Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 5 tháng 5 năm 2025

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 5 tháng 5 năm 2025

 

3 kịch bản dự báo cho ngành nông, lâm, thủy sản Việt Nam trong năm 2025

Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã đưa ra 3 kịch bản dự báo cho ngành nông, lâm, thủy sản Việt Nam trong năm 2025.

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hiện nay Mỹ là thị trường xuất khẩu nông, lâm, thủy sản lớn thứ 2 của Việt Nam (sau Trung Quốc), chiếm 20,2% tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam.

Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam trong tháng 4/2025 ước đạt gần 5,5 tỷ USD. Tính chung 4 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 21 tỷ USD, tăng gần 11% so với cùng kỳ năm ngoái.

Xuất khẩu nông sản đạt 11,6 tỷ USD, tăng khoảng 12%; thủy sản gần 3,1 tỷ USD, tăng hơn 13%; và lâm sản hơn 5,5 tỷ USD, tăng 6%. Thị trường lớn nhất vẫn là châu Á, chiếm hơn 40% tổng kim ngạch, tiếp theo là châu Mỹ và châu Âu. Đáng chú ý, xuất khẩu sang châu Âu tăng gần 40%, châu Mỹ tăng hơn 12% và Nhật Bản tăng hơn 23%. Đây là tín hiệu tích cực cho thấy nỗ lực mở rộng và đa dạng hóa thị trường đang mang lại hiệu quả.

Năm 2024, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản sang Mỹ đạt hơn 14,3 tỷ USD, tăng 25% so với năm 2023. Trong quý I/2025, xuất khẩu nông lâm thủy sản sang thị trường này đạt hơn 3,2 tỷ USD, tăng gần 15% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực gồm: gỗ, tiêu, điều, thủy sản, cà phê và rau quả.

Hiện nay, Mỹ đang hoãn áp thuế đối ứng 46% với hàng nhập từ Việt Nam. Tuy nhiên, để ứng phó với việc thời gian tới, khi Mỹ vẫn quyết định áp mức thuế cao, Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã đưa ra 3 kịch bản dự báo cho ngành nông lâm thủy sản Việt Nam trong năm 2025.

3 kịch bản dự báo cho ngành nông lâm thủy sản Việt Nam trong năm 2025. Ảnh: Minh họa

Mỗi kịch bản đều gắn liền với những mức thuế cụ thể mà Mỹ có thể áp dụng, từ đó phản ánh tác động tương ứng đến kim ngạch xuất khẩu và tăng trưởng ngành.

Kịch bản 1: Nếu thuế suất giữ ở mức 10% suốt năm 2025 và áp dụng đồng đều cho các nước, xuất khẩu và mục tiêu tăng trưởng ngành nông nghiệp sẽ gần như không bị ảnh hưởng.

Kịch bản 2: Nếu sau thời gian hoãn, hai bên thống nhất mức thuế 20%, xuất khẩu 6 tháng cuối năm có thể giảm 20%, kéo tăng trưởng ngành nông lâm thủy sản giảm 0,15 - 2 điểm %, còn khoảng 3,8 - 3,85%.

Kịch bản 3: Nếu Mỹ vẫn áp thuế 46%, xuất khẩu nửa cuối năm dự kiến giảm 40%, khiến tăng trưởng ngành giảm 0,3 - 0,4 điểm %, còn 3,6 - 3,8%.

Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường cũng đưa ra các giải pháp ứng phó như tăng cường đối thoại với Mỹ, hỗ trợ khẩn cấp và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Khánh Linh

 

Nông nghiệp thời công nghệ số

Công nghệ số đang 'gõ cửa' những hộ dân làm nông nghiệp ở Thái Nguyên. Không chỉ riêng các trang trại, nhiều nông hộ đã mạnh dạn ứng dựng công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Điều thiết thực nhất chính là nhà nông thời công nghệ 4.0 đã có những bước chuyển mình khi việc 'số hóa' giúp giảm công lao động, chi phí đầu tư, nâng cao chất lượng sản phẩm, giúp đầu ra được thuận lợi hơn.

 

Nhiều hộ chăn nuôi ở xã Linh Sơn (TP. Thái Nguyên) đã đưa công nghệ số vào các khâu như: cung cấp thức ăn và nước uống tự động, hệ thống nước làm mát tự động, camera giám sát 24/7...

Nâng cao hiệu quả sản xuất

Thái Nguyên hiện có trên 1.250 trang trại chăn nuôi, trong đó hầu hết các trang trại đã áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong quản lý.

Đơn cử như trang trại chăn nuôi gia cầm và ấp trứng của ông Nguyễn Văn Đường, ở thị trấn Hương Sơn (Phú Bình). Được hình thành từ năm 2002, trang trại có diện tích 20.000m2, hiện nuôi 20 nghìn con gà đẻ trứng (giống gà đông tảo lai), quy mô 13 lò ấp nở gia cầm, cung cấp ra thị trường khoảng 20 vạn gà con/tháng, tạo việc làm cho 13 lao động địa phương với mức thu nhập bình quân khoảng 7-8 triệu đồng/người/tháng.

Ông Đường cho hay: Trước đây, việc chăn nuôi và ấp nở thực hiện hoàn toàn thủ công, không chỉ tốn nhân lực, mà còn tốn thời gian, con giống nhiều khi không đảm bảo và không đáp ứng được nhu cầu của thị trường do tỷ lệ trứng nở thấp, chỉ đạt khoảng 75%. Sau đó, tôi quyết định chuyển đổi từ lò ấp thủ công sang lò ấp giàn đảo tự động. Để đảm bảo nguồn trứng cho những lò ấp tự động, tôi liên kết hợp tác với những hộ nông dân khác trong vùng, từ việc hướng dẫn kỹ thuật đến đầu tư nguồn giống chất lượng, thuốc thú y và thực hiện thu mua toàn bộ số trứng có được từ các trang trại liên kết, đạt kết quả rất tốt.

"Thừa thắng xông lên", ông Đường tiếp tục ứng dụng công nghệ vào các công đoạn, như: cung cấp thức ăn và nước uống tự động, hệ thống nước làm mát tự động, camera giám sát 24/7, hệ thống lò ấp do chính ông và các kỹ sư Việt Nam thiết kế.

Ông Đường cho biết thêm: Việc áp dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số đã giúp tôi giảm từ 25 xuống còn 13 nhân công/tháng, tiết kiệm được 90 triệu/tháng; tỷ lệ ấp nở đã tăng từ 75% lên 99% (lợi nhuận được thêm 40-45 triệu đồng/tháng).

Ở lĩnh vực trồng trọt, việc số hóa trong khâu chăm sóc (giàn phun tưới tự động); bảo quản nông sản (nhà lạnh); thực hiện quy trình sản xuất an toàn… cũng đã mang lại hiệu quả thiết thực cho nông dân.

Trong đó, Hợp tác xã (HTX) trà an toàn Phú Đô (Phú Lương) là đơn vị tiên phong trong việc ứng dụng khoa học, kỹ thuật và chuyển đổi số trong sản xuất chè.

Anh Hoàng Văn Tuấn, 32 tuổi, Giám đốc HTX, nói: Từ năm 2023, chúng tôi đã ứng dụng nhật ký sản xuất điện tử Facefarm vào sản xuất chè. Qua đó không chỉ giúp quản lý sản xuất, nâng cao năng suất lao động mà còn tăng cường kết nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng. HTX hiện có hơn 10ha chè được chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP. Từ khi mạnh dạn chuyển đổi số trong sản xuất, giá bán chè đã đạt từ 200-300 nghìn đồng/kg; thu nhập của các thành viên HTX và người dân tăng khoảng 10-20%.

Nhiều hộ sản xuất chè đã ứng dụng công nghệ số vào việc điều khiển các thiết bị phục vụ sản xuất chè (máy sao, vò chè...).

Ông Nguyễn Tá, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh, khẳng định đưa công nghệ số vào phục vụ sản xuất nông nghiệp, nhất là trong lĩnh vực trồng trọt, không chỉ tiết kiệm chi phí nhân công, nguồn nước mà còn giảm phụ thuộc vào thời tiết, kiểm soát dịch bệnh tốt hơn, tăng năng suất cây trồng.

Đáng nói, ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp (trồng rau, củ, quả, hoa… trong nhà kính, nhà lưới) còn giúp tối ưu hóa quá trình sản xuất, nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm. Người nông dân có thể dễ dàng điều chỉnh các yếu tố môi trường như độ ẩm, ánh sáng, nhiệt độ, tạo điều kiện cho cây trồng phát triển tốt nhất.

Đồng hành với người dân

Số hóa trong sản xuất nông nghiệp là xu thế tất yếu. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn Đường cho rằng, nhà nước cần đồng hành, hỗ trợ nông dân ứng dụng công nghệ số vào sản xuất.

Ông Đường chia sẻ: Chúng tôi mong muốn Nhà nước xây dựng chính sách hỗ trợ các hộ chăn nuôi, trồng trọt và doanh nghiệp tham gia sản xuất nông nghiệp đầu tư vào chuyển đổi số. Đồng thời xây dựng các mô hình chuyển đổi số thành công để nông dân, doanh nghiệp có thể thăm quan, học hỏi và áp dụng; tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn về kỹ năng sử dụng công nghệ và quản lý dữ liệu cho nông dân; hỗ trợ kết nối giữa nông dân với các doanh nghiệp công nghệ và các tổ chức tín dụng. Đặc biệt là quan tâm xây dựng hệ thống thông tin về các giải pháp chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp để người dân dễ dàng tiếp cận.

Từ việc ứng dụng công nghệ số vào sản xuất, nông dân Thái Nguyên đã tạo ra nhiều sản phẩm trà an toàn, đáp ứng nhu cầu thị trường.

Bày tỏ quan điểm về số hóa trong sản xuất nông nghiệp, anh Tuấn cho rằng, các cấp, ngành chức năng của tỉnh nên tăng cường tuyên truyền, phổ biến về lợi ích của chuyển đổi số để nâng cao nhận thức cho người dân. Nhất là khuyến khích nông dân sử dụng các thiết bị điện tử hiện đại, tham gia thảo luận về cách ứng dụng công nghệ cao và mời nông dân đã chuyển đổi số thành công chia sẻ kinh nghiệm…

Cùng với đó, các cấp, ngành chức năng của tỉnh cần quan tâm giải quyết một số khó khăn về hạ tầng công nghệ thông tin (tập trung đầu tư tại các xã miền núi, vùng cao, đảm bảo kết nối internet ổn định, chất lượng); thu hút doanh nghiệp đầu tư công nghệ vào nông nghiệp; nâng cao hơn số hộ dân ứng dụng công nghệ số vào sản xuất nông nghiệp… Đồng thời tổ chức kết nối nông dân với chuyên gia nông nghiệp thông qua nền tảng số; ứng dụng trí tuệ nhân tạo, phân tích, đánh giá, khai phá nền tảng dữ liệu ngành Nông nghiệp phục vụ công tác, dự báo trong sản xuất nông nghiệp…

Tùng Lâm

 

Sản phẩm nông nghiệp 'cất cánh' nhờ chuyển đổi số

Chuyển đổi số đã tạo đà cho nhiều sản phẩm nông nghiệp thành công, từ truy xuất nguồn gốc đến mở rộng tiêu thụ qua sàn thương mại điện tử.

Nông sản vùng miền “thay da đổi thịt” nhờ công nghệ số

Từ vùng chè truyền thống, tỉnh Thái Nguyên đang thay đổi từng ngày nhờ đưa công nghệ số vào sản xuất và phân phối. Đến cuối năm 2024, hơn 70% diện tích chè trong tỉnh được áp dụng cảm biến theo dõi sinh trưởng, phần mềm quản lý vùng trồng và hệ thống truy xuất nguồn gốc bằng mã QR. Nhờ đó, sản phẩm chè Thái Nguyên đã vươn tới các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản và Hàn Quốc.

Ông Hoàng Văn Dũng - Giám đốc Hợp tác xã chè La Bằng, chia sẻ: “Chúng tôi dùng phần mềm để ghi chép quá trình chăm sóc chè, gắn mã QR để khách hàng biết rõ nguồn gốc. Nhờ vậy, chè bán được giá hơn, thương hiệu cũng vững vàng hơn trên sàn thương mại điện tử”.

Tại Bắc Giang, vùng trồng vải Lục Ngạn đang chứng kiến sự thay đổi rõ rệt. Năm 2024, hàng trăm tấn vải được tiêu thụ qua các sàn thương mại điện tử như Voso, Postmart, Sendo. Đặc biệt, người dân ở đây đã quen với việc tạo mã vùng trồng và dán tem truy xuất điện tử, điều từng xa lạ vài năm trước.

Nhiều đoàn viên thanh niên hỗ trợ livestream bán vải thiều cho người dân Lục Ngạn. Ảnh: Quang Huấn

Chị Nguyễn Thị Hòa, một hộ trồng vải lâu năm, cho biết: “Trước kia nhà tôi chỉ bán cho thương lái, không biết hàng đi đâu. Từ khi được hướng dẫn gắn mã QR, khách đặt online qua sàn cũng nhiều. Giá bán cao hơn mà mình chủ động hơn trong tiêu thụ”.

Tương tự, tỉnh Sơn La, thủ phủ cây ăn quả miền Bắc đã có hơn 80% sản phẩm như xoài, nhãn, mận hậu được dán tem điện tử truy xuất nguồn gốc. Những lô xoài Sơn La đã đến được Nhật Bản, nhãn tươi được vào Úc, phần lớn là nhờ quá trình minh bạch hóa thông tin sản phẩm và tiếp thị qua kênh số.

Từ mã QR đến livestream: Nông thôn mới chuyển mình từng ngày

Chị Vũ Thị Hương, một hộ trồng chè ở xã Tân Cương (TP. Thái Nguyên), chia sẻ: “Chuyển đổi số giúp chè nhà tôi được người mua tin tưởng hơn. Trên bao bì có mã QR, ai cũng có thể quét để biết chè được hái ngày nào, sao sấy ra sao. Nhiều khách đặt mua từ tận Hà Nội, Đà Nẵng, giá cũng cao hơn trước khoảng 20%”.

Ở Bắc Giang, anh Trần Văn Lợi, chủ vườn vải hơn 3 ha, cho biết: “Khi vải có mã truy xuất, khách mua không còn lo hàng trôi nổi. Tôi còn được một sàn thương mại điện tử hỗ trợ livestream bán vải, có hôm bán hết sạch trong chưa đầy một tiếng”.

Không chỉ tăng thu nhập, chuyển đổi số còn giúp người dân thay đổi tư duy sản xuất, chú trọng đến chất lượng, an toàn và hình ảnh sản phẩm. Các hợp tác xã trẻ cũng năng động hơn khi có thêm công cụ số hỗ trợ truyền thông, kiểm soát chất lượng và tìm đầu ra cho nông sản.

Anh Nguyễn Đức Thắng, một thành viên hợp tác xã dâu tây ở huyện Mộc Châu (Sơn La), cho biết: “Chúng tôi không còn phụ thuộc chợ đầu mối như trước. Mỗi vụ dâu tây, tôi chụp ảnh vườn, cập nhật thông tin lên fanpage, khách tự nhắn đặt hàng”.

Các bạn trẻ áp dụng chuyển đổi số quảng bá và bán sản phẩm dâu tây. Ảnh: Minh Ngọc

Chuyển đổi số không chỉ là công cụ kỹ thuật, mà đang trở thành chiếc chìa khóa để nông thôn mới phát triển bền vững. Từ việc học cách gắn mã QR, quay video quảng bá sản phẩm, đến đưa nông sản lên các sàn thương mại điện tử, người dân nông thôn giờ đây đã “kỹ thuật số hóa” từng bước nhỏ trong sản xuất, kinh doanh.

Tại nhiều địa phương miền Bắc, các hộ nông dân trẻ đã trở thành những “người bán hàng online” thực thụ. Họ sử dụng Zalo để chốt đơn, dùng livestream Facebook để giới thiệu mùa vụ, hay thậm chí gửi hàng bằng mã bưu chính đến tận tay khách hàng ở nước ngoài.

Tuy vậy, quá trình chuyển đổi số ở nông thôn vẫn còn không ít khó khăn, đặc biệt với người cao tuổi hoặc hộ dân ít tiếp xúc công nghệ. Vấn đề đường truyền mạng, kỹ năng số, và chi phí đầu tư ban đầu cũng là rào cản khiến không phải ai cũng làm được.

Chị Đào Thị Thúy (huyện Văn Bàn, Lào Cai), tâm sự: “Ban đầu tôi sợ lắm, không dám đụng điện thoại thông minh. Nhưng sau được con trai chỉ cách vào app, cách ghi nhật ký chăm cây trên máy, tôi thấy cũng không khó lắm. Giờ tôi ghi lại từng lần phun thuốc, bón phân, rồi tạo QR đưa lên bao bì”.

Chuyển đổi số vì thế không chỉ là chuyện của kỹ thuật, mà còn là câu chuyện đổi mới tư duy, là hành trình kiên trì để người nông dân bước vào thời đại mới. Khi người dân chủ động nắm bắt công nghệ, tự tin đưa sản phẩm lên nền tảng số, thì nông thôn mới thực sự “hiện đại” chứ không còn chỉ là hình thức.

Và có lẽ, thành công của chè Thái Nguyên, vải Lục Ngạn, dâu tây, xoài Sơn La… chính là minh chứng rõ ràng nhất rằng chuyển đổi số nếu đi đúng hướng, có sự đồng lòng từ cơ sở, thì nông sản Việt hoàn toàn có thể đi xa, nông thôn mới hoàn toàn có thể phát triển bền vững.

Chuyển đổi số trong nông nghiệp không chỉ là một xu hướng mang tính nhất thời, mà đang dần trở thành yếu tố cốt lõi để nâng tầm sản phẩm, thúc đẩy phát triển nông thôn theo hướng bền vững và hiện đại. Từ những mã QR nhỏ bé đến các chiến dịch bán hàng trực tuyến, người nông dân miền Bắc đang dần “thay da đổi thịt” để thích nghi với thị trường ngày càng khắt khe, trong nước lẫn quốc tế.

Quan trọng hơn, quá trình số hóa ấy đang góp phần thay đổi tư duy sản xuất, từ nhỏ lẻ sang chuyên nghiệp, từ thụ động sang chủ động, từ truyền thống sang hiện đại. Đó là tín hiệu tích cực cho một nền nông nghiệp thông minh, nơi người dân nắm vai trò trung tâm, công nghệ là công cụ và tương lai nông thôn được định hình từ chính những thay đổi hôm nay.

Nguyễn Thanh

 

Nông dân Đắk Lắk bước vào kỷ nguyên số

Những năm gần đây, tỉnh Đắk Lắk đã tích cực thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh trên thị trường.

 Đây không chỉ là xu thế tất yếu mà còn là động lực quan trọng giúp phát triển ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại và bền vững.

Không còn lo lắng tưới nước bao nhiêu là đủ, bón phân vào giai đoạn nào, hay những ngày bận rộn không thể ra thăm vườn, ông Lê Văn Thành ở xã Ea Yông, huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk giờ đây hoàn toàn yên tâm vì toàn bộ chỉ số về độ ẩm, nhu cầu nước tưới, lịch canh tác... đều được hệ thống cảm biến thông minh ghi nhận và cảnh báo trực tiếp qua điện thoại.

Ông Lê Văn Thành chia sẻ, từ lúc có thể giám sát độ ẩm và ra lệnh tưới từ xa, vườn sầu riêng hơn 3 hec ta của ông vẫn luôn xanh tốt, dù thời tiết không thuận lợi.

“Có công nghệ này người dân dễ làm hơn, có ứng dụng này mình biết được trong đất mình thiếu gì, mình nên bỏ phân gì, nước có đủ hay không để canh tác phù hợp hơn” - ông Thành cho biết.

Một vườn sầu riêng lắp đặt hệ thống cảm biến thông minh, phục vụ tưới nước và bón phân tự động.

Còn bà Hroda Ayun ở xã Ea Kênh, huyện Krông Pắc cho biết, khi yêu cầu về năng suất và chất lượng ngày càng cao, nông dân buộc phải thay đổi để thích ứng. Gia đình bà đã dần chuyển đổi từ canh tác cà phê truyền thống sang canh tác cà phê thông minh. Các khâu sản xuất được tự động hóa như: hệ thống tưới nước nhỏ giọt, bón phân tự động, hệ thống chiếu sáng năng lượng mặt trời…đã giúp bà bớt công chăm sóc, giảm lượng nước tưới, phân bón, vật tư đầu vào.

Theo bà Hroda Ayun, dù chi phí lắp đặt ban ban đầu khá cao, nhưng kết quả mang lại hoàn toàn xứng đáng, nhất là trong xu hướng đòi hỏi sản xuất xanh – tiêu dùng xanh hiện nay.

“Canh tác cà phê thông minh không chỉ giúp giảm phát thải khí nhà kính mà còn bảo vệ đất, nguồn nước và môi trường sinh thái. Người dân vẫn đạt năng suất cao mà còn bảo vệ được sức khỏe của mình và cộng đồng" - bà Hroda Ayun bày tỏ.

Ở quy mô lớn hơn, HTX Dịch vụ nông nghiệp sạch huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk đã áp dụng công nghệ số vào nhiều diện tích trong số hơn 200 hec-ta sầu riêng Vietgap của xã viên.

Ông Mai Đình Thọ, Chủ tịch Hội đồng quản trị HTX cho hay, việc liên kết sản xuất ứng dụng công nghệ số không chỉ nâng giá trị sản phẩm mà còn tạo ra giá trị mới cho sản phẩm sầu riêng từ việc minh bạch hóa các khâu sản xuất. Tới đây, Hợp tác xã sẽ thực hiện gắn mã QR cho từng vườn để quản lý trên nền tảng số, giúp truy xuất nguồn gốc, định vị và cá nhân hóa từng cây sầu riêng. Qua đó, vừa tăng độ tin cậy với người tiêu dùng, vừa nâng cao giá trị sản phẩm.

Theo ông Thọ: “Kỹ thuật số giúp mọi thông tin trở nên minh bạch. Mỗi vườn, mỗi cây đều có tên riêng, truy xuất được lịch sử chăm sóc, thời gian trồng... Người tiêu dùng dễ dàng phân biệt sản phẩm đạt chuẩn hay không. Các cơ quan quản lý cũng dễ giám sát hơn".

Ngày càng nhiều vườn sầu riêng ở tỉnh Đắk Lắk được gắn mã QR.

Nông nghiệp hiện vẫn là lĩnh vực chủ lực trong cơ cấu kinh tế Đắk Lắk, chiếm khoảng 35% GRDP. Vì vậy, ngành nông nghiệp tỉnh đã chủ động tuyên truyền, hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp tiếp cận chuyển đổi số trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm. Đến nay, nhiều nông dân đã tiếp cận với phương pháp canh tác tiên tiến, tăng cường năng lực quản lý và giám sát quy trình sản xuất. Đối với hoạt động kinh doanh, nhiều sản phẩm OCOP và sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu đã được đưa lên sàn giao dịch thương mại điện tử hoặc các nền tảng xã hội để quảng bá, giới thiệu, bán trực tuyến.

Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa hiệu quả chuyển đổi số trong nông nghiệp, thời gian tới, ông Nguyễn Thiên Văn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk cho biết: “Tỉnh đang triển khai các đề án hỗ trợ, trong đó có áp dụng công nghệ cao, chuyển đổi số trong việc xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu, xây dựng mã số vùng trồng gắn với mã vạch, ứng dụng công nghệ số. Từ đó giúp cho giá trị thương hiệu sản phẩm nông sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk càng ngày nâng tầm, cũng như đạt được giá trị, mang lại lợi ích cho người nông dân và doanh nghiệp”.

Chuyển đổi số đang dần khẳng định vai trò then chốt trong việc nâng cao giá trị nông sản, mở rộng thị trường tiêu thụ và thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn ở Đắk Lắk. Sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền, doanh nghiệp và người dân sẽ là yếu tố quyết định để xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững và hội nhập sâu rộng.

Hương Lý/VOV-Tây Nguyên

 

Mệnh lệnh cho tương lai

Nông nghiệp, mạch máu của nền kinh tế Việt Nam, từ lâu đã là bệ đỡ cho hàng triệu sinh kế và đóng góp đáng kể vào GDP quốc gia. Tuy nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu khốc liệt và biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng, mô hình nông nghiệp truyền thống đang đối mặt với những giới hạn rõ rệt.

Ảnh minh họa: Internet

Giải pháp không nằm ở việc mở rộng diện tích canh tác hay tăng cường lao động, mà ở việc tích hợp công nghệ số - từ IoT (internet vạn vật, công nghệ kết nối các thiết bị qua internet để thu thập và chia sẻ dữ liệu), AI (trí tuệ nhân tạo, hệ thống máy tính mô phỏng trí thông minh con người để phân tích và đưa ra quyết định), đến blockchain (chuỗi khối, công nghệ lưu trữ dữ liệu phân tán đảm bảo tính minh bạch và bảo mật) - để chuyển hóa nông nghiệp truyền thống thành nông nghiệp thông minh. Đây không chỉ là một bước tiến, mà là một cuộc cách mạng, hứa hẹn gia tăng giá trị vượt trội và đưa Việt Nam vươn xa trên bản đồ kinh tế thế giới.

Hãy nhìn vào những con số thực tế: tại Lâm Đồng, vùng đất nổi tiếng với nông nghiệp chất lượng cao, công nghệ nhà kính kết hợp tưới nhỏ giọt đã nâng năng suất rau quả lên đến 40%. Hệ thống tưới nhỏ giọt, được điều khiển bởi các cảm biến thông minh, cung cấp nước và dinh dưỡng chính xác, giảm lãng phí và tối ưu hóa sự phát triển của cây trồng. Trong khi đó, ở Đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa của cả nước, cảm biến thông minh, một ứng dụng của IoT, đã tạo ra bước ngoặt. Chúng giúp tiết kiệm 20% lượng nước, 30% phân bón và tăng năng suất lúa từ 12-15%. Những con số này không chỉ phản ánh hiệu quả kinh tế mà còn cho thấy tiềm năng bảo vệ môi trường, giảm áp lực lên tài nguyên thiên nhiên đang ngày càng cạn kiệt.

Công nghệ số không dừng lại ở việc tối ưu hóa sản xuất. Blockchain, với khả năng truy xuất nguồn gốc minh bạch, đang mở ra cánh cửa cho các thị trường xuất khẩu cao cấp. Người tiêu dùng quốc tế, đặc biệt ở các nước phát triển, ngày càng đòi hỏi sự rõ ràng về nguồn gốc sản phẩm. Một hệ thống blockchain cho phép theo dõi từng khâu trong chuỗi cung ứng - từ đồng ruộng đến bàn ăn - không chỉ xây dựng niềm tin mà còn nâng giá trị sản phẩm nông nghiệp Việt Nam thêm 20%. Điều này đồng nghĩa với việc nông dân không chỉ bán được nhiều hàng hơn, mà còn bán với giá cao hơn, cải thiện đáng kể thu nhập và vị thế trên thị trường toàn cầu. AI cũng đóng vai trò quan trọng, khi các thuật toán phân tích dữ liệu từ IoT giúp dự báo thời tiết, tối ưu hóa mùa vụ và giảm thiểu rủi ro.

Tuy nhiên, con đường đến nông nghiệp thông minh không hề bằng phẳng. Chi phí đầu tư ban đầu cho các công nghệ như IoT hay blockchain vẫn là rào cản lớn đối với nông dân, đặc biệt là các hộ sản xuất nhỏ lẻ. Thiếu hụt kỹ năng công nghệ và hạ tầng số ở vùng sâu, vùng xa cũng là thách thức không nhỏ. Để vượt qua, cần có sự đồng hành mạnh mẽ từ Nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế. Chính sách hỗ trợ tài chính, đào tạo kỹ năng và mở rộng hạ tầng viễn thông sẽ là chìa khóa để đưa công nghệ đến tay nông dân. Hơn nữa, sự hợp tác công-tư cần được đẩy mạnh để tạo ra các mô hình thí điểm, từ đó nhân rộng thành công ra toàn quốc.

Nông nghiệp thông minh không chỉ là một lựa chọn, mà là một mệnh lệnh cho tương lai. Trong một thế giới mà tài nguyên ngày càng khan hiếm và thị trường ngày càng khắt khe, Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc chơi công nghệ. Đã đến lúc chúng ta hành động, nắm bắt cơ hội và biến nông nghiệp thông minh thành động lực cho tăng trưởng kinh tế bền vững.

Thái Bình

 

Phát triển nông nghiệp xanh và chuỗi liên kết: Hướng đi tất yếu trong bối cảnh biến đổi khí hậu

Phát triển nông nghiệp hiện đại không chỉ dừng lại ở việc tăng năng suất mà còn phải tạo ra giá trị gia tăng cao, gắn với đổi mới công nghệ, bảo vệ môi trường và đáp ứng xu thế tiêu dùng trong nước và quốc tế. Tỉnh Thanh Hóa đang đi đầu trong chiến lược này thông qua việc nâng tầm các sản phẩm nông nghiệp chủ lực bằng hàng loạt giải pháp từ chuyển đổi số, liên kết vùng đến phát triển theo hướng nông nghiệp xanh.

Nhận diện rõ 12 sản phẩm nông nghiệp chủ lực giai đoạn 2021-2025, tỉnh Thanh Hóa đã có chiến lược phát triển vùng nguyên liệu theo hướng quy mô lớn, tập trung và ứng dụng công nghệ cao. Các địa phương như: Thiệu Hóa, Hà Trung, Nông Cống đã tích cực tích tụ ruộng đất, đẩy mạnh sản xuất lúa theo hướng hữu cơ, áp dụng cơ giới hóa và liên kết với doanh nghiệp tiêu thụ đầu ra.

Cánh đồng lúa hữu cơ giúp tăng năng suất, giảm giá thành sản xuất

Tại huyện Thiệu Hóa, mô hình sản xuất lúa hữu cơ trên diện tích 136ha không chỉ giúp tăng giá trị sản phẩm từ 1,5-1,8 lần mà còn tạo nền tảng để phát triển thương hiệu gạo an toàn, thân thiện với môi trường. Tương tự, sản phẩm thịt lợn là một trong những nông sản chủ lực của tỉnh - cũng đang được phát triển theo chuỗi khép kín, từ giống, thức ăn đến giết mổ và phân phối, với sự tham gia của các doanh nghiệp lớn như: CP, Japfa, CJ, Mavin...

Ở lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, tỉnh đã chuyển từ hình thức nuôi ngoài trời sang nuôi tôm công nghệ cao trong nhà màng, ứng dụng công nghệ cảm biến để điều khiển nhiệt độ, độ ẩm và dinh dưỡng, giúp năng suất đạt 30-50 tấn/ha/vụ. Các mô hình nuôi cá trên hồ chứa bằng lồng HDPE cũng phát huy hiệu quả ổn định, thích ứng tốt với biến đổi khí hậu.

Một trong những điểm nổi bật trong chiến lược phát triển nông nghiệp của tỉnh là hướng tới nền nông nghiệp xanh, bền vững và phát thải thấp. Dự án “Tạo tín chỉ carbon trong sản xuất lúa” tại xã Yên Phong, huyện Yên Định đã giúp giảm gần 5 tấn CO₂/ha. Dự kiến, đến năm 2030, toàn tỉnh sẽ có 30.000ha lúa, 8.000ha mía đạt chuẩn sản xuất tạo tín chỉ carbon. Đây không chỉ là hướng đi bảo vệ môi trường mà còn mở ra cơ hội tiếp cận các thị trường xuất khẩu cao cấp như EU, Nhật Bản.

Ngoài ra, các doanh nghiệp trong tỉnh đã mạnh dạn áp dụng các công nghệ tiên tiến như viễn thám, GIS để quản lý vùng trồng; dùng máy bay không người lái phun thuốc bảo vệ thực vật; lắp đặt AI đo đạc phát thải khí nhà kính trong sản xuất lúa tại Hoằng Hóa, Hà Trung. Những ứng dụng này không chỉ giúp tiết kiệm chi phí mà còn đảm bảo an toàn lao động và tăng năng suất.

Theo ông Vũ Quang Trung, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và BVTV Thanh Hóa, mục tiêu đến năm 2030 là chuyển đổi toàn diện nền nông nghiệp theo hướng xanh, tuần hoàn và hiệu quả. Để đạt được điều này, tỉnh đang đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, xây dựng cơ chế hỗ trợ người dân và doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ xanh.

Mô hình canh tác lúa hữu cơ tại Thanh Hóa đạt năng suất cao và nhận được sự hưởng ứng tích cực từ nông dân

Để thực hiện chuyển đổi số hiệu quả trong lĩnh vực nông nghiệp, tỉnh Thanh Hóa đã tổ chức nhiều chương trình tập huấn kỹ năng công nghệ thông tin, quản lý dịch vụ công trực tuyến cho cán bộ HTX, người dân và doanh nghiệp. Đồng thời, hỗ trợ thành lập các hợp tác xã kiểu mới, xây dựng các liên hiệp HTX để phát triển kinh tế tập thể, thúc đẩy liên kết sản xuất - tiêu thụ theo chuỗi giá trị.

Bên cạnh đó, việc xây dựng bản đồ nông hóa thổ nhưỡng đang giúp từng địa phương xác định lợi thế cây trồng phù hợp, từ đó phát triển các vùng nguyên liệu tập trung, chuyên canh, gắn với tiêu chuẩn chất lượng cao như VietGAP, GlobalGAP…

Việc nâng tầm sản phẩm nông nghiệp chủ lực không chỉ là câu chuyện của riêng ngành nông nghiệp, mà là chiến lược tổng thể liên quan đến khoa học công nghệ, thương mại điện tử, quy hoạch phát triển vùng và chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Với những bước đi đồng bộ và tầm nhìn dài hạn, tỉnh Thanh Hóa đang từng bước đưa các sản phẩm nông nghiệp truyền thống lên tầm cao mới - hiện đại, xanh, bền vững và hội nhập quốc tế.

Bình Minh

 

Kiểm soát vật tư đầu vào phục vụ tái canh cà phê

Gia Lai hiện có hơn 106 ngàn ha cà phê. Theo kế hoạch, năm 2025, toàn tỉnh tái canh 2.370 ha và ghép cải tạo 30 ha cà phê. Hiện ngành nông nghiệp và các địa phương trong tỉnh đang tăng cường kiểm soát chất lượng các vật tư đầu vào nhằm giúp nông dân thực hiện chương trình tái canh hiệu quả.

Theo kế hoạch, năm 2025, huyện Đak Đoa thực hiện tái canh 300 ha cà phê già cỗi. Để chương trình tái canh cà phê đạt hiệu quả, huyện đã triển khai giải pháp kiểm soát chất lượng vật tư nông nghiệp, hỗ trợ người dân kỹ thuật tái canh và vận động người dân áp dụng hệ thống tưới tiết kiệm nước nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu.

Ông Nguyễn Kim Anh-Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Đak Đoa-cho hay: Để người dân sử dụng nguồn giống đảm bảo chất lượng, huyện phối hợp với Công ty TNHH Nestlé Việt Nam hỗ trợ người dân mua khoảng 300 ngàn cây giống cà phê chất lượng cao đã được Bộ Nông nghiệp và Môi trường công nhận với giá thấp hơn thị trường 1.000 đồng/cây và hỗ trợ thêm chi phí vận chuyển 100 đồng/cây.

Đối với phân bón, Hội Nông dân huyện sẽ hỗ trợ người dân tiếp cận các loại phân bón có thương hiệu và đảm bảo chất lượng. Đồng thời, khuyến khích người dân sử dụng nguồn phụ phẩm nông nghiệp để ủ với các chế phẩm sinh học nhằm tạo ra phân bón hữu cơ phục vụ tái canh, hạn chế thấp nhất việc sử dụng phân bón hóa học. Ngoài ra, tăng cường kiểm tra các cơ sở kinh doanh vật tư nông nghiệp trên địa bàn để kiểm soát chất lượng vật tư và tổ chức các lớp tập huấn giúp nông dân tái canh hiệu quả.

Anh Thuế bên vườn cà phê tái canh của gia đình. Ảnh: Hồng Thương

Bà Nhêm-Chủ tịch Hội Nông dân xã Glar cho biết: Năm nay, xã tái canh 18 ha cà phê. Đến thời điểm này, có 25 hộ đã đăng ký mua 28 ngàn cây giống chất lượng theo chương trình phối hợp của huyện và Công ty TNHH Nestlé Việt Nam để được trợ giá. Hiện Hội Nông dân xã cũng đang phối hợp với Hội cấp trên để phổ biến những loại phân bón có chất lượng để người dân sử dụng.

Hơn 5 năm trước, gia đình Ông Amyơm (làng Dơk Rơng, xã Glar) tái canh diện tích cà phê của mình và đến nay đã mang lại hiệu quả cao. Ông -cho hay: Gia đình tôi có 5 ha cà phê. Được huyện hỗ trợ về giá, từ năm 2019 đến nay, tôi đã tái canh được gần 2 ha. Nhờ sử dụng giống cà phê có chất lượng nên vườn cây sau tái canh phát triển tốt, cho năng suất đạt cao. Hiện có hơn 1,2 ha cà phê tái canh đã cho thu hoạch, năng suất đạt 4,5 tấn nhân/ha, cao hơn so với chưa tái canh gần 2 tấn”.

Còn anh Rơ Mah Thuế (làng Groi Wêt, xã Glar) thì-chia sẻ: Gia đình anh có 4 ha cà phê. Từ năm 2020 đến nay, gia đình anh đã tái canh và ghép cải tạo được 1 ha. Hiện diện tích này đang phát triển tốt, dự kiến cuối năm 2025 sẽ cho thu hoạch. Năm nay, gia đình anh tiếp tục đăng ký về Hội Nông dân xã để được trợ giá mua cây giống tái canh và ghép cải tạo thêm 1 ha”.

Tại huyện Đức Cơ, năm nay, huyện đưa vào kế hoạch tái canh và ghép cải tạo 55 ha cà phê. Ông Nguyễn Quốc Tư-Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện-thông tin: Đối với chương trình tái canh cà phê, việc chọn cây giống và phân bón đảm bảo chất lượng quyết định hiệu quả của quá trình sản xuất. Do đó, các năm trước huyện bố trí ngân sách từ 800 triệu đồng đến 1 tỷ đồng để ươm cây giống cấp cho người dân theo hình thức người dân đối ứng 30% giá cây giống nhằm giúp người dân tiếp cận giống đảm bảo chất lượng

Riêng năm nay, huyện không bố trí kinh phí ươm cây giống mà tập trung tuyên truyền, khuyến cáo bà con chọn các giống cà phê đã được Bộ Nông nghiệp và Môi trường công nhận và đã được trồng có hiệu quả cao tại địa phương để đưa vào sản xuất. Đồng thời, huyện tiếp tục tổ chức các đợt kiểm tra các cơ sở kinh doanh vật tư nông nghiệp nhằm kiểm soát chất lượng phân bón, cây giống trên địa bàn; khuyến cáo người dân sử dụng các loại vật tư nông nghiệp chất lượng để đảm bảo hiệu quả sản xuất.

Trao đổi với P.V, ông Hoàng Thi Thơ-Phó Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh-cho biết: Xác định rõ tầm quan trọng của việc kiểm soát vật tư đầu vào nhằm giúp người dân nâng cao hiệu quả tái canh vườn cây, ngày 20-2, Sở Nông nghiệp và PTNT (nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường) đã có Văn bản số 538/SNNPTNT-CCTTBVTV về tăng cường công tác quản lý giống cây trồng, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật trên địa bàn tỉnh.

Sở Nông nghiệp và Môi trường đề nghị các địa phương tăng cường kiểm tra các cơ sở kinh doanh vật tư nông nghiệp . Ảnh:Hồng Thương

Theo đó, Sở đề nghị các địa phương tăng cường thông tin, tuyên truyền để nâng cao ý thức chấp hành các quy định kinh doanh vật tư nông nghiệp cho các cơ sở, cá nhân kinh doanh trên địa bàn. Đồng thời, ưu tiên phân bổ kinh phí trong dự toán ngân sách địa phương để tổ chức các hoạt động kiểm tra, giám sát chất lượng giống cây trồng, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật lưu thông, sử dụng trên địa bàn và đẩy mạnh kiểm tra, giám sát, chấn chỉnh công tác quản lý tổ chức hội thảo, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm tại địa phương. Qua đó, kịp thời phát hiện, ngăn chặn việc sản xuất, kinh doanh các loại vật tư nông nghiệp giả, nhái, kém chất lượng, hạn chế thấp nhất thiệt hại cho người sản xuất. Ngoài ra, đẩy mạnh tuyên truyền, khuyến cáo, cảnh báo người dân không mua, bán qua các nền tảng online không tin cậy, không có địa chỉ rõ ràng để tránh mua phải hàng giả, nhái, kém chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ, chưa được lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam.

“Ngoài các giải pháp trên, các địa phương cần tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình sử dụng các giống cà phê mới cho năng suất, chất lượng cao, kháng sâu bệnh và chịu hạn tốt đã được công nhận. Đồng thời, hướng dẫn người dân thực hiện tái canh cà phê theo đúng quy trình phòng trừ sâu bệnh hại trên cây cà phê theo các chương trình ICM, IPHM. Ngoài ra, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học vào sản xuất cà phê theo tiêu chuẩn nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững cho vườn cây”-ông Thơ thông tin thêm.

HỒNG THƯƠNG

 

Đẩy mạnh thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị sản phẩm

ĐTO - Hướng đến phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững, huyện Tân Hồng triển khai nhiều giải pháp nâng cao nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của người dân trong triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp và công tác giảm nghèo bền vững hướng đến nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân chuyên nghiệp, chuyển từ tư duy “sản xuất nông nghiệp” sang “tư duy kinh tế nông nghiệp”. Đồng thời tập trung phát triển và xây dựng chuỗi ngành hàng chủ lực, tiềm năng, thế mạnh của huyện...

Huyện Tân Hồng đẩy mạnh cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm

Theo UBND huyện Tân Hồng, mục tiêu đến cuối năm 2025, toàn huyện có diện tích liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa đạt 21.000ha; sản xuất lúa theo hướng giảm giá thành 14.000ha; sản xuất lúa chất lượng cao 36.00ha; có 6.200ha lúa tham gia Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030”. Đồng thời giữ ổn định diện tích sản xuất hoa màu, cây ăn trái, cây công nghiệp ngắn ngày và trồng cỏ 3.300ha; đàn trâu, bò phát triển ổn định 18.000 con...

Thời gian qua, huyện còn triển khai nhân rộng các mô hình, dự án nông nghiệp tiên tiến, chuyển đổi số trong nông nghiệp hướng tới nền nông nghiệp xanh, phát thải cac-bon thấp thân thiện với môi trường, nền nông nghiệp đầu tư có trách nhiệm, minh bạch. Bên cạnh đó, tiếp tục hỗ trợ, hướng dẫn duy trì, nâng cao chất lượng các tiêu chí nông thôn mới đã đạt; tiếp tục thực hiện có hiệu quả Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đổi mới chương trình, phương pháp dạy học, đẩy mạnh hình thức đào tạo thực hành, thực tế, chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới trong sản xuất; phát triển các sản phẩm OCOP trên cơ sở sản phẩm đã có, sản phẩm tiềm năng mang tính cộng đồng góp phần phát triển kinh tế nông thôn và bảo tồn những giá trị truyền thống, bản địa địa phương.

Huyện Tân Hồng huy động, thực hiện đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn; hỗ trợ từ ngân sách nhà nước tạo điều kiện thúc đẩy, huy động các nguồn lực đầu tư xã hội, phát huy nội lực từ chính người nông dân và sự tham gia của doanh nghiệp, tổ chức. Đồng thời tổ chức quản lý và triển khai có hiệu quả quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách để người dân chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong nông nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Cùng với đó, thu hút, khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp nông thôn, hợp tác xã nông nghiệp bằng việc tạo điều kiện hỗ trợ liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã với nông dân trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản.

Ngoài ra, huyện cũng tập trung đẩy mạnh công tác chuyển giao khoa học kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi; thực hiện các mô hình trình diễn, các dự án phát triển sản xuất. Đồng thời tăng cường chuyển đổi số trong sản xuất, kết nối thị trường, truy xuất nguồn gốc...

Trang Huỳnh

 

Ngành Nông nghiệp nỗ lực chuyển mình trong kỷ nguyên phát triển mới của Dân tộc

50 năm phát triển cùng Đất nước, ngành Nông nghiệp đã có bước phát triển vượt bậc. Việt Nam từ thiếu hụt lớn thành nước bảo đảm được an ninh lương thực trong nước, góp phần bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu với lượng gạo xuất khẩu hàng đầu thế giới. Nhiều nông sản Việt chinh phục thành công những thị trường mới, nhiều mặt hàng nông sản mới được xuất khẩu chính ngạch.

Nhiều nông sản Việt tiếp tục chinh phục thành công những thị trường mới.

Trong giai đoạn thời điểm thống nhất đất nước, ngành Nông nghiệp còn nhiều khó khăn, lương thực phải nhập khẩu để đáp ứng tiêu dùng trong nước. Hầu hết sản phẩm từ các giống vật nuôi nội năng suất thấp. Năm 1976, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản mới chỉ có một số mặt hàng với khối lượng và kim ngạch còn rất nhỏ.

Đến nay, sau 50 năm phát triển cùng Đất nước, ngành Nông nghiệp Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc. Năm 2024, tăng trưởng GRDP toàn ngành Nông nghiệp đạt 3,3%; thị trường tiêu thụ nông sản tiếp tục mở rộng với tổng giá trị xuất khẩu đạt trên 62 tỷ USD. Sản lượng nhiều nông sản tăng cao, chăn nuôi phát triển ổn định, sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng khá. Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vị thế và là trụ đỡ cho nền kinh tế, góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô. Đặc biệt, ngành Nông nghiệp đã có bước chuyển đổi mạnh mẽ sang tư duy kinh tế nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng và từng bước thay đổi từ cách tiếp cận “nông nghiệp nâu” sang “nông nghiệp xanh”.

Cụ thể, theo Cục Thống kê (Bộ Tài chính), năm 2024, giá trị tăng thêm ngành Nông nghiệp tăng 2,94% so với năm 2023, đóng góp 0,26 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành Lâm nghiệp tăng 5,03%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành Thủy sản tăng 4,03%, đóng góp 0,10 điểm phần trăm.

Năm 2024, diện tích lúa đạt 7,13 triệu ha, tăng 12,0 nghìn ha so với năm 2023; năng suất lúa ước đạt 60,9 tạ/ha; sản lượng lúa đạt 43,46 triệu tấn; sản lượng lương thực có hạt đạt 47,87 triệu tấn, trong đó sản lượng ngô đạt 4,4 triệu tấn. Nhờ sản xuất phát triển, ngành Nông nghiệp đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của gần 100 triệu dân trong nước và xuất khẩu sang nhiều nước nhằm hỗ trợ bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu.

Đối với diện tích trồng cây lâu năm, năm 2024 đạt 3.815,5 nghìn ha, tăng 1,2% so với năm 2023, trong đó: Nhóm cây công nghiệp đạt 2.172,6 nghìn ha, tăng 0,1%; nhóm cây ăn quả đạt 1.302,8 nghìn ha, tăng 2,6%.

Trong nhóm cây công nghiệp, diện tích cao su đạt 908,9 nghìn ha, sản lượng đạt 1.296,7 nghìn tấn, tăng 2,1%; diện tích cà phê đạt 730,5 nghìn ha, sản lượng đạt 2.016,3 nghìn tấn, tăng 3,0%; diện tích chè đạt 121,9 nghìn ha, sản lượng chè búp đạt 1.149,7 nghìn tấn, tăng 2,2%...

Đối với chăn nuôi, các địa phương đẩy mạnh phát triển mô hình chăn nuôi liên kết tạo thành chuỗi khép kín từ trang trại đến bàn ăn, góp phần thúc đẩy hoạt động chăn nuôi phát triển. Diện tích rừng trồng mới tập trung năm 2024 ước đạt 301,3 nghìn ha, tăng 1,7% so với năm 2023; sản lượng gỗ khai thác đạt 23.334,1 nghìn m3, tăng 7,9% do xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tăng trưởng tốt; nhu cầu gỗ tại các nhà máy chế biến tăng.

Năm 2024, sản lượng thủy sản ước đạt 9.547,0 nghìn tấn, tăng 2,5% so với năm 2023. Nuôi tôm nước lợ chuyển đổi theo hướng ứng dụng công nghệ cao, đặc biệt là nuôi tôm thẻ chân trắng. Năm 2024, sản lượng tôm thẻ chân trắng ước đạt 897,6 nghìn tấn, tăng 6,3%.

Nhiều nông sản Việt tiếp tục chinh phục thành công những thị trường mới, nhiều mặt hàng nông sản mới được xuất khẩu chính ngạch. Trong cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu năm 2024, nhóm hàng nông sản, lâm sản đạt 34,51 tỷ USD, chiếm 8,5%; nhóm hàng thủy sản đạt 10,04 tỷ USD, chiếm 2,5%. Có hai mặt hàng là thủy sản, gỗ và sản phẩm gỗ năm trong nhóm 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD của Việt Nam.

Một số nông sản của Việt Nam đứng vị thế cao trên thế giới về sản lượng như: Tiêu đứng thứ nhất, cà phê đứng thứ hai, cao su và điều đứng thứ ba, lúa gạo đứng thứ năm và chè đứng thứ sáu.

Bên cạnh đó, ngành Nông nghiệp cũng đang nỗ lực góp phần giảm khí nhà kính thông qua nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ, bảo vệ và phát triển rừng, hướng đến đảm bảo môi trường, không gây ra hiệu ứng nhà kính. Việc triển khai nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp xanh, sạch nên sản phẩm nông nghiệp, thủy sản sạch, truy xuất được nguồn gốc chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.

Hiện nay, ngành Nông nghiệp tiếp tục thực hiện theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII ngày 16/6/2022 “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” và Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 28/1/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Theo đó, ngành Nông nghiệp chuyển mạnh tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với nhu cầu thị trường. Phát huy lợi thế vùng, miền, địa phương, tổ chức sản xuất, kinh doanh nông nghiệp theo chuỗi giá trị, dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Tầm nhìn đến năm 2045, ngành Nông nghiệp Việt Nam hướng tới nông nghiệp sinh thái, sản xuất hàng hóa quy mô lớn, có giá trị gia tăng cao, gắn kết chặt chẽ với thị trường trong và ngoài nước, công nghiệp chế biến và bảo quản nông sản hiện đại, xuất khẩu nhiều loại nông sản đứng hàng đầu thế giới.

Trang Nguyễn

 

Đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho nông dân

Thành ủy Hà Nội đã ban hành Kế hoạch số 316 về đổi mới công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn thành phố.

Trong đó, Thành phố xác định nông dân tiếp tục là chủ thể, trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới; tăng cường vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong việc đổi mới công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Kế hoạch đề ra 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp để triển khai thực hiện. Trong đó, các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tăng cường vai trò lãnh đạo trong đổi mới công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn; tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động, quan điểm, mục tiêu, chính sách đào tạo góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ; tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân; xây dựng nông thôn mới, góp phần giảm nghèo bền vững.

Đỗ Bắc

 

Nâng tầm sản phẩm nông nghiệp chủ lực

Được đánh giá là tỉnh có nhiều dư địa để phát triển nông nghiệp, thời gian qua, các địa phương đã định hướng, khuyến khích, hỗ trợ người dân phát triển đa dạng các loại cây trồng, vật nuôi; từ đó, xác định các sản phẩm nông nghiệp chủ lực để có các giải pháp nâng cao năng suất, chất lượng, sản xuất theo hướng quy mô lớn gắn với liên kết, tiêu thụ sản phẩm...

Phát triển cây ăn quả - một trong những sản phẩm nông nghiệp chủ lực của huyện Thạch Thành.

Với mục tiêu phát triển sản phẩm nông nghiệp chủ lực theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững, giai đoạn 2021-2025, tỉnh ta đã xác định có 12 sản phẩm nông nghiệp chủ lực. Từ đó, đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên cơ sở phát huy lợi thế của từng địa phương để xây dựng các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh. Cùng với đó, ngành nông nghiệp đã triển khai nghiên cứu xây dựng bản đồ nông hóa thổ nhưỡng phục vụ thâm canh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và quản lý sử dụng bền vững tài nguyên đất nông nghiệp trong toàn tỉnh.

Lúa là một trong số những sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh. Tại nhiều địa phương như Thiệu Hóa, Hà Trung, Nông Cống... sản xuất lúa ngày càng đi vào chiều sâu, tập trung nâng cao chất lượng và lợi nhuận sản xuất; đẩy mạnh tích tụ, tập trung đất đai để sản xuất quy mô lớn; người dân đã thay đổi tư duy sản xuất, ứng dụng khoa học - kỹ thuật mới vào các khâu sản xuất từ gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch...; tỷ lệ sử dụng các giống lúa năng suất, chất lượng cao chiếm tới 90%, cơ cấu mùa vụ hợp lý; thu hút doanh nghiệp đầu tư sản xuất và liên kết tiêu thụ sản phẩm lúa gạo cho người dân; tạo vùng nguyên liệu ổn định cho các nhà máy chế biến...

Ông Trịnh Đức Hùng, Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Thiệu Hóa cho biết: “Hiện nay, thị trường đòi hỏi sản phẩm gạo không chỉ ngon mà cần chất lượng hơn, bảo đảm an toàn sức khỏe cho người tiêu dùng. Do đó, bên cạnh diện tích sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, vụ xuân 2023-2024, huyện Thiệu Hóa đã phát triển được 136ha lúa sản xuất theo hướng hữu cơ; áp dụng cơ giới hóa khâu làm đất 100%, khâu gieo cấy 25%, thu hoạch 75%. Tại mô hình này, các hộ dân không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc từ hóa học mà sử dụng thuốc có nguồn gốc sinh học thảo mộc... Hầu hết diện tích được doanh nghiệp liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm với giá trị cao hơn thị trường từ 1,5 đến 1,8 lần”.

Thịt lợn cũng là một trong những sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh với tổng đàn hiện đạt 1,3 triệu con, sản lượng thịt hơi hàng năm khoảng 185.000 tấn. Trung bình hàng tháng, số lợn thịt xuất chuồng trên địa bàn tỉnh khoảng 155.000 đến 160.000 con, trong đó có khoảng hơn 110.000 con được giết mổ và tiêu thụ trong tỉnh, hơn 40.000 con xuất bán ra các tỉnh, thành khác. Để nâng cao chất lượng đàn lợn, tỉnh khuyến khích người chăn nuôi quản lý tốt con giống; trên địa bàn tỉnh đã có một số doanh nghiệp chú trọng việc nhập con giống có năng suất, chất lượng cao như giống lợn thuần chủng Yorkshire, Durock, Landrace... từ Đan Mạch. Bên cạnh đó, người dân cũng đã chủ động thực hiện chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học để phòng chống dịch bệnh; tự động hóa quy trình sản xuất với các loại máy móc hiện đại; hệ thống chuồng kín; phát triển các chuỗi liên kết từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ thịt lợn và các sản phẩm từ thịt lợn. Cùng với đó, thu hút các doanh nghiệp có đủ năng lực đầu tư vào lĩnh vực giết mổ, chế biến, gắn liên kết sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, nhằm nâng cao giá trị và phát triển bền vững.

Dựa trên thế mạnh của mỗi địa phương, hiện toàn tỉnh đã xây dựng và hình thành các vùng nuôi trồng cây, con chủ lực tập trung quy mô lớn, như: Vùng lúa thâm canh, vùng mía nguyên liệu, vùng nuôi tôm chân trắng thâm canh, vùng nuôi ngao bến tre, các vùng rừng gỗ lớn, vùng luồng thâm canh...; các sản phẩm chăn nuôi chất lượng cao của tỉnh với bò sữa, lợn hướng nạc... cũng đang được người dân chú trọng nâng cao chất lượng.

Để từng bước nâng cao chất lượng các sản phẩm nông nghiệp chủ lực, ngành nông nghiệp đã nghiên cứu, chọn tạo thành công 8 giống lúa, 2 giống mía mới bổ sung vào cơ cấu giống chủ lực. Đồng thời, du nhập tuyển chọn được giống ngô, rau, cây ăn quả mới để bổ sung vào cơ cấu giống cây trồng của tỉnh; phục tráng các cây trồng tại địa phương như lúa nếp hạt cau, bưởi Luận Văn... xây dựng được 15 nguồn giống cây, tuyển chọn cây mẹ, làm giống 5.000 cây trội với 12 loài... để nâng cao chất lượng gỗ; di ương giống đã đáp ứng được 15% nhu cầu giống tôm sú... Trong chăn nuôi, đã ứng dụng công nghệ thụ tinh nhân tạo bằng tinh phân giới tính cho bò sữa, thụ tinh nhân tạo nâng cao tầm vóc đàn bò thịt. Bên cạnh đó, tăng cường áp dụng các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP... vào sản xuất để đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và chất lượng nông sản; xây dựng các chuỗi liên kết tạo đầu ra ổn định cho nông sản; phát triển đa dạng các hình thức liên kết theo chuỗi bền vững, có ứng dụng thương mại điện tử và truy xuất nguồn gốc.

Bài và ảnh: Lê Ngọc

 

Khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế

Thời gian qua, ngành Nông nghiệp tỉnh Hòa Bình tiếp tục thể hiện vai trò trong đảm bảo an sinh xã hội, phát triển kinh tế bền vững, khẳng định vị thế là trụ đỡ vững chắc trước bối cảnh nhiều thách thức về thiên tai, dịch bệnh và biến động thị trường.

Thời gian qua, ngành Nông nghiệp tỉnh Hòa Bình tiếp tục thể hiện vai trò trong đảm bảo an sinh xã hội, phát triển kinh tế bền vững, khẳng định vị thế là trụ đỡ vững chắc trước bối cảnh nhiều thách thức về thiên tai, dịch bệnh và biến động thị trường.

Vùng nguyên liệu chè của Công ty TNHH MTV 2-9 Hòa Bình (Yên Thủy) được sản xuất theo quy trình VietGAP.

Tháng 1/2025, lần đầu tiên có 2 sản phẩm nông sản chế biến của tỉnh được Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) công nhận là sản phẩm cấp quốc gia (OCOP 5 sao), gồm măng chua thái sẵn và măng nứa khô nấu ngay do Công ty cổ phần Kim Bôi ở thị trấn Ba Hàng Đồi (Lạc Thủy) sản xuất. Đây là minh chứng rõ nét cho giá trị nông sản địa phương ngày càng được nâng tầm.

Ông Ngô Đức Sinh, Giám đốc Công ty cổ phần Kim Bôi cho biết: Để giữ vững và phát triển 2 sản phẩm OCOP cấp quốc gia, không để "chết danh”, công ty đã xây dựng kế hoạch để thực hiện từng năm. Trong đó, trước mắt tập trung duy trì ổn định vùng nguyên liệu sạch, bền vững. Kiểm soát chặt quy trình sản xuất - chế biến - bảo quản. Nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp. Chủ động tìm kiếm thị trường mới, đặc biệt là các nước đã có sản phẩm được xuất khẩu tới.

Đến nay, toàn tỉnh đã có 158 sản phẩm được công nhận OCOP cấp tỉnh từ 3 - 5 sao, đạt và vượt so với kế hoạch năm 2024 là 250%. Cùng với kết quả tích cực trong thực hiện Chương trình OCOP, tốc độ tăng trưởng GRDP ngành nông, lâm, thủy sản năm 2024 ước đạt 3,25%, giá trị sản xuất đạt khoảng 13.900 tỷ đồng, nhiều chỉ tiêu vượt kế hoạch đề ra. Đặc biệt, trong quý I/2025, ngành Nông nghiệp đạt mức tăng trưởng ấn tượng 4,19% so với cùng kỳ, góp phần vào tổng mức tăng trưởng GRDP toàn tỉnh 12,76%, chỉ đứng sau tỉnh Bắc Giang trên phạm vi cả nước. Chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) tiếp tục được đẩy mạnh với 83/129 xã đạt chuẩn, đạt 64,3%; toàn tỉnh có 32 xã NTM nâng cao, 3 xã NTM kiểu mẫu.

Sản xuất trồng trọt ổn định và hiệu quả. Giá trị thu nhập bình quân trên 1ha đất canh tác đạt khoảng 200 triệu đồng, riêng cây trồng chủ lực đạt trên 265 triệu đồng/ha. Công tác phòng trừ sâu bệnh, kiểm soát chất lượng giống và duy trì mã số vùng trồng được quan tâm đúng mức, tạo tiền đề vững chắc cho mục tiêu phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Chăn nuôi phát triển ổn định với tổng đàn gia súc, gia cầm đạt trên 9,8 triệu con. Lĩnh vực thủy sản giữ vững đà tăng trưởng với sản lượng ước đạt 12.550 tấn trong năm 2024, tăng 5% so với kế hoạch. Hoạt động sản xuất giống thủy sản và quan trắc môi trường nuôi được triển khai bài bản. Lâm nghiệp phát triển theo hướng bền vững. Diện tích trồng rừng vượt kế hoạch, đạt trên 9.000ha. Thu nhập từ rừng của người dân ngày càng tăng nhờ vào sản lượng khai thác gỗ, lâm sản phụ và các sản phẩm có giá trị gia tăng.

Song song với việc đẩy mạnh sản xuất, ngành Nông nghiệp tỉnh chú trọng thúc đẩy hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản, đặc biệt làxuất khẩu. Trong năm 2024, tổng giá trị xuất khẩu nông, lâm sản của tỉnh ước đạt trên 555 tỷ đồng, trong đó, nông sản xuất khẩu chiếm hơn 334 tỷ đồng, sản lượng khoảng 18.358 tấn. Các sản phẩm nông sản chủ lực của tỉnh như mía, chè, măng, lạc, bưởi, cam, ớt muối, rau củ muối… tiếp tục duy trì thị trường xuất khẩu ổn định. Đặc biệt, trong năm, tỉnh đã hỗ trợ các đơn vị, doanh nghiệp xuất khẩu thành công hơn 58 tấn cam và bưởi Diễn sang các thị trường: Anh, Mỹ, Malaysia, từng bước góp phần khẳng định chất lượng và nâng tầm thương hiệu nông sản Hòa Bình trên thị trường quốc tế.

Đồng chí Nguyễn Huy Nhuận, Giám đốc Sở NN&MT cho biết: Năm 2025, ngành NN&MT Hòa Bình đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng nông, lâm nghiệp, thủy sản đạt 4,3%; giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản đạt khoảng 14,5 nghìn tỷ đồng; có thêm 6 xã được công nhận đạt chuẩn NTM; chuẩn hóa 16 sản phẩm OCOP đạt từ 3 sao trở lên... Để hoàn thành mục tiêu này, ngành tiếp tục tập trung thực hiện hiệu quả các đề án, chương trình trọng điểm; đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, số hóa quản lý sản xuất nông nghiệp; phát triển chuỗi giá trị gắn với xây dựng thương hiệu; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chú trọng đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Đồng thời, tiếp tục triển khai các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái, góp phần đưa nông nghiệp tỉnh nhà phát triển toàn diện, hiệu quả và bền vững hơn...

Thu Hằng

 

Nông dân tiên phong ứng dụng công nghệ ở Lý Sơn

Hiểu rõ những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp do điều kiện tự nhiên ở huyện Lý Sơn, ông Nguyễn Thành Dũng (52 tuổi) ở thôn Đông An Vĩnh đã tìm cách vượt khó, ứng dụng khoa học công nghệ để trồng hành, tỏi hiệu quả. Đồng thời, giúp hơn 200 hộ dân khác có nước sản xuất và tạo việc làm cho nhiều lao động địa phương.

Tiên phong đầu tư hệ thống tưới hiện đại

Ông Nguyễn Thành Dũng có hơn 20 sào đất nông nghiệp chuyên sản xuất hành, tỏi. Trước đây, ông cũng tưới nước cho cây theo phương pháp truyền thống là sử dụng ống mềm, kéo lê trên mặt ruộng để tưới.

Cách làm này vừa tốn thời gian, tốn sức lao động. Mặt ruộng hành, tỏi không được tưới nước đều, chỗ thừa nước, chỗ lại thiếu do việc tưới nước đều được làm thủ công. Nguồn nước ở Lý Sơn không dồi dào, nhất là mùa nắng nóng, người nông dân phải đi mua nước để tưới cây với giá từ 70 - 100 nghìn đồng/giờ.

Ông Nguyễn Thành Dũng là một trong những nông dân tiên phong đầu tư hệ thống tưới nước hiện đại phục vụ sản xuất nông nghiệp ở huyện Lý Sơn.

Từ cái khó này, ông Dũng đã quyết tâm cải tạo hệ thống tưới hiệu quả hơn. Cách đây 10 năm, khi việc sử dụng hệ thống béc phun trong tưới tiêu vẫn còn lạ lẫm ở huyện đảo, ông Dũng là người tiên phong đầu tư hệ thống này.

“Tôi vào đất liền, đi học hỏi cách làm ở nhiều cánh đồng hoa màu có sử dụng béc phun và thấy rõ hiệu quả của hệ thống mới mang lại. Khi trở lại Lý Sơn, tôi đã quyết định đầu tư 4 - 5 triệu đồng/sào để thuê người lắp đặt hệ thống béc phun trên diện tích đất trồng hành, tỏi của gia đình. Lúc bấy giờ, ai cũng nói tôi làm vậy là phí tiền vô ích”, ông Dũng kể lại.

Mặc cho nhiều người ngăn cản, ông Dũng vẫn làm theo cách mới, đặt ống phun cách nhau từ 2 - 2,5m, đảm bảo khi tưới, nước phun giáp nhau, để hành, tỏi được nhận nước tưới đều. Phương pháp này cung cấp nguồn nước tưới cho cây kịp thời, không bị úng, cũng không bị thiếu nước.

Nhờ có hệ thống tưới tiện ích, diện tích trồng hành, tỏi của gia đình ông Dũng thường xuyên cho năng suất cao.

“Tưới béc phun giúp cây trồng có điều kiện phát triển tốt hơn, bộ rễ mọc đều xung quanh, hút nhiều dinh dưỡng và giúp hành, tỏi đứng vững, không đổ ngã như phương pháp tưới truyền thống. Khi tưới, chỉ cần vài động tác đơn giản, sẽ thực hiện hoàn tất các khâu cần thiết để tưới, hiệu quả kinh tế rõ ràng”, ông Dũng chia sẻ.

Từ thành công bước đầu của ông Dũng, nhiều hộ nông dân khác đã đến học hỏi và đầu tư hệ thống tưới nước mới. Hiện 100% diện tích nông nghiệp ở Lý Sơn đều được tưới tiêu bằng béc phun. Không còn quá vất vả như trước đây, việc trồng hành, tỏi ở Lý Sơn ngày nay đã nhàn nhã hơn nhiều từ kỹ thuật tưới phun hiện đại và tiện ích. Nhờ đó, không những năng suất, sản lượng hành, tỏi tăng mà còn tạo lợi nhuận do giảm chi phí nhân công, lao động; tiết kiệm điện, nước.

Chủ động tìm nguồn nước ổn định để sản xuất

Ông Dũng tâm sự, ở Lý Sơn phần lớn thanh niên trai tráng đều chọn nghề biển - nghề truyền thống của cư dân vùng biển. Từng một thời ra khơi trên những con tàu gỗ lớn, nhưng làm ăn không thuận lợi, ông đổi hướng về quê làm nông và gắn bó với nghề hơn 30 năm nay.

Từ 1 - 2 sào đất nông nghiệp ban đầu, ông Dũng đã mở rộng trồng hơn 20 sào hành, tỏi và thu hoạch về hàng chục tấn sản phẩm mỗi năm.

Lúc mới bắt đầu, ông chỉ trồng hành, tỏi trên diện tích 1 - 2 sào đất. Nhưng càng gắn bó với cây hành, cây tỏi, ông lại càng đam mê, yêu thích sản phẩm nông nghiệp đặc trưng của quê hương và muốn lan tỏa, giới thiệu thương hiệu hành, tỏi Lý Sơn rộng khắp trong và ngoài tỉnh.

Ông vừa làm, vừa học hỏi kinh nghiệm từ thực tế, từ internet và áp dụng khoa học công nghệ để nâng cao năng suất cây trồng. Hiểu rõ sản xuất nông nghiệp ở Lý Sơn, điều khó khăn nhất chính là thiếu nguồn nước tưới, cách đây 15 năm, ông Dũng đã mạnh dạn đầu tư hàng chục triệu đồng để khoan giếng, bắt mạch nước ngầm để tưới cây.

Với hơn 20 sào đất nông nghiệp hiện tại, mỗi năm ông Dũng thu hoạch hơn 20 tấn hành và 3 - 4 tấn tỏi. Đây là một trong những hộ nông dân sản xuất trên diện tích đất lớn nhất và đạt hiệu quả cao ở huyện Lý Sơn.

Để cung cấp đủ nước phục vụ sản xuất nông nghiệp cho gia đình và hơn 200 hộ dân ở Lý Sơn, ông Dũng đã đầu tư giếng khoan, chủ động tìm nguồn nước ổn định.

Ngoài việc đảm bảo nguồn nước sản xuất cho gia đình, hiện ông Dũng đang cung cấp nước tưới cho hơn 200 hộ dân ở Lý Sơn. Giữa thời tiết nắng gắt, nhiều khu vực ở Lý Sơn thiếu nước sản xuất, khu vực giếng khoan của ông Dũng vẫn dồi dào đủ cung cấp tưới cây cho những ruộng hành, tỏi.

Ông Trần Kim Bửu ở thôn Đông An Vĩnh cho biết, gia đình tôi có 3 sào trồng hành, tỏi. Vì chi phí đầu tư giếng khoan lớn nên tôi không làm mà nhờ ông Dũng cho thuê giếng, hỗ trợ nước tưới. Nhờ vậy, tôi không bị thiếu nước trong sản xuất.

Ông Nguyễn Thành Dũng đang tạo việc làm cho 3 - 5 lao động với thu nhập khá.

Không chỉ tập trung phát triển kinh tế gia đình, ông Dũng còn tạo việc làm cho 3 - 5 lao động địa phương. Bà Phạm Thị Tùng hơn 60 tuổi, ở thôn Đông An Vĩnh chia sẻ, 5 năm qua, bà làm các công việc thời vụ cho gia đình ông Dũng như: Làm đất, xuống giống hành, tỏi, nhổ cỏ, bón phân, thu hoạch,… “Tôi được ông Dũng tạo việc làm đều đặn quanh năm, tiền công 300 nghìn đồng/ngày. Với mức thu nhập này, tôi có đủ tiền để trang trải các chi phí hàng ngày, nên cuộc sống đỡ vất vả”, bà Tùng bộc bạch.

Bản lĩnh, không ngại áp dụng công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp, ông Dũng không chỉ tạo thu nhập tốt cho gia đình mà còn giúp nhiều hộ dân ở địa phương cùng phát triển kinh tế.

Bài, ảnh: T.PHƯƠNG – K.NGÂN

 

Phát triển nông nghiệp bền vững

Nhờ ứng dụng hiệu quả công nghệ cao, tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp TP. Huế giai đoạn 2021 -2024 bình quân đạt 2,94%/năm, chiếm 9,5% tỷ trọng GRDP, là mức tăng trưởng khá cao, đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của toàn thành phố.

Mô hình trồng dưa lưới trong nhà kính ứng dụng công nghệ tiên tiến của Israel ở xã Quảng Thái

Hiệu quả

Gần 9 năm trước, ông Trương Như Hải cùng một số hộ nông dân ở phường Thủy Biều (quận Thuận Hóa) bắt tay thực hiện sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Trên diện tích 1.500m2, ông Hải đầu tư hệ thống nhà kính rộng 1.300m2, ứng dụng công nghệ tiên tiến tưới nhỏ giọt và hệ thống làm mát của Israel. Ưu điểm của mô hình là không phụ thuộc vào thời tiết do có hệ thống làm mát, tạo điều kiện canh tác cây trái vụ cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao. Hệ thống tưới nhỏ giọt còn có thể kiểm soát được dư lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và chất kích thích tăng trưởng. Theo Chủ tịch Hội Nông dân quận Thuận Hóa, bà Lê Thị Hương Nga, đây được xem là mô hình thí điểm đầu tiên về sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tại Huế. Với mô hình này, đầu ra cho sản phẩm khá thuận lợi nhờ nhu cầu của thị trường khá lớn, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Sau thời gian triển khai, việc ứng dụng công nghệ đèn led trong sản xuất giống lan đại hồ điệp bằng phương pháp nuôi cấy mô của Công ty TNHH NN MTV Lâm nghiệp Tiền Phong thực hiện tại phường Thủy Xuân, quận Thuận Hóa, đã đạt được kết quả khả quan. Cây lan sinh trưởng và phát triển tốt hơn dưới điều kiện ánh sáng đèn led, các chỉ tiêu sinh trưởng cao hơn so với sử dụng đèn compact. Ông Ngô Thành, Phó Giám đốc Công ty cho biết, ngoài giảm chi phí tiền điện, việc sử dụng công nghệ đèn led kết hợp với ánh sáng tự nhiên còn giúp hệ số nhân giống lan tăng lên 4 - 5 lần, trong đó tỷ lệ sống của vườn ươm đạt trên 90%.

Về các vùng nông thôn, được chứng kiến và nghe nông dân kể chuyện mới cảm nhận về sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đã thực sự đi vào đời sống. Đó là Tổ hợp tác trồng rau sạch trong nhà màng ở xã Hương Phú (Phú Lộc), có 4 hộ thành viên tham gia với tổng vốn đầu tư ban đầu 2,2 tỷ đồng, đến nay tổng doanh thu bình quân hằng năm của các hộ hơn 650 triệu đồng. Hay như hộ ông Nguyễn Sinh ở xã Hương Xuân (Phú Lộc), với mô hình 2 nhà màng trồng hoa lan sinh thái được công nhận sản phẩm OCOP, đã mang lại hiệu quả kinh tế cao gấp nhiều lần so với một số cây trồng khác...

Theo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Đình Đức, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, ngành nông nghiệp được cơ cấu lại theo hướng sản xuất hàng hóa, tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất, chế biến. Sản xuất nông nghiệp được ưu tiên phát triển theo hướng ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, liên kết theo chuỗi giá trị, gắn với thị trường tiêu thụ, thích ứng với biến đổi khí hậu. Với tiềm năng và thế mạnh sẵn có, phát triển sản xuất nông sản an toàn và nông nghiệp công nghệ cao được xem là cơ hội để kinh tế nông nghiệp TP. Huế phát triển nhanh và bền vững hơn.

Mô hình nhà màng trồng hoa lan sinh thái của ông Nguyễn Sinh ở xã Hương Xuân (Phú Lộc)được công nhận sản phẩm OCOP

Phát triển theo chuỗi giá trị

Từ năm 2016, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế (nay là TP. Huế) đã ban hành quyết định tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững, trong đó nhấn mạnh việc áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao và sản xuất nông sản an toàn. Tiếp đó, UBND TP. Huế triển khai Chương trình số 165/CTr-UBND về việc ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN) vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao TP. Huế giai đoạn 2023 - 2030.

Mục tiêu đặt ra trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao là đẩy mạnh việc ứng dụng và nhân rộng các tiến bộ KH&CN. Trong đó, nâng cao năng lực của các tổ chức, cá nhân trong việc ứng dụng công nghệ mới, công nghệ cao, tạo sự chuyển biến về năng suất, chất lượng, hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thông qua việc ứng dụng và nhân rộng các kết quả về KH&CN; từng bước tạo dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại.

Cũng theo ông Nguyễn Đình Đức, con số 10 - 15% hộ nông dân, 15 - 20% doanh nghiệp tham gia sản xuất nông nghiệp ứng dụng các biện pháp kỹ thuật mang tính công nghệ cao là mục tiêu phấn đấu mà TP. Huế đặt ra trong năm 2025 này. Thành phố có kế hoạch xây dựng được ít nhất 3-5 mô hình ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, phù hợp với từng vùng sinh thái khác nhau; ít nhất có 10% mô hình liên kết ứng dụng KH&CN vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao theo chuỗi giá trị hàng hóa. Đồng thời, hỗ trợ 2-3 doanh nghiệp/tổ chức KH&CN triển khai có hiệu quả các dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tiếp tục thực hiện phát triển cơ sở dữ liệu số hóa của ngành nông nghiệp trên địa bàn thành phố.

Bá Trí

 

Mở rộng mạng lưới phân phối, tiêu thụ nông sản

Trong bức tranh phát triển kinh tế của tỉnh Gia Lai, nông nghiệp giữ vai trò trụ cột với giá trị sản xuất tăng trưởng ổn định. Vấn đề đặt ra hiện nay là mở rộng mạng lưới phân phối, tiêu thụ để góp phần đảm bảo đầu ra cho hàng nông sản.

Quảng bá nông sản tại hội chợ

Gia Lai có tiềm năng phát triển vùng nguyên liệu tập trung với khoảng 106.400 ha cà phê, 33.250 ha cây ăn quả, 83.750 ha cao su, 7.800 ha hồ tiêu, 78.000 ha mì… Bên cạnh đó, tỉnh còn có 454 sản phẩm OCOP (gồm 1 sản phẩm 5 sao, 67 sản phẩm 4 sao, 386 sản phẩm 3 sao) chủ yếu ở các nhóm thực phẩm, đồ uống, nhóm dược liệu và sản phẩm từ dược liệu…

Nhằm tạo lập chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp, thời gian qua, Sở Công thương đã tích cực triển khai hàng loạt giải pháp để hỗ trợ mở rộng mạng lưới phân phối, tiêu thụ, tạo đà cho sản phẩm của địa phương vươn xa. Trong đó, việc hỗ trợ tham gia các chương trình xúc tiến thương mại (XTTM) đã mang lại cơ hội kết nối mở rộng thị trường cho nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX).

Bà Đào Thị Thúy Uyên-Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Khoa học sâm Gia Lai (860 Lê Duẩn, TP. Pleiku) cho hay: “Khi nghiên cứu về cây sâm khỏe ở vùng rừng Kbang, chúng tôi nhận thấy đặc điểm tự nhiên khu vực này đã tạo ra chất lượng sâm vượt trội, có dược tính cao. Từ cơ sở đó, Công ty đã sản xuất các sản phẩm nước sâm K10. Sản phẩm sâm yến K10 là sự kết hợp giữa sâm và yến.

Các sản phẩm này được Công ty thực hiện đầy đủ hồ sơ theo các tiêu chuẩn quốc tế. Gần đây, Công ty được hỗ trợ tham gia các chương trình XTTM. Đây là cơ hội để đơn vị từng bước hoàn thiện sản phẩm nhằm tăng tính cạnh trên thị trường”.

Công ty TNHH một thành viên Khoa học sâm Gia Lai được hỗ trợ tham gia nhiều sự kiện XTTM. Ảnh: T.N

Cơ sở sản xuất trà thảo mộc Trường Phú (xã An Phú, TP. Pleiku) cũng thường xuyên tham gia các chương trình XTTM trong và ngoài tỉnh. Anh Nguyễn Vũ Phú Trường-Chủ cơ sở-chia sẻ: “Tại các chương trình XTTM, tôi được tiếp xúc với các nhà sản xuất có sản phẩm tương đồng để nhận biết được điểm mạnh, điểm yếu của mình, cần hoàn thiện những gì để tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm. Hiện nay, với một cơ sở nhỏ, việc tiếp cận thông tin thị trường và đưa hàng vào hệ thống phân phối là vấn đề cần được kết nối, hỗ trợ”.

Năm nay, các chương trình XTTM tập trung vào tổ chức và tham gia hội chợ triển lãm, phiên chợ, chương trình đưa hàng Việt về nông thôn, miền núi; hội nghị kết nối cung cầu; kết nối giao thương; kết nối tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài tỉnh; phát triển các điểm giới thiệu, bán sản phẩm hàng Việt, hàng đặc sản đặc trưng, sản phẩm nông sản, sản phẩm OCOP, sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu, sản phẩm nông nghiệp của tỉnh…

Bà Nguyễn Thị Bích Thu-Giám đốc Trung tâm Khuyến công và XTTM (Sở Công thương) cho biết: “Chương trình XTTM ngày càng đi đúng trọng tâm với việc hỗ trợ, tối ưu hóa cơ hội giao thương, phù hợp với quy mô sản xuất của từng doanh nghiệp, HTX hướng đến như kênh đại lý, nhà phân phối hoặc xuất khẩu.

Hiện nay, chương trình XTTM chú trọng tổ chức các phiên kết nối giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng, doanh nghiệp với doanh nghiệp nhằm giúp doanh nghiệp nhận định, đánh giá chính xác xu hướng thị trường, xây dựng chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh phù hợp, nhất là việc nắm bắt các tiêu chuẩn, quy định về thủ tục xuất khẩu sản phẩm sang thị trường một số nước”.

Giải pháp mở rộng mạng lưới tiêu thụ

Để người sản xuất không bị thiếu thông tin thị trường, kỹ năng bán hàng và các kênh phân phối hiệu quả, Sở Công thương thường xuyên làm cầu nối giữa nhà sản xuất và thị trường qua việc cung cấp thông tin khách hàng, sản phẩm cho các nhà thu mua lớn, tổ chức đào tạo kỹ năng bán hàng đa kênh. Cùng với đó, thiết lập mô hình mua bán, phân phối hàng hóa qua việc mở điểm bán hàng Việt để kết nối cung cầu, liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở các vùng nông thôn trên địa bàn tỉnh.

Một số thương hiệu cà phê của Gia Lai được trưng bày, giới thiệu tại điểm bán hàng OCOP. Ảnh: T.N

Bà Đinh Thị Ngọc Lan-Chủ cơ sở kinh doanh KL Organic (tổ 3, thị trấn Kon Dơng, huyện Mang Yang) cho biết: “Cuối năm 2024, cơ sở đã khai trương điểm bán sản phẩm OCOP, sản phẩm đặc trưng. Từ khi đi vào hoạt động, cơ sở đã liên kết với các chủ thể OCOP trên địa bàn trưng bày và bán gần 100 sản phẩm, trong đó có nhiều sản phẩm OCOP của tỉnh, sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu, đặc sản địa phương như cà phê, mật ong, bò khô, chanh dây, hạt điều, hạt mắc ca, ngũ cốc, các sản phẩm từ dược liệu, thảo mộc… Điểm bán bước đầu mở ra cơ hội giúp người dân địa phương và du khách tiếp cận với các sản phẩm chất lượng đảm bảo”.

Trong chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp, mạng lưới phân phối và tiêu thụ không chỉ là khâu cuối mà còn là yếu tố then chốt quyết định giá trị, khả năng tiêu thụ và sự phát triển bền vững của sản phẩm. Trên thực tế, sản phẩm dù đạt chất lượng cao nhưng nếu không có hệ thống phân phối hiệu quả thì khó đến được tay người tiêu dùng, giá trị sản phẩm không được đánh giá tương xứng.

Ông Phạm Văn Binh-Giám đốc Sở Công thương-đánh giá: Gia Lai đã hình thành và phát triển nhiều vùng chuyên canh quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao để sản xuất các mặt hàng nông sản chủ lực có giá trị kinh tế cao, mang đậm dấu ấn đặc trưng của địa phương, đáp ứng các tiêu chuẩn thương mại quốc tế và có tiềm năng xuất khẩu lớn. Nhiều sản phẩm như L’amant Café đã đạt thương hiệu quốc gia, Mật ong Phương Di đạt sản phẩm OCOP 5 sao và rất nhiều sản phẩm OCOP đạt tiêu chuẩn 3-4 sao, sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu đã có vị trí trên thị trường.

Lựa chọn kênh tiêu thụ phù hợp là việc rất quan trọng để quảng bá, giới thiệu sản phẩm. Ảnh: P.V

Hiện nay, giá trị của một sản phẩm nông nghiệp không chỉ nằm ở chất lượng mà còn phụ thuộc vào kênh tiêu thụ. Cùng một sản phẩm, nếu bán tại vườn giá chỉ bằng một nửa so với khi vào đại lý, siêu thị hay xuất khẩu chính ngạch. Điều đó cho thấy mạng lưới phân phối đóng vai trò tạo giá trị gia tăng, điều tiết cung cầu và đảm bảo đầu ra ổn định cho nông sản. Đặc biệt, hệ thống phân phối cũng là cầu nối quan trọng giúp nông sản tiếp cận thị trường quốc tế.

Nhằm đổi mới phương thức tiêu thụ nông sản, Sở Công thương đã triển khai nhiều giải pháp như: tăng cường hoạt động kết nối cung cầu, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản, tập trung khai thác tốt thị trường nội địa. Triển khai đa dạng các hình thức XTTM một cách hiệu quả, phù hợp với từng ngành hàng, thị trường, đối tượng hỗ trợ. Hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh chủ động tham gia vào chuỗi giá trị chế biến sâu với hàng hóa có chứng nhận, có thương hiệu, giá trị gia tăng cao.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn các doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh phát huy lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do để mở rộng thị trường xuất khẩu, đa dạng hóa đối tác, nguồn hàng; ưu tiên hoạt động xúc tiến xuất khẩu ngành hàng có thế mạnh, có giá trị gia tăng cao và các mặt hàng xuất khẩu mới.

Đồng thời, đẩy mạnh triển khai các hoạt động kết nối thương mại điện tử, hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng thương mại trong các hoạt động phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Hỗ trợ cung cấp thông tin thị trường, phát triển khâu thiết kế mẫu mã sản phẩm, tập trung hoạt động XTTM, khai thác thị trường đã có FTA với Việt Nam.

THẢO NHIÊN

 

Từ vườn quýt trĩu quả đến cánh đồng dược liệu trăm triệu của người dân tộc thiểu số Hòa An

Những nỗ lực trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin đang góp phần thúc đẩy xóa đói giảm nghèo, làm giàu cho đồng bào dân tộc thiểu số miền núi huyện Hòa An.

Hòa An là huyện trung du, miền núi của tỉnh Cao Bằng, với hơn 80% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Dao... Điều kiện địa hình đồi núi chia cắt, sản xuất nông nghiệp trước đây chủ yếu mang tính tự cung tự cấp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn.

Nâng tầm sản xuất

Trước thực trạng đó, các ban ngành địa phương, đặc biệt là ngành nông nghiệp huyện Hòa An đã xác định chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp là hướng đi tất yếu để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, xóa đói giảm nghèo cho người dân, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Đồng bào dân tộc thiểu số ở Hòa An đang nâng cao giá trị sản xuất nhờ tư duy mới.

Bám sát định hướng đặt ra, Hòa An đã xây dựng và triển khai đồng bộ nhiều giải pháp như quy hoạch vùng sản xuất tập trung, thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển giao kỹ thuật, tổ chức lại sản xuất theo mô hình kinh tế hợp tác, HTX, tổ hợp tác.

Đồng thời, huyện chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản trị cho các HTX, tăng cường liên kết "4 nhà" (nhà nông - nhà nước - nhà khoa học - nhà doanh nghiệp), đặc biệt là chú trọng đào tạo ứng dụng công nghệ thông tin, thương mại điện tử để mở rộng đầu ra sản phẩm.

Nhờ sự vào cuộc quyết liệt, sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện đã có những chuyển biến rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo giảm trung bình 3-4% mỗi năm, nhiều mô hình sản xuất hiệu quả ra đời, tạo đà cho phát triển kinh tế nông thôn.

Một trong những điển hình nổi bật trong chuyển đổi sản xuất ở Hòa An là mô hình trồng quýt đặc sản tại xã Nam Tuấn. Với khí hậu mát mẻ quanh năm và đất đai phù hợp, những năm gần đây, xã đã tập trung mở rộng diện tích trồng quýt lên trên 150 ha.

Nhờ áp dụng kỹ thuật chăm sóc tiên tiến như tưới nhỏ giọt, bón phân hữu cơ vi sinh, các vườn quýt trên địa bàn xã Nam Tuấn đều cho năng suất cao, chất lượng quả thơm ngon, đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, được người tiêu dùng đánh giá cao.

Điển hình như tại HTX Nông nghiệp và Dịch vụ Nam Tuấn, thành lập năm 2021, hiện có 35 thành viên, chủ yếu là người dân tộc Tày. Để nâng cao hiệu quả, HTX tổ chức sản xuất bài bản từ khâu giống, chăm sóc, thu hoạch đến tiêu thụ sản phẩm, xây dựng thương hiệu "Quýt Nam Tuấn - Hòa An".

Năm 2024, doanh thu của HTX đạt hơn 2 tỷ đồng, trung bình mỗi hộ thành viên thu nhập trên 100 triệu đồng/năm từ trồng quýt. Chưa kể HTX tạo nhiều việc làm cho lao động địa phương, trở thành điểm tựa tin cậy cho các hộ nông dân liên kết.

Đa dạng hóa sinh kế

Không chỉ phát triển cây ăn quả, Hòa An còn chú trọng nhân rộng mô hình trồng dược liệu dưới tán rừng. Điển hình là HTX Dược liệu Thanh Bình ở xã Bình Dương, với 25 thành viên chủ yếu là đồng bào Dao.

Đển nâng cao giá trị gia tăng cho thành viên, HTX chủ động liên kết với doanh nghiệp để trồng và thu mua các loại cây dược liệu như đương quy, đinh lăng, hà thủ ô đỏ… Trên diện tích hơn 30 ha, mỗi năm HTX cung cấp ra thị trường khoảng 50 tấn nguyên liệu khô, đạt doanh thu gần 3 tỷ đồng.

Anh Triệu Văn Lương, thành viên của HTX Thanh Bình, cho biết: "Trồng dược liệu thu nhập cao hơn nhiều so với trồng ngô, trồng lúa. Ngoài tiền công chăm sóc, chúng tôi còn được chia lợi nhuận từ tiêu thụ sản phẩm nên đời sống ngày càng ổn định".

Những năm gần đây, huyện Hòa An cũng phát triển mạnh mô hình nuôi ong lấy mật tại các xã Vĩnh Quang, Hồng Việt… HTX Ong mật Hòa An với gần 1.000 đàn ong, mỗi năm sản xuất khoảng 15 tấn mật ong nguyên chất. Nhờ tận dụng tiềm năng thiên nhiên, kết hợp quy trình nuôi ong hữu cơ, sản phẩm mật ong Hòa An được người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh ưa chuộng, mở ra hướng phát triển bền vững cho nhiều hộ gia đình người dân tộc thiểu số.

Sản xuất thông minh hơn giúp đồng bào dân tộc thiểu số huyện Hòa An tăng giá trị kinh tế.

Một điều đáng chú ý là đồng bào dân tộc thiểu số huyện Hòa An đang từng bước thay đổi tư duy sản xuất nhờ mạnh dạn ứng dụng công nghệ thông tin, thương mại điện tử vào sản xuất, kinh doanh, mở ra hướng đi mới trong nâng cao giá trị nông sản.

Từ năm 2022 trở lại đây, nhờ sự hỗ trợ của các chương trình chuyển đổi số, tập huấn kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin, nhiều hộ dân, HTX đã bước đầu tiếp cận các nền tảng số, từng bước quảng bá, tiêu thụ sản phẩm qua mạng.

Hình thành chuỗi giá trị

Tiêu biểu như HTX Nông nghiệp sạch Hòa An (thị trấn Nước Hai) đã xây dựng fanpage, sử dụng Zalo OA, tham gia các sàn thương mại điện tử như Postmart.vn, Voso.vn để giới thiệu sản phẩm gạo sạch, mận Hòa An, rau hữu cơ…

Nhờ ứng dụng hiệu quả thương mại điện tử, lượng tiêu thụ sản phẩm của HTX tăng 30–40% so với trước, đặc biệt mở rộng được khách hàng ra các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Phòng…

Ngoài ta, một số hộ dân ở các xã như Đại Tiến, Bế Triều, Đức Long… đã chủ động sử dụng điện thoại thông minh để livestream bán hàng nông sản theo mùa vụ như quýt, mận, chè Shan tuyết. Các hội chợ trực tuyến, tuần lễ nông sản online do tỉnh Cao Bằng tổ chức cũng trở thành kênh giúp người dân Hòa An tiếp cận thị trường rộng lớn hơn.

Những thành công trong quá trình chuyển đổi sản xuất nông nghiệp của đồng bào dân tộc thiểu số ở Hòa An trong những năm qua đến từ chính sách hỗ trợ đúng hướng của các ban ngành tỉnh, địa phương. Cũng không thể không nhắc đến sự đồng hành của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Cao Bằng, góp phần nâng tầm các HTX, tổ hợp tác.

Cụ thể, Liên minh HTX Việt Nam cùng Liên minh HTX tỉnh đã tổ chức nhiều hội nghị tuyên truyền về phát triển kinh tế hợp tác, nâng cao nhận thức cho người dân về vai trò của HTX trong phát triển kinh tế địa phương.

Điển hình, vào ngày 21/3/2025, Liên minh HTX tỉnh Cao Bằng đã tổ chức sinh hoạt chuyên đề tại Khu Di tích Nặm Lìn, xã Hoàng Tung, huyện Hòa An, nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền phát triển kinh tế hợp tác, HTX trên địa bàn tỉnh.

Trong năm 2024, Liên minh HTX tỉnh đã hỗ trợ các HTX tham gia xúc tiến thương mại tại 14 hội chợ, hội nghị quảng bá giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm, với 20 lượt HTX tham gia. Hoạt động này nhằm giúp các HTX mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao giá trị sản phẩm và phát triển bền vững.

Liên minh HTX Việt Nam cùng Liên minh HTX tỉnh Cao Bằng đã tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý HTX, nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động và quản trị của các HTX trên địa bàn tỉnh nói chung và trên địa bàn huyện Hòa An nói riêng. Đây là một phần trong nỗ lực xây dựng đội ngũ cán bộ HTX chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế hợp tác trong giai đoạn mới…

Có thể nói, từ những vườn quýt trĩu quả, những cánh đồng dược liệu xanh mướt đến những thùng mật ong vàng óng, sự đổi thay mạnh mẽ của vùng cao Hòa An hôm nay là minh chứng sinh động cho hiệu quả của việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Đây chính là con đường bền vững đưa đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên thoát nghèo, làm chủ cuộc sống trên chính quê hương mình.

An Chi

 

Xây dựng thương hiệu cho nông sản

Tỉnh Phú Thọ có tiềm năng phát triển nông nghiệp với nhiều loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao. Song, các nông sản của tỉnh vẫn chưa xây dựng được thương hiệu đủ mạnh nên giá trị kinh tế chưa được như kỳ vọng. Vì vậy, xây dựng thương hiệu cho nông sản chính là 'bài toán khó' trong hành trình nâng tầm giá trị và sức cạnh tranh cho nông sản Đất Tổ trên thị trường.

Sản phẩm Hồng Gia Thanh, huyện Phù Ninh xây dựng thành công thương hiệu, nâng cao thu nhập cho người trồng.

Xây dựng thương hiệu - khẳng định chất lượng sản phẩm

Cứ vào trung tuần tháng 7 âm lịch trở đi, những người trồng hồng ở xã Gia Thanh, huyện Phù Ninh lại tấp nập đón thương lái và khách đến thăm, mua hồng không hạt về ăn và làm quà tặng. Giờ đây, người trồng hồng ở địa phương không còn phải lo đầu ra mà yên tâm đầu tư cải tạo vườn tạp, mở rộng diện tích cũng như áp dụng các tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất và chất lượng quả hồng.

Ông Hán Văn Khanh, Giám đốc HTX Hồng Gia Thanh cho biết: Năm 2017, UBND huyện Phù Ninh triển khai dự án tạo lập, quản lý và phát triển nhãn hiệu tập thể “Hồng không hạt Gia Thanh”. Năm 2019, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) đã trao chứng nhận nhãn hiệu tập thể “Hồng không hạt Gia Thanh” cho loại quả này và cấp phép sử dụng nhãn hiệu tập thể các thành viên của HTX. Sau khi được cấp chứng nhận, HTX đã được cấp tem nhãn, đầu tư in ấn bao bì với đầy đủ thông tin, giúp khách hàng có thể dễ dàng truy xuất nguồn gốc, để người tiêu dùng có thể an tâm, tránh tình trạng bị lẫn lộn hàng giả, hàng thật.

Ngoài cây hồng Gia Thanh, trên địa bàn tỉnh đã có một số sản phẩm như chè xanh, bưởi Đoan Hùng, chuối tiêu xã Dân Quyền, huyện Tam Nông, rau an toàn ở huyện Lâm Thao... từng bước xây dựng được thương hiệu cho riêng mình, tạo được chỗ đứng với người tiêu dùng. Sau khi các sản phẩm được cấp chứng nhận thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa, giá trị hàng hóa đã được nâng lên từ 15-20% so với trước.

Theo các chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp, xây dựng thương hiệu chính là cách giúp cho nông sản của địa phương có sức cạnh tranh trên thị trường. Qua việc xây dựng thương hiệu, người dân được nâng cao kiến thức về nông nghiệp, nông thôn, về quy trình canh tác, chọn giống sản xuất, bảo quản, tiếp thị sản phẩm; quản lý bán hàng, tiến hành các công việc đăng ký quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, nhãn hiệu tập thể, chỉ dẫn địa lý để tránh bị xâm phạm... Đây cũng là cơ sở để bảo vệ và phát triển sản phẩm riêng, đặc trưng từng vùng miền và quảng bá, thu hút khách du lịch.

Có thể khẳng định rằng, xây dựng thương hiệu là vấn đề rất cần thiết đối với nông sản để sản phẩm có chỗ đứng vững chắc trên thị trường, nâng cao hiệu quả và giá trị kinh tế. Chính vì vậy, ngoài những chính sách chung của tỉnh, các địa phương cũng có những cơ chế riêng nhằm xây dựng và phát triển thương hiệu cho nông sản để sản phẩm khẳng định được vị thế trên thị trường.

Hiện nay, Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đang phát triển rất thành công tại các địa phương trong tỉnh. Đây chính là lợi thế để các địa phương xây dựng vùng sản xuất hàng hóa tập trung, đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng các chuỗi liên kết, vừa nâng cao giá trị sản phẩm, vừa góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ cho nông sản.

Xây dựng được nhãn hiệu, HTX sản xuất rau an toàn Tứ Xã, huyện Lâm Thao đã thành công đưa sản phẩm vào các hệ thống siêu thị, nâng cao thu nhập cho thành viên.

Chú trọng phát triển bền vững

Tuy nhiên, việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu vẫn còn khó khăn do việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp còn hạn chế; sản phẩm sau thu hoạch chưa thật bài bản, thiếu sự đầu tư cho công tác tiếp thị, nghiên cứu thị trường... Đây là những yếu tố cản trở chiến lược xây dựng thương hiệu nông sản. Mặt khác, kinh phí cho hoạt động này phần lớn phụ thuộc vào chương trình xúc tiến thương mại hoặc lồng ghép vào các chương trình hoạt động của các lĩnh vực khác. Doanh nghiệp thu mua nông sản tại các địa phương còn chưa mặn mà trong việc xây dựng và phát triển thương hiệu. Đa số nông sản được trồng và sản xuất ở quy mô nhỏ lẻ, nguồn giống cây trồng, vật nuôi thiếu sự kiểm soát và định hướng. Quy trình sản xuất còn dựa chủ yếu vào kinh nghiệm, tập quán; công nghệ thu hoạch, chế biến, bảo quản sau thu hoạch còn thủ công thô sơ; ứng dụng khoa học trong sản xuất và chế biến nông sản chưa nhiều dẫn đến chất lượng thiếu đồng nhất, thiếu ổn định. Sản phẩm mang nhãn hiệu tập thể chủ yếu được xác định chất lượng bằng màu sắc, hình dáng, mùi vị... dựa vào cảm quan là chính nên rất khó định lượng để đề ra tiêu chuẩn chung cho sản phẩm đó.

Đồng chí Nguyễn Thanh Hiệp - Phó Chi cục trưởng phụ trách Chi cục Phát triển nông thôn cho biết: Trong thời gian tới, Chi cục tiếp tục phối hợp với các sở, ngành, địa phương xây dựng các thương hiệu nông sản đặc trưng của từng vùng gắn với OCOP. Bên cạnh đó, chủ động phối hợp với các đơn vị tổ chức các hội chợ quảng bá, giới thiệu sản phẩm được công nhận nhãn hiệu tập thể để doanh nghiệp liên kết với hợp tác xã tiêu thụ sản phẩm tại thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Song song với đó, Sở NN&MT tiếp tục phối hợp đẩy mạnh tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của nông dân về tầm quan trọng và lợi ích của việc xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu để tạo ra chất lượng hàng hóa đồng đều, đáp ứng yêu cầu về an toàn thực phẩm; đẩy mạnh việc xây dựng các mô hình chuỗi cung cấp thực phẩm an toàn, bền vững gắn với vùng quy hoạch tập trung, kết hợp xúc tiến thương mại, hỗ trợ tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm thực phẩm an toàn, hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm thực phẩm nông sản đặc sản... tạo cơ sở tiền đề quan trọng để hướng tới nền nông nghiệp hiện đại, hội nhập quốc tế.

Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ các chủ thể kinh tế nâng cấp, hoàn thiện về sản phẩm, tập trung đổi mới và cải thiện công nghệ, quy trình kỹ thuật, mở rộng vùng nguyên liệu; nâng cao chất lượng sản phẩm... Tập trung rà soát, lựa chọn sản phẩm gắn với lợi thế, thế mạnh của địa phương, ưu tiên các ý tưởng sản phẩm mới trên cơ sở ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là sản phẩm chế biến, chế biến sâu, sản phẩm truyền thống. Nâng cao hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại thị trường trong nước, tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại định hướng xuất khẩu; đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động xúc tiến thương mại.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục chú ý và đẩy mạnh việc xây dựng thương hiệu cho nông sản qua nền tảng thương mại điện tử, đặc biệt là đối với những nền tảng thương mại điện tử chuyên biệt về nông sản, từ đó không chỉ tạo ra cơ hội tăng trưởng mạnh mẽ cho ngành nông nghiệp mà còn mở ra những tiềm năng phát triển lâu dài, sẽ giúp nông sản Việt Nam ngày càng khẳng định thương hiệu và vươn xa hơn. Điều này giúp nâng cao giá trị sản phẩm, đồng thời góp phần tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ cách thức sản xuất, tiêu thụ và phát triển ngành nông sản tỉnh nhà trong tương lai.

Phan Cường

 

Bài học vượt khó từ cây ngô

Vụ đông xuân 2024 - 2025 đã khép lại với dấu ấn nổi bật trong ngành nông nghiệp tỉnh Yên Bái. Từ một vụ tưởng chừng mất trắng, người nông dân Yên Bái giờ đã có thể mỉm cười khi thu về thành quả nhờ chính sách hỗ trợ kịp thời của chính quyền. Vụ đông xuân năm nay đã ghi điểm sáng về cây ngô với mức tăng trưởng vượt bậc cả về diện tích lẫn sản lượng.

Được chăm sóc đúng kỹ thuật nên cây ngô vụ đông năm 2025 cho năng suất, sản lượng cao.

Cuối năm 2024, cơn bão số 3 đổ bộ vào Yên Bái để lại những thiệt hại nặng nề cho sản xuất nông nghiệp. Hàng trăm héc - ta lúa, hoa màu bị ngập úng, mất trắng. Người dân đối diện với nguy cơ trắng tay vụ đông. Trong bối cảnh ấy, một quyết sách nhanh chóng được triển khai: chuyển đổi diện tích lúa thiệt hại sang trồng cây vụ đông, đặc biệt là cây ngô, loại cây trồng vừa dễ chăm sóc, vừa cho hiệu quả kinh tế cao.

Ngay sau khi cơn bão số 3 qua đi, từ các nguồn hỗ trợ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh (nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường) đã nhanh chóng tiếp nhận và phân phối giống cây trồng, phân bón cho các địa phương đúng thời điểm, giúp nông dân bắt tay ngay vào sản xuất. Cụ thể: 47,6 tấn ngô giống, gồm: PSC102, PSC747, VINO 688, 9979C và 213 tấn phân bón, gồm 193 tấn phân bón hữu cơ và 20 tấn phân bón vô cơ (NPK).

Để sản xuất đông xuân giành thắng lợi, huyện Yên Bình huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc. UBND huyện đã yêu cầu các xã thành lập, kiện toàn ban chỉ đạo sản xuất cây trồng vụ đông, phân công nhiệm vụ cho từng thành viên phụ trách các thôn, bản. Huyện đã kịp thời cấp hạt giống, phân bón hỗ trợ nhân dân mở rộng diện tích cây vụ đông.

Theo đó, Yên Bình đã phân bổ 2.000 kg ngô giống các loại, 10 tấn phân NPK và 40 tấn hữu cơ vi sinh cho 24 xã, thị trấn. Qua đó, vụ đông xuân năm nay, toàn huyện đã trồng 750 ha ngô, đạt 100% theo kế hoạch, trong đó có 50 ha giao tăng thêm theo phương án khôi phục sản xuất do ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 3.

Nhờ sự vào cuộc quyết liệt của các cấp chính quyền địa phương, sự đồng hành của ngành nông nghiệp và sự quyết tâm của người dân, diện tích trồng ngô vụ đông toàn tỉnh đạt gần 6.746 ha, tăng tới 20,51% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng đạt gần 23.417 tấn, tăng 21,93% (tương ứng hơn 4.200 tấn). Đây là mức tăng ấn tượng trong bối cảnh điều kiện sản xuất còn chịu ảnh hưởng từ cơn bão số 3.

Sự gia tăng đột biến này chủ yếu ghi nhận tại các huyện: Văn Yên, Trấn Yên, Yên Bình, Lục Yên, nơi bà con nông dân được tiếp cận sớm với các chính sách hỗ trợ giống cây trồng, phân bón, cũng như được hướng dẫn kỹ thuật canh tác một cách bài bản.

Ông Trần Đình Trọng - Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Văn Yên, chia sẻ: "Chúng tôi chỉ đạo các xã phải tận dụng tối đa diện tích đất 2 vụ lúa để trồng ngô, không để đất nghỉ. Mỗi ngày chậm trễ là thêm một cơ hội vụ mùa bị mất. Đó là cuộc đua với thời gian".

Để có được kết quả như vậy, các địa phương đồng loạt thành lập ban chỉ đạo sản xuất vụ đông. Cán bộ được phân công cụ thể phụ trách từng thôn, bản. Tại nhiều địa phương như các huyện: Lục Yên, Trấn Yên, Văn Yên, chính quyền không chỉ cấp phát vật tư nông nghiệp mà còn trực tiếp hướng dẫn người dân cải tạo đất, chọn giống phù hợp, canh tác đúng kỹ thuật.

Tại xã Vĩnh Kiên, huyện Yên Bình, nơi được xem là điểm sáng trong sản xuất vụ đông, người dân không còn chờ đợi mà chủ động chuyển sang trồng ngô sau khi thu hoạch lúa mùa. Chị Nguyễn Thị Thu ờ thôn Chanh Yên cho biết: "Gia đình tôi năm nào cũng trồng ngô đông, nhưng năm nay làm nhiều hơn vì được hỗ trợ giống, phân bón. Ngô không chỉ để chăn nuôi mà còn bán được, lá cho trâu, bò ăn, thân thì làm chất đốt, không lãng phí chút nào".

Không chỉ được tiếp sức từ chính sách, nông dân Yên Bái năm nay cũng thể hiện sự thích ứng nhanh, nhạy với điều kiện thực tế. Từ khâu làm đất, chọn giống, gieo trồng đến chăm sóc, người dân đã ứng dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất. Các giống ngô lai có tiềm năng năng suất cao, thời gian sinh trưởng ngắn được đưa vào sản xuất đại trà. Một số vùng canh tác tốt thậm chí còn vượt kế hoạch sản lượng ban đầu. Đây chính là nền tảng để sản xuất nông nghiệp tỉnh Yên Bái phát triển bền vững.

Từ "trận lũ” đến "mùa vàng”, cây ngô đã trở thành biểu tượng cho sự kiên cường và khả năng thích ứng của người nông dân Yên Bái. Câu chuyện mùa vụ năm nay, vì thế, không đơn thuần là một vụ mùa thắng lợi, mà là bài học về cách vượt qua khó khăn bằng tinh thần đoàn kết, sự chỉ đạo kịp thời và những chính sách đi vào thực tế. Ngành nông nghiệp Yên Bái kỳ vọng sẽ tiếp tục đà phục hồi này trong các vụ tiếp theo. Và cây ngô, từ chỗ là giải pháp tình thế đã trở thành niềm tin mới trên hành trình làm giàu từ đồng ruộng.

Năm 2025 toàn tỉnh đạt gần 6.746 ha ngô đông, tăng tới 20,51% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng đạt gần 23.417 tấn, tăng 21,93% (tương ứng hơn 4.200 tấn). Sự gia tăng đột biến này chủ yếu ghi nhận tại các huyện: Văn Yên, Trấn Yên, Yên Bình, Lục Yên. Kết quả đó là do sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, nông dân thích ứng nhanh, nhạy với điều kiện thực tế.

Hồng Duyên

 

Nông dân Cẩm Giàng liên kết để sản xuất nông nghiệp hiệu quả

Nhiều mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp ở huyện Cẩm Giàng (Hải Dương) không chỉ mang lại nguồn thu nhập ổn định cho nông dân mà còn tạo ra sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng.

 

Chuỗi giết mổ gia cầm của Công ty TNHH Chicken P.T cung cấp thực phẩm sạch cho các bếp ăn tập thể

Nông dân gắn bó

Gần chục năm nay, anh Nguyễn Văn Bấc ở thôn Địch Tràng là thành viên quen thuộc trong chuỗi liên kết trồng ngô ngọt ở xã Đức Chính. Để một mô hình sản xuất có thể gắn bó với nông dân nhiều năm như vậy thì liên kết chính là chìa khóa.

Anh Nguyễn Văn Bấc cho biết: "Những năm đầu tiên mới liên kết, công ty hỗ trợ giống và kỹ thuật chăm bón ngô ngọt. Nhưng nay, công ty chỉ còn hỗ trợ giống. Quy trình chăm bón được nông dân thực hiện thành thạo theo tiêu chuẩn VietGAP. Mỗi sào ngô, trừ chi phí, chúng tôi thu lãi khoảng 1,5 triệu đồng. Có lúc, lợi nhuận trong mô hình chưa cao bằng thị trường nhưng luôn ổn định đầu ra. Chúng tôi không phải lo khâu tiêu thụ sản phẩm".

Mô hình liên kết trồng ngô ngọt ở xã Đức Chính giúp nông dân yên tâm sản xuất

Vụ xuân hè năm nay, xã Đức Chính có khoảng 40 ha ngô ngọt được Công ty CP Chế biến nông sản Hải Dương bao tiêu. Ngô ngọt chỉ là một trong những mô hình liên kết sản xuất giữa nông dân với doanh nghiệp tại địa phương. Ngoài ngô ngọt, xã Đức Chính còn nhiều mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị trên cây cà rốt, ớt, dưa hấu, dưa lê, rau Hàn Quốc... Các mô hình đều cho giá trị kinh tế ổn định nên nông dân yên tâm gắn bó. Trong đó, có nhiều mô hình liên kết do các cá nhân tự đứng ra đảm nhận.

Sản phẩm trứng gà Cẩm Đông đạt chứng nhận OCOP 4 sao

Nói đến liên kết sản xuất nông nghiệp ở Cẩm Giàng thì không thể không nhắc đến mô hình sản xuất trứng gà thương phẩm ở xã Cẩm Đông. Thay vì mạnh ai nấy làm như trước, các hộ đã liên kết tạo thành chuỗi gồm 20 thành viên. Từ đó, Hiệp hội Chăn nuôi gà trứng thương phẩm Cẩm Đông cũng được hình thành. Để bảo đảm chăn nuôi an toàn cũng như tiêu thụ hết sản phẩm cho các thành viên, hiệp hội đã xây dựng phương án sản xuất, gắn kết với doanh nghiệp nhằm sản phẩm có đầu ra ổn định, chất lượng. Năm 2021, trứng gà Cẩm Đông được chứng nhận sản phẩm OCOP 4 sao.

Để sản phẩm trứng gà đạt chất lượng, hiệp hội đưa ra tiêu chuẩn chăn nuôi và áp dụng cho tất cả các trang trại trong chuỗi. Nhờ chất lượng trứng tốt, áp dụng quy trình chăn nuôi an toàn sinh học nên sản phẩm trứng gà của hiệp hội được người tiêu dùng đánh giá cao. Nguồn hàng ổn định, hợp đồng rõ ràng nên giá bán trứng của các thành viên cao hơn thị trường từ 200 - 300 đồng/quả, tùy từng thời điểm. Nông dân vì thế cũng yên tâm gắn bó với chuỗi liên kết, nguồn cung ra thị trường cũng luôn ổn định.

Sản phẩm an toàn, chất lượng

Công ty TNHH Chicken P.T giết mổ gia cầm ở các trang trại có liên kết chăn nuôi

Công ty TNHH Chicken P.T ở xã Cẩm Phúc (Cẩm Giàng) là một trong số ít cơ sở giết mổ cơ bản đáp ứng các điều kiện về môi trường và an toàn vệ sinh thực phẩm trong tỉnh. Cơ sở cung cấp chuỗi chăn nuôi và giết mổ khép kín từ trang trại đến bàn ăn.

Chị Nguyễn Thị Tuyền, quản lý cơ sở giết mổ gia cầm của Công ty TNHH Chicken P.T cho biết, mô hình giết mổ được hỗ trợ đầu tư xây dựng năm 2016 từ Dự án LIFSAP với công suất giết mổ 3 - 5 tấn/ngày. 2 trang trại nuôi gia cầm liên kết được hỗ trợ cung cấp giống, thức ăn và cam kết nuôi theo quy trình của công ty. Gia cầm tại các trang trại này được giết mổ, sơ chế, cấp đông và vận chuyển đến các bếp ăn tập thể trong tỉnh. Chính vì vậy, nguồn thực phẩm luôn bảo đảm an toàn và chất lượng khi đến tay người tiêu dùng.

Theo ông Đào Hữu Thuận, Hội trưởng Hiệp hội Chăn nuôi gà trứng thương phẩm Cẩm Đông, hiệp hội chăn nuôi theo chuỗi liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm. Ngoài tiêu thụ sản phẩm, hiệp hội còn hỗ trợ các thành viên kỹ thuật chăn nuôi và phòng chống dịch bệnh. Do đó, trang trại của các thành viên trong chuỗi chăn nuôi đều bảo đảm an toàn, không có dịch bệnh gây thiệt hại cho đàn gia cầm.

Theo đại diện Phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Cẩm Giàng, ngành nông nghiệp của huyện đang có sự thay đổi mạnh mẽ. Nhiều mô hình sản xuất theo hướng liên kết được hình thành và duy trì ổn định qua nhiều năm. Ban đầu, các chuỗi liên kết đều có sự hỗ trợ của Nhà nước. Sau thời gian, các chuỗi liên kết trở nên gắn bó, hoạt động ổn định và không cần đến sự hỗ trợ. Các chuỗi liên kết giá trị giúp mang lại lợi nhuận ổn định cho nông dân và cung cấp cho người tiêu dùng sản phẩm chất lượng, an toàn.

Không giống nhiều địa phương khác trong tỉnh, những năm gần đây ngành nông nghiệp của huyện Cẩm Giàng nổi bật với nhiều mô hình liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm được nhiều tổ chức, cá nhân cùng áp dụng. Thay vì sản xuất riêng lẻ, các hộ nông dân đã hình thành các chuỗi liên kết sản xuất. Việc hình thành chuỗi liên kết giúp họ dễ dàng tiếp cận khoa học, kỹ thuật, kiểm soát tốt quy trình sản xuất, từ đó tạo ra những sản phẩm nông nghiệp sạch, đáp ứng tiêu chuẩn an toàn.

Hợp tác trong sản xuất còn giúp nâng cao sức cạnh tranh của nông sản, mở rộng thị trường tiêu thụ và bảo đảm thu nhập ổn định cho người dân. Đây chính là hướng đi bền vững góp phần phát triển nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả và thân thiện với môi trường.

TH

 

Huyện Phú Giáo: Tập huấn mã vùng trồng, cơ sở đóng gói

Huyện Phú Giáo vừa tổ chức hội nghị tập huấn về thiết lập mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu và sản xuất nội địa trong lĩnh vực trồng trọt cho hơn 50 đại biểu là cán bộ chuyên môn, đại diện tổ chức và cá nhân sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện.

Tại hội nghị, các đại biểu được phổ biến quy định mới về thiết lập mã vùng, hướng dẫn lập hồ sơ, quản lý vùng trồng, kiểm soát dịch hại và truy xuất nguồn gốc theo yêu cầu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Huyện Phú Giáo hiện có 7 mã số vùng trồng phục vụ xuất khẩu và 4 mã vùng nội địa.

Theo đánh giá của các chuyên gia, tiềm năng phát triển nông nghiệp của huyện hiện nay vẫn còn lớn nếu người dân và các hợp tác xã tích cực tham gia, gắn với tiêu chuẩn sản xuất sạch và an toàn.

HẠNH NHI

 

Vi phạm công bố thông tin, một công ty nông nghiệp tại TP HCM bị xử phạt 85 triệu đồng

CTCP Xuất nhập khẩu Vật tư Nông nghiệp III (Nông nghiệp III) vừa bị Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) ban hành Quyết định số 84/QĐ-XPHC xử phạt hành chính do vi phạm quy định về công bố thông tin trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.

Ảnh minh họa.

Theo đó, Nông nghiệp III bị UBCKNN xử phạt 85 triệu đồng đối với hành vi không công bố đối với thông tin phải công bố theo quy định pháp luật (Nông nghiệp III không gửi nội dung công bố thông tin (CBTT) cho Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội đối với các tài liệu: Báo cáo tình hình (BCTH) sử dụng số tiền từ phát hành trái phiếu được kiểm toán năm 2022; BCTH sử dụng số tiền từ phát hành trái phiếu được kiểm toán bán niên 2023; BCTH sử dụng số tiền từ phát hành trái phiếu được kiểm toán năm 2023; BCTH sử dụng số tiền từ phát hành trái phiếu được kiểm toán bán niên 2024;

Cùng với đó, Công ty gửi nội dung CBTT cho HNX không đúng thời hạn đối với các tài liệu: BCTH sử dụng nguồn vốn từ phát hành trái phiếu bán niên 2021; Báo cáo tài chính (BCTC) bán niên 2021; Tình hình thanh toán gốc, lãi trái phiếu bán niên 2021; BCTH sử dụng nguồn vốn từ phát hành trái phiếu năm 2021; BCTC năm 2021; Tình hình thanh toán gốc, lãi trái phiếu năm 2021; BCTH sử dụng nguồn vốn từ phát hành trái phiếu bán niên 2022; BCTC năm 2022; BCTC bán niên 2022; Tình hình thanh toán gốc, lãi trái phiếu bán niên 2022; Tình hình thanh toán gốc, lãi trái phiếu năm 2022; Tình hình thực hiện các cam kết của doanh nghiệp phát hành đối với người sở hữu trái phiếu năm 2022; BCTC bán niên 2023; BCTC năm 2023; Tình hình thanh toán gốc, lãi trái phiếu bán niên 2023; Tình hình thanh toán gốc, lãi trái phiếu năm 2023; Tình hình thực hiện các cam kết của doanh nghiệp phát hành đối với người sở hữu trái phiếu bán niên 2023; Tình hình thực hiện các cam kết của doanh nghiệp phát hành đối với người sở hữu trái phiếu năm 2023).

Theo tìm hiểu, CTCP Xuất nhập khẩu Vật tư Nông nghiệp III được thành lập vào đầu năm 2004, có trụ sở tại số 24A đường Tôn Thất Thuyết, phường 18, quận 4, TP Hồ Chí Minh. Công ty chuyên kinh doanh bán buôn phân bón, thuốc trừ sâu, và các hóa chất khác sử dụng trong nông nghiệp. Hiện nay, ông Phạm Quốc Chiến là người đại diện theo pháp luật của Công ty. Trước đó, vị trí này do ông Lưu Xuân Đỗ đảm nhiệm, người được biết đến như một gương mặt quen thuộc của Năm Sao Group.

Trúc Ninh

 

Hiếu Giang tổng hợp

 

 

 

 

 

 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop