Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 4 tháng 4 năm 2025

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 4 tháng 4 năm 2025

 

Ngành nông nghiệp 'dĩ bất biến, ứng vạn biến' trong bối cảnh mới

 

Trước công bố áp thuế đối ứng từ phía Mỹ, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho rằng, nông sản Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp nhưng ngành sẽ phải dĩ bất biến, ứng vạn biến.

 

 

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến. Ảnh: Lê Hồng Nhung - Mekong ASEAN

Ngày 3/4, chia sẻ với phóng viên bền lề Hội nghị Phòng chống dịch bệnh và phát triển chăn nuôi lợn, về việc Mỹ công bố áp mức thuế đối ứng 46% lên Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho rằng: "Nông sản Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp từ quyết định tăng thuế của Mỹ nhưng chúng ta sẽ phải dĩ bất biến, ứng vạn biến". Theo Thứ trưởng, từ trước đó, Việt Nam khi xuất khẩu nông sản vào thị trường Mỹ đã phải đối mặt với nhiều rào cản, thách thức như chống bán phá giá nhưng các doanh nghiệp đều vượt qua.

Trong bối cảnh trên, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, Việt Nam cần tập trung chỉ đạo sản xuất, hướng tới nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, từ đó đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn của thị trường Mỹ và tăng khả năng cạnh tranh với các thị trường khác.

Mặt khác, nông sản Việt Nam đã xuất khẩu sang 200 quốc gia, vùng lãnh thổ. Trong đó năm 2024 Việt Nam xuất khẩu nông sản sang Mỹ đạt 13,8 tỷ USD, Trung Quốc đạt 13,6 tỷ USD. Việt Nam còn xuất khẩu nông sản sang Nhật Bản (chiếm 6,7% tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng này ra thế giới), Hàn Quốc xấp xỉ 4,5%, Philippines đạt trên 5%...

Do đó, doanh nghiệp cần đẩy mạnh đa dạng hóa thị trường như mở rộng sang châu Âu hay Trung Quốc. Trung Quốc với quy mô 1,4 tỷ dân sẽ là thị trường để Việt Nam xuất khẩu nhiều mặt hàng thế mạnh trong thời gian tới, đặc biệt khi Việt Nam đã ký kết nhiều nghị định thư về nông sản với nước này như sầu riêng, cá sấu...

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng cho rằng, Việt Nam sẽ phải xem xét giải pháp, tổ chức thực hiện các ngành, lĩnh vực cụ thể như thế nào trong bối cảnh trên, để đạt được mục tiêu ngành nông nghiệp đã đề ra năm 2025.

Năm 2025, ngành nông nghiệp đặt mục tiêu tăng trưởng 4%. Hết quý 1/2025, ngành nông nghiệp dự kiến tăng trưởng đạt 3,69%. Năm nay, ngành nông nghiệp cũng đặt mục tiêu xuất khẩu mang về 64 - 65 tỷ USD, riêng quý 1/2025 ngành đã đạt khoảng 15,72 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước.

“Mỗi đối tượng có điểm nghẽn thì chúng ta phải khơi thông, trong đó tập trung vào nâng cao năng lực, chủ động hội nhập, đồng thời nâng cao sản lượng cũng như giá trị, từ đó góp phần vào mục tiêu xuất khẩu chung của ngành là 64 - 65 tỷ USD như đã đề ra,” Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.

Trước câu hỏi về phương án ứng phó đối với ngành thủy sản - ngành được cho là chịu tác động nặng nề khi Mỹ tăng thuế, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết, năm 2024 Việt Nam sản xuất được 1,3 triệu tấn tôm với kim ngạch xuất khẩu đạt 4,3 tỷ USD; cá tra cũng đạt sản lượng dẫn đầu thế giới với 1,65 triệu tấn, mang về hơn 2 tỷ USD giá trị xuất khẩu.

Chính vì vậy, Việt Nam cần làm mới động lực ngành tôm để tăng năng lực cạnh tranh với Ấn Độ, Ecuador; các sản phẩm tôm tiếp tục đảm bảo chất lượng, yêu cầu của thị trường Mỹ; các lô hàng xuất khẩu hạn chế tối thiểu hàm lượng kim loại, vi sinh vật để doanh nghiệp duy trì được thị trường.

Việt Nam cũng cần tập trung nâng cao chất lượng, năng suất nuôi tôm, đảm bảo con giống, đảm bảo tăng trưởng, giảm tiêu tốn thức ăn…. Với 740.000 ha nuôi tôm phải chuyển sang nuôi thâm canh, bởi nếu nuôi quảng canh chỉ đạt 6 tấn/ha, còn nuôi thâm canh sản lượng có thể đạt 60 tấn/ha.

Trong khi đó, cá tra tiếp tục phát huy các lợi thế đang có, đồng thời tập trung phát triển con giống. Mỗi năm, vùng ĐBSCL cần 4,5 tỷ con giống cá tra. Tuy nhiên, hiện nay, Việt Nam có 1.920 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống cá tra, trong đó chỉ có 2 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống bố mẹ; 76 cơ sở sản xuất giống thương phẩm, 1.842 cơ sở ương dưỡng cá tra giống (từ cá bột lên cá giống).

Vào ngày 2/4 theo giờ Washington, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã công bố các mức thuế đối ứng toàn cầu. Trong đó, Anh, Brazil, Singapore sẽ chịu 10% thuế. Liên minh châu Âu (EU), Malaysia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ chịu mức 20 - 26%. Trung Quốc và Việt Nam nằm trong nhóm các nước bị áp mức thuế cao nhất, lần lượt là 34% và 46%.

Tổng thống Donald Trump chia sẻ mức thuế trên vẫn có thể thay đổi trong tương lai. “Đây chưa phải là chính sách thuế đối ứng hoàn toàn”, ông phát biểu và khẳng định mức này có thể giảm xuống nếu các đối tác thương mại đáp ứng yêu cầu của Nhà Trắng.

Lê Hồng Nhung

 

'Dũng sĩ' bảo vệ cây trồng trước hạn, mặn

 

Huyện Kế Sách là một vùng ngọt của tỉnh Sóc Trăng. Tuy nhiên, từ năm 2016 đến nay tình trạng xâm nhập mặn diễn ra thường xuyên vào mùa khô, gây không ít thiệt hại cho nông dân. Nhưng cũng từ đây đã xuất hiện nhiều cách làm hay để giảm thiểu tác hại của hạn, mặn, nổi bật là tấm gương của ông Phạm Văn Hải, cộng tác viên nông nghiệp của xã Thới An Hội mà nông dân vẫn gọi vui là 'dũng sĩ' bảo vệ cây trồng trước hạn, mặn.

Năm 2025, ông Phạm Văn Hải bước sang tuổi 61. Trước khi công tác trong ngành nông nghiệp, ông từng là giáo viên từ năm 1984 -1992. Khi chuyển về làm ở ngành nông nghiệp, ông phụ trách nhiều mặt như: nông nghiệp, giao thông, thủy lợi, địa chính… Qua quá trình công tác, nhận thấy Thới An Hội là một xã thuần nông nhưng trình độ canh tác của người dân còn rất lạc hậu dẫn đến năng suất lúa thấp, đời sống nông dân gặp nhiều khó khăn nên năm 1996 ông đã tự bỏ tiền túi đăng ký học lớp Trung cấp thủy lợi để có thêm nhiều kiến thức nông nghiệp hỗ trợ nông dân trong sản xuất.

 

 

Ông Phạm Văn Hải đo độ mặn trên sông vào mùa khô. Ảnh: QUÁCH TẤN THUẦN

Bước ngoặt cuộc đời ông Hải được mở ra từ năm 2000 khi ông được dự án DANIDA của Đan Mạch chọn tham gia làm cộng tác viên trong chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây trồng. Trong quá trình tham gia dự án, ngoài việc được học tập kiến thức chuyên môn qua các lớp tập huấn, ông còn được tạo điều kiện đi học tập kinh nghiệm ở nhiều địa phương trong và ngoài tỉnh, nhờ vậy mà chuyên môn về nông nghiệp của ông ngày càng hoàn thiện, góp phần hỗ trợ nông dân địa phương giảm chi phí trong sản xuất, nâng cao năng suất cây trồng, cải thiện thu nhập.

Năm 2005, Dự án DANIDA tại địa phương hoàn thành với nhiều kết quả khả quan, ông Phạm Văn Hải được nhiều chuyên gia của dự án gợi ý tạo điều kiện cho ông học tập nâng cao trình độ chuyên môn để tiếp tục đồng hành cùng chương trình tại nhiều địa phương khác nhưng ông đã từ chối để ở lại quê nhà hỗ trợ nông dân trong sản xuất. Và cứ như chú chim sâu cần mẫn giúp người nông dân, ngày từng ngày qua, đôi chân ông Hải không biết đã lội qua bao nhiêu cánh đồng, bao nhiêu vườn cây ăn trái ở quê nhà, nơi nào ông đi qua là nơi ấy rộn vang tiếng cười vui, mừng vụ mùa thắng lợi.

Rồi thiên tai bất ngờ ập đến Kế Sách quê ông, đó là vào những ngày cuối năm 2015 khi mà những cơn gió chướng ngoài sông Hậu bắt đầu ồ ạt kéo về báo hiệu một mùa xuân mới sắp đến, người người nhà nhà lại nô nức chuẩn bị đón Tết sau một vụ mùa thắng lợi thì “giặc” mặn bất ngờ xâm nhập, chỉ trong một thời gian ngắn chúng đã “làm chủ” được tất cả các sông, rạch trên địa bàn huyện. Người dân thì hoàn toàn bất lực, trở tay không kịp, bởi trước giờ Kế Sách luôn là một vùng đất ngọt lành, cây trái quanh năm tươi tốt, mấy ai lại nghĩ đến việc một ngày nào đó nước mặn sẽ kéo đến bủa vây tứ phía. Vậy mà…!

Dù vậy, trong cái khó lại ló cái khôn. Hạn, mặn thì sức người không thể chống chọi được nhưng việc phòng ngừa để giảm thiểu thiệt hại do chúng gây ra thì hoàn toàn nằm trong tầm tay con người. Thế là ông Hải và những cán bộ Phòng Nông nghiệp huyện Kế Sách lại nghĩ ra cách lập nhóm Zalo Thông tin hạn, mặn của huyện cũng như của từng xã trong huyện để kịp thời dự báo tình hình thời tiết giúp người nông dân phòng tránh những rủi ro do thiên tai gây ra trong sản xuất. Bên cạnh đó, địa phương cũng được cấp trên đầu tư lắp đặt nhiều trạm đo độ mặn cũng như cung cấp thiết bị đo độ mặn đến tất cả các xã trong huyện. Một hành trình mới lại mở ra với ông Hải.

Việc đo độ mặn tưởng chừng đơn giản nhưng không hề dễ dàng chút nào, bởi ngoài yêu cầu biết sử dụng thành thạo máy móc thì người đo mặn phải có kinh nghiệm nhất định trong khâu dự báo. Chẳng hạn khi nắm được thông tin độ mặn tại vàm Đại Ngãi lên đến 4‰ thì vàm Nhơn Mỹ của huyện Kế Sách bắt đầu ảnh hưởng, phải kịp thời kích hoạt cơ chế đo mặn trên toàn địa bàn huyện để nông dân kịp thời phòng tránh. Ngoài ra, các thông số khác như: gió, thủy triều, lượng mưa, lượng nước từ thượng nguồn đổ về… cũng ảnh hưởng nhất định đến công tác dự báo hạn, mặn.

Thường thì việc đo độ mặn ở nhiều nơi chỉ diễn ra vào con nước lớn ban ngày nhưng ông Hải lại lựa chọn phương án “săn mặn” cả ngày lẫn đêm để đảm bảo an toàn cho việc sản xuất của nông dân. Suốt mấy tháng dài của mùa hạn, mặn, không đêm nào ông Hải được tròn giấc ngủ, khi mọi người yên giấc cũng là lúc ông bắt đầu công việc một cách thầm lặng. Đường sá ở quê nhiều chỗ vẫn còn khó khăn nên khi lưu thông vào ban đêm gặp phải tai nạn không phải là chuyện hiếm. Ông Hải cũng không nhớ là cả mình và xe đã từng “tắm” sông vào giữa khuya bao nhiêu lần nữa. Những lúc như vậy, ông lại nghĩ đến những thiệt hại to lớn của nông dân nếu rơi vào tình cảnh hạn, mặn, vậy là ông lại gạt bỏ nỗi đau riêng mình để tiếp tục hành trình đem lại niềm vui cho mọi người.

Ngoài việc thông tin kịp thời về diễn biến độ mặn của con nước đến nông dân, ông Hải còn chú trọng việc tuyên truyền ý thức phòng, tránh hạn, mặn để bà con thực hiện tốt. Theo ông, đây là khâu then chốt quyết định kết quả của “cuộc chiến” chống “giặc” mặn. Bởi nếu chuẩn bị tốt các khâu từ gia cố bờ bao, cống bọng, xảm mội… thì “giặc” mặn có mạnh đến đâu cũng không thể nào vượt qua được những phòng tuyến vững chắc ấy.

Sắp tới, hệ thống cống ngăn mặn được tỉnh Sóc Trăng đầu tư trên địa bàn huyện Kế Sách sẽ hoàn thành và đi vào hoạt động. Công việc đo mặn của ông Hải rồi cũng dừng lại, ông sẽ bớt đi những đêm dài trăn trở, nụ cười cũng sẽ viên mãn trên môi, nhưng với nông dân thì hình ảnh người cộng tác viên nông nghiệp hiền lành, chân chất, mấy mươi năm gắn bó với đồng ruộng, vườn cây cùng họ vẫn còn đọng lại mãi, cùng đồng hành trên con đường xây dựng nền nông nghiệp huyện nhà ngày càng hiện đại hơn, tiên tiến hơn.

 

QUÁCH TẤN THUẦN

 

Doanh nhân Hà Công Xã: Chọn canh tác hữu cơ vì một nền nông nghiệp bền vững

 

Với Hợp tác xã Nông nghiệp hữu cơ Bechamp Đắk Nông, anh Hà Công Xã đang tạo dựng một cộng đồng những người đam mê nông nghiệp hữu cơ, hướng đến sự an toàn cho người tiêu dùng, người sản xuất và môi trường.

 

 

Giám đốc Hơp tác xã Nông sản hữu cơ Bechamp Đắk Nông.

“Tôi bị bóc lột ư? Vô lý! Rẫy của tôi, sổ đỏ đứng tên tôi, làm sao tôi bị bóc lột ngay trên chính mảnh rẫy của tôi chứ?”, người nông dân phản ứng đầy hoài nghi khi nghe anh Hà Công Xã vận động tham gia Hợp tác xã (HTX) Nông sản hữu cơ Bechamp Đắk Nông.

Đáp lại, vị giám đốc sinh năm 1975 từ tốn giải thích: “Đúng! Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do anh đứng tên. Nhưng anh có quyền quyết định về giá và chất lượng khi mua phân bón hay thuốc bảo vệ thực vật không? Khi bán cà phê, anh có được quyết định giá bán không? Không và không! Nếu duy trì theo kiểu mạnh ai nấy làm, thì cả đời chúng ta và cả con cháu chúng ta sẽ mãi xoay quanh điệp khúc: trồng - chặt; được mùa, mất giá”.

Giải pháp để thoát khỏi vòng luẩn quẩn của canh tác nông nghiệp truyền thống, theo anh Hà Công Xã, là tự cứu lấy chính mình. “Canh tác và chế biến hữu cơ, xây dựng thương hiệu sản phẩm, phân phối lợi ích hài hòa, tái tạo môi trường trong lành cho xã hội, đấy chính là lời giải”, anh nói.

Chúng tôi khao khát góp một phần sức lực để xây dựng thương hiệu nông sản hữu cơ Đắk Nông, thương hiệu nông sản hữu cơ Việt Nam ngày một lớn mạnh”.

- Hà Công Xã, Giám đốc HTX Nông sản hữu cơ Bechamp Đắk Nông

Trong quá khứ, nông dân trồng cà phê tại Đắk Song (Đắk Nông) thường sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ để làm sạch vườn, diệt sâu bệnh, sau đó bón thêm phân hóa học để tăng năng suất. Khi làm như vậy, ngoài tốn chi phí, nông dân còn tự làm hại chính mình, bởi mỗi lần phun, “thuốc cỏ, thuốc sâu ướt đầm cả người”. Anh Xã cho hay, đã có những người mắc ung thư vì tiếp xúc quá nhiều với hóa chất độc hại.

Tại HTX Bechamp Đắk Nông, nông dân được hướng dẫn canh tác dựa trên nguyên lý cân bằng hệ sinh thái của nhà khoa học Pháp, Antoinie Bechamp. Theo nguyên lý này, mầm mống của một số bệnh tật đối với con người và cây trồng bắt nguồn từ hại khuẩn. Nhưng nếu tiêu diệt hại khuẩn, thì lợi khuẩn sẽ chết theo. Mà không còn lợi khuẩn đối kháng, thì bệnh tật sẽ nhiều hơn. Vì vậy, cần phải cân bằng hệ sinh thái.

Để mỗi khu vườn đạt tới điểm cân bằng, yếu tố tiên quyết là không sử dụng các chế phẩm thuốc trừ sâu, thuốc hóa học. Mỗi thành viên HTX được hướng dẫn cách tự nhân nuôi các dòng vi sinh vật có lợi để sản xuất ra thuốc trừ nấm, trừ sâu; được truyền đạt các nguyên lý để tự ủ phân hữu cơ ngay trong vườn, vừa tiết kiệm chi phí, vừa hạn chế phát thải carbon. HTX khuyến khích nông dân trồng cây đa tầng để cân bằng hệ sinh thái, hạn chế phá vỡ cấu trúc tự nhiên của đất.

Đến nay, tất cả thành viên HTX đều nắm vững và thực hiện canh tác hữu cơ, trong đó, 1/3 số hộ trồng cà phê đạt chuẩn hữu cơ và 5 hộ đã có chứng nhận. Khi tới mùa thu hoạch, HTX thu mua cà phê từ các thành viên với giá cao hơn thị trường từ 10.000 đến 30.000 đồng/kg, tùy dòng sản phẩm.

“Rẫy vườn tuy xa nhau, nhưng tấm lòng luôn gần nhau, bởi chúng tôi tin rằng, sự minh bạch và lòng trung thực là tiền đề để xây dựng mối quan hệ đáng tin cậy và lâu dài”, anh Xã khẳng định.

Quyết tâm theo đuổi nông nghiệp hữu cơ

Từng có 13 năm công tác tại Huyện ủy Đắk Song, 10 năm công tác tại Liên minh HTX tỉnh Đắk Nông, năm ngoái, anh Hà Công Xã quyết định rời môi trường nhà nước để tập trung toàn bộ vào HTX Bechamp.

HTX thành lập vào tháng 5/2021, nhưng trước đó, anh đã có thời gian dài tự nghiên cứu, áp dụng các phương pháp canh tác hữu cơ vào khu vườn của nhà mình. Anh Xã chuyển đổi sang trồng cà phê theo hướng hữu cơ từ năm 2016. Đến năm 2017, 2018, sản lượng cà phê sụt giảm; số lượng cây chết lên đến hàng trăm. “Kinh tế gia đình ảnh hưởng, cũng vài lần lục đục…”, anh tâm sự.

Không nản lòng, anh tiếp tục nghiên cứu, tìm cách cải thiện. Mỗi lần thử nghiệm một giải pháp mới, anh đều tỷ mỉ chụp hình, ghi chép lại.

Kiên trì đến mức lỳ lợm, anh Xã đã tìm được con đường riêng. Đến năm 2020, khu vườn của anh gần đạt đến mức năng suất cũ, trong khi chi phí bỏ ra lại giảm bớt. Lúc này, anh nghĩ, cần tạo hiệu ứng lan tỏa, để các nông hộ khác có thể áp dụng.

Anh rủ một vài người quen thành lập HTX, nhưng do khác biệt tư duy, nên không thành. Tới năm 2021, anh Xã cùng 7 thành viên đóng góp tổng cộng 24 triệu đồng, quyết tâm thành lập HTX Nông sản hữu cơ Bechamp Đắk Nông.

Hiện số lượng thành viên của HTX lên tới gần 50, không chỉ gồm các nông hộ, mà còn có các giáo sư, tiến sĩ nông nghiệp, giám đốc doanh nghiệp quy mô 200 nhân sự... Họ cùng hướng tới sứ mệnh thiêng liêng, đó là “dâng hiến cho đời những sản phẩm được sản xuất bằng tình cảm của cả trái tim mình”.

Với sự đóng góp của các thành viên, cả về vật chất lẫn chuyên môn, HTX Bechamp đã đầu tư xây dựng nhà máy chế biến đạt chuẩn, gồm 2 dây chuyền khép kín, chuyên thu hoạch, chế biến trái tươi và chế biến cà phê chuyên sâu. Thương hiệu cà phê Bechamp, với các dòng sản phẩm đạt chuẩn hữu cơ, đang dần tiếp cận nhiều khách hàng trong và ngoài nước.

Vừa qua, HTX đón 2 đoàn khách từ Anh và Hàn Quốc sang tìm hiểu mô hình, đặt vấn đề hợp tác. Dù thị trường sản phẩm hữu cơ nói chung và cà phê hữu cơ nói riêng vẫn chưa tạo được chỗ đứng vững chắc, do những rào cản về giá cả, nhưng đại diện Bechamp tin rằng, sẽ có một ngày, người tiêu dùng không còn ngần ngại khi lựa chọn sản phẩm hữu cơ và người nông dân không phải làm thuê trên chính mảnh đất của mình.

 

Nhung Bùi

 

Đưa khoa học công nghệ vào trong sản xuất nông nghiệp

 

Khoa học công nghệ (KHCN) đóng góp hơn 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp. Do đó, việc nghiên cứu, ứng dụng KHCN đã và đang được ngành nông nghiệp và môi trường (NN&MT) chú trọng thực hiện.

Ứng dụng KHCN vào sản xuất còn góp phần thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị, hình thành vùng sản xuất khép kín quy mô lớn, hiện đại, nhằm tạo ra sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường.

Thành tựu từ ứng dụng KHCN

Trung tâm Giống Quảng Ngãi (Sở NN&MT) là đơn vị đi đầu trong nghiên cứu, chọn tạo, cung ứng và sản xuất các loại giống lúa của tỉnh cũng như khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Đặc biệt, trung tâm có 4 giống lúa đã được Bộ NN&PTNT (nay là Bộ NN&MT) công nhận độc quyền, gồm: ĐH815-6, QNg13, QNg128 và Thiên Hương (QNg6). Đây là các giống do Trạm Giống cây nông nghiệp Đức Hiệp, thuộc Trung tâm Giống Quảng Ngãi, tự nghiên cứu, chọn tạo và sản xuất, được thị trường khu vực miền Trung - Tây Nguyên ưa chuộng.

 

 

Cán bộ Trạm Giống cây nông nghiệp Đức Hiệp theo dõi, đánh giá đặc tính của các giống lúa đang được đơn vị nghiên cứu, chọn tạo.

Ông Huỳnh Thể, ở tổ dân phố Tân Bình, phường Phổ Minh (TX.Đức Phổ) cho biết, các giống của Trạm Giống cây nông nghiệp Đức Hiệp cho năng suất cao và chất lượng gạo ổn định. Thế nên, hàng chục năm nay, năm nào tôi cũng gieo sạ từ 3 - 4 sào giống ĐH815-6, vì giống lúa này dễ canh tác và cho ra gạo được bạn hàng làm bún ưa chuộng, thu mua với giá cao. Riêng giống lúa Thiên Hương thì gạo thơm ngon, được nhiều đại lý, cửa hàng kinh doanh gạo thu mua, nên tôi thường gieo sạ từ 4 - 5 sào trong vụ đông xuân.

Được nông dân tín nhiệm, nên mỗi năm, Trung tâm Giống Quảng Ngãi cung ứng ra thị trường 500 tấn giống, nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu. Phó Trạm trưởng Phụ trách Trạm Giống cây trồng Đức Hiệp Nguyễn Thị Lệ Quyên cho biết, xác định giống đóng vai trò quan trọng và cốt lõi trong sản xuất nông nghiệp, nên chúng tôi không ngừng nghiên cứu, chọn tạo, cải tiến các loại giống lúa chất lượng, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng từng vùng, địa phương. Ngoài ra, điều kiện thời tiết thay đổi bất thường, dẫn đến nhu cầu sử dụng các giống lúa mới có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu ngày càng cao. Do đó, ngoài việc tiếp tục theo dõi đặc tính của 4 giống lúa độc quyền thì mới đây, trung tâm cũng gửi 2 mẫu giống lúa ĐH98 và ĐH99-81 đến Trung tâm Khảo kiệm nghiệm giống, sản phẩm cây trồng miền Trung (Bộ NN&MT) để khảo nghiệm giá trị canh tác và sử dụng của giống (VCU).

Tháo gỡ những rào cản

Một trong những khó khăn của doanh nghiệp sản xuất giống cây trồng là nguồn lực hạn chế, việc sử dụng các biện pháp lai tạo truyền thống dẫn đến thời gian nghiên cứu cơ bản kéo dài. Như các giống lúa của Trung tâm Giống Quảng Ngãi phải mất hơn 10 năm nghiên cứu, chọn tạo và đánh giá mới được công nhận độc quyền, từ đó được phép sản xuất và cung ứng đại trà ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên.

Động lực từ Nghị quyết 57

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đề ra mục tiêu, đến năm 2030, bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và tăng dần theo yêu cầu phát triển; nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người/một vạn dân; có từ 40 - 50 tổ chức KH&CN được xếp hạng khu vực và thế giới; số lượng đơn đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16 - 18%/năm, tỷ lệ khai thác thương mại đạt 8 - 10%... Vì thế, Nghị quyết 57 được xem là động lực để đẩy mạnh hợp tác giữa doanh nghiệp và các cơ quan, đơn vị nghiên cứu, góp phần thúc đẩy công tác nghiên cứu sát với thực tiễn, cho ra đời những sản phẩm thích hợp, có quy mô lớn, đáp ứng yêu cầu của thị trường, nâng cao hiệu quả kinh tế.

Giám đốc Trung tâm Giống Quảng Ngãi Trịnh Lương Thơm cho hay, trung tâm hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp đòi hỏi chi phí đầu tư lớn nhưng rủi ro cao, trong khi việc hợp tác với các viện nghiên cứu gặp nhiều khó khăn, vướng mắc; nhất là những vấn đề liên quan đến cơ chế tài chính, đất đai, tài sản, trang thiết bị phục vụ công tác nghiên cứu, lai tạo, sản xuất... Bên cạnh đó, trang thiết bị máy móc và hạ tầng vừa thiếu vừa yếu, nên hoạt động sản xuất chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, làm ra hạt giống, chứ chưa chế biến ra sản phẩm cuối để gia tăng giá trị của lúa, gạo. Do đó, trung tâm mong được cơ quan chức năng tháo gỡ những nút thắt qua việc thực thi hiệu quả các chính sách, đặc biệt là Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Theo Tiến sĩ Vũ Văn Khuê - Phó Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Duyên hải Nam Trung Bộ, KHCN không chỉ dừng lại ở việc tăng năng suất, sản lượng mà là tạo ra giá trị gia tăng qua việc tích hợp đa giá trị nhằm giảm chi phí sản xuất, tăng lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm. Với lĩnh vực nông nghiệp, thì việc nghiên cứu, ứng dụng KHCN trong sản xuất giống là 1 trong 3 yếu tố then chốt (cùng với quy trình sản xuất và bảo quản sau thu hoạch) cần được quan tâm, chú trọng. Bởi vì, bộ giống tốt không chỉ gia tăng năng suất và thu nhập cho nông dân, mà còn giúp doanh nghiệp mở rộng thị phần, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh qua các sản phẩm sau chế biến.

Xác định vai trò quan trọng của KHCN trong giai đoạn mới, Sở NN&MT cũng tập trung xây dựng kế hoạch, chương trình hành động; trong đó chú trọng nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, đầu tư hạ tầng, thu hút nhà đầu tư gắn với trọng dụng nhân lực chất lượng cao...

Giám đốc Sở NN&MT Hồ Trọng Phương nhấn mạnh, song song với việc rà soát lại toàn bộ các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, sở cũng đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng KHCN, nhằm nâng cao hiệu quả quản trị ngành, lĩnh vực trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị trực thuộc. Sở nghiên cứu, tham mưu tỉnh đầu tư tập trung cơ sở vật chất, hệ thống trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, thí nghiệm của các đơn vị với quy mô lớn thay vì đầu tư nhỏ lẻ cho từng đơn vị như trước đây. Qua đó, thúc đẩy thương mại hóa các sản phẩm KHCN, đưa những kết quả của quá trình nghiên cứu đi vào thực tiễn, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội địa phương. Ngoài ra, sở còn xây dựng, tham mưu cơ quan chức năng ban hành cơ chế, nguồn lực để đào tạo, hình thành đội ngũ nhân lực trẻ chất lượng cao, phục vụ cho sự nghiệp phát triển KHCN bền vững.

 

Bài, ảnh: MỸ HOA

 

Mở lối cho nông nghiệp đô thị phát triển

 

Đầu tư cho nông nghiệp sinh thái bền vững trước bối cảnh đô thị hóa là nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược của Hà Nội. Do đó, TP đang tập trung tổng thể các giải pháp về quy hoạch, đầu tư công nghệ nâng cao giá trị sản xuất, xây dựng mô hình nông nghiệp sinh thái…

 

 

Vườn nho của hộ gia đình ông Nguyễn Hữu Hùng, ở xã An Thượng, huyện Hoài Đức, Hà Nội. Ảnh: Ngọc Ánh

Nhiều lợi thế, tiềm năng phát triển

Hộ gia đình ông Nguyễn Hữu Hùng, ở xã An Thượng, huyện Hoài Đức, chia sẻ, với hơn 4ha đất nông nghiệp, gia đình ông tập trung trồng nho hạ đen, nho mẫu đơn Hàn Quốc theo hướng an toàn, đáp ứng nhu cầu thị trường. Trang trại của gia đình ông còn kết hợp trồng đu đủ, làm vườn hoa, thu hút du khách tham quan, trải nghiệm mô hình nông nghiệp sinh thái...

Theo Chủ tịch Hội Nông dân huyện Hoài Đức Nguyễn Thị Thanh, dù diện tích đất nông nghiệp trên địa bàn huyện bị thu hẹp nhưng nhờ phát triển du lịch sinh thái, nên vẫn tạo hiệu quả kinh tế cao cho nông dân. Ngoài ra, các mô hình này còn góp phần giữ gìn cảnh quan, tạo sản phẩm nông nghiệp thân thiện môi trường.

Tại huyện Ðan Phượng, hiện địa phương chỉ còn khoảng 2.000ha đất nông nghiệp. Phó Chủ tịch UBND huyện Đan Phượng Nguyễn Thạc Hùng cho hay, khi đất đai bị thu hẹp, huyện tập trung sản xuất nông nghiệp theo chiều sâu, nâng cao giá trị sản xuất.

Đến nay, toàn huyện có 520ha trồng lúa, còn hơn 1.300 ha đất nông nghiệp được chuyển sang sản xuất hoa, cây cảnh, cây ăn quả, rau màu chất lượng cao. Giá trị canh tác ở các vùng rau màu, hoa, cây cảnh đạt từ 300 triệu đồng đến hơn 1 tỷ đồng/ha/năm. Trên địa bàn có nhiều thương hiệu nông sản mạnh như: rau hữu cơ Cuối Quý, nho hạ đen Ðan Phượng, hoa lan Hồ Điệp “Flora Việt Nam”...

Hà Nội có nhiều lợi thế, tiềm năng phát triển nông nghiệp đô thị. Thời gian qua, TP đã đẩy mạnh tái cơ cấu sản xuất theo hướng giảm diện tích trồng lúa, mở rộng diện tích trồng rau, tăng diện tích cây ăn quả và hoa, cây cảnh. TP cũng đã tiến hành chuyển đổi hơn 40.227ha đất lúa sang các mô hình sản xuất nông nghiệp mới, gồm: lúa chất lượng cao hơn 15.600ha, rau an toàn gần 3.000ha, cây ăn quả VietGAP, hữu cơ gần 7.400ha... Đến nay, toàn TP có 285 mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tập trung chủ yếu ở các huyện: Mê Linh, Gia Lâm, Thường Tín, Đông Anh, Thanh Oai, Đan Phượng…

Cốt lõi là tái cơ cấu nông nghiệp hiệu quả, bền vững

Theo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội Nguyễn Xuân Đại, TP hiện có khoảng 198.000ha đất nông nghiệp. Do tốc độ đô thị hóa nhanh, diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Tuy nhiên, nông nghiệp Hà Nội lại có lợi thế lớn, khi có thị trường khoảng 10 triệu dân, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm rất lớn. Trong bối cảnh đó, Hà Nội tập trung phát triển nông nghiệp đô thị với các giải pháp về công nghệ, sinh thái để nâng cao giá trị sản xuất trên diện tích chật hẹp, tạo không gian xanh cho đô thị, tận dụng thị trường tại chỗ, tăng thu bằng kết hợp du lịch.

 

 

Mô hình trồng hoa lan ứng dụng công nghệ cao tại xã Đại Thịnh, huyện Mê Linh, Hà Nội. Ảnh: Phạm Hùng

Lấy dẫn chứng về lĩnh vực hoa, cây cảnh, ông Nguyễn Xuân Đại cho biết, hiện Hà Nội có hơn 8.100ha chuyên canh hoa, cây cảnh, đạt giá trị sản xuất khoảng 7.000 tỷ đồng. Trong đó, 70% diện tích được canh tác tập trung tại các quận, huyện: Bắc Từ Liêm, Tây Hồ, Mê Linh, Đan Phượng, Thường Tín.

Nhiều mô hình trồng hoa, cây cảnh ứng dụng tiến bộ mới về giống, quy trình chăm sóc, nên năng suất, chất lượng sản phẩm được nâng cao. Hoa, cây cảnh là cây trồng giá trị kinh tế cao, vừa tăng thu nhập cho nông dân, giúp tăng mảng xanh thực vật, làm đẹp cho Thủ đô, vừa kết hợp được với du lịch cho chính người dân đô thị.

Bên cạnh đó, để hoàn thành các mục tiêu đã đề ra về xây dựng nông thôn mới gắn với phát triển đô thị, Sở Nông nghiệp và Môi trường và các địa phương đang tiếp tục thực hiện cơ cấu lại sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, giảm diện tích trồng lúa, tập trung phát triển lúa gạo theo hướng tăng cơ cấu giống lúa chất lượng; mở rộng diện tích trồng rau, tăng diện tích hoa, cây cảnh.

Đồng thời, chuyển đổi các diện tích sản xuất lúa tại các vùng khó khăn về tưới tiêu sang cây trồng khác có giá trị kinh tế cao hơn; tập trung phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất con giống, cơ cấu lại đàn vật nuôi, tập trung phát triển con giống chất lượng cao trên cơ sở lưu giữ và bảo tồn các giống bản địa chất lượng cao. TP tiếp tục phát triển chăn nuôi theo vùng, xã trọng điểm, phù hợp với từng vùng và định hướng phát triển của TP; từng bước giảm chăn nuôi nhỏ lẻ trong khu dân cư.

Cũng theo ông Nguyễn Xuân Đại, phương án quy hoạch ngành nông nghiệp Thủ đô được định hướng sản xuất tập trung, quy mô lớn, tổ chức sản xuất theo vùng tập trung phù hợp với điều kiện 3 vùng sinh thái: đồi gò, đồng bằng và bãi ven sông. Tùy theo từng vùng, các địa phương áp dụng các mô hình phát triển phù hợp; đa dạng loại hình sản xuất, kết hợp đa lĩnh vực du lịch, sinh thái, giáo dục, bảo vệ môi trường, nhất là chú trọng hiệu quả kinh tế, nâng cao thu nhập cho nông dân.

Trích dẫn

Trích dẫn 1

“Nông nghiệp đô thị không những có vai trò, vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô mà còn là hình mẫu cho phát triển nông nghiệp của cả nước. Vì vậy, Hà Nội cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp đô thị, xây dựng các mô hình nông nghiệp gắn với du lịch nhằm mang lại giá trị cao nhất, giúp ngành nông nghiệp đạt được kỳ vọng và xứng tầm Thủ đô.”

Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Mạnh Quyền

 

Ánh Ngọc

 

Hợp tác xã nông nghiệp Thượng Nông cấp 11.000 cây giống chuối tiêu hồng cho nông dân huyện Bảo Yên

 

Chiều 2/4, Hợp tác xã nông nghiệp Thượng Nông (huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ) phối hợp với Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Bảo Yên tổ chức trao cây giống chuối tiêu hồng cho nông dân xã Yên Sơn, xã Điện Quan.

Theo đó, Hợp tác xã nông nghiệp Thượng Nông cấp 11.000 cây giống chuối tiêu hồng cho nông dân xã Yên Sơn, xã Điện Quan, trong đó Điện Quan được cấp 5.030 cây, xã Yên Sơn được cấp 5.970 cây. Chương trình thuộc dự án liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm chuối theo tiêu chuẩn VietGAP trên địa bàn huyện, giai đoạn 2023 - 2025.

 

 

Hợp tác xã nông nghiệp Thượng Nông vận chuyển chuối giống cho nông dân xã Điện Quan.

Theo kế hoạch năm 2025, Bảo Yên phấn đấu trồng 110 ha chuối tiêu hồng tại các xã: Xuân Hòa, Kim Sơn, Tân Dương, Yên Sơn, Điện Quan. Trồng chuối đang là một trong những mô hình giúp người dân Bảo Yên cải thiện thu nhập, thoát nghèo.

Sau khi cấp giống cây trồng, cán bộ Hợp tác xã nông nghiệp Thượng Nông đã hướng dẫn người dân kỹ thuật trồng và chăm sóc chuối tiêu hồng theo tiêu chuẩn VietGAP.

Được biết, từ năm 2023, Hợp tác xã nông nghiệp Thượng Nông đã liên kết với Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Bảo Yên triển khai Dự án trồng chuối tiêu hồng trên địa bàn xã Kim Sơn, Xuân Hòa. Sau khi đưa vào trồng, cây sinh trưởng và phát triển tốt, tất cả sản phẩm được HTX thu mua với giá ổn định. Trung bình mỗi héc ta chuối tiêu hồng cho thu nhập khoảng 250 triệu đồng.

 

Thu Dịu - Hoàng Huy

 

Hướng đến nền nông nghiệp xanh

 

Thời gian gần đây, nhiều hộ dân trên địa bàn Thanh Hóa đã áp dụng mô hình nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn vào quá trình sản xuất. Nhờ đó, sản phẩm làm ra không những sạch, an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng mà còn góp phần bảo vệ môi trường.

 

 

Nguồn phân hữu cơ giúp diện tích dưa vàng trong nhà lưới của gia đình ông Lương Ngọc Lai cho năng suất, hiệu quả, thu nhập cao.

Trong khuôn viên trang trại rộng 1,6ha, ông Hà Thịnh Hưng ở xã Nga An (Nga Sơn) đã quy hoạch thành 2 khu vực sản xuất, khu chăn nuôi và trồng trọt áp dụng công nghệ cao trong nhà lưới, ở giữa là ao thả cá. Trên lối đi vào khu vực chăn nuôi là hàng cây ăn quả bưởi, dừa và mít được trồng thẳng lối, vừa tạo không gian xanh, lại có bóng mát. Ông Hưng cho biết: Toàn bộ trang trại này là đất nông nghiệp của gia đình và đất mua lại của các hộ không có điều kiện sản xuất, tôi đã quy hoạch, phát triển mô hình kinh tế V.A.C. Trong đó, xây dựng 5.500m2 nhà lưới trồng cây ăn quả theo hướng công nghệ cao (3.500m2 trồng dưa vàng và 2.000m2 trồng nho sữa Hàn Quốc). Đối với 2 ao thả cá, mỗi ao 1.000m2. Diện tích còn lại xây dựng 2 khu chuồng trại để chăn nuôi gần 1.000 con lợn thịt/lứa và 50 lợn nái sinh sản.

Do chăn nuôi quy mô lớn nên để xử lý chất thải an toàn, hợp vệ sinh, ông Hưng đã xây dựng hệ thống biogas. Toàn bộ chất thải chăn nuôi khoảng 20 tấn/năm được chuyển xuống ngâm ủ tại bể biogas, sau đó bơm lên các ao lắng, phối trộn với chế phẩm sinh học, tiếp tục quá trình ngâm ủ để trở thành phân bón hữu cơ. Nguồn phân này được ông sử dụng để chăm sóc toàn bộ cây trồng trong trang trại, vừa có tác dụng cải tạo đất, vừa không gây ô nhiễm môi trường.

Nhờ thực hiện quy trình tuần hoàn, khép kín trong quá trình sản xuất nên gia đình ông không những tận dụng tối đa các loại phụ phẩm trong sản xuất, tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao giá trị thu nhập, mà toàn bộ chất thải trong quá trình sản xuất được tận dụng triệt để, không thải ra môi trường. Đặc biệt, do sản phẩm làm ra luôn đảm bảo chất lượng, sạch và an toàn nên toàn bộ diện tích dưa, nho và nhiều cây ăn quả khác được người tiêu dùng đón nhận, góp phần đem lại lợi nhuận từ trồng trọt, chăn nuôi cho gia đình từ 700 - 800 triệu đồng/năm.

 

 

Nguồn thải từ đàn gà chọi là đầu vào của quá trình khác tạo thành quy trình tuần hoàn khép kín được ông Lương Ngọc Lai áp dụng trong mô hình kinh tế của gia đình.

Nhờ học tập và áp dụng thành công quy trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn không chất thải, trang trại của gia đình ông Lương Ngọc Lai ở xã Luận Thành (Thường Xuân) là một trong những “trang trại 3 sạch” đầu tiên của tỉnh. Ông Lai cho biết: "Trên diện tích 7ha đã đầu tư 2 tỷ đồng xây dựng chuồng trại, nuôi 20.000 đến 22.000 con gà chọi và xây dựng hơn 800m2 nuôi giun quế. Để mô hình khép kín hiệu quả, gia đình đã sử dụng phân gà và chế phẩm sinh học EM nuôi giun quế, rồi lấy giun quế nuôi gà và phân của giun quế làm phân bón cho cây trồng. Nhờ việc tận dụng tối đa các sản phẩm, phụ phẩm trong sản xuất đã giúp gia đình tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp, được người tiêu dùng ưa chuộng".

Được biết, mỗi năm, trang trại của gia đình ông Lai tạo ra 30 tấn gà và 20 tấn nông sản chất lượng, an toàn. Nhờ chất lượng vượt trội nên sản phẩm được các doanh nghiệp, cửa hàng thực phẩm sạch thu mua, góp phần đem lại lợi nhuận cho gia đình 400 triệu đồng/năm.

Ngoài hai mô hình trên, còn rất nhiều mô hình khác thuộc các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh đã lựa chọn sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn không chất thải và đã đem lại hiệu quả rõ rệt.

Nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn không chất thải là quá trình sản xuất kết hợp giữa truyền thống và các tiến bộ khoa học - kỹ thuật cùng những phương pháp quản lý hiện đại theo chu trình khép kín. Các chất thải, phế phụ phẩm của quá trình sản xuất này được tận dụng làm nguyên liệu cho quá trình sản xuất khác để tạo ra các sản phẩm an toàn, chất lượng cao, giảm chi phí sản xuất, bảo vệ môi trường, nâng cao giá trị, khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản, tăng thu nhập cho người sản xuất.

Hướng đến nền nông nghiệp xanh, thời gian qua, tỉnh Thanh Hóa đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách về phát triển nông nghiệp, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đến nay, toàn tỉnh đã có gần 3.000ha diện tích cây trồng đạt tiêu chuẩn

VietGAP; 15,46ha cây trồng được chứng nhận đạt tiêu chuẩn hữu cơ; có khoảng hơn 5.700ha cây trồng sản xuất theo hướng hữu cơ... Tuy nhiên, số mô hình sản xuất nông nghiệp tuần hoàn không chất thải vẫn còn hạn chế. Theo đó, ngày 16/10/2023, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã có Chỉ thị số 10-CT/TU về lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn trên địa bàn tỉnh, nhằm tạo ra các sản phẩm nông nghiệp có chất lượng, có thương hiệu, giá trị kinh tế cao và phát triển bền vững.

 

Bài và ảnh: Minh Lý

 

Bắc Kạn hỗ trợ người dân khôi phục sản xuất vùng thiên tai, dịch hại

 

Ngày 3/4, tại Kỳ họp thứ 26, Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Kạn đã thông qua nghị quyết quy định mức hỗ trợ sản xuất nông nghiệp để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh.

 

 

Kỳ họp đã thông qua 13 nghị quyết quan trọng. (Ảnh: TUẤN SƠN)

Việc xây dựng và ban hành nghị quyết này được dư luận đồng tình, ủng hộ cao do thời gian qua, Bắc Kạn liên tiếp hứng chịu nhiều thiệt hại trong sản xuất nông nghiệp bởi thiên tai và dịch bệnh.

Theo Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn, từ năm 2017 tới nay, tỉnh đã chi hơn 32 tỷ đồng để hỗ trợ nhân dân ổn định sản xuất sau khi chịu thiệt hại bởi thiên tai, dịch bệnh.

Tuy nhiên, với chi phí sản xuất và giá cả thị trường hiện nay, các mức hỗ trợ cũ không còn phù hợp.

Theo nghị quyết mới được thông qua, Bắc Kạn quyết định sẽ hỗ trợ cho cây trồng, gồm: lúa, mạ, cây hàng năm khác, cây trồng lâu năm theo từng giai đoạn sinh trưởng và diện tích bị thiệt hại của cây trồng với mức hỗ trợ thấp nhất là 3 triệu đồng/ha, cao nhất là 60 triệu đồng/ha.

Đối với cây lâm nghiệp, theo diện tích bị thiệt hại, tỉnh hỗ trợ mức thấp nhất là 4 triệu đồng/ha, cao nhất là 60 triệu đồng/ha.

Đối với thủy sản, tùy theo hình thức nuôi trồng, tỉnh hỗ trợ thấp nhất 15 triệu đồng/ha, cao nhất là 60 triệu đồng/ha.

Đối với vật nuôi bị thiệt hại, tùy từng loại gia cầm, gia súc và thời gian chăm sóc, tỉnh hỗ trợ mức thấp nhất là 4.000 đồng/con, cao nhất là 3 triệu đồng/con, riêng ong mật hỗ trợ 400.000 đồng/đàn.

Nguồn kinh phí hỗ trợ sẽ sử dụng từ nguồn ngân sách trung ương hỗ trợ, ngân sách địa phương, Quỹ Phòng, chống thiên tai và các nguồn tài chính hợp pháp khác.

 

 

Các đại biểu nghe trình bày các tờ trình dự thảo nghị quyết tại kỳ họp. (Ảnh: TUẤN SƠN)

Cũng tại kỳ họp này, Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Kạn đã thông qua một số nghị quyết quan trọng khác về điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương, và phân bổ ngân sách cấp tỉnh năm 2025; phân bổ, điều chỉnh dự toán chi thường xuyên của các chương trình mục tiêu quốc gia; điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025; quy định chế độ ưu đãi miễn tiền thuê đất đối với dự án sử dụng đất vào mục đích sản xuất, kinh doanh thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư hoặc tại địa bàn ưu đãi đầu tư; chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác để thực hiện các công trình, dự án…

Theo đồng chí Phương Thị Thanh, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Kạn, các nghị quyết thông qua tại kỳ họp này đều là những nội dung quan trọng, có tác động lớn đến phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.

Đồng chí Phương Thị Thanh yêu cầu, ngay sau kỳ họp, các cơ quan, đơn vị, địa phương phải tập trung triển khai các nghị quyết với tinh thần chủ động, sáng tạo, quyết tâm cao.

Các đơn vị phải quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành để bảo đảm kịch bản tăng trưởng, đạt mục tiêu đề ra, nhất là tập trung hoàn thành xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo theo đúng kế hoạch.

Song song với thực hiện, các đơn vị cũng phải triển khai giám sát việc thực hiện nghị quyết, nắm bắt thực tiễn để kịp thời phản ánh, kiến nghị với Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân tỉnh cùng các cơ quan hữu quan.

Đồng chí Phương Thị Thanh cũng đặc biệt lưu ý các cơ quan, địa phương cần nghiên cứu thật kỹ lưỡng Quyết định số 608/QĐ-TTg ngày 15/3/2025 của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch triển khai các nhiệm vụ, giải pháp về đẩy mạnh phân quyền, phân cấp theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương để triển khai thực hiện hiệu quả, đúng thẩm quyền.

 

TUẤN SƠN

 

Mù Cang Chải: Tổ chức 16 lớp tập huấn kỹ thuật nông nghiệp cho người dân

 

Từ ngày 31/3 đến ngày 3/4, Trung tâm Dịch vụ, Hỗ trợ phát triển nông nghiệp huyện Mù Cang Chải đã phối hợp với Tập đoàn Giống cây trồng Việt Nam, Công ty cổ phần SUPE Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao, Công ty Syngenta Việt Nam tổ chức 16 lớp tập huấn cho nông dân các xã trên địa bàn huyện.

 

 

Quang cảnh lớp tập huấn.

Trung tâm đã phối hợp với Công ty Syngenta Việt Nam tổ chức 6 lớp tập huấn cho 360 học viên về kỹ thuật gieo cấy giống lúa Syn 18; phối hợp Công ty Cổ phần tập đoàn giống cây trồng Việt Nam và Công Ty Cổ phần Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao tổ chức 10 lớp tập huấn cho 334 lượt học viên về cách sử dụng phân bón hiệu quả, nhận biết phân bón thật, giả và kỹ thuật gieo cấy giống lúa Thụy hương 308 vụ mùa.

Tại các lớp tập huấn, người dân ở các xã: Nậm Có, Cao Phạ, Nậm Khắt, Púng Luông, Kim Nọi, Chế Cu Nha, Mồ Dề, Lao Chải đã được các giảng viên, chuyên gia hướng dẫn về quy trình kỹ thuật chăm sóc các giống cây trồng, tư vấn cho bà con về các loại giống cây trồng, hướng dẫn bà con cách nhận biết một số giống giả, cũng như phân bón giả kém chất lượng và nhái nhãn mác trên thị trường để phòng tránh rủi ro cho bà con trước khi vào mùa vụ sản xuất.

Hướng dẫn người dân sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, thu gom xử lý bao gói thuốc bảo vệ thực vật tránh gây ô nhiễm và bảo vệ môi trường; hướng dẫn kỹ thuật về tiêm phòng cho gia súc, gia cầm, chẩn đoán và điều trị các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm và các bệnh mới xuất hiện như: Viêm da nổi cục, Dịch tả lợn Châu Phi..., phòng chống đói rét, dự trữ thức ăn cho gia súc…

Người dân cũng được tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn, nông dân và khuyến nông; đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới áp dụng vào thực tế sản xuất và xây các dựng mô hình trình diễn, chuyển giao tiến bộ - khoa học - kỹ thuật đảm bảo thiết thực, hiệu quả, phù hợp với từng xã theo mùa vụ, tình hình dịch bệnh cây trồng vật nuôi trên địa bàn huyện, địa phương.

 

Hoài Văn

 

Liên kết sản xuất – 'chìa khóa' giảm nghèo cho bà con nông dân Lào Cai

 

Việc xây dựng các mối liên kết giữa doanh nghiệp, HTX với các hộ nông dân tại Lào Cai đã tạo chuỗi giá trị từ khâu sản xuất đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo tính bền vững trong sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Từ đó, nâng cao giá trị nông sản địa phương, giúp giảm nghèo bền vững.

Theo đánh giá của ngành nông nghiệp, những năm qua, Lào Cai dành sự quan tâm rất lớn cho mô hình hợp tác, liên kết trong nông nghiệp. Đến nay, toàn tỉnh có 50 mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp với sự tham gia của 45 doanh nghiệp, HTX, quy mô khoảng 18.000 ha, liên kết với hơn 17.000 hộ dân; giá trị các chuỗi liên kết năm 2024 đạt 1.560 tỷ đồng.

“Bà đỡ” HTX

Gia đình ông Nguyễn Văn Lượng, tổ dân phố số 5, thị trấn Nông trường Phong Hải (Bảo Thắng) có gần 20 năm nuôi thủy sản (chủ yếu nuôi cá chép lai, rô phi đơn tính). Trước đây, ông Lượng gặp nhiều khó khăn trong việc chăm sóc, tiêu thụ cá do sản xuất đơn lẻ. Đến kỳ xuất bán phụ thuộc vào thương lái, giá bán bấp bênh, thương lái thường bắt chọn cá to, bỏ lại cá nhỏ nên rất khó tiêu thụ. Năm 2020, ông Lượng tham gia HTX Thủy sản Phong Hải, được tập huấn kỹ thuật về chăm sóc, phòng bệnh cho cá, chăn nuôi theo quy trình an toàn.

Ông Lượng chia sẻ, các hộ thành viên đều thực hiện nghiêm kế hoạch mà HTX đã xây dựng. Đến kỳ xuất bán sẽ có Tổ đánh bắt đến tận nơi và Tổ kinh doanh phân chia hàng giao đi các tỉnh. HTX nhận cung ứng từ con giống, thuốc phòng bệnh và thức ăn cho cá tới bao tiêu sản phẩm nên gia đình yên tâm sản xuất.

 

 

Tham gia HTX Thủy sản Phong Hải, thành viên được tập huấn kỹ thuật về chăm sóc, phòng bệnh cho cá, chăn nuôi theo quy trình an toàn.

Tại huyện Bát Xát, mô hình liên kết sản xuất lúa Séng cù gắn với thị trường tiêu thụ được đánh giá là thành công. Theo đó, với sự hỗ trợ của ngành nông nghiệp và Liên minh HTX tỉnh, HTX Nông nghiệp và Dịch vụ Lào Cai đã liên kết với các hộ nông dân xã Mường Vi xây dựng mô hình liên kết sản xuất lúa với diện tích 165 ha. HTX cung ứng lúa giống, hướng dẫn nông dân kỹ thuật gieo mạ, cấy lúa, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho lúa theo hướng hữu cơ và ký hợp đồng bao tiêu toàn bộ sản phẩm với giá ổn định.

“Nhờ liên kết sản xuất, chúng tôi có cơ hội tiếp cận khoa học - kỹ thuật, đầu ra sản phẩm ổn định, mang lại thu nhập cao hơn so với trước đây. Trước kia, gia đình bán thóc tươi với giá 9 nghìn đồng/kg, từ khi tham gia liên kết với doanh nghiệp, giá bán thóc ổn định ở mức 12 - 14 nghìn đồng/kg, giúp nâng cao thu nhập, ổn định sản xuất”, bà Trần Thị Thanh, xã Mường Vi phấn khởi kể.

Theo ông Bùi Văn Khôi, Giám đốc HTX Nông nghiệp và Dịch vụ Lào Cai, để tăng sự ràng buộc trong liên kết, đơn vị ký hợp đồng với từng hộ bằng những điều khoản chặt chẽ. HTX cam kết đảm bảo quyền lợi của người dân khi tham gia liên kết, mong muốn người dân nâng cao trách nhiệm, giữ chữ tín.

Mở hướng làm giàu

Lãnh đạo tỉnh cho biết, việc liên kết tạo thuận lợi cho Nhà nước trong chuyển giao khoa học - kỹ thuật, triển khai các chính sách hỗ trợ, đồng thời giúp nông dân nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và doanh nghiệp đảm bảo được nguồn nguyên liệu ổn định, tạo tiền đề hình thành vùng sản xuất quy mô lớn.

Đặc biệt, sự vào cuộc của các HTX đã góp phần thay đổi tư duy sản xuất từ tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hóa, liên kết bao tiêu sản phẩm, nâng cao giá trị nông sản địa phương. Nhiều HTX đang phát huy vai trò là trụ đỡ cho kinh tế hộ, tạo chuyển biến căn bản về phương thức sản xuất hàng hóa, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân.

Không chỉ vậy, nhiều HTX còn phối hợp với các cơ quan chuyên môn như Trường bồi dưỡng cán bộ (Liên minh HTX Việt Nam) tổ chức tập huấn, hướng dẫn các thành viên, người dân về kỹ thuật trồng và chăm sóc, thu hoạch cây trái trên địa bàn giúp bà con yên tâm tự tin mở rộng canh tác.

Các HTX đã chú trọng ứng dụng khoa học kỹ thuật, sản xuất theo chuỗi, tham gia chương trình OCOP, phát triển vùng hàng hóa đặc hữu. Nhờ đó, những mô hình sản xuất của các hộ gia đình, HTX hàng năm đem lại nguồn thu hàng trăm tỷ đồng cho người dân, góp phần xóa đói, giảm nghèo bền vững.

“Các địa phương đã xây dựng thương hiệu cho nhiều loại nông sản đặc trưng như ớt; gạo Séng Cù; quýt; chè Kim Tuyên, Bát Tiên, Ô Long, chè Shan... Mường Khương cũng đang đẩy mạnh kênh du lịch trải nghiệm để thúc đẩy xúc tiến thương mại, hỗ trợ đắc lực cho công tác giảm nghèo nhanh và bền vững tại địa phương”, đại diện tỉnh chia sẻ.

Hiệu quả trong liên kết, hợp tác giữa các HTX, doanh nghiệp, mô hình kinh tế nông nghiệp đã có đóng góp quan trọng nâng cao hiệu quả chương trình xây dựng nông thôn mới tại địa phương.

 

 

HTX Nông nghiệp và Dịch vụ Lào Cai đã liên kết với các hộ nông dân xã Mường Vi xây dựng mô hình liên kết sản xuất lúa với diện tích 165 ha.

Nhờ đó, bộ mặt nông thôn của các địa phương thuộc tỉnh Lào Cai đã được thay đổi rõ nét; đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của người dân được nâng lên.

Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh. Năm 2024, tại các huyện khó khăn của Lào Cai như Si Ma Cai, Bắc Hà, Mường Khương, Bát Xát, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm 6,29% (tương ứng 3.275 hộ thoát nghèo). Riêng ở Si Ma Cai, con số này là 7,69%, Mường Khương đạt 7,50%. Đồng bào dân tộc thiểu số, chiếm phần lớn dân số tỉnh, cũng có sự cải thiện rõ rệt khi tỷ lệ nghèo giảm 5,83%.

Đại diện UBND tỉnh Lào Cai cho biết, công tác giảm nghèo ở các địa phương được cấp ủy, chính quyền các cấp coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Năm 2025, tỉnh tiếp tục đặt ra những mục tiêu giảm thêm trên 6.800 hộ nghèo và cận nghèo, hướng tới hoàn thành việc giảm một nửa số hộ nghèo so với đầu kỳ 2021-2025. 100% các huyện nghèo sẽ được hỗ trợ xây dựng hạ tầng thiết yếu.

Hướng tới phát triển theo chuỗi bền vững

Theo đánh giá của ngành nông nghiệp, liên kết mang lại nhiều lợi ích, tuy nhiên ở một số địa phương vẫn còn mô hình liên kết lỏng lẻo. Có trường hợp người dân vì lợi ích trước mắt mà tự phá vỡ hợp đồng, không thực hiện đúng cam kết. Ngoài ra, một số HTX trên địa bàn chưa làm tốt công tác tổ chức sản xuất.

Thời gian tới, ngành nông nghiệp sẽ tăng cường tuyên truyền để người dân hiểu rõ lợi ích mà liên kết mang lại, là hướng đi tất yếu khi chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, từ đó tạo được giá trị gia tăng trong sản xuất.

Để các chuỗi liên kết trong sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả cao, ngành nông nghiệp đề xuất tỉnh đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn, tạo thuận lợi trong trao đổi hàng hóa; gắn liên kết sản xuất với xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu; đồng thời rà soát lại những cơ chế, chính sách còn bất cập, đưa ra chính sách hỗ trợ phù hợp nhằm mở rộng thêm các chuỗi liên kết ngày càng bền vững.

Tỉnh Lào Cai xác định phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị, thực hiện các Chương trình MTQG giai đoạn 2021-2025 là định hướng phát triển sản xuất là những nhiệm vụ, nội dung quan trọng trong giai đoạn tới. Đây là một nhiệm vụ khó khăn để thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp của người dân, hướng tới sản xuất nông nghiệp hàng hóa, nông nghiệp xanh, nông nghiệp an toàn, giúp nâng cao hiệu quả sản xuất, thu nhập cho nông dân và doanh nghiệp, phát triển kinh tế, xã hội; góp phần hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh mà Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đề ra. Do vậy, bên cạnh sự nỗ lực của ngành, rất cần có sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng của người dân, doanh nghiệp, HTX...

Linh Đan

 

Dồn sức hoàn thành chỉ tiêu tập trung, tích tụ 15 ngàn ha đất sản xuất nông nghiệp

 

Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 18/11/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh, toàn tỉnh đã tập trung, tích tụ được 10.120,35 ha đất nông nghiệp.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy vừa ban hành kết luận về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 18/11/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tập trung, tích tụ ruộng đất gắn với xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025 và những năm tiếp theo.

 

 

Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU, nhiều địa phương có cách làm mới, thực hiện chuyển đổi ruộng đất đạt mục tiêu, chỉ tiêu theo yêu cầu.

Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 18/11/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tập trung, tích tụ ruộng đất gắn với xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025 và những năm tiếp theo (gọi tắt là Nghị quyết số 06-NQ/TU), đến nay, đã có 10/12 huyện, thành phố đã triển khai thực hiện (TX Hồng Lĩnh và TX Kỳ Anh không triển khai thực hiện việc tập trung, tích tụ ruộng đất do quỹ đất nông nghiệp vướng các quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội khác); công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tập trung, tích tụ ruộng đất gắn với nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị được tập trung cao; nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, người dân, doanh nghiệp đối với công tác tập trung, tích tụ ruộng đất được nâng lên; quá trình triển khai thực hiện đảm bảo phát huy dân chủ, công khai, minh bạch, tạo sự đồng thuận thống nhất trong Nhân dân.

Kết quả đã tập trung, tích tụ được 10.120,35 ha đất nông nghiệp, đạt 67,47% chỉ tiêu Nghị quyết đề ra. Công tác quy hoạch các vùng sản xuất tập trung và thu hút doanh nghiệp đầu tư sản xuất nông nghiệp bước đầu được quan tâm; nhiều địa phương có cách làm mới, thực hiện chuyển đổi ruộng đất đạt mục tiêu, chỉ tiêu theo yêu cầu của Nghị quyết (Lộc Hà cũ, Cẩm Xuyên, Can Lộc). Nhân dân nhận thức được hiệu quả của công tác chuyển đổi ruộng đất và đồng thuận hưởng ứng, mạnh dạn áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao thu nhập, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới.

Tuy vậy, việc thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU vẫn còn một số tồn tại, hạn chế: công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết có lúc, có nơi thiếu quyết liệt, tiến độ chậm so với yêu cầu, chưa đạt mục tiêu Nghị quyết (Thạch Hà, Hương Sơn, Nghi Xuân); chính sách hỗ trợ công tác tập trung, tích tụ ruộng đất theo Nghị quyết số 51/2021/NQ-HĐND còn một số bất cập; công tác tham mưu kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn, xử lý các khó khăn, vướng mắc tại cơ sở của một số sở, ngành chưa kịp thời. Một số địa phương có địa hình phức tạp dẫn đến khó khăn trong công tác tập trung, tích tụ ruộng đất (các huyện: Hương Khê, Hương Sơn, Vũ Quang). Tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất còn chậm, tỷ lệ giải ngân chính sách hỗ trợ tập trung, tích tụ ruộng đất đạt thấp. Một số người dân vẫn còn tư duy canh tác nhỏ lẻ, tự cung, tự cấp gây khó khăn cho công tác tập trung, tích tụ ruộng đất. Một số Đoàn công tác của Ban Thường vụ Tỉnh ủy chưa thực sự sâu sát, thường xuyên kiểm tra đôn đốc, hướng dẫn địa phương, cơ sở.

Để tiếp tục thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 06-NQ/TU, Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

1. Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến, quán triệt, thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp Nghị quyết số 06-NQ/TU và Kết luận này nhằm nâng cao nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên, người dân, doanh nghiệp về vị trí, vai trò của việc thực hiện tập trung, tích tụ ruộng đất gắn với xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025 và những năm tiếp theo.

2. Tập trung hoàn thành các chỉ tiêu quan trọng của Nghị quyết số 06-NQ/TU giai đoạn 2021 – 2025: tập trung, tích tụ 15.000ha đất sản xuất nông nghiệp; hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất trong vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao với quy mô diện tích từ 2 ha trở lên; doanh nghiệp, hợp tác xã thông qua các hình thức tập trung ruộng đất tạo thành vùng sản xuất tập trung đạt quy mô từ 30ha trở lên; đối với nơi thực hiện tập trung, tích tụ ruộng đất phấn đấu còn 1-2 thửa/hộ, trong đó từ 75% số hộ trở lên sử dụng 1 thửa/loại đất. Đồng thời hoàn thành việc đo đạc, chỉnh lý bản đồ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau chuyển đổi ruộng đất, gắn với thực hiện chuyển đổi số.

3. Tăng cường công tác chỉ đạo thực hiện tập trung, tích tụ ruộng đất tại cơ sở đảm bảo kế hoạch đã phê duyệt; phân công nhiệm vụ cụ thể cho các phòng, ban, đơn vị và cán bộ chuyên môn trực tiếp phụ trách theo dõi, đôn đốc, chỉ đạo, hướng dẫn; kịp thời phát hiện những bất cập, khó khăn để đề xuất các giải pháp xử lý vướng mắc trong quá trình thực hiện tại cơ sở. Việc thực hiện tập trung tích tụ ruộng đất phải gắn với việc sáp nhập đơn vị hành chính (chính quyền 2 cấp), tạo không gian phát triển.

Chỉ đạo các địa phương khẩn trương hoàn thiện phương án dồn điền đổi thửa, đảm bảo điều kiện, tiêu chí theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Nghị quyết số 125/2024/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh; đảm bảo thời gian thực hiện theo các quyết định phê duyệt thiết kế kỹ thuật - dự toán đã được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt.

Tập trung hoàn thành việc kê khai, đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau tập trung, tích tụ ruộng đất, sau chuyển đổi ruộng đất cho cá nhân. Kịp thời hoàn thiện các hồ sơ liên quan trong thực hiện tập trung tích tụ ruộng đất trình cấp có thẩm quyền để thực hiện hỗ trợ theo quy định.

4. Tiếp tục kêu gọi, thu hút các doanh nghiệp vào đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp. Tập trung thực hiện công tác dồn điền đổi thửa, chỉnh trang đồng ruộng, gắn với việc ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và tiếp tục thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất; nhân rộng các mô hình, chuỗi liên kết nông nghiệp theo hướng hữu cơ, tuần hoàn, triển khai hiệu quả Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ. Phát triển bền vững các chuỗi liên kết sản xuất.

5. Tăng cường công tác giám sát việc thực hiện các cơ chế chính sách theo các Nghị quyết đã ban hành, nhất là đối với chính sách hỗ trợ tập trung, tích tụ ruộng đất theo Nghị quyết số 51/2021/NQ-HĐND ngày 16/12/2021 và Nghị quyết số 125/2024/NQ-HĐND ngày 18/7/2024 của Hội đồng nhân dân tỉnh; kịp thời phát hiện các nội dung bất cập để đề xuất điều chỉnh, bổ sung các cơ chế chính sách, hỗ trợ bảo đảm phù hợp với thực tiễn và thuận lợi trong quá trình triển khai thực hiện tại địa phương, cơ sở. Tiếp tục nghiên cứu xây dựng chính sách cho giai đoạn 2026-2030 phù hợp với điều kiện, tình hình thực tiễn trong giai đoạn mới.

6. Cấp ủy các cấp ban hành chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm có nội dung kiểm tra, giám sát đối với việc lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU; đồng thời theo dõi, kiểm tra, giám sát việc khắc phục những hạn chế, khuyết điểm được chỉ ra tại các kết luận kiểm tra, giám sát đối với các địa phương, đơn vị.

7. Tiếp tục phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và Nhân dân tích cực hưởng ứng thực hiện chủ trương về tập trung, tích tụ ruộng đất; thực hiện tốt chức năng phản biện xã hội đối với các cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, tập trung, tích tụ ruộng đất.

8. Tổ chức thực hiện:

Ban Thường vụ Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh tập trung chỉ đạo các sở, ban, ngành, địa phương thực hiện Chương trình hành động và các văn bản đã ban hành; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, chỉ đạo các sở, ban, ngành liên quan đôn đốc, hướng dẫn, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho địa phương, cơ sở trong việc triển khai, tổ chức thực hiện các nội dung Nghị quyết số 06-NQ/TU của Tỉnh ủy và các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh về cơ chế, chính sách hỗ trợ tập trung, tích tụ ruộng đất; chỉ đạo các địa phương, đơn vị liên quan kịp thời hoàn thành công tác đo đạc, chỉnh lý bản đồ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi hoàn thành tập trung chuyển đổi ruộng đất theo phương án đã được phê duyệt cho các hộ gia đình, cá nhân đảm bảo theo quy định. Xây dựng chính sách hỗ trợ tập trung tích tụ ruộng đất giai đoạn 2026-2030. Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Kết luận, định kỳ báo cáo Thường trực, Ban Thường vụ Tỉnh ủy.

Cấp ủy các cấp tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt, tuyên truyền và tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 06-NQ/TU của Tỉnh ủy, Nghị quyết số 51/2021/NQ-HĐND ngày 16/12/2021, Nghị quyết số 125/2024/NQ-HĐND ngày 18/7/2024 của Hội đồng nhân dân tỉnh và các văn bản chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh về tập trung, tích tụ ruộng đất và kết luận này; thường xuyên kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết, kết luận, kịp thời phát hiện các tồn tại, hạn chế để đề xuất giải pháp khắc phục; hằng năm tổ chức sơ kết, đánh giá việc triển khai thực hiện, chỉ rõ các tồn tại, hạn chế và đề ra giải pháp cụ thể để thực hiện có hiệu quả công tác tập trung, tích tụ ruộng đất.

Các đoàn công tác của Ban Thường vụ Tỉnh ủy phát huy cao trách nhiệm, chỉ đạo toàn diện các nội dung ở các địa phương, trong đó tập trung cao chỉ đạo công tác tập trung, tích tụ ruộng đất.

Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tiếp tục tuyên truyền phổ biến Nghị quyết, kết luận, chính sách của tỉnh; chỉ đạo các cơ quan báo chí của tỉnh thường xuyên tuyên truyền việc thực hiện tập trung, tích tụ ruộng đất.

 

P.V

 

Hiếu Giang tổng hợp

 

 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop