Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 31 tháng 5 năm 2024

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 31 tháng 5 năm 2024

 

Bến Tre: Chợ Lách có thêm sầu riêng giống mới

 

Nguồn tin: Báo Đồng Khởi

Đó là sầu riêng sáp Tiểu Long của anh Nguyễn Thanh Phong ở ấp Tân Phú, xã Sơn Định, huyện Chợ Lách (Bến Tre). Năm 2015, anh Thanh Phong có dịp đi một số nước trồng sầu riêng ở Đông Nam Á, thấy có giống sầu riêng lá nhỏ, anh mua 3 cây về ghép với sầu riêng có thương hiệu ở huyện Chợ Lách để trồng thử.

 

 

Anh Nguyễn Thanh Phong (bên trái) giới thiệu sầu riêng sáp Tiểu Long cho khách hàng.

Anh Thanh Phong cho biết: “Sau 4 năm trồng, cây đã cho ra trái chiến (vụ cho ra trái đầu tiên của cây) vượt mong muốn, đó là cơm dày màu vàng sậm, tỷ lệ hạt lép từ 80% trở lên, khá béo, rất ngọt, khi ấn vào cơm sầu riêng thì lõm xuống, không dễ rách múi; đặc biệt trái càng chín thì cơm sầu riêng sáp Tiểu Long càng dẻo gần giống sáp nên tôi đặt tên là sáp Tiểu Long”.

Chỉ trong thời gian ngắn, sầu riêng sáp Tiểu Long của anh Thanh Phong được nhiều người biết đến. Ngày 24-5-2024, chúng tôi đến tìm hiểu sầu riêng sáp Tiểu Long, cùng lúc có anh Võ Văn Phong - khách hàng ở tỉnh Bình Phước. Anh Võ Văn Phong hay: “Được tin anh Nguyễn Thanh Phong ở huyện Chợ Lách có trồng sầu riêng sáp Tiểu Long, tôi đến tìm hiểu để mua 600 cây về trồng trên diện tích 3ha tại Bình Phước”.

Anh Thanh Phong cho biết thêm: “Sau 5 năm có 1 cây tôi để làm cây đầu dòng. Nhân giống ra tiếp trồng thêm 7 cây cách nay 4 năm và hiện đang cho trái chiến. Sầu riêng sáp Tiểu Long có sức đề kháng và chịu khí hậu nắng nóng khá tốt. Tỷ lệ đậu trái cao, cây cao 4m đã cho ra khoảng 10 trái chiếng. Mỗi trái khi thu hoạch nặng từ 2 - 3kg. Sầu riêng sáp Tiểu Long có tên khoa học: Durio zibethinus. Tháng 2-2024, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cấp giấy công nhận cây đầu dòng sầu riêng sáp Tiểu Long cho anh Nguyễn Thanh Phong để nhân giống xuất ra thị trường. Năm 2024, có 400 mắt ghép/cây/năm và những năm tiếp theo số lượng mắt ghép lên khoảng 500 mắt ghép/cây/năm. Anh Thanh Phong đã sản xuất khoảng 2.000 cây sầu riêng sáp Tiểu Long đạt yêu cầu để phục vụ thị trường trong và ngoài tỉnh.

Tiến sĩ Bùi Thanh Liêm - Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Chợ Lách cho biết: Sau 5 năm, anh Nguyễn Thanh Phong trồng sầu riêng sáp Tiểu Long, tôi bắt đầu theo dõi sầu riêng giống mới này. Cây rất dễ nhận diện vì lá nhỏ hơn so với các giống sầu riêng trước đây, cây sớm ra hoa, dễ đậu trái, chùm bông cho ra trái có kích cỡ gần như nhau. Tuy là trái chiếng nhưng tỷ lệ cơm khá dày, tỷ lệ hạt lép khá cao và đặc biệt là cơm sáp (dẻo), trong khi: Ri6, Monthong, Musang King… không có đặc tính sáp. Sáp Tiểu Long càng chín càng ráo cơm, còn các giống sầu riêng khác càng chín càng nhão. Giống sầu riêng này có độ Brix 39 (tức là độ ngọt khá cao). Với trọng lượng vừa phải, sầu riêng sáp Tiểu Long thích hợp để xuất khẩu.

“Anh Nguyễn Thanh Phong là một nông dân năng động, có tầm nhìn xa trong việc phát triển giống mới để nâng cao chất lượng trái sầu riêng ở Chợ Lách. Tinh thần cầu tiến của anh Nguyễn Thanh Phong trong việc phát triển, lai tạo, làm phong phú giống sầu riêng ở Chợ Lách rất đáng được biểu dương và khen thưởng”. (Chủ tịch UBND huyện Chợ Lách Nguyễn Anh Linh)

Bài, ảnh: Hoàng Vũ

 

Đồng Tháp: Huyện Thanh Bình đăng ký nhãn hiệu ‘Xoài Cù Lao Tây’

 

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Tháp

Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp chấp thuận cho Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện Thanh Bình sử dụng tên địa danh “Cù Lao Tây” để đăng ký bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận “Xoài Cù Lao Tây”, đồng thời, phê duyệt Bản đồ khu vực địa lý để đăng ký xác lập quyền đối với nhãn hiệu chứng nhận “Xoài Cù Lao Tây”.

 

 

Bản đồ khu vực địa lý sử dụng nhãn hiệu chứng nhận “Xoài Cù Lao Tây”

Uỷ ban nhân dân tỉnh giao Sở Khoa học và Công nghệ hỗ trợ Ủy ban nhân dân huyện Thanh Bình, Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện Thanh Bình thực hiện đăng ký và báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh về kết quả đăng ký nhãn hiệu chứng nhận “Xoài Cù Lao Tây”.

Ngoài ra, Uỷ ban nhân dân tỉnh giao Ủy ban nhân dân huyện Thanh Bình chỉ đạo Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện Thanh Bình chủ trì, phối hợp cơ quan, đơn vị liên quan thực hiện có hiệu quả công tác quản lý và phát triển nhãn hiệu sau khi đăng ký xác lập quyền thành công.

Huyện Thanh Bình hiện có 2.378 ha xoài, sản lượng ước đạt 128.412 tấn/năm, trong đó có hơn 173 ha được chứng nhận VietGAP; có 36 mã vùng trồng xoài được cấp để phục vụ xuất khẩu và nội địa, với diện tích hơn 1.266 ha.

Việt Tiến

 

Đồng Nai: Vùng đặc sản dâu An Phước vào mùa trái ngọt

 

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai

Hiện vùng đặc sản dâu An Phước tại xã An Phước, huyện Long Thành (Đồng Nai) đang vào mùa thu hoạch. Dâu An Phước là đặc sản nổi tiếng xa gần về chất lượng ngon. Đây cũng là cây trồng chủ lực đang mang lại giá trị kinh tế cho nông dân tại địa phương.

Nông dân trồng dâu da nói riêng, trồng các loại đặc sản trái cây ngon tại địa phương này đã liên kết lại, thành lập Hợp tác xã (HTX) nông nghiệp VAC sinh thái trái cây Long Thành. Vùng đặc sản này cũng đang chuyển đổi sang sản xuất theo hướng hữu cơ, gắn với du lịch vườn nhằm tăng giá trị kinh tế cho vùng đặc sản trái cây ngon đã có tiếng thơm trên thị trường.

 

 

Cây dâu da tại xã An Phước, huyện Long Thành cho năng suất cao, chất lượng ngon

Tăng giá trị cho trái đặc sản

Xã An Phước ở vùng đất thấp, được thủy triều từ các nhánh sông, kênh rạch bồi đắp cho đất đai màu mỡ. Mấy mươi năm trước, vùng đất này chủ yếu trồng các loại đặc sản sầu riêng, chôm chôm, mít tố nữ, măng cụt… Khi các vườn cây ăn trái già cỗi, suy kiệt dần vì dịch bệnh, năng suất kém, chất lượng trái không còn ngon, nhiều gia đình chuyển sang trồng dâu. Giống dâu trồng ở An Phước chủ yếu là dâu xiêm.

Để có giống dâu chất lượng ngon như bây giờ là cả quá trình lai ghép. Các nhà vườn chọn giống bằng cách tuyển những cây ngon nhất trong vườn, trái to, ngọt, chuỗi trái dày, năng suất cao để nhân giống. Nhiều nhà vườn mất nhiều năm trời trồng thử nghiệm, tuyển lựa, chặt bỏ những cây chất lượng kém mới ra được vườn dâu ngon như bây giờ. Khoảng 30 năm trở lại đây, dâu da mới thành cây trồng chủ lực, mang lại nguồn thu nhập chính cho nông dân trong vùng. Thời hoàng kim của cây trồng này, diện tích dâu da phát triển đến vài trăm hecta. Qua thời gian, diện tích cây trồng này bị thu hẹp dần nhưng đây vẫn là vùng trồng dâu lớn nhất tỉnh.

Theo những nông dân trồng dâu da lâu năm tại xã An Phước, trong vườn của họ hiện có những cây dâu da hàng chục năm tuổi. Những gốc dâu lão này vừa rất sai trái vừa cho chất lượng trái ngon. Nhờ chất lượng cao nên đây là loại trái cây đặc sản luôn được địa phương chọn là sản phẩm đặc trưng của Long Thành tham gia trưng bày, giới thiệu tại lễ hội tôn vinh trái cây Đồng Nai được tổ chức thường niên vào vụ trái cây hè.

Mùa thu hoạch của dâu da An Phước thường bắt đầu từ tháng tư, rộ vụ vào tháng 6, tháng 7 âm lịch. Để tăng giá trị cho cây đặc sản này, vài năm trở lại đây, một số nông dân giàu kinh nghiệm có kỹ thuật chăm sóc để cây trồng này cho thu hoạch sớm, bán được với giá cao. Ông Huỳnh Văn Sơn là một trong những nông dân trồng dâu da lâu năm tại xã An Phước chia sẻ, vườn dâu của ông cho thu hoạch sớm từ Tết Nguyên đán nên bán được với giá từ 40-45 ngàn đồng/kg, cao gấp đôi, gấp ba so với khi rộ vụ. Để cây trồng này cho thu hoạch sớm và kéo dài vụ, ngay sau khi kết thúc vụ thu hoạch năm trước, ông đã chủ động tỉa cành, nhánh cho cây, bón phân chuồng và xử lý ngắt nước sớm hơn so với bình thường để thúc cây ra hoa sớm. Với kỹ thuật xử lý cho dâu ra hoa sớm, mùa thu hoạch của cây trồng này có thể kéo dài khoảng 7 tháng/năm, bắt đầu cho thu hoạch từ tháng giêng đến tháng 7 âm lịch.

Xây dựng chuỗi liên kết

Theo đại diện Phòng Kinh tế huyện Long Thành, dâu da hiện là cây trồng chủ lực, mang lại nguồn thu nhập chính cho nhiều nhà vườn tại địa phương. Đây cũng là đặc sản có thương hiệu nên huyện đang khuyến khích nông dân giữ và nhân rộng diện tích cây trồng này. Địa phương đang hỗ trợ cho HTX sản xuất theo hướng hữu cơ, xây dựng thương hiệu vùng đặc sản trái ngon, trái sạch gắn với phát triển du lịch vườn để tăng thêm thu nhập cho nông dân trồng. Địa phương khuyến khích, hỗ trợ nông dân xây dựng những vườn mẫu sạch, đẹp. Các tuyến đường xã, xóm, ấp cũng được quan tâm chỉnh trang, xây dựng đường kiểu mẫu sáng, xanh, sạch, đẹp về tận nhà vườn để thu hút du khách về thăm, thưởng thức đặc sản sạch ngay tại vườn trồng.

Ông Nguyễn Hữu Trí, Giám đốc HTX nông nghiệp VAC sinh thái trái cây Long Thành chia sẻ, HTX được thành lập với mục đích nhằm giữ gìn và khôi phục lại diện tích những cây ăn trái, đặc biệt là cây dâu da, một đặc sản không đụng hàng của địa phương. HTX đang ứng dụng lợi khuẩn Probiotic (IMO) và nấm men rượu (MEVI) làm ra phân bón hữu cơ cung cấp với giá rẻ cho nông dân. Các xã viên cũng cũng tích cực chuyển đổi theo hướng sản xuất hữu cơ, sản xuất an toàn, bền vững. Định hướng của HTX là phát triển vùng đặc sản gắn với khai thác du lịch vườn để tăng thêm thu nhập cho nông dân.

Song Lê

 

Bắc Giang bước vào thu hoạch trà vải sớm

 

Nguồn tin: Báo Chính Phủ

Là một trong những vùng trồng vải chủ lực của tỉnh Bắc Giang, trà vải chín sớm trên địa bàn huyện Tân Yên đã bắt đầu thu hoạch. Theo dự kiến huyện Tân Yên sẽ tiêu thụ tại thị trường trong nước khoảng 7.800 tấn vải và 7.700 tấn tiêu thụ thị trường ngoài nước.

 

 

Vải chín sớm của huyện Tân Yên đã bắt đầu vào mùa thu hoạch - Ảnh: VGP/TT

Năm 2024, huyện Tân Yên có 1.420 ha vải thiều, sản lượng ước khoảng 15.500 tấn, thời gian thu hoạch từ ngày 22/5 đến ngày 20/6.

Bên cạnh vùng trồng vải VietGAP 900 ha, đảm bảo an toàn thực phẩm, huyện Tân Yên cũng đã mở rộng thêm 2 vùng sản xuất vải thiều sớm đạt tiêu chuẩn GlobalGAP, với diện tích 21,6 ha để phục vụ cho xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, Mỹ, EU. Dự kiến sản lượng vải thiều đạt tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP khoảng 5.550 tấn.

Năm 2024, huyện Tân Yên dự kiến sẽ có khoảng 7.800 tấn vải tiêu thụ ở trong nước và 7.700 tấn tiêu thụ thị trường ngoài nước.

Giá vải hiện dao động từ 35 - 40 nghìn đồng/kg, trong đó có những vườn vải đẹp giá thu mua tại vườn là 50 nghìn đồng/kg, như vậy là được giá và thực tế tình hình tiêu thụ rất thuận lợi.

Xã Phúc Hòa, huyện Tân Yên là vùng trồng vải sớm của huyện. Xã có hơn 700 ha vải, trong đó trên 400 ha vải sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, 10 ha sản xuất theo tiêu chuẩn GlobalGAP. Năm nay, sản lượng vải thiều sớm của xã ước đạt hơn 10.000 tấn.

Bên cạnh đó, năm 2024, xã Phúc Hòa đã mở rộng thêm 2 vùng sản xuất vải sớm đạt tiêu chuẩn chất lượng, áp dụng công nghệ khoa học trong sản xuất, sơ chế, đóng gói, bảo quản… để đáp ứng yêu cầu tiêu thụ trong nước và cho xuất khẩu.

Theo lãnh đạo HTX sản xuất và tiêu thụ vải sớm Phúc Hòa, vải sớm của huyện Tân Yên được người tiêu dùng đánh giá cao vì chất lượng thơm ngon và mẫu mã đẹp. Ngay từ đầu tháng 4, các doanh nghiệp, HTX xuất khẩu, tiêu thụ vải đã đến huyện Tân Yên khảo sát từ sớm.

Theo Phó Chủ tịch UBND huyện Tân Yên Ngô Quốc Hưng, thời gian qua, để thúc đẩy phát triển vùng trồng vải, huyện Tân Yên luôn quan tâm chỉ đạo sản xuất, đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi tốt nhất cho bà con nông dân sản xuất cũng như đối với các doanh nghiệp hay thương nhân đến thu hoạch.

Huyện đã chỉ đạo các phòng chuyên môn quản lý, kiểm soát, giám sát chặt chẽ 27 mã vùng trồng vải thiều phục vụ xuất khẩu sang thị trường: Trung Quốc, Nhật Bản, Australia, Mỹ, Thái Lan...

Để phát triển và mở rộng vùng trồng vải cũng như nâng cao chất lượng, thị trường tiêu thụ, huyện rất cần sự quan tâm chỉ đạo, ủng hộ từ các bộ, ban, ngành và tỉnh Bắc Giang. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp, thương nhân, trung tâm thương mại, siêu thị, chợ đầu mối ký hợp đồng liên kết với các doanh nghiệp, hợp tác xã, nhóm hộ sản xuất, bao tiêu sản phẩm, tạo chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ.

Huyện cũng đẩy mạnh việc phối hợp với các hộ gia đình trong vùng cùng tham gia vào chuỗi phát triển du lịch của địa phương, xây dựng các tour du lịch, đưa khách đến địa phương khám phá, trải nghiệm các sản phẩm chủ lực đặc trưng của huyện, từ đó góp phần nâng cao giá trị, thu nhập cho bà con nông dân.

Thiện Tâm

 

Nhiều lợi ích từ canh tác hữu cơ thuận tự nhiên

 

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Có cơ duyên được làm việc hơn hai năm tại Công ty TNHH Liên kết nông dân (phường Tân Hòa, TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk), anh Thế Hạnh (35 tuổi, xã Cư Êbua, TP. Buôn Ma Thuột) đã được học hỏi và trang bị nhiều kiến thức, kinh nghiệm về việc phát triển nông nghiệp sạch, bền vững và đặt cả tâm huyết vào việc khởi nghiệp trồng rau, củ quả hữu cơ.

Đến nay, anh Hạnh đã phát triển được một nông trại rộng khoảng 4 ha với hơn 40 loại rau, củ quả canh tác hữu cơ.

Theo anh, nông nghiệp bền vững phải vừa đáp ứng được nhu cầu lương thực vừa đảm bảo về môi trường sinh thái, môi trường làm việc cho mọi người.

"Để giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi trường, tôi áp dụng các hình thức canh tác thông minh, tái chế phế phẩm, chất thải và phát triển nguyên tắc "5 không" là không sử dụng thuốc diệt cỏ, không phân bón hóa học, không thuốc bảo vệ thực vật hóa học, không thuốc kích thích tăng trưởng, không giống biến đổi và bảo vệ thiên địch. Để phát triển một môi trường nông trại có hệ vi sinh ổn định, hơn 7 năm qua, tôi luôn chú trọng việc cải tạo đất", anh Hạnh chia sẻ.

 

 

Anh Nguyễn Thế Hạnh tự ủ phân hữu cơ từ vỏ và ruột dưa hấu để thay thế cho phân bón hóa học.

Nông trại của anh Hạnh hiện đang trồng hai loại dưa để thu trái và thu hạt, vì vậy sau khi thu thành phẩm, sẽ có một lượng lớn vỏ và ruột quả không được sử dụng. Vỏ dưa hấu được anh Hạnh tận dụng làm phân ủ với hàm lượng chất dinh dưỡng cao và đa dạng, sử dụng cho cây trồng để bổ sung thêm nguồn phân hữu cơ cho nông trại. Anh cho hay, vỏ dưa hấu trộn đều với phân gà và cám gạo đã được ủ với men rượu (cám gạo ủ bocaxi) theo tỷ lệ 6/3/1, đậy bạt ủ khoảng 40 ngày là có thể sử dụng. Trong quá trình ủ tiến hành đảo hai lần cách nhau 10 ngày để thúc đẩy quá trình phân hủy diễn ra nhanh và tơi xốp hơn. Sau đó có thể lấy phân ủ để bón cho rau trong cả hai giai đoạn bón lót và bón thúc giúp cây phát triển tốt hơn.

Bên cạnh đó, anh Hạnh luôn chú trọng việc lựa chọn các giống rau và cách xử lý sâu bệnh hại trong vườn. Toàn bộ giống được sử dụng tại nông trại đều là loại giống địa phương có tính thích nghi và chống chọi với điều kiện tự nhiên của vùng, hoặc các giống không biến đổi gen được nhập từ Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc)... Cùng với đó, toàn bộ các công đoạn làm cỏ, bắt sâu, chăm sóc rau đều được công nhân thực hiện thủ công. Anh lựa chọn phương pháp quản lý tổng hợp như quản lý ngay từ hạt giống, mùa vụ thích hợp, thời gian canh tác, thời gian thu hoạch, kết hợp tạo môi trường thích hợp cho thiên địch phát triển, dùng các dòng vi khuẩn và vi nấm đối kháng để kiểm soát sâu bệnh.

Năm 2022, nông trại của anh Hạnh trở thành nông trại đầu tiên trên địa bàn TP. Buôn Ma Thuột đạt Chứng nhận Mô hình sản xuất rau theo tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam. Mỗi ngày, nông trại thu hoạch và xuất bán hơn 200 kg nông sản cho các cửa hàng thực phẩm sạch, siêu thị trong và ngoài tỉnh. Chị Trần Ngọc Đan Thùy, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Thực phẩm sạch Buôn Ma Thuột (phường Thành Công, TP. Buôn Ma Thuột) đánh giá: “Hiện nay, người tiêu dùng hiểu biết nhiều hơn về lợi ích của việc sử dụng các sản phẩm hữu cơ và những tác động tích cực đối với môi trường khi canh tác nông nghiệp theo phương pháp này. Chính vì vậy, các loại rau, củ hữu cơ từ nông trại của anh Hạnh được khá nhiều khách hàng yêu thích và đang có mức tiêu thụ khá ổn định”.

Do canh tác hữu cơ thuận tự nhiên, các sản phẩm của nông trại chịu tác động rất lớn từ các yếu tố tự nhiên như khí hậu, thời tiết... cho nên sản lượng sẽ thấp hơn so với canh tác truyền thống, tuy nhiên việc tiêu thụ các loại nông sản này khá thuận lợi, giá bán ra thị trường khoảng từ 40 - 60 nghìn đồng/kg tùy loại rau, cao gấp khoảng hai lần trở lên so với nông sản cùng loại bán ở chợ. Nông trại của anh Hạnh hiện tạo việc làm ổn định cho 10 nhân công tại địa phương.

Thu Thảo

 

Làm giàu từ sản xuất meo nấm rơm

 

Nguồn tin: Báo Long An

Tiếp quản nghề truyền thống của gia đình, anh Nguyễn Cao Đỉnh (SN 1972, ngụ ấp Chánh, xã Long Hiệp, huyện Bến Lức, tỉnh Long An) dốc tâm nghiên cứu sản xuất meo nấm rơm chất lượng. Hiện cơ sở có khả năng cung cấp ra thị trường từ 8.000-10.000 bịch meo nấm rơm mỗi ngày.

 

 

Mỗi ngày, cơ sở sản xuất meo nấm rơm của anh Nguyễn Cao Đỉnh (xã Long Hiệp, huyện Bến Lức) bán từ 8.000-10.000 bịch meo nấm

Với mong muốn đưa thương hiệu meo nấm rơm của gia đình vươn ra thị trường các tỉnh, thành phố, năm 2000, anh Nguyễn Cao Đỉnh bắt tay nghiên cứu công nghệ sản xuất meo nấm có chất lượng và phù hợp với thổ nhưỡng, điều kiện khí hậu vùng, miền. Anh đi nhiều nơi để học tập kinh nghiệm, đăng ký tham gia các lớp dạy nghề làm meo nấm rơm, mua thêm sách kỹ thuật nông nghiệp, vừa làm, vừa nghiên cứu để đúc rút kinh nghiệm.

Khi có meo giống chất lượng, anh Đỉnh đầu tư hơn 300 triệu đồng để mua các thiết bị, máy móc chuyên dụng cho dây chuyền sản xuất meo như máy cắt rơm, máy đóng bao, lò hấp, hồ ngâm rơm, phòng nuôi cấy meo,... Nhờ đó, thương hiệu meo nấm rơm “Cô Mai - Thủ Đức” của gia đình anh Đỉnh từng bước lan rộng. Từ chỉ cung cấp tại địa phương, hiện sản phẩm có mặt tại nhiều tỉnh như Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Đồng Nai, Bình Phước, Bình Dương, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long,...

Anh Đỉnh cho biết: “Nhờ meo nấm rơm của gia đình có chất lượng cao nên sức tiêu thụ mạnh, sản xuất đến đâu tiêu thụ đến đó. Hiện meo nấm rơm của gia đình không chỉ được cung cấp cho người trồng nấm tại địa phương mà còn tiêu thụ mạnh ở các tỉnh, thành phố khác”.

Với diện tích khoảng 5.000m2, hiện công suất của Cơ sở sản xuất meo nấm rơm Cô Mai - Thủ Đức đạt từ 8.000-10.000 bịch/ngày, thậm chí lúc cao điểm lên đến 13.000 bịch/ngày. Để đáp ứng nhu cầu sản xuất, anh Đỉnh thuê khoảng 30 lao động, bình quân thu nhập từ 7-9 triệu đồng/tháng/người. Với giá bán 3.700 đồng/bịch, sau khi trừ tất cả chi phí, gia đình anh Đỉnh có lợi nhuận hơn 30 triệu đồng/tháng.

Chị Trần Thị Mai làm công đoạn đóng gói bịch meo nấm rơm ở cơ sở, cho biết: “Công việc cũng nhẹ nhàng nhưng đòi hỏi phải khéo léo. Nhân công ở đây làm theo dây chuyền, hưởng công tùy số lượng sản phẩm nên cảm thấy rất thoải mái. Làm bao nhiêu nhận tiền bấy nhiêu. Ở vùng quê này mà có việc làm với thu nhập đều đặn khoảng 7 triệu đồng/tháng là rất ổn, vì thế nên tôi làm ở đây được 17 năm”.

Nhờ nhanh nhạy trong sản xuất, biết học tập và mạnh dạn ứng dụng khoa học - kỹ thuật nên gia đình anh Nguyễn Cao Đỉnh đạt hiệu quả kinh tế. Anh là một trong những nông dân tiêu biểu được địa phương tuyên dương./.

Việt Hằng - Kim Phượng

 

Cấp bách ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu

 

Nguồn tin:  Báo Hậu Giang

Vùng đồng bằng sông Cửu Long được mệnh danh là vựa lương thực, thực phẩm của cả nước và là một trong những nguồn cung ứng thực phẩm chính cho toàn cầu. Tuy nhiên, tình trạng hạn hán, sạt lở đất, xâm nhập mặn gia tăng trong các năm gần đây đã tác động rất lớn đến sản xuất, sinh hoạt của người dân trong vùng.

 

 

ĐBSCL đóng góp rất lớn vào lượng lúa gạo xuất khẩu của Việt Nam.

Vùng sản xuất trọng điểm

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (BNN&PTNT), tính đến nay diện tích sản xuất lúa vùng ĐBSCL ước đạt 3,9 triệu héc-ta và cung ứng khoảng hơn 23 triệu tấn lúa/năm. Còn về cây ăn trái, ước sản lượng các loại cây ăn trái chính như xoài, chuối, thanh long, khóm, cam, quýt, bưởi, nhãn, chôm chôm, sầu riêng, mít… toàn vùng đạt gần 5,5 triệu tấn/năm. Tính chung đến nay, vùng ĐBSCL đang đóng góp khoảng hơn 31% GDP toàn ngành nông nghiệp với khoảng 50% sản lượng lúa, 95% lượng gạo xuất khẩu, 65% sản lượng thủy sản nuôi trồng, 60% lượng cá xuất khẩu và xấp xỉ 70% trái cây các loại…

Thống kê của Bộ Công thương cho thấy, nông sản, thực phẩm Việt Nam đã hiện diện tại 190 quốc gia. Rất nhiều nhóm ngành hàng đã vượt mốc kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỉ USD như nhóm hàng rau quả, gạo, hạt điều, cà phê, tôm… và dự kiến còn tăng trưởng mạnh trong thời gian tới. Riêng mặt hàng gạo, năm 2023, sản phẩm gạo Việt Nam đã có mặt tại 27 quốc gia và vùng lãnh thổ. Gạo Việt Nam đã thiết lập kỷ lục mới khi sản lượng xuất khẩu đạt hơn 8,3 triệu tấn, kim ngạch đạt 4,7 tỉ USD, tăng 35,5% so với năm 2022. Thị trường xuất khẩu chủ lực lớn nhất là khu vực châu Á với hơn 6 triệu tấn gạo, kế đến là thị trường châu Phi 1,34 triệu tấn và châu Âu 132.000 tấn… Cũng theo Bộ Công thương, kim ngạch xuất khẩu gạo 4 tháng đầu năm nay đã đạt 3,23 triệu tấn, tăng 36,5% so với cùng kỳ năm trước. Giá xuất khẩu khẩu gạo bình quân đạt 644 USD/tấn, tăng 22,2%. Năm 2024, ước tính tổng lượng gạo xuất khẩu cả nước vẫn sẽ duy trì mức trên 8 triệu tấn, trong đó riêng vùng ĐBSCL đóng góp là 7,6 triệu tấn gạo.

Không dừng lại đó, những tháng đầu năm nay, Việt Nam đã bổ sung vào giỏ thực phẩm toàn cầu lượng lớn nhóm hàng hóa là tôm, cá tra, cá ngừ, bạch tuộc, cua ghẹ và giáp sát, thủy hải sản khác tương ứng giá trị 2 tỉ USD. Trong đó, nhiều nhất là sản phẩm cá tra với giá trị 411 triệu USD. Anh là thị trường có tỷ lệ kim ngạch nhập khẩu cá tra lớn nhất với 12 triệu USD, sang UAE hơn 7 triệu USD và sang Canada hơn 8 triệu USD… Riêng với sản phẩm tôm, kim ngạch xuất khẩu những tháng qua cũng đạt 686 triệu USD. 5 thị trường có kim ngạch nhập khẩu tôm lớn nhất của Việt Nam là Hoa Kỳ, Nhật Bản, châu Âu, Hàn Quốc và Úc. Các địa phương có sản lượng nuôi trồng thủy hải sản cung ứng cho thị trường toàn cầu nhiều nhất tập trung tại vùng ĐBSCL là Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Kiên Giang.

Hệ lụy từ biến đổi khí hậu

Là vùng trọng yếu về an ninh lương thực của quốc gia, nhưng ĐBSCL lại là khu vực rất dễ tổn thương trước tác động của biến đổi khí hậu. Ảnh hưởng của hạn hán, xâm nhập mặn, nguồn nước ngầm suy giảm, cộng với việc nhiều công trình thủy điện hình thành ở thượng nguồn sông Mekong… khiến cho miền Tây đang phải đối mặt với sụt lún, sạt lở đất; thiếu nước sản xuất, sinh hoạt… rất nghiêm trọng. Cả vùng hiện có hơn 800 khu vực sạt lở với tổng chiều dài hơn 1.000km; trung bình mỗi năm mất từ 300-500ha đất do lở bờ sông, bờ biển. Tính riêng tỉnh Cà Mau, từ năm 2011 đến nay đã có hơn 350km bờ biển bị sạt lở, làm mất hơn 5.300ha đất sản xuất, đất ở và rừng ngập mặn. Từ đầu mùa khô năm 2024 đến nay, hạn hán và xâm nhập mặn đã làm hơn 50.000 hộ dân ở ĐBSCL bị thiếu nước sinh hoạt; gần 1.000 tuyến đường, bờ kênh, nhà ở, kho xưởng, cầu giao thông bị hư hỏng, đổ sập do sụt lún, sạt lở; hàng ngàn héc-ta rau màu bị thiếu nước tưới, chết khô; hàng trăm héc-ta rừng bị cháy rụi…

Còn tại tỉnh Hậu Giang, tính từ đầu năm đến nay, đã xảy ra 13 điểm sạt lở đất bờ kênh, với tổng chiều dài 370m, diện tích mất đất hơn 1.700m2; ước thiệt hại 2,267 tỉ đồng. Các điểm sạt lở tập trung chủ yếu ở thành phố Ngã Bảy và huyện Châu Thành, Phụng Hiệp. Nguyên nhân sạt lở chủ yếu là do ảnh hưởng dòng chảy.

Những con số trên cho thấy, hậu quả và hệ lụy của biến đổi khí hậu là rất nặng nề, tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Không chỉ gây thiệt hại lớn về tài sản, kinh tế mà còn đe dọa đến sự an toàn, tính mạng của hàng triệu người dân miền Tây; về lâu dài, nguy cơ mất an ninh lương thực quốc gia và toàn cầu là rất lớn. Theo dự báo, mức độ tác động và những con số thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra với ĐBSCL sẽ còn tăng lên khủng khiếp trong tương lai, nếu ngay lúc này không có các giải pháp căn cơ, cấp thiết.

Ông Nguyễn Văn Hiếu, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Cần Thơ khẳng định, thấy rõ vai trò quan trọng của đồng bằng sông Cửu Long, thời gian qua, Chính phủ và các bộ ngành đã dành sự quan tâm lớn, có nhiều chủ trương, chính sách để tháo gỡ khó khăn và phát huy thế mạnh, tiềm năng của vùng. Trong đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 120 vào năm 2017 về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Việc triển khai thực hiện nghị quyết này trong những năm qua đã và đang mang lại nhiều kết quả tích cực, góp phần hóa giải được nhiều thách thức trong sản xuất nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế nói chung.

Tuy nhiên, biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, nước biển dâng, nguồn nước ngầm suy giảm và sự hình thành nhiều đập thủy điện ở khu vực thượng nguồn sông Mekong khiến vùng ĐBSCL đối mặt với sụp lún, sạt lở đất, hạn hán, xâm nhập mặn, thiếu nước sản xuất, nước sinh hoạt… ngày càng nghiêm trọng. Đáng lo ngại hơn, sản lượng lương thực của vùng đang có chiều hướng suy giảm, sẽ ảnh hưởng đến an ninh lương thực quốc gia. Trong tương lai, vùng ĐBSCL có nguy cơ chìm dưới mực nước biển… Thực tế trên đặt ra yêu cầu, ngay lúc này cần phải có giải pháp cấp bách, căn cơ, kịp thời để ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.

Ông Phạm Văn Sỹ, Cục Biến đổi Khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường, cho biết thời gian qua, bộ đã xây dựng được các chính sách liên quan đến ứng phó biến đổi khí hậu. Trong đó, với vùng ĐBSCL sẽ có các hoạt động như điều tra đánh giá các nguồn nước dưới đất, phát triển các trung tâm về nông nghiệp, phát triển vùng nguyên liệu hướng đến phát triển bền vững, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp; xây dựng các công trình giao thông đường bộ, đường thủy, chú trọng các khu vực dễ bị tổn thương. Bộ cũng ban hành các thông tư hướng dẫn các vùng dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu; lồng ghép các nội dung ứng phó biến đổi khí hậu vào chiến lược, quy hoạch phát triển… Vì vậy, một số giải pháp được đề xuất như cần xây dựng chiến lược tổng thể, bảo vệ sử dụng bền vững các nguồn nước ở ĐBSCL; giảm tình trạng sụt lún do khai thác nước ngầm. Bởi sụt lún làm gia tăng tác động của nước biển dâng. Ngoài ra, xây dựng hệ thống công trình trữ nước trong mùa mưa để sử dụng trong mùa khô; hoàn thiện hệ thống đê bao ngăn mặn; chuyển đổi phát triển nông nghiệp bền vững; xây dựng các tuyến dân cư, nhà ở để chủ động hỗ trợ người dân trong các trường hợp cần thiết.

PGS-TS Lê Anh Tuấn, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu, Trường đại học Cần Thơ, cho rằng khô hạn và xâm nhập mặn là hiện tượng bình thường hàng năm ở vùng ven biển ĐBSCL. Tuy nhiên, trong hơn 2 thập niên qua, hiện tượng này có xu thế gia tăng, có năm trở nên cực đoan, gây nhiều khó khăn cho sản xuất và sinh kế cộng đồng. Hiện nay, vùng ĐBSCL tạm phân chia thành 3 vùng sinh thái nước. Vùng phù sa nước ngọt phía trên thường ngập sâu trong mùa mưa lũ, đa phần đủ nước ngọt quanh năm, áp dụng canh tác lúa, cây ăn trái và nuôi cá; vùng chuyển tiếp ở giữa là nơi ngập nông trong mùa lũ, có một phần nước lợ vào mùa khô, tác động ngọt - mặn theo thủy triều, có thể canh tác lúa, nuôi tôm và cây ăn trái; đối với vùng ven biển cuối nguồn bị nhiễm mặn quanh năm và thiếu nước ngọt vào mùa khô, cần áp dụng canh tác thủy sản nước mặn… Từ các vùng sinh thái đặc thù đó, các địa phương cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu sản xuất phù hợp để thích ứng với hạn mặn và biến đổi khí hậu; cần đẩy mạnh các mô hình sản xuất thuận thiên để phát triển ĐBSCL bền vững…

Bài, ảnh: HOÀI THU

 

Đưa máy móc hiện đại vào sản xuất nông nghiệp

 

Nguồn tin:  Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Ngành nông nghiệp Bà Rịa-Vũng Tàu đã và đang triển khai nhiều chương trình hỗ trợ, đẩy mạnh việc đưa máy móc vào phục vụ sản xuất nông nghiệp. Nhờ đó, đã giúp bà con nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp tiết giảm chi phí đầu tư, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

 

 

Ông Vũ Ngọc Đăng (thứ hai từ trái vào), Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh tham quan mô hình nuôi hàu của HTX Thủy sản Như Ý Long Sơn.

Nâng cao giá trị sản phẩm

HTX Thủy sản Như Ý Long Sơn (TP.Vũng Tàu) vừa được Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh bàn giao, đưa vào hoạt động kho đông lạnh và hệ thống máy rửa hàu. Tổng kinh phí gần 14 tỷ đồng, trong đó vốn của HTX hơn 11 tỷ đồng, vốn ngân sách Nhà nước hỗ trợ hơn 2,5 tỷ đồng theo Quyết định số 3459/QĐ-UBND ngày 1/12/2023 của UBND tỉnh. Đây là mô hình liên kết điểm giữa HTX Thủy sản Như Ý Long Sơn với 17 hộ nông dân nuôi thủy sản trên sông Chà Và (diện tích lồng bè 15.835m2).

Ông Nguyễn Quý Trọng Bình, Giám đốc HTX Thủy sản Như Ý Long Sơn cho biết, việc áp dụng cơ giới hóa trong khâu sơ chế, chế biến sẽ giảm công sức lao động; vừa đảm bảo môi trường, vừa tạo ra sản phẩm hàu đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, nâng cao giá trị sản phẩm, tăng sức cạnh trạnh thương hiệu “Hàu Minh Anh” trên thị trường. Bên cạnh đó, với hệ thống máy móc tự động không những kích thích HTX mở rộng quy mô nuôi hàu, mà còn mở ra hướng kết hợp với hoạt động du lịch trải nghiệm, giới thiệu các món ăn từ hải sản đặc trưng của địa phương.

Tại xã Láng Lớn (huyện Châu Đức), Công ty TNHH Thương mại và Đầu tư Bơ Việt cũng vừa được ngành nông nghiệp tỉnh hỗ trợ một phần kinh phí trang bị hệ thống dây chuyền rửa, phân loại, đóng gói trái bơ với công suất từ 2 - 5 tấn/giờ. Tổng vốn đầu tư của dự án gần 10 tỷ đồng, trong đó vốn đối ứng của cơ sở chiếm khoảng 77% tổng vốn đầu tư dự án.

Hiện công ty đang canh tác 12,4ha bơ sáp Mã Dưỡng theo quy trình VietGAP, sản lượng đạt 40 tấn/năm, trong đó bơ loại 1 chiếm 67% phục vụ cho thị trường xuất khẩu. Công ty đang tạo việc làm thường xuyên cho 10 lao động, với mức thu nhập bình quân từ 8 triệu đồng/người/tháng.

Theo ông Nguyễn Đoàn Quốc Anh, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại và Đầu tư Bơ Việt, việc thực hiện các công đoạn từ sau thu hoạch đến thành phẩm thông qua hệ thống liên hoàn, khép kín giúp giảm chi phí rất nhiều. Khi sử dụng dây chuyền rửa phân loại, đóng gói, trung bình 1ha bơ cho lợi nhuận khoảng 270 triệu đồng.

Hỗ trợ đẩy mạnh cơ giới hóa nông nghiệp

Thực hiện Nghị quyết số 21 của HĐND tỉnh về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, đến nay Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh đã bàn giao các thiết bị, vật tư cho 9 dự án sản xuất trên địa bàn tỉnh.

Bên cạnh đó, UBND tỉnh cũng đã phê duyệt 7 dự án thực hiện mô hình cơ giới hóa nông nghiệp và ứng dụng công nghệ sau thu hoạch, lĩnh vực trồng trọt, tập trung chủ yếu tại các huyện Long Điền, Châu Đức và TX.Phú Mỹ.

Trưởng Phòng NN-PTNT huyện Châu Đức Đỗ Chí Khởi cho biết, có tiềm năng lợi thế về nguồn nước, thổ nhưỡng, thời gian qua huyện Châu Đức đã và đang dần hình thành các vùng sản xuất chuyên canh như hồ tiêu (xã Quảng Thành); sầu riêng, bơ (Láng Lớn, Xà Bang); thanh long (Sơn Bình); chuối (Kim Long); ca cao… với tổng diện tích khoảng 5.520ha cây ăn trái các loại.

“Nhằm thúc đẩy cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp, thời gian tới Phòng NN-PTNT tiếp tục tham mưu với UBND huyện, các sở, ngành của tỉnh phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật đồng bộ và tổ chức sản xuất nông nghiệp phù hợp máy móc, thiết bị cơ giới hóa; hỗ trợ xây dựng mã vùng trồng xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản địa phương”, ông Đỗ Chí Khởi cho biết thêm.

Theo Chi cục Phát triển nông thôn, ngoài hiệu quả kinh tế, cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp còn giải quyết bài toán nhân công khi lao động nông thôn trên địa bàn dịch chuyển đến các KCN trong và ngoài tỉnh. Thực hiện cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp còn nâng cao chất lượng lao động nông thôn, góp phần đảm bảo an ninh lương thực, nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, nguồn nước, lao động và nguồn vốn, nâng cao thu nhập và đời sống cho nông dân.

Bài, ảnh: ĐINH HÙNG

 

Vĩnh Long: Đẩy mạnh ứng dụng cơ giới hóa trong chăn nuôi

 

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

Thời gian qua, trong lĩnh vực chăn nuôi (CN), nhiều trang trại, gia trại, hộ CN ở các địa phương đã đẩy mạnh việc ứng dụng cơ giới hóa (CGH) vào CN, góp phần giải phóng sức lao động và nâng cao hiệu quả sản xuất.

 

 

Người chăn nuôi chủ động đầu tư, ứng dụng cơ giới hóa vào sản xuất.

Theo Sở Nông nghiệp-PTNT Vĩnh Long, trong thời gian qua, tỷ lệ CGH trong sản xuất nông nghiệp không ngừng tăng lên, góp phần nâng cao giá trị hàng hóa nông sản, thực phẩm và lợi nhuận trên một đơn vị diện tích canh tác.

Các địa phương đã tích cực vận động, khuyến khích nông dân đưa máy móc vào sản xuất trồng trọt, CN, thủy sản và thực hiện đồng bộ trên các lĩnh vực nhằm tiết kiệm sức lao động thủ công, giảm chi phí sản xuất, giải quyết một phần tình trạng thiếu hụt lao động và nâng cao thu nhập cho nông dân.

Trong đó, ngành CN đã mạnh dạn đầu tư ứng dụng CGH vào sản xuất, góp phần thúc đẩy ngành CN của tỉnh chuyển dịch từ nhỏ lẻ, phân tán sang sản xuất hàng hóa quy mô trang trại, gia trại theo hình thức công nghiệp.

Cụ thể, các hộ CN đã chủ động xây dựng hệ thống chuồng nuôi kín thay cho chuồng hở, lắp đặt hệ thống làm mát, hệ thống chống nóng để đảm bảo sức khỏe cho vật nuôi trong mùa nắng nóng.

Song song đó, một số hộ CN cũng đã đầu tư hệ thống phối trộn thức ăn, đã sử dụng các loại máy cắt cỏ, xắt cỏ, sử dụng thiết bị máng ăn máng uống tự động, bán tự động… mang lại hiệu quả kinh tế cao, không lãng phí nguyên liệu, tiết kiệm sức lao động.

Ứng dụng máy chế biến thức ăn từ phụ phẩm nông nghiệp trong CN bò, anh Hồ Chí Cường (xã Tân Hưng, huyện Bình Tân), chia sẻ: “Có máy chế biến thức ăn này tôi tận dụng được 100% từ cây bắp, dây khoai lang.

Nếu như trước đây băm thức ăn cho bò phải tốn 2-3 tiếng đồng hồ thì hiện nay 100kg chỉ mất khoảng 10 phút. Nhờ đó mà tiết kiệm được rất nhiều thời gian và công sức, đồng thời, do có trộn nhiều thành phần nên giúp bò dễ tiêu hóa, phát triển nhanh hơn, đạt chất lượng tốt hơn”.

Tại Vũng Liêm, theo bà Lê Ngọc Yến- Phó Phòng Nông nghiệp-PTNT huyện, phòng đã phối hợp tăng cường công tác tuyên truyền, vận động người dân áp dụng CGH, công nghệ cao, công nghệ tiên tiến vào trong lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực CN theo hướng an toàn sinh học, VietGAP, nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, giảm dịch bệnh.

Theo đó, trong năm qua, đã có nhiều mô hình CN áp dụng công nghệ cao, đưa CGH vào sản xuất. Cụ thể như, duy trì mô hình nuôi vịt sinh sản ở xã Hiếu Thành áp dụng kỹ thuật nuôi vịt đẻ trứng trên chuồng sàn; mô hình nuôi gà thịt ở xã Tân An Luông áp dụng quy trình nuôi khép kín, hệ thống điều hòa không khí, có hồ sơ môi trường theo quy định, hệ thống dây chuyền thức ăn, nước uống với quy mô CN 20.000-34.000 con/hộ/đợt nuôi; mô hình nuôi bò thịt kết hợp sinh sản ở xã Trung Nghĩa áp dụng kỹ thuật ủ rơm với urê, máy xắt cỏ, khẩu phần ăn của bò hàng ngày gồm có rơm ủ với urê, cỏ tươi kết hợp với thức ăn công nghiệp, mô hình này giúp giảm giá thành CN bò trong điều kiện thức ăn CN tăng.

Có thể khẳng định, việc thực hiện CGH vào CN đã làm thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp, thay thế phương pháp sản xuất thủ công bằng các tiến bộ khoa học, tăng năng suất lao động.

Tuy nhiên, việc ứng dụng CGH trong CN hiện nay vẫn còn gặp không ít khó khăn, hạn chế nên tỷ lệ còn thấp. Nguyên nhân do phương thức CN còn nhỏ lẻ, việc đưa CGH vào còn chậm, hiệu quả không cao…

Cụ thể, CN heo chưa hình thành theo quy mô công nghiệp với đầu tư trang thiết bị khép kín; CN bò còn nuôi theo kiểu chăn thả tự nhiên kết hợp đồng cỏ bổ sung thêm thức ăn.

Các công đoạn CGH CN như chế biến và cung cấp thức ăn còn thủ công. Các khâu vệ sinh chuồng trại, chế biến thức ăn, chế biến và giết mổ tập trung không được đầu tư; thịt được phân phối tươi theo hướng truyền thống mà chưa hình thành thị trường cung cấp công nghiệp…

Để đẩy mạnh ứng dụng CGH CN, ông Nguyễn Văn Liêm- Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp-PTNT cho biết: Ngành nông nghiệp sẽ tiếp tục phát triển CN trang trại, đặc biệt trang trại CN quy mô lớn theo nguyên tắc bảo đảm an toàn sinh học, kiểm soát dịch bệnh, bảo vệ môi trường, ổn định thị trường và giá cả sản phẩm CN trong nước.

Hướng dẫn người dân ứng dụng mô hình CN hữu cơ nhằm tạo sản phẩm chất lượng, an toàn, nâng cao giá trị sản phẩm CN.

Khuyến khích phát triển các hình thức liên kết CN theo chuỗi giá trị (CN gia công), ứng dụng quy trình CN tiên tiến, đảm bảo hài hòa giữa sản xuất CN và bảo vệ môi trường.

Phối hợp tốt, hỗ trợ kịp thời các doanh nghiệp đầu tư phát triển CN, tiêu thụ sản phẩm, tạo nền tảng phát triển chuỗi liên kết- tiêu thụ bền vững.

Theo kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển CGH nông nghiệp và chế biến nông- lâm- thủy sản đến năm 2030, mục tiêu cụ thể ứng dụng CGH nông nghiệp đối với từng lĩnh vực CN đến năm 2025: sản xuất CN gia súc, gia cầm có áp dụng CGH đạt trên 80% và đến năm 2030 CGH đồng bộ đạt trên 20%.

Bài, ảnh: NGUYÊN KHANG

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop