Nam tại Trung Quốc
Nguồn tin: Báo Chính Phủ
Lễ hội "Trái cây Việt Nam - Bốn mùa thơm ngon" được tổ chức tại Trung tâm phân phối nông sản Tân Phát Địa, quận Phong Đài, thành phố Bắc Kinh, Trung Quốc
Với chủ đề "Trái cây Việt Nam - Bốn mùa thơm ngon", lễ hội được tổ chức với sự hỗ trợ của Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc, Hiệp hội Rau quả Việt Nam và các đối tác Trung Quốc.
Đây là lần đầu tiên một lễ hội trái cây tầm cỡ được tổ chức tại nước ngoài, với sự tham gia của đông đảo các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu nông sản lớn của Việt Nam cũng như các hiệp hội chuyên ngành nông sản, nhà nhập khẩu, cung tiêu của Trung Quốc.
Lễ hội được kỳ vọng là một trong những sự kiện xúc tiến thương mại quan trọng nhằm thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng củ, quả tươi và sản phẩm chế biến từ củ, quả đã được phép xuất khẩu chính ngạch vào thị trường Trung Quốc.
Lễ hội sẽ được tổ chức tại Trung tâm phân phối nông sản Tân Phát Địa, quận Phong Đài, thành phố Bắc Kinh. Đây là chợ đầu mối hoa quả lớn nhất Bắc Kinh, phân phối tất cả các loại trái cây của thế giới nhập khẩu chính ngạch vào Trung Quốc.
Không gian chính của lễ hội là khu gian hàng với 12 đảo, trưng bày sản phẩm theo chuyên đề các loại trái cây và khoai lang đã được xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc. Ngoài ra, 1 đảo khác sẽ là sản phẩm tổng hợp để các doanh nghiệp Việt Nam trưng bày, giới thiệu và phục vụ khách tham quan trải nghiệm sản phẩm.
Trong khuôn khổ lễ hội, một số buổi tọa đàm sẽ được tổ chức nhằm thông tin về năng lực sản xuất và thương mại các sản phẩm rau quả tươi, cũng như các hoạt động giao thương, kết nối trực tiếp giữa các doanh nghiệp Việt Nam và nhà nhập khẩu, phân phối trái cây Trung Quốc và chương trình trải nghiệm sản phẩm cũng sẽ được tổ chức.
Nhiều năm qua, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Tổng kim ngạch thương mại hai chiều của Việt Nam và Trung Quốc chiếm khoảng 1/4 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với thế giới. Ở chiều ngược lại, Việt Nam là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc với thế giới, đồng thời là đối tác lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN.
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc phát triển tốt đẹp thời gian qua. Đặc biệt trong chuyến thăm của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Trung Quốc hồi tháng 8/2024, 3 nghị định thư về kiểm dịch sầu riêng đông lạnh, dừa tươi và cá sấu đã được hai bên ký kết.
Trong nhóm các mặt hàng chủ lực của Việt Nam xuất khẩu sang nước bạn, rau quả là nhóm đang tăng trưởng nóng. Giá trị xuất khẩu hàng rau quả của Việt Nam sang Trung Quốc trong 6 tháng đầu năm 2024 đạt 2,1 tỷ USD, chiếm khoảng 64% trong tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả ra thế giới.
Đỗ Hương
Sinh kế mới từ vỏ hàu
Nguồn tin: Báo Cà Mau
Thời gian qua, nghề nuôi hàu lồng phát triển mạnh mẽ trên địa bàn huyện Ngọc Hiển (tỉnh Cà Mau). Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi giúp con hàu nơi đây lớn nhanh, đạt kích cỡ tốt, giàu dinh dưỡng, được thị trường ưa chuộng. Ruột hàu tách sẵn được bán với giá từ 130-140 ngàn đồng/kg. Còn những mảnh vỏ hàu tưởng chừng như bỏ đi, bà con đã tìm cách tái sử dụng để cung cấp cho thương lái, tạo thêm sinh kế mới, giúp tăng thu nhập.
Thiếu đất sản xuất, hơn 5 năm qua, gia đình anh Trần Minh Tiến, ấp Dinh Hạn, xã Tân Ân, đã thu mua hàu tươi về tách vỏ, cung cấp hàu thịt cho thị trường. Sau khi tách lấy ruột, gia đình thường gom vỏ hàu đổ bỏ hoặc cho bà con lân cận đem về tận dụng lại để bó nền nhà, nền lối đi, nhằm tiết kiệm chi phí xây dựng. Lâu dần, bà con ít cần dùng tới, vỏ hàu tích tụ ngày càng nhiều, thấy vậy, anh Tiến lên mạng tìm hiểu cách xử lý để tránh ảnh hưởng tới môi trường và bà con xung quanh. Ðầu năm nay, tình cờ anh biết được, ở những tỉnh trên, vỏ hàu được tái sử dụng, thả xuống lồng để nuôi ấu trùng hàu. Cách làm này đem lại hiệu quả kinh tế cao, vừa giúp tăng hiệu suất sản xuất con hàu, vừa giảm lãng phí tài nguyên vỏ hàu. Thầm nghĩ đây chính là cơ hội giúp gia đình giải bài toán về vỏ hàu, anh Tiến đã tìm mọi cách liên hệ để tìm đầu ra và nhanh chóng bắt tay thực hiện.
Việc gia công vỏ hàu mang về thu nhập vài trăm ngàn đồng/ngày cho hộ gia đình.
Anh Tiến cho biết: “Lúc đầu, gia đình còn bán tính bán nghi bởi sợ làm ra không ai mua. Tuy nhiên, do thương lái chuyển cọc trước nên cũng yên tâm làm”. Ðể cung cấp vỏ hàu cho thương lái, anh Tiến dùng búa và đinh đục một lỗ nhỏ xuyên qua vỏ hàu và dùng dây gân xâu lại thành từng chuỗi, mỗi chuỗi dài từ 1-1,2 m với khoảng hơn 100 vỏ hàu kết lại với nhau. Sau khi đủ số lượng thì có thương lái ở TP Hồ Chí Minh, Khánh Hoà, Ninh Thuận... đến tận nơi thu mua, với giá 23-25 ngàn đồng/chuỗi.
Ông Trần Anh Tuấn, cha anh Tiến, cho biết: “Lúc đầu chưa biết cách làm nên làm hơi lâu, vừa mất thời gian, công sức mà hiệu quả lại không cao. Sau này gia đình nghiên cứu, dùng cây xà beng nhỏ, chỉ cần kê vỏ hàu lên cục gạch ống, gõ nhẹ xuống là xỏ dây được”. Cách 2-3 ngày, 5 thành viên trong gia đình cùng nhau thu gom, đục vỏ hàu để bán. Mỗi người một việc, người đục, người xâu, công việc khá dễ lại không mấy nặng nhọc, đem lại nguồn thu nhập cho mỗi thành viên từ 150-200 ngàn đồng/ngày.
Sau khi những đợt hàng đầu tiên được thương lái thu mua, anh Tiến đã chia sẻ cho bà con lân cận trong ấp cùng nhau thực hiện mô hình. Hiện tại, có khoảng 10 hộ ở ấp Dinh Hạn thực hiện, thu nhập khá ổn. Bà Hồ Thị Nhi tâm tình: “Lúc trước, gia đình tách ruột hàu xong toàn đem vỏ đổ bỏ, nay nhờ cháu Tiến mà nhà tôi biết được công việc này. Lúc đầu làm chưa quen nên hơi chậm, thu nhập không bao nhiêu. Nhưng giờ thì quen tay, thu nhập cũng ổn lắm. Nếu có vỏ nhiều thì 1 ngày 3 người trong nhà cùng nhau làm cũng được vài trăm ngàn đồng, có thêm đồng ra đồng vô trang trải sinh hoạt”.
Chị Hứa Minh Quang, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Tân Ân, thông tin: “Xã đã vận động bà con thành lập tổ hợp tác để phát triển mô hình. Xã cũng tăng cường kết nối, quảng bá sản phẩm hàu thịt của địa phương. Chỉ khi hàu thịt tiêu thụ mạnh thì bà con mới có vỏ hàu để làm. Ðồng thời, chúng tôi cũng chia sẻ cách làm này với những địa phương đang phát triển nghề nuôi hàu trên sông, tiến tới nhân rộng mô hình, tạo việc làm và thu nhập cho bà con trên địa bàn”./.
Trúc Linh - Huỳnh Tứ
Ngành chăn nuôi khôi phục sản xuất
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Quảng Ninh
Sau những thiệt hại do bão số 3, đối với lĩnh vực chăn nuôi tại nhiều địa phương trong tỉnh Quảng Ninh, nhiều hộ dù chịu ảnh hưởng nặng nề, song đã khẩn trương dọn dẹp chuồng trại và bắt đầu khôi phục sản xuất.
Bão số 3 đã khiến toàn bộ hạ tầng chuồng trại và 10.000 gia cầm, ao nuôi thủy sản của gia đình chị Nguyễn Thị Thủy (khu Bình Lục Thượng, phường Hồng Phong, TX Đông Triều) bị thiệt hại, ước 1,7 tỷ đồng. Trong quá trình chạy lụt do nước sông Kinh Thầy tràn vào, được sự giúp đỡ của bà con hàng xóm xung quanh, gia đình chị còn giữ được 5.000 con gà để tiếp tục tái thiết sản xuất. Chị Thủy tâm sự: Thiệt hại này không ai mong muốn nhưng còn người thì còn làm lại được. Vừa rồi sau khi nước rút, tôi đã dọn dẹp, vệ sinh, khử trùng chuồng trại và xung quanh bằng vôi bột, sau đó mới đưa gà về chuồng để nuôi. Hiện một số con bị yếu, tôi cũng đang chữa trị bằng thuốc để sớm khỏe lại. Những hộ bị thiệt hại sau bão như tôi và một số hộ xung quanh đây cũng mong được hỗ trợ kinh phí để có nguồn lực khôi phục lại kinh tế gia đình.
Chị Nguyễn Thị Thủy (phường Hồng Phong, TX Đông Triều) khử trùng khu nuôi bằng vôi bột.
Thiệt hại đối với lĩnh vực nông nghiệp của TX Đông Triều là 1.700/2.600 tỷ đồng tổng thiệt hại toàn thị xã do bão gây ra. Riêng đối với lĩnh vực chăn nuôi ảnh hưởng rất lớn với hơn 239.000 gia súc, gia cầm bị chết do ngập nước, bị cuốn trôi, chiếm gần 59% tổng thiệt hại về đàn gia súc, gia cầm của cả tỉnh. Hiện nay, cùng với kiểm tra, rà soát, xác nhận thiệt hại cho bà con để làm căn cứ hỗ trợ, cơ quan chuyên môn hướng dẫn nhân dân vệ sinh, khử trùng môi trường chăn nuôi sau mưa, lụt để tiêu diệt các loại mầm bệnh, đảm bảo chăn nuôi an toàn.
Bà Lưu Thị Dương, Phó trưởng phòng Kinh tế TX Đông Triều, cho biết: Phòng Kinh tế cũng như các phòng, ban chuyên môn của thị xã tiếp tục hỗ trợ các xã, phường bị thiệt hại và hướng dẫn người dân chôn lấp, tiêu hủy gia súc, gia cầm bị chết do bão, lũ; tổ chức vệ sinh chuồng trại, phun tiêu độc khử trùng ở những vùng trũng, ngập kéo dài, vùng có nguy cơ cao để khắc phục những bất lợi về môi trường để chuẩn bị các điều kiện cho hoạt động tái sản xuất trở lại của nhân dân. Thị xã chỉ đạo tiếp tục triển khai tiêm phòng định kỳ đến tận các thôn, hộ chăn nuôi.
Thiệt hại đối với ngành chăn nuôi toàn tỉnh sau bão rất lớn với trên 409.000 gia súc, gia cầm bị chết, trong đó nhiều nhất là các địa phương: Đông Triều, Quảng Yên, Hạ Long, Uông Bí, Tiên Yên. Hiện công tác hỗ trợ địa phương bị thiệt hại đang được ngành Nông nghiệp tập trung hỗ trợ về chuyên môn để nhân dân yên tâm tái đàn.
Bà Chu Thị Thu Thủy, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y (Sở NN&PTNT) cho biết: Chi cục đã phân công cán bộ đi đến các địa phương bị ảnh hưởng phối hợp với thú y cơ sở đến tận các cơ sở, hộ chăn nuôi hướng dẫn bà con khắc phục, cải tạo lại chuồng trại và môi trường chăn nuôi, nhất là khử trùng tiêu độc, dọn dẹp, khử trùng, rắc vôi bột; kiểm tra kiểm đếm thiệt hại cũng như tình trạng sức khỏe của gia súc gia cầm để có thể hỗ trợ tăng sức đề kháng cũng như vắc-xin phòng bệnh. Đơn vị cũng hướng dẫn các địa phương căn cứ theo Hướng dẫn số 2160/SNNPTNT-STC (ngày 6/7/2017) của liên Sở NN&PTNT, Sở Tài chính về hướng dẫn một số nội dung hỗ trợ khôi phục sản xuất nông nghiệp vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh trên địa bàn tỉnh theo Quyết định số 1568/2017/QĐ-UBND của UBND tỉnh, cập nhật nhanh chóng để bà con hoàn thiện nhanh chóng hỗ trợ cho thiệt hại sau bão để nhân dân có điều kiện tái đàn.
Từ nay đến Tết Nguyên đán còn hơn 4 tháng nữa cũng đủ một chu kỳ chăn nuôi ngắn ngày đối với gia cầm và lợn, ngành Nông nghiệp khuyến khích và hỗ trợ bằng mọi cách để các cơ sở, hộ chăn nuôi sau khi đã vệ sinh môi trường sạch sẽ, lựa chọn con giống có nguồn gốc rõ ràng, được cung cấp bởi những cơ sở cung ứng có uy tín, có giấy chứng nhận kiểm dịch; tiêm phòng đầy đủ các loại vắc-xin theo quy định để nhanh chóng khôi phục lại sản xuất bình thường; tuyệt đối không tái đàn khi chuồng trại chăn nuôi chưa đảm bảo về môi trường và an toàn dịch bệnh.
Hải Hà
Vĩnh Long: Đàn bò giảm 6%
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Tính đến tháng 9/2024, đàn bò của tỉnh Vĩnh Long có 76.250 con, giảm 6% (hay giảm 4.897 con) so với cùng kỳ năm trước. Đàn bò tiếp tục xu hướng giảm là do giá bán thịt hơi vẫn đang ở mức thấp, trong khi nguồn thức ăn tự nhiên không còn nhiều, giá thức ăn chăn nuôi ở mức cao nên việc tái đàn chậm.
Giá bò hơi duy trì ở mức 86.000 đ/kg, không thay đổi so với cùng kỳ năm trước. So với giá thành sản xuất bình quân là 60.000-65.000 đ/kg thì người nuôi hiện chỉ có lãi từ 21.000-26.000 đ/kg, hoặc huề vốn.
Theo ngành nông nghiệp, thời gian qua, chất lượng đàn bò được duy trì và phát triển theo hướng lai tạo với các giống bò ngoại chuyên thịt. Thời gian tới, ngành nông nghiệp tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ tình hình dịch bệnh trên gia súc, gia cầm, chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện sớm, xử lý kịp thời không để lây lan ra diện rộng.
Tăng cường tuyên truyền các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, chăn nuôi an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, định kỳ tiêu độc khử trùng, tiêm phòng cho đàn vật nuôi.
NGUYÊN KHANG
Vĩnh Long: 175 cơ sở nuôi chim yến
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Theo Sở Nông nghiệp-PTNT, toàn tỉnh Vĩnh Long hiện có 175 cơ sở nuôi chim yến, tăng 22,4% (hay tăng 32 cơ sở) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, huyện Long Hồ 30 cơ sở, huyện Vũng Liêm 30 cơ sở, huyện Tam Bình 25 cơ sở, TP Vĩnh Long 24 cơ sở, huyện Mang Thít 21 cơ sở, TX Bình Minh 18 cơ sở, huyện Bình Tân 15 cơ sở, huyện Trà Ôn 12 cơ sở.
Thị trường tiêu thụ tổ yến chủ yếu bán trực tiếp cho người tiêu dùng (chiếm 50%), phục vụ gia đình (22%), số còn lại bán cho thương lái (15%) và xuất ra ngoài tỉnh (13%).
Theo đánh giá của ngành nông nghiệp, phần lớn các hộ nuôi chim yến đều tuân thủ quy định về vùng nuôi, về bảo vệ môi trường và phòng, chống dịch bệnh. Ngành chức năng cũng đã tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở pháp lý để hộ chăn nuôi yến hoạt động, đồng thời cũng quan tâm kiểm tra, nhắc nhở các chủ nhà nuôi yến đảm bảo tuân thủ các quy định trong hoạt động.
Ông Lê Thanh Tùng- Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi thú y và thủy sản, cho biết: Thời gian tới, ngành thú y sẽ tổ chức hướng dẫn, kiểm tra việc kê khai cơ sở nuôi chim yến, khuyến cáo hộ nuôi thực hiện đảm bảo an toàn thực phẩm trong quá trình sản xuất, thu hoạch, vận chuyển và chế biến các sản phẩm yến tại địa phương.
THẢO LY
Hiếu Giang tổng hợp