Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến. Ảnh: Lê Hồng Nhung - Mekong ASEAN
Ngày 3/4, chia sẻ với phóng viên bền lề Hội nghị Phòng chống dịch bệnh và phát triển chăn nuôi lợn, về việc Mỹ công bố áp mức thuế đối ứng 46% lên Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho rằng: "Nông sản Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp từ quyết định tăng thuế của Mỹ nhưng chúng ta sẽ phải dĩ bất biến, ứng vạn biến". Theo Thứ trưởng, từ trước đó, Việt Nam khi xuất khẩu nông sản vào thị trường Mỹ đã phải đối mặt với nhiều rào cản, thách thức như chống bán phá giá nhưng các doanh nghiệp đều vượt qua.
Trong bối cảnh trên, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, Việt Nam cần tập trung chỉ đạo sản xuất, hướng tới nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, từ đó đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn của thị trường Mỹ và tăng khả năng cạnh tranh với các thị trường khác.
Mặt khác, nông sản Việt Nam đã xuất khẩu sang 200 quốc gia, vùng lãnh thổ. Trong đó năm 2024 Việt Nam xuất khẩu nông sản sang Mỹ đạt 13,8 tỷ USD, Trung Quốc đạt 13,6 tỷ USD. Việt Nam còn xuất khẩu nông sản sang Nhật Bản (chiếm 6,7% tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng này ra thế giới), Hàn Quốc xấp xỉ 4,5%, Philippines đạt trên 5%...
Do đó, doanh nghiệp cần đẩy mạnh đa dạng hóa thị trường như mở rộng sang châu Âu hay Trung Quốc. Trung Quốc với quy mô 1,4 tỷ dân sẽ là thị trường để Việt Nam xuất khẩu nhiều mặt hàng thế mạnh trong thời gian tới, đặc biệt khi Việt Nam đã ký kết nhiều nghị định thư về nông sản với nước này như sầu riêng, cá sấu...
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng cho rằng, Việt Nam sẽ phải xem xét giải pháp, tổ chức thực hiện các ngành, lĩnh vực cụ thể như thế nào trong bối cảnh trên, để đạt được mục tiêu ngành nông nghiệp đã đề ra năm 2025.
Năm 2025, ngành nông nghiệp đặt mục tiêu tăng trưởng 4%. Hết quý 1/2025, ngành nông nghiệp dự kiến tăng trưởng đạt 3,69%. Năm nay, ngành nông nghiệp cũng đặt mục tiêu xuất khẩu mang về 64 - 65 tỷ USD, riêng quý 1/2025 ngành đã đạt khoảng 15,72 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước.
“Mỗi đối tượng có điểm nghẽn thì chúng ta phải khơi thông, trong đó tập trung vào nâng cao năng lực, chủ động hội nhập, đồng thời nâng cao sản lượng cũng như giá trị, từ đó góp phần vào mục tiêu xuất khẩu chung của ngành là 64 - 65 tỷ USD như đã đề ra,” Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.
Trước câu hỏi về phương án ứng phó đối với ngành thủy sản - ngành được cho là chịu tác động nặng nề khi Mỹ tăng thuế, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết, năm 2024 Việt Nam sản xuất được 1,3 triệu tấn tôm với kim ngạch xuất khẩu đạt 4,3 tỷ USD; cá tra cũng đạt sản lượng dẫn đầu thế giới với 1,65 triệu tấn, mang về hơn 2 tỷ USD giá trị xuất khẩu.
Chính vì vậy, Việt Nam cần làm mới động lực ngành tôm để tăng năng lực cạnh tranh với Ấn Độ, Ecuador; các sản phẩm tôm tiếp tục đảm bảo chất lượng, yêu cầu của thị trường Mỹ; các lô hàng xuất khẩu hạn chế tối thiểu hàm lượng kim loại, vi sinh vật để doanh nghiệp duy trì được thị trường.
Việt Nam cũng cần tập trung nâng cao chất lượng, năng suất nuôi tôm, đảm bảo con giống, đảm bảo tăng trưởng, giảm tiêu tốn thức ăn…. Với 740.000 ha nuôi tôm phải chuyển sang nuôi thâm canh, bởi nếu nuôi quảng canh chỉ đạt 6 tấn/ha, còn nuôi thâm canh sản lượng có thể đạt 60 tấn/ha.
Trong khi đó, cá tra tiếp tục phát huy các lợi thế đang có, đồng thời tập trung phát triển con giống. Mỗi năm, vùng ĐBSCL cần 4,5 tỷ con giống cá tra. Tuy nhiên, hiện nay, Việt Nam có 1.920 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống cá tra, trong đó chỉ có 2 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống bố mẹ; 76 cơ sở sản xuất giống thương phẩm, 1.842 cơ sở ương dưỡng cá tra giống (từ cá bột lên cá giống).
Vào ngày 2/4 theo giờ Washington, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã công bố các mức thuế đối ứng toàn cầu. Trong đó, Anh, Brazil, Singapore sẽ chịu 10% thuế. Liên minh châu Âu (EU), Malaysia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ chịu mức 20 - 26%. Trung Quốc và Việt Nam nằm trong nhóm các nước bị áp mức thuế cao nhất, lần lượt là 34% và 46%.
Tổng thống Donald Trump chia sẻ mức thuế trên vẫn có thể thay đổi trong tương lai. “Đây chưa phải là chính sách thuế đối ứng hoàn toàn”, ông phát biểu và khẳng định mức này có thể giảm xuống nếu các đối tác thương mại đáp ứng yêu cầu của Nhà Trắng.
'Dũng sĩ' bảo vệ cây trồng trước hạn, mặn
Huyện Kế Sách là một vùng ngọt của tỉnh Sóc Trăng. Tuy nhiên, từ năm 2016 đến nay tình trạng xâm nhập mặn diễn ra thường xuyên vào mùa khô, gây không ít thiệt hại cho nông dân. Nhưng cũng từ đây đã xuất hiện nhiều cách làm hay để giảm thiểu tác hại của hạn, mặn, nổi bật là tấm gương của ông Phạm Văn Hải, cộng tác viên nông nghiệp của xã Thới An Hội mà nông dân vẫn gọi vui là 'dũng sĩ' bảo vệ cây trồng trước hạn, mặn.
Năm 2025, ông Phạm Văn Hải bước sang tuổi 61. Trước khi công tác trong ngành nông nghiệp, ông từng là giáo viên từ năm 1984 -1992. Khi chuyển về làm ở ngành nông nghiệp, ông phụ trách nhiều mặt như: nông nghiệp, giao thông, thủy lợi, địa chính… Qua quá trình công tác, nhận thấy Thới An Hội là một xã thuần nông nhưng trình độ canh tác của người dân còn rất lạc hậu dẫn đến năng suất lúa thấp, đời sống nông dân gặp nhiều khó khăn nên năm 1996 ông đã tự bỏ tiền túi đăng ký học lớp Trung cấp thủy lợi để có thêm nhiều kiến thức nông nghiệp hỗ trợ nông dân trong sản xuất.
Ông Phạm Văn Hải đo độ mặn trên sông vào mùa khô. Ảnh: QUÁCH TẤN THUẦN
Bước ngoặt cuộc đời ông Hải được mở ra từ năm 2000 khi ông được dự án DANIDA của Đan Mạch chọn tham gia làm cộng tác viên trong chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây trồng. Trong quá trình tham gia dự án, ngoài việc được học tập kiến thức chuyên môn qua các lớp tập huấn, ông còn được tạo điều kiện đi học tập kinh nghiệm ở nhiều địa phương trong và ngoài tỉnh, nhờ vậy mà chuyên môn về nông nghiệp của ông ngày càng hoàn thiện, góp phần hỗ trợ nông dân địa phương giảm chi phí trong sản xuất, nâng cao năng suất cây trồng, cải thiện thu nhập.
Năm 2005, Dự án DANIDA tại địa phương hoàn thành với nhiều kết quả khả quan, ông Phạm Văn Hải được nhiều chuyên gia của dự án gợi ý tạo điều kiện cho ông học tập nâng cao trình độ chuyên môn để tiếp tục đồng hành cùng chương trình tại nhiều địa phương khác nhưng ông đã từ chối để ở lại quê nhà hỗ trợ nông dân trong sản xuất. Và cứ như chú chim sâu cần mẫn giúp người nông dân, ngày từng ngày qua, đôi chân ông Hải không biết đã lội qua bao nhiêu cánh đồng, bao nhiêu vườn cây ăn trái ở quê nhà, nơi nào ông đi qua là nơi ấy rộn vang tiếng cười vui, mừng vụ mùa thắng lợi.
Rồi thiên tai bất ngờ ập đến Kế Sách quê ông, đó là vào những ngày cuối năm 2015 khi mà những cơn gió chướng ngoài sông Hậu bắt đầu ồ ạt kéo về báo hiệu một mùa xuân mới sắp đến, người người nhà nhà lại nô nức chuẩn bị đón Tết sau một vụ mùa thắng lợi thì “giặc” mặn bất ngờ xâm nhập, chỉ trong một thời gian ngắn chúng đã “làm chủ” được tất cả các sông, rạch trên địa bàn huyện. Người dân thì hoàn toàn bất lực, trở tay không kịp, bởi trước giờ Kế Sách luôn là một vùng đất ngọt lành, cây trái quanh năm tươi tốt, mấy ai lại nghĩ đến việc một ngày nào đó nước mặn sẽ kéo đến bủa vây tứ phía. Vậy mà…!
Dù vậy, trong cái khó lại ló cái khôn. Hạn, mặn thì sức người không thể chống chọi được nhưng việc phòng ngừa để giảm thiểu thiệt hại do chúng gây ra thì hoàn toàn nằm trong tầm tay con người. Thế là ông Hải và những cán bộ Phòng Nông nghiệp huyện Kế Sách lại nghĩ ra cách lập nhóm Zalo Thông tin hạn, mặn của huyện cũng như của từng xã trong huyện để kịp thời dự báo tình hình thời tiết giúp người nông dân phòng tránh những rủi ro do thiên tai gây ra trong sản xuất. Bên cạnh đó, địa phương cũng được cấp trên đầu tư lắp đặt nhiều trạm đo độ mặn cũng như cung cấp thiết bị đo độ mặn đến tất cả các xã trong huyện. Một hành trình mới lại mở ra với ông Hải.
Việc đo độ mặn tưởng chừng đơn giản nhưng không hề dễ dàng chút nào, bởi ngoài yêu cầu biết sử dụng thành thạo máy móc thì người đo mặn phải có kinh nghiệm nhất định trong khâu dự báo. Chẳng hạn khi nắm được thông tin độ mặn tại vàm Đại Ngãi lên đến 4‰ thì vàm Nhơn Mỹ của huyện Kế Sách bắt đầu ảnh hưởng, phải kịp thời kích hoạt cơ chế đo mặn trên toàn địa bàn huyện để nông dân kịp thời phòng tránh. Ngoài ra, các thông số khác như: gió, thủy triều, lượng mưa, lượng nước từ thượng nguồn đổ về… cũng ảnh hưởng nhất định đến công tác dự báo hạn, mặn.
Thường thì việc đo độ mặn ở nhiều nơi chỉ diễn ra vào con nước lớn ban ngày nhưng ông Hải lại lựa chọn phương án “săn mặn” cả ngày lẫn đêm để đảm bảo an toàn cho việc sản xuất của nông dân. Suốt mấy tháng dài của mùa hạn, mặn, không đêm nào ông Hải được tròn giấc ngủ, khi mọi người yên giấc cũng là lúc ông bắt đầu công việc một cách thầm lặng. Đường sá ở quê nhiều chỗ vẫn còn khó khăn nên khi lưu thông vào ban đêm gặp phải tai nạn không phải là chuyện hiếm. Ông Hải cũng không nhớ là cả mình và xe đã từng “tắm” sông vào giữa khuya bao nhiêu lần nữa. Những lúc như vậy, ông lại nghĩ đến những thiệt hại to lớn của nông dân nếu rơi vào tình cảnh hạn, mặn, vậy là ông lại gạt bỏ nỗi đau riêng mình để tiếp tục hành trình đem lại niềm vui cho mọi người.
Ngoài việc thông tin kịp thời về diễn biến độ mặn của con nước đến nông dân, ông Hải còn chú trọng việc tuyên truyền ý thức phòng, tránh hạn, mặn để bà con thực hiện tốt. Theo ông, đây là khâu then chốt quyết định kết quả của “cuộc chiến” chống “giặc” mặn. Bởi nếu chuẩn bị tốt các khâu từ gia cố bờ bao, cống bọng, xảm mội… thì “giặc” mặn có mạnh đến đâu cũng không thể nào vượt qua được những phòng tuyến vững chắc ấy.
Sắp tới, hệ thống cống ngăn mặn được tỉnh Sóc Trăng đầu tư trên địa bàn huyện Kế Sách sẽ hoàn thành và đi vào hoạt động. Công việc đo mặn của ông Hải rồi cũng dừng lại, ông sẽ bớt đi những đêm dài trăn trở, nụ cười cũng sẽ viên mãn trên môi, nhưng với nông dân thì hình ảnh người cộng tác viên nông nghiệp hiền lành, chân chất, mấy mươi năm gắn bó với đồng ruộng, vườn cây cùng họ vẫn còn đọng lại mãi, cùng đồng hành trên con đường xây dựng nền nông nghiệp huyện nhà ngày càng hiện đại hơn, tiên tiến hơn.
Doanh nhân Hà Công Xã: Chọn canh tác hữu cơ vì một nền nông nghiệp bền vững
Với Hợp tác xã Nông nghiệp hữu cơ Bechamp Đắk Nông, anh Hà Công Xã đang tạo dựng một cộng đồng những người đam mê nông nghiệp hữu cơ, hướng đến sự an toàn cho người tiêu dùng, người sản xuất và môi trường.
Giám đốc Hơp tác xã Nông sản hữu cơ Bechamp Đắk Nông.
“Tôi bị bóc lột ư? Vô lý! Rẫy của tôi, sổ đỏ đứng tên tôi, làm sao tôi bị bóc lột ngay trên chính mảnh rẫy của tôi chứ?”, người nông dân phản ứng đầy hoài nghi khi nghe anh Hà Công Xã vận động tham gia Hợp tác xã (HTX) Nông sản hữu cơ Bechamp Đắk Nông.
Đáp lại, vị giám đốc sinh năm 1975 từ tốn giải thích: “Đúng! Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do anh đứng tên. Nhưng anh có quyền quyết định về giá và chất lượng khi mua phân bón hay thuốc bảo vệ thực vật không? Khi bán cà phê, anh có được quyết định giá bán không? Không và không! Nếu duy trì theo kiểu mạnh ai nấy làm, thì cả đời chúng ta và cả con cháu chúng ta sẽ mãi xoay quanh điệp khúc: trồng - chặt; được mùa, mất giá”.
Giải pháp để thoát khỏi vòng luẩn quẩn của canh tác nông nghiệp truyền thống, theo anh Hà Công Xã, là tự cứu lấy chính mình. “Canh tác và chế biến hữu cơ, xây dựng thương hiệu sản phẩm, phân phối lợi ích hài hòa, tái tạo môi trường trong lành cho xã hội, đấy chính là lời giải”, anh nói.
Chúng tôi khao khát góp một phần sức lực để xây dựng thương hiệu nông sản hữu cơ Đắk Nông, thương hiệu nông sản hữu cơ Việt Nam ngày một lớn mạnh”.
- Hà Công Xã, Giám đốc HTX Nông sản hữu cơ Bechamp Đắk Nông
Trong quá khứ, nông dân trồng cà phê tại Đắk Song (Đắk Nông) thường sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ để làm sạch vườn, diệt sâu bệnh, sau đó bón thêm phân hóa học để tăng năng suất. Khi làm như vậy, ngoài tốn chi phí, nông dân còn tự làm hại chính mình, bởi mỗi lần phun, “thuốc cỏ, thuốc sâu ướt đầm cả người”. Anh Xã cho hay, đã có những người mắc ung thư vì tiếp xúc quá nhiều với hóa chất độc hại.
Tại HTX Bechamp Đắk Nông, nông dân được hướng dẫn canh tác dựa trên nguyên lý cân bằng hệ sinh thái của nhà khoa học Pháp, Antoinie Bechamp. Theo nguyên lý này, mầm mống của một số bệnh tật đối với con người và cây trồng bắt nguồn từ hại khuẩn. Nhưng nếu tiêu diệt hại khuẩn, thì lợi khuẩn sẽ chết theo. Mà không còn lợi khuẩn đối kháng, thì bệnh tật sẽ nhiều hơn. Vì vậy, cần phải cân bằng hệ sinh thái.
Để mỗi khu vườn đạt tới điểm cân bằng, yếu tố tiên quyết là không sử dụng các chế phẩm thuốc trừ sâu, thuốc hóa học. Mỗi thành viên HTX được hướng dẫn cách tự nhân nuôi các dòng vi sinh vật có lợi để sản xuất ra thuốc trừ nấm, trừ sâu; được truyền đạt các nguyên lý để tự ủ phân hữu cơ ngay trong vườn, vừa tiết kiệm chi phí, vừa hạn chế phát thải carbon. HTX khuyến khích nông dân trồng cây đa tầng để cân bằng hệ sinh thái, hạn chế phá vỡ cấu trúc tự nhiên của đất.
Đến nay, tất cả thành viên HTX đều nắm vững và thực hiện canh tác hữu cơ, trong đó, 1/3 số hộ trồng cà phê đạt chuẩn hữu cơ và 5 hộ đã có chứng nhận. Khi tới mùa thu hoạch, HTX thu mua cà phê từ các thành viên với giá cao hơn thị trường từ 10.000 đến 30.000 đồng/kg, tùy dòng sản phẩm.
“Rẫy vườn tuy xa nhau, nhưng tấm lòng luôn gần nhau, bởi chúng tôi tin rằng, sự minh bạch và lòng trung thực là tiền đề để xây dựng mối quan hệ đáng tin cậy và lâu dài”, anh Xã khẳng định.
Quyết tâm theo đuổi nông nghiệp hữu cơ
Từng có 13 năm công tác tại Huyện ủy Đắk Song, 10 năm công tác tại Liên minh HTX tỉnh Đắk Nông, năm ngoái, anh Hà Công Xã quyết định rời môi trường nhà nước để tập trung toàn bộ vào HTX Bechamp.
HTX thành lập vào tháng 5/2021, nhưng trước đó, anh đã có thời gian dài tự nghiên cứu, áp dụng các phương pháp canh tác hữu cơ vào khu vườn của nhà mình. Anh Xã chuyển đổi sang trồng cà phê theo hướng hữu cơ từ năm 2016. Đến năm 2017, 2018, sản lượng cà phê sụt giảm; số lượng cây chết lên đến hàng trăm. “Kinh tế gia đình ảnh hưởng, cũng vài lần lục đục…”, anh tâm sự.
Không nản lòng, anh tiếp tục nghiên cứu, tìm cách cải thiện. Mỗi lần thử nghiệm một giải pháp mới, anh đều tỷ mỉ chụp hình, ghi chép lại.
Kiên trì đến mức lỳ lợm, anh Xã đã tìm được con đường riêng. Đến năm 2020, khu vườn của anh gần đạt đến mức năng suất cũ, trong khi chi phí bỏ ra lại giảm bớt. Lúc này, anh nghĩ, cần tạo hiệu ứng lan tỏa, để các nông hộ khác có thể áp dụng.
Anh rủ một vài người quen thành lập HTX, nhưng do khác biệt tư duy, nên không thành. Tới năm 2021, anh Xã cùng 7 thành viên đóng góp tổng cộng 24 triệu đồng, quyết tâm thành lập HTX Nông sản hữu cơ Bechamp Đắk Nông.
Hiện số lượng thành viên của HTX lên tới gần 50, không chỉ gồm các nông hộ, mà còn có các giáo sư, tiến sĩ nông nghiệp, giám đốc doanh nghiệp quy mô 200 nhân sự... Họ cùng hướng tới sứ mệnh thiêng liêng, đó là “dâng hiến cho đời những sản phẩm được sản xuất bằng tình cảm của cả trái tim mình”.
Với sự đóng góp của các thành viên, cả về vật chất lẫn chuyên môn, HTX Bechamp đã đầu tư xây dựng nhà máy chế biến đạt chuẩn, gồm 2 dây chuyền khép kín, chuyên thu hoạch, chế biến trái tươi và chế biến cà phê chuyên sâu. Thương hiệu cà phê Bechamp, với các dòng sản phẩm đạt chuẩn hữu cơ, đang dần tiếp cận nhiều khách hàng trong và ngoài nước.
Vừa qua, HTX đón 2 đoàn khách từ Anh và Hàn Quốc sang tìm hiểu mô hình, đặt vấn đề hợp tác. Dù thị trường sản phẩm hữu cơ nói chung và cà phê hữu cơ nói riêng vẫn chưa tạo được chỗ đứng vững chắc, do những rào cản về giá cả, nhưng đại diện Bechamp tin rằng, sẽ có một ngày, người tiêu dùng không còn ngần ngại khi lựa chọn sản phẩm hữu cơ và người nông dân không phải làm thuê trên chính mảnh đất của mình.
Đưa khoa học công nghệ vào trong sản xuất nông nghiệp
Khoa học công nghệ (KHCN) đóng góp hơn 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp. Do đó, việc nghiên cứu, ứng dụng KHCN đã và đang được ngành nông nghiệp và môi trường (NN&MT) chú trọng thực hiện.
Ứng dụng KHCN vào sản xuất còn góp phần thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị, hình thành vùng sản xuất khép kín quy mô lớn, hiện đại, nhằm tạo ra sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường.
Thành tựu từ ứng dụng KHCN
Trung tâm Giống Quảng Ngãi (Sở NN&MT) là đơn vị đi đầu trong nghiên cứu, chọn tạo, cung ứng và sản xuất các loại giống lúa của tỉnh cũng như khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Đặc biệt, trung tâm có 4 giống lúa đã được Bộ NN&PTNT (nay là Bộ NN&MT) công nhận độc quyền, gồm: ĐH815-6, QNg13, QNg128 và Thiên Hương (QNg6). Đây là các giống do Trạm Giống cây nông nghiệp Đức Hiệp, thuộc Trung tâm Giống Quảng Ngãi, tự nghiên cứu, chọn tạo và sản xuất, được thị trường khu vực miền Trung - Tây Nguyên ưa chuộng.
Cán bộ Trạm Giống cây nông nghiệp Đức Hiệp theo dõi, đánh giá đặc tính của các giống lúa đang được đơn vị nghiên cứu, chọn tạo.
Ông Huỳnh Thể, ở tổ dân phố Tân Bình, phường Phổ Minh (TX.Đức Phổ) cho biết, các giống của Trạm Giống cây nông nghiệp Đức Hiệp cho năng suất cao và chất lượng gạo ổn định. Thế nên, hàng chục năm nay, năm nào tôi cũng gieo sạ từ 3 - 4 sào giống ĐH815-6, vì giống lúa này dễ canh tác và cho ra gạo được bạn hàng làm bún ưa chuộng, thu mua với giá cao. Riêng giống lúa Thiên Hương thì gạo thơm ngon, được nhiều đại lý, cửa hàng kinh doanh gạo thu mua, nên tôi thường gieo sạ từ 4 - 5 sào trong vụ đông xuân.
Được nông dân tín nhiệm, nên mỗi năm, Trung tâm Giống Quảng Ngãi cung ứng ra thị trường 500 tấn giống, nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu. Phó Trạm trưởng Phụ trách Trạm Giống cây trồng Đức Hiệp Nguyễn Thị Lệ Quyên cho biết, xác định giống đóng vai trò quan trọng và cốt lõi trong sản xuất nông nghiệp, nên chúng tôi không ngừng nghiên cứu, chọn tạo, cải tiến các loại giống lúa chất lượng, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng từng vùng, địa phương. Ngoài ra, điều kiện thời tiết thay đổi bất thường, dẫn đến nhu cầu sử dụng các giống lúa mới có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu ngày càng cao. Do đó, ngoài việc tiếp tục theo dõi đặc tính của 4 giống lúa độc quyền thì mới đây, trung tâm cũng gửi 2 mẫu giống lúa ĐH98 và ĐH99-81 đến Trung tâm Khảo kiệm nghiệm giống, sản phẩm cây trồng miền Trung (Bộ NN&MT) để khảo nghiệm giá trị canh tác và sử dụng của giống (VCU).
Tháo gỡ những rào cản
Một trong những khó khăn của doanh nghiệp sản xuất giống cây trồng là nguồn lực hạn chế, việc sử dụng các biện pháp lai tạo truyền thống dẫn đến thời gian nghiên cứu cơ bản kéo dài. Như các giống lúa của Trung tâm Giống Quảng Ngãi phải mất hơn 10 năm nghiên cứu, chọn tạo và đánh giá mới được công nhận độc quyền, từ đó được phép sản xuất và cung ứng đại trà ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên.
Động lực từ Nghị quyết 57
Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đề ra mục tiêu, đến năm 2030, bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và tăng dần theo yêu cầu phát triển; nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người/một vạn dân; có từ 40 - 50 tổ chức KH&CN được xếp hạng khu vực và thế giới; số lượng đơn đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16 - 18%/năm, tỷ lệ khai thác thương mại đạt 8 - 10%... Vì thế, Nghị quyết 57 được xem là động lực để đẩy mạnh hợp tác giữa doanh nghiệp và các cơ quan, đơn vị nghiên cứu, góp phần thúc đẩy công tác nghiên cứu sát với thực tiễn, cho ra đời những sản phẩm thích hợp, có quy mô lớn, đáp ứng yêu cầu của thị trường, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Giám đốc Trung tâm Giống Quảng Ngãi Trịnh Lương Thơm cho hay, trung tâm hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp đòi hỏi chi phí đầu tư lớn nhưng rủi ro cao, trong khi việc hợp tác với các viện nghiên cứu gặp nhiều khó khăn, vướng mắc; nhất là những vấn đề liên quan đến cơ chế tài chính, đất đai, tài sản, trang thiết bị phục vụ công tác nghiên cứu, lai tạo, sản xuất... Bên cạnh đó, trang thiết bị máy móc và hạ tầng vừa thiếu vừa yếu, nên hoạt động sản xuất chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, làm ra hạt giống, chứ chưa chế biến ra sản phẩm cuối để gia tăng giá trị của lúa, gạo. Do đó, trung tâm mong được cơ quan chức năng tháo gỡ những nút thắt qua việc thực thi hiệu quả các chính sách, đặc biệt là Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Theo Tiến sĩ Vũ Văn Khuê - Phó Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Duyên hải Nam Trung Bộ, KHCN không chỉ dừng lại ở việc tăng năng suất, sản lượng mà là tạo ra giá trị gia tăng qua việc tích hợp đa giá trị nhằm giảm chi phí sản xuất, tăng lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm. Với lĩnh vực nông nghiệp, thì việc nghiên cứu, ứng dụng KHCN trong sản xuất giống là 1 trong 3 yếu tố then chốt (cùng với quy trình sản xuất và bảo quản sau thu hoạch) cần được quan tâm, chú trọng. Bởi vì, bộ giống tốt không chỉ gia tăng năng suất và thu nhập cho nông dân, mà còn giúp doanh nghiệp mở rộng thị phần, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh qua các sản phẩm sau chế biến.
Xác định vai trò quan trọng của KHCN trong giai đoạn mới, Sở NN&MT cũng tập trung xây dựng kế hoạch, chương trình hành động; trong đó chú trọng nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, đầu tư hạ tầng, thu hút nhà đầu tư gắn với trọng dụng nhân lực chất lượng cao...
Giám đốc Sở NN&MT Hồ Trọng Phương nhấn mạnh, song song với việc rà soát lại toàn bộ các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, sở cũng đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng KHCN, nhằm nâng cao hiệu quả quản trị ngành, lĩnh vực trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị trực thuộc. Sở nghiên cứu, tham mưu tỉnh đầu tư tập trung cơ sở vật chất, hệ thống trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, thí nghiệm của các đơn vị với quy mô lớn thay vì đầu tư nhỏ lẻ cho từng đơn vị như trước đây. Qua đó, thúc đẩy thương mại hóa các sản phẩm KHCN, đưa những kết quả của quá trình nghiên cứu đi vào thực tiễn, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội địa phương. Ngoài ra, sở còn xây dựng, tham mưu cơ quan chức năng ban hành cơ chế, nguồn lực để đào tạo, hình thành đội ngũ nhân lực trẻ chất lượng cao, phục vụ cho sự nghiệp phát triển KHCN bền vững.
Mở lối cho nông nghiệp đô thị phát triển
Đầu tư cho nông nghiệp sinh thái bền vững trước bối cảnh đô thị hóa là nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược của Hà Nội. Do đó, TP đang tập trung tổng thể các giải pháp về quy hoạch, đầu tư công nghệ nâng cao giá trị sản xuất, xây dựng mô hình nông nghiệp sinh thái…
Vườn nho của hộ gia đình ông Nguyễn Hữu Hùng, ở xã An Thượng, huyện Hoài Đức, Hà Nội. Ảnh: Ngọc Ánh
Nhiều lợi thế, tiềm năng phát triển
Hộ gia đình ông Nguyễn Hữu Hùng, ở xã An Thượng, huyện Hoài Đức, chia sẻ, với hơn 4ha đất nông nghiệp, gia đình ông tập trung trồng nho hạ đen, nho mẫu đơn Hàn Quốc theo hướng an toàn, đáp ứng nhu cầu thị trường. Trang trại của gia đình ông còn kết hợp trồng đu đủ, làm vườn hoa, thu hút du khách tham quan, trải nghiệm mô hình nông nghiệp sinh thái...
Theo Chủ tịch Hội Nông dân huyện Hoài Đức Nguyễn Thị Thanh, dù diện tích đất nông nghiệp trên địa bàn huyện bị thu hẹp nhưng nhờ phát triển du lịch sinh thái, nên vẫn tạo hiệu quả kinh tế cao cho nông dân. Ngoài ra, các mô hình này còn góp phần giữ gìn cảnh quan, tạo sản phẩm nông nghiệp thân thiện môi trường.
Tại huyện Ðan Phượng, hiện địa phương chỉ còn khoảng 2.000ha đất nông nghiệp. Phó Chủ tịch UBND huyện Đan Phượng Nguyễn Thạc Hùng cho hay, khi đất đai bị thu hẹp, huyện tập trung sản xuất nông nghiệp theo chiều sâu, nâng cao giá trị sản xuất.
Đến nay, toàn huyện có 520ha trồng lúa, còn hơn 1.300 ha đất nông nghiệp được chuyển sang sản xuất hoa, cây cảnh, cây ăn quả, rau màu chất lượng cao. Giá trị canh tác ở các vùng rau màu, hoa, cây cảnh đạt từ 300 triệu đồng đến hơn 1 tỷ đồng/ha/năm. Trên địa bàn có nhiều thương hiệu nông sản mạnh như: rau hữu cơ Cuối Quý, nho hạ đen Ðan Phượng, hoa lan Hồ Điệp “Flora Việt Nam”...
Hà Nội có nhiều lợi thế, tiềm năng phát triển nông nghiệp đô thị. Thời gian qua, TP đã đẩy mạnh tái cơ cấu sản xuất theo hướng giảm diện tích trồng lúa, mở rộng diện tích trồng rau, tăng diện tích cây ăn quả và hoa, cây cảnh. TP cũng đã tiến hành chuyển đổi hơn 40.227ha đất lúa sang các mô hình sản xuất nông nghiệp mới, gồm: lúa chất lượng cao hơn 15.600ha, rau an toàn gần 3.000ha, cây ăn quả VietGAP, hữu cơ gần 7.400ha... Đến nay, toàn TP có 285 mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tập trung chủ yếu ở các huyện: Mê Linh, Gia Lâm, Thường Tín, Đông Anh, Thanh Oai, Đan Phượng…
Cốt lõi là tái cơ cấu nông nghiệp hiệu quả, bền vững
Theo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội Nguyễn Xuân Đại, TP hiện có khoảng 198.000ha đất nông nghiệp. Do tốc độ đô thị hóa nhanh, diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Tuy nhiên, nông nghiệp Hà Nội lại có lợi thế lớn, khi có thị trường khoảng 10 triệu dân, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm rất lớn. Trong bối cảnh đó, Hà Nội tập trung phát triển nông nghiệp đô thị với các giải pháp về công nghệ, sinh thái để nâng cao giá trị sản xuất trên diện tích chật hẹp, tạo không gian xanh cho đô thị, tận dụng thị trường tại chỗ, tăng thu bằng kết hợp du lịch.
Mô hình trồng hoa lan ứng dụng công nghệ cao tại xã Đại Thịnh, huyện Mê Linh, Hà Nội. Ảnh: Phạm Hùng
Lấy dẫn chứng về lĩnh vực hoa, cây cảnh, ông Nguyễn Xuân Đại cho biết, hiện Hà Nội có hơn 8.100ha chuyên canh hoa, cây cảnh, đạt giá trị sản xuất khoảng 7.000 tỷ đồng. Trong đó, 70% diện tích được canh tác tập trung tại các quận, huyện: Bắc Từ Liêm, Tây Hồ, Mê Linh, Đan Phượng, Thường Tín.
Nhiều mô hình trồng hoa, cây cảnh ứng dụng tiến bộ mới về giống, quy trình chăm sóc, nên năng suất, chất lượng sản phẩm được nâng cao. Hoa, cây cảnh là cây trồng giá trị kinh tế cao, vừa tăng thu nhập cho nông dân, giúp tăng mảng xanh thực vật, làm đẹp cho Thủ đô, vừa kết hợp được với du lịch cho chính người dân đô thị.
Bên cạnh đó, để hoàn thành các mục tiêu đã đề ra về xây dựng nông thôn mới gắn với phát triển đô thị, Sở Nông nghiệp và Môi trường và các địa phương đang tiếp tục thực hiện cơ cấu lại sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, giảm diện tích trồng lúa, tập trung phát triển lúa gạo theo hướng tăng cơ cấu giống lúa chất lượng; mở rộng diện tích trồng rau, tăng diện tích hoa, cây cảnh.
Đồng thời, chuyển đổi các diện tích sản xuất lúa tại các vùng khó khăn về tưới tiêu sang cây trồng khác có giá trị kinh tế cao hơn; tập trung phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất con giống, cơ cấu lại đàn vật nuôi, tập trung phát triển con giống chất lượng cao trên cơ sở lưu giữ và bảo tồn các giống bản địa chất lượng cao. TP tiếp tục phát triển chăn nuôi theo vùng, xã trọng điểm, phù hợp với từng vùng và định hướng phát triển của TP; từng bước giảm chăn nuôi nhỏ lẻ trong khu dân cư.
Cũng theo ông Nguyễn Xuân Đại, phương án quy hoạch ngành nông nghiệp Thủ đô được định hướng sản xuất tập trung, quy mô lớn, tổ chức sản xuất theo vùng tập trung phù hợp với điều kiện 3 vùng sinh thái: đồi gò, đồng bằng và bãi ven sông. Tùy theo từng vùng, các địa phương áp dụng các mô hình phát triển phù hợp; đa dạng loại hình sản xuất, kết hợp đa lĩnh vực du lịch, sinh thái, giáo dục, bảo vệ môi trường, nhất là chú trọng hiệu quả kinh tế, nâng cao thu nhập cho nông dân.
Trích dẫn
Trích dẫn 1
“Nông nghiệp đô thị không những có vai trò, vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô mà còn là hình mẫu cho phát triển nông nghiệp của cả nước. Vì vậy, Hà Nội cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp đô thị, xây dựng các mô hình nông nghiệp gắn với du lịch nhằm mang lại giá trị cao nhất, giúp ngành nông nghiệp đạt được kỳ vọng và xứng tầm Thủ đô.”