Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 5 tháng 7 năm 2024

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 5 tháng 7 năm 2024

 

Nỗ lực nâng cao chất lượng và giá bán thanh nhãn

 

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Hợp tác xã (HTX) cây ăn trái Thái Thanh ở xã Thới Hưng, huyện Cờ Đỏ là nơi có diện tích trồng thanh nhãn lớn nhất tại TP Cần Thơ. Để nâng cao chất lượng và giá bán của loại trái cây ngon này, nông dân tại HTX không chỉ áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và quy trình canh tác tiên tiến vào sản xuất để tạo ra sản phẩm chất lượng và an toàn, mà còn xử lý cho cây ra trái sớm để bán được giá cao. HTX còn quan tâm kết nối và gắn kết với doanh nghiệp để đưa trái thanh nhãn xuất khẩu thành công vào nhiều thị trường khó tính.

Hiệu quả liên kết

Nhờ trồng thanh nhãn, nhiều nông dân tại HTX cây ăn trái Thái Thanh ở xã Thới Hưng, huyện Cờ Đỏ đã có thu nhập khá tốt để cải thiện đời sống của gia đình. Hiện, HTX cây ăn trái Thái Thanh có 18 hộ xã viên, với diện tích trồng nhãn hơn 140ha, trong đó chủ yếu là cây thanh nhãn. HTX liên kết trồng thanh nhãn theo hướng chất lượng, an toàn và có mã số vùng trồng nên tiêu thụ tốt tại thị trường nội địa và được doanh nghiệp thu mua xuất khẩu vào các thị trường khó tính như Úc, Nhật Bản, Hoa Kỳ... Nông dân tại HTX không ngừng nghiên cứu, áp dụng các giải pháp kỹ thuật để chủ động cho một số diện tích nhãn ra trái sớm, nghịch mùa, giúp sản phẩm bán được giá khá cao, nhiều thời điểm đạt mức từ 50.000-80.000 đồng/kg…

 

 

Thu hoạch thanh nhãn cho trái sớm tại vườn của anh Đặng Thanh Tâm ở xã Thới Hưng.

Anh Đặng Thanh Tâm, ngụ ấp 1 thuộc xã Thới Hưng, là xã viên của HTX cây ăn trái Thái Thanh, cho biết: "Tôi có hơn 25 công đất trồng thanh nhãn đã được khoảng 5 năm tuổi và hiện có thu nhập khá tốt từ loại cây trồng này. Đặc biệt, năm nay nhãn nhà tôi tiếp tục được xử lý cho ra trái sớm và đã thu hoạch xong bán được giá 80.000 đồng/kg. Nhãn cho trái sớm dù năng suất không cao bằng chính vụ nhưng bán được giá cao, nhờ đó có thu nhập khá tốt, góp phần hạn chế tình trạng rộ mùa, giảm giá. Vụ nhãn năm trước, vườn nhãn của tôi cho sản lượng 15 tấn, còn năm nay đạt khoảng 20 tấn".

Anh Bùi Văn Tài, ngụ ấp 7 thuộc xã Thới Hưng là xã viên của HTX cây ăn trái Thái Thanh, cũng cho biết: "Tôi có 2,5ha trồng thanh nhãn đã được 6 năm tuổi và đã cho 4 vụ thu hoạch trái theo mùa thuận, năng suất bình quân 15 tấn/ha, với giá bán ở mức khá tốt như thời gian qua, mỗi héc-ta nhãn tôi có thể thu được từ 300-400 triệu đồng/năm trở lên, cao gấp 10 lần so với trước đây tôi làm lúa". Cũng theo anh Tài, tham gia vào HTX từ năm 2018, gia đình anh cùng nhiều hộ dân trồng thanh nhãn tại địa phương đã có điều kiện liên kết, hỗ trợ nhau trong sản xuất, đồng thời hình thành các vùng trồng nhãn tập trung. Qua đó, thuận lợi trong xây dựng mã số vùng trồng, chuẩn hóa sản xuất đạt chuẩn VietGAP hay tiêu chuẩn hữu cơ và các tiêu chuẩn an toàn để đáp ứng tốt yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Thông qua việc hình thành các HTX gắn với các vùng trồng tập trung, nông dân cũng thuận lợi trong kết nối với các doanh nghiệp để ổn định và nâng cao giá bán sản phẩm nhờ xuất khẩu trái thanh nhãn thành công vào các thị trường khó tính.

Hướng đến sản xuất bền vững

Nhu cầu tiêu thụ các loại trái ngon và có chất lượng cao đang ngày càng tăng ở cả thị trường trong nước và xuất khẩu. Đây là cơ hội để nông dân tại HTX cây ăn trái Thái Thanh đẩy mạnh việc sản xuất và tiêu thụ trái thanh nhãn, loại trái cây được nhiều người đánh giá cao về chất lượng và độ thơm ngon. Cây thanh nhãn không chỉ cho trái to, ăn thơm giòn, dày cơm, hạt nhỏ, vị ngọt thanh, không bị dính nước nên được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng.

Ông Trần Phước Sơn, Chủ tịch Hội đồng quản trị HTX cây ăn trái Thái Thanh, cho biết: "Thanh nhãn là giống cây mới, ngon được nhiều hộ dân tại HTX rất tâm huyết và đam mê trồng loại cây này. Trong những năm qua, HTX đã liên kết với các đơn vị, doanh nghiệp để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. HTX cũng đã liên kết với Công ty TNHH TMDV XNK Vina T&T để xuất khẩu thanh nhãn vào các thị trường khó tính như Hoa Kỳ, Úc... Để giữ vững uy tín, chất lượng sản phẩm và phát triển bền vững cây thanh nhãn, tới đây HTX tiếp tục quan tâm nâng cao chất lượng sản phẩm, làm cho trái nhãn ngày càng ngon hơn, sạch hơn và đẹp hơn. Muốn như vậy phải sản xuất theo hướng chất lượng cao, an toàn, đạt theo các tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt như VietGAP, Global GAP...". Theo ông Sơn, ngoài trồng nhãn cho trái thuận mùa tự nhiên, một số xã viên của HTX đã nghiên cứu, áp dụng giải pháp kỹ thuật cho cây ra trái sớm thành công để bán được giá cao, đây là tín hiệu rất vui. Tới đây, HTX tiếp tục phát huy kết quả này và có định hướng, tổ chức để các xã viên phân bổ diện tích cho trái thuận mùa và rải vụ nghịch mùa phù hợp để đáp ứng yêu cầu thu mua xuất khẩu của doanh nghiệp và giúp xã viên bán được sản phẩm với mức giá tốt nhất.

Những năm gần đây, diện tích trồng cây ăn trái trên địa bàn huyện Cờ Đỏ đã liên tục tăng và huyện đã có hơn 4.990ha cây ăn trái, trong đó có hơn 656,9ha nhãn các loại. Hiện nhãn được trồng tập trung nhiều tại xã Thới Hưng và một số xã ở lân cận như Đông Hiệp và Đông Thắng, với các loại nhãn Ido, thanh nhãn, nhãn xuồng cơm vàng và tiêu da bò. Vùng đất ở huyện Cờ Đỏ cho chất lượng trái ngon, có nhiều tiềm năng để phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, giúp tạo thu nhập và công ăn việc làm cho nhiều hộ dân trên địa bàn. Trên thực tế, thời gian qua nhờ trồng cây thanh nhãn, nhiều nông dân tại huyện Cờ Đỏ đã có thu nhập rất tốt và có điều kiện cải thiện đời sống gia đình, vươn lên làm giàu. Với sự quan tâm khuyến khích và hỗ trợ của ngành chức năng, cùng sự nỗ lực của nông dân trong nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng cường liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm, tin rằng cây thanh nhãn tại huyện Cờ Đỏ sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển ổn định và bền vững.

Bài, ảnh: KHÁNH TRUNG

 

Tăng kiểm soát các vùng trồng sầu riêng xuất khẩu

 

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai

Vài năm trở lại đây, diện tích của sầu riêng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai tăng nhanh và hiện đạt gần 12,7 ngàn hécta. Từ cuối năm 2022, Việt Nam chính thức xuất khẩu chính ngạch trái sầu riêng vào thị trường Trung Quốc. Nhằm tăng cường xuất khẩu sầu riêng vào thị trường lớn này, thời gian qua, ngành nông nghiệp tỉnh đã đẩy nhanh việc xây dựng mã số vùng trồng và mã số cơ sở đóng gói sầu riêng xuất khẩu.

Tuy nhiên, thời gian gần đây, nhiều container sầu riêng xuất khẩu sầu sang Trung Quốc bị cảnh báo vi phạm về kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm, nhất là tình trạng sản phẩm bị nhiễm kim loại nặng cadimi (chì) vượt mức cho phép. Để xuất khẩu sầu riêng bền vững, không để xảy ra tình trạng vi phạm như trên, từ nông dân trồng sầu riêng đến cơ sở đóng gói, xuất khẩu cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, đặc biệt là vai trò quản lý Nhà nước.

 

 

Vùng trồng sầu riêng xuất khẩu tại huyện Thống Nhất.

Kiểm soát mã vùng trồng

Đồng Nai là địa phương thực hiện hiệu quả xây dựng mã số vùng trồng và mã số cơ sở đóng gói sầu riêng xuất khẩu. Cuối năm 2022, toàn tỉnh có 7 vùng trồng được cấp mã số xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc với 533 hécta. Từ đó đến nay, diện tích sầu riêng của tỉnh được cấp mã số vùng trồng xuất khẩu tăng nhanh. Hiện toàn tỉnh đã được cấp 41 mã số vùng trồng sầu riêng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc với diện tích hơn 1,9 ngàn hécta, sản lượng gần 49 ngàn tấn/năm.

Theo thông tin từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, từ tháng 9 năm 2023 đến nay, Cục Bảo vệ thực vật đã gửi 3 văn bản về cảnh báo của thị trường Trung Quốc đối với 8 mã số vùng trồng và 4 mã số cơ sơ đóng gói sầu riêng trên địa bàn tỉnh và tạm dừng sử dụng các mã số vi phạm, nguyên nhân do vi phạm nhiễm rệp sáp trên lô hàng xuất khẩu. Sở đã phối hợp các đơn vị thực hiện xác minh, điều tra nguyên nhân và hướng dẫn vùng trồng, cơ sở đóng gói thục hiện các biện pháp khắc phục. Kết quả có 3 mã số vùng trồng, 2 mã số cơ sở đóng gói đã thực hiện biện pháp khắc phục đáp ứng yêu cầu nước nhập khẩu và được Cục Bảo vệ thực vật xem xét đồng ý cho tiếp tục sử dụng mã số.

Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Võ Văn Phi, về xây dựng mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói xuất khẩu, yêu cầu nông dân, cơ sở đóng gói cần tuân thủ những yêu cầu thuộc trách nhiệm của mình, đảm bảo chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn của thị trường xuất khẩu, không để xảy ra vi phạm ảnh hưởng chung đến toàn ngành. Các địa phương cũng cần quan tâm phối hợp với doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân trong tổ chức các chuỗi liên kết sản xuất an toàn. Qua đó, góp phần xây dựng thương hiệu sầu riêng Đồng Nai có thể cạnh tranh tốt trên thị trường về cả giá bán và chất lượng.

Tăng cường trách nhiệm của các bên

Theo các doanh nghiệp xuất khẩu trái cây tươi, hiện các container xuất khẩu trái cây tươi, đặc biệt là trái sầu riêng xuất khẩu không được qua cửa khẩu ngày mà phải mất từ 4 đến 7 ngày làm việc chờ có kết quả kiểm nghiệm mới được cho thông quan. Những container hàng không đạt yêu cầu sẽ bị tiêu hủy. Điều này gây thiệt hại lớn về mặt kinh tế đối với doanh nghiệp xuất khẩu.

Bà Hoàng Thị Mỹ Ngọc, Giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu trái cây Hòa Hạnh (xã Bàu Trâm, TP.Long Khánh) chia sẻ, việc một số công sầu riêng bị nhiễm kim loại nặng bị trả về, doanh nghiệp bị thiệt hại rất lớn. Doanh nghiệp đã làm việc với nhà vườn lấy mẫu đất, mẫu nước đi kiểm định. Đồng thời, trái cây về cơ sơ đóng gói sau khi qua các bước xử lý lại tiếp tục được đưa đi kiểm định để làm rõ nguyên nhân. Khó khăn là hiện vẫn chưa xác định được nguồn nhiễm từ đâu, doanh nghiệp vẫn đang trong quá trình kiểm tra, xác định để tìm ra nguồn là do quá trình canh tác hay trong quá trình xử lý, đóng gói.

Câu chuyện về chất lượng trái sầu riêng xuất khẩu không chỉ gây thiệt hại cho doanh nghiệp xuất khẩu mà còn ảnh hưởng chung cho cả vùng sản xuất đến từng nhà vườn của nông dân. Các doanh nghiệp xuất khẩu sầu riêng trên địa bàn tỉnh đưa ra đề xuất, các cấp chính quyền tại các địa phương có vùng trồng xuất khẩu cần vận động các hộ nông dân có mã vùng trồng cũng như chưa có mã tích cực tham gia vào các tổ hợp tác, hợp tác xã, qua đó nhằm nâng cao và chuẩn hóa kiến thức canh tác cũng như tuân thủ tuyệt đối về sử dụng phân bón và thuốc phòng ngừa dịch hại. Qua đó kiểm soát và truy xuất được nguồn gốc cũng như nguyên nhân dẫn đến tình trạng kim loại nặng tồn dư trong quả sầu riêng. Căn cứ vào bộ tiêu chuẩn về quả sầu riêng hiện có để xây dựng biện pháp giám sát cũng như chế tài đối với nông dân và doanh nghiệp tham gia xuất khẩu khi không tuân thủ theo đúng quy định. Trước mắt, ở góc độ nhà vườn cần kiểm tra kỹ hơn về việc sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật. Phía cơ sở đóng gói thì siết chặt hơn khâu kiểm tra, giảm hết mức các khả năng xảy ra vi phạm.

Năm 2024, toàn tỉnh còn có 34 vùng trồng đã nộp hồ sơ đang chờ phê duyệt với diện tích 977 hécta. Trên địa bàn tỉnh đã có 10 cơ sở được cấp mã đóng gói xuất khẩu, 2 cơ sở đang chờ xem xét phê duyệt.

Song Lê

 

Năm 2024: Tỉnh Bình Thuận phấn đấu có 10.500 ha thanh long đạt tiêu chuẩn VietGAP

 

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Bình Thuận

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận Nguyễn Hồng Hải vừa ký ban hành Quyết định phê duyệt Chương trình sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP năm 2024 trên địa bàn tỉnh.

Theo đó, mục tiêu của Chương trình là nâng cao chất lượng sản phẩm thanh long Bình Thuận, bảo đảm an toàn thực phẩm, phục vụ cho yêu cầu tiêu thụ nội địa và xuất khẩu; phấn đấu trong năm 2024, toàn tỉnh có 10.500 ha thanh long đạt tiêu chuẩn VietGAP. Đối tượng để thực hiện Chương trình sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP là các Tổ hợp tác, Nhóm liên kết trồng thanh long; các doanh nghiệp, Hợp tác xã, trang trại, hộ gia đình, cá nhân trồng thanh long trên địa bàn tỉnh.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các Sở, ngành, địa phương có liên quan đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn nông dân đăng ký tham gia và xây dựng các Tổ hợp tác/Nhóm liên kết, Hợp tác xã sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP đúng quy định. Trên cơ sở diện tích đã phân bổ, tiến hành vận động, hướng dẫn giúp nông dân tổ chức xây dựng các Tổ hợp tác, Hợp tác xã sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP có quy mô hợp lý để thuận lợi trong quản lý, tổ chức triển khai các hoạt động trong sản xuất và liên kết tiêu thụ sản phẩm sau này.

Đối với diện tích thanh long còn hiệu lực chứng nhận VietGAP, Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các Sở, ngành, địa phương tăng cường đánh giá định kỳ và đột xuất để duy trì sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Đồng thời, yêu cầu các cơ sở đã được cấp giấy chứng nhận thực hiện nghiêm túc việc kiểm tra nội bộ (ít nhất mỗi năm một lần) và lưu hồ sơ trong quá trình thực hiện. Tập trung hướng dẫn để giúp các tổ chức, cá nhân sản xuất theo đúng yêu cầu VietGAP và thực hiện các thủ tục đăng ký tái cấp chứng nhận đúng thời gian quy định. Kiểm tra, đánh giá để xem xét cấp lại giấy chứng nhận đối với các cơ sở có yêu cầu.

Đối với diện tích thanh long cần đăng ký chứng nhận mới và tái cấp chứng nhận VietGAP trong năm 2024, các Sở, ngành, địa phương phải tiến hành khảo sát, phân tích đánh giá các chỉ tiêu của mẫu đất, nước ở vùng sản xuất; triển khai đào tạo và hướng dẫn các quy định yêu cầu về VietGAP; tổ chức lấy mẫu quả thanh long và cấp giấy chứng nhận; sau khi chứng nhận phải công bố chất lượng sản phẩm, các yếu tố vệ sinh theo yêu cầu của VietGAP…

Nguyễn Phương

 

Mô hình trồng nấm rơm trong nhà hiệu quả bất ngờ

 

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Với số vốn ban đầu chỉ 2 triệu đồng, vợ chồng chị Lê Hồ Thùy Linh (ngụ huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp) đã thành công với mô hình trồng nấm trong nhà, mang lại hiệu quả kinh tế bất ngờ.

 

 

Chị Linh thu hoạch nấm trồng trong nhà.

Dẫn chúng tôi tham quan trại nấm được chia thành 48 nhà trồng, với những hàng kệ sắt, rơm được chất đầy trên các kệ. Có phòng mới vừa trồng, nấm mọc chi chít, có phòng đang cho thu hoạch… nhờ đó giúp hai vợ chồng chị thu hoạch theo kiểu cuốn chiếu, mỗi ngày đều có nấm bán.

Chị Linh cho biết, để có cơ ngơi như hiện tại, hai vợ chồng chị trải qua nhiều thử thách, đôi lúc chùn bước nhưng nhờ sự kiên trì nên từng bước vượt qua. Hai vợ chồng chị đều tốt nghiệp đại học ở TP Hồ Chí Minh. Đầu năm 2013, cả hai quyết định khởi nghiệp khi góp vốn 30 triệu đồng từ tiền làm thêm cùng nhóm bạn bắt tay trồng rau sạch. Tuy nhiên, mô hình đi vào hoạt động chưa đầy một năm thì “đứt gánh” vì làm ăn không hiệu quả. Sau đó, chị chuyển sang bán hoa tươi, tích cóp được một ít vốn để tiếp tục đầu tư trồng rau và lại gặp thất bại vì rau bán ế ẩm.

Thấy công việc ở thành phố khó khăn, chán cảnh phố thị, hai vợ chồng quyết định khăn gói về quê ở huyện Tân Hồng để thử trồng nấm rơm. Bằng kiến thức đã học cả hai không trồng theo cách truyền thống trước đây ở địa phương là trồng ngoài trời mà đưa vào nhà để trồng. “Về quê nhận thấy quy trình trồng nấm ngoài trời của nông dân còn nhiều rủi ro. Từ kinh nghiệm học được, kết hợp kiến thức trên giảng đường, vợ chồng tôi mày mò, tìm lời giải một cách khoa học, đúc kết thành quy trình để đưa nấm vào trồng trong nhà mà không sợ chuyện nắng, mưa”, chị Linh kể.

Nhớ lại những ngày đầu khởi nghiệp, với 25 cuộn rơm xin từ ông bà, hai vợ chồng đem ủ trồng nấm rơm hữu cơ. Tuy nhiên, do làm sai công thức, vợ chồng chị rút kinh nghiệm, không làm kệ mà dựng chòi ủ 14 cuộn rơm còn lại. Lần này, thu hoạch được gần 40kg nấm, lãi hơn 2 triệu đồng. Từ số vốn ít ỏi, vợ chồng chị đầu tư mua sắt hàn kệ, còn lại mua rơm để sản xuất vụ mới.

Nhờ kiên trì, làm việc nghiêm túc, lặn lội đến các trại nấm để học hỏi, vợ chồng chị tích lũy được nhiều kinh nghiệm hơn, từ số kệ nấm ít ỏi tăng dần theo cấp số nhân. Sau khi thu nhập tăng, vợ chồng chị quyết định dựng nhà trồng nấm. Để sản xuất ổn định, hiệu quả, năm 2023, vợ chồng chị Linh quyết định đầu tư vốn lớn, xây nhà kiên cố rộng 1.500m2 để trồng nấm. Khu nhà được chia thành 48 phòng, trang bị đủ giá trồng, đèn điện, quạt gió, máy sưởi, máy phun sương. “Trồng nấm rơm quan trọng nhất là nhiệt độ và ẩm độ phải chính xác. Thực hiện theo quy trình, mỗi mẻ nấm cho ra đúng số lượng và chất lượng đồng đều”, chị Linh cho biết.

Để ngày nào cũng có hàng giao cho khách, mỗi ngày vợ chồng chị Linh luân phiên vào rơm chỉ 3 phòng. Cùng lúc đó, 3 phòng trồng khác đã có nấm thu hoạch. Nắm chắc kỹ thuật nên cả hai đều tự tin kiểm soát sản lượng và chất lượng sản phẩm. Mỗi vụ nấm tại trại thường kéo dài khoảng 30 ngày với các công đoạn: ủ rơm, đưa vào phòng, thanh trùng bằng hơi nước, cấy giống, ủ tơ, xả tơ, chăm sóc và thu hoạch. Trong đó khâu khó nhất khi sản xuất nấm là xử lý rơm nguyên liệu đầu vào.

Thành công bước đầu, họ dự kiến sẽ chuyển giao quy trình này cho những nông dân có nhu cầu, ký kết thu mua để chế biến nấm theo quy mô công nghiệp. Cả hai mong muốn mỗi huyện trong tỉnh có ít nhất một nhà tường trồng nấm. Điều này giúp nông dân thêm thu nhập từ phụ phẩm rơm, không phải đốt bỏ gây lãng phí.

Bài, ảnh: NGUYỄN TRINH

 

Xã Tân Phong (Tân Biên, Tây Ninh) : Người dân khá lên nhờ cây trinh nữ hoàng cung

 

Nguồn tin: Báo Tây Ninh

Theo định hướng chuyển đổi cây trồng, những năm qua, ở các khu vực đất ruộng gò trồng lúa kém hiệu quả tại xã Tân Phong (huyện Tân Biên), nhiều hộ nông dân chuyển sang xen canh rau màu, cây dược liệu như: kim tiền thảo, trinh nữ hoàng cung…

Đặc biệt, thời gian gần đây, một số hộ chuyên canh cây trinh nữ hoàng cung thu nhiều lợi nhuận hơn các loại rau màu và cây trồng truyền thống khác.

Hơn 20 năm trước, ở xã Tân Phong đã xuất hiện những hộ trồng cây thảo dược trinh nữ hoàng cung, đến nay, số hộ trồng tăng dần, với hơn 10 hộ trồng tổng diện tích trên 15 ha, mang lại thu nhập ổn định ở mức cao. Tổ liên kết trồng cây trinh nữ hoàng cung cũng được thành lập và đang hoạt động ổn định; hiện tổ có nhu cầu vay vốn ưu đãi để mở rộng quy mô sản xuất.

Được biết, cây trinh nữ hoàng cung là dược liệu quý có nguồn gốc Ấn Độ, được sử dụng nhiều trong các bài thuốc y học cổ truyền, bào chế ra nhiều loại thuốc hỗ trợ điều trị những chứng bệnh nan y. Trên thị trường, sản phẩm lá khô từ cây trinh nữ hoàng cung có giá tương đối cao. Trinh nữ hoàng cung là loại cây dễ trồng, dễ chăm sóc, tuy giá đầu tư ban đầu khá cao, nhưng mau cho thu hoạch. Từ 35 ngày sau khi xuống giống, cây có thể thu hoạch đợt đầu tiên. Cách sơ chế cũng đơn giản, cắt lá phơi khô tại ruộng là có thể bán cho thương lái.

 

 

Củ giống cây trinh nữ hoàng cung có mức giá khá cao, từ 5.000 – 6.000 đồng/củ.

Sau đợt thu hoạch đầu tiên lúc 35 ngày tuổi, mỗi tháng tiếp theo, cây cho thu hoạch 1 lần. Đặc biệt, từ 2 năm tuổi, cây trinh nữ hoàng cung bắt đầu cho rất nhiều lá, độ tuổi này, mỗi tháng người trồng có thu nhập 70 triệu đồng/ha, với khoảng thu nhập này, đang hấp dẫn nhiều hộ nông dân trong vùng.

Gia đình anh Nguyễn Văn Minh (ấp Gò Cát, xã Tân Phong, huyện Tân Biên) cho biết, trước đây gia đình chuyên trồng lúa, với diện tích 4.000m2, nhưng cây lúa cho thu nhập không ổn định, sau đó gia đình anh mang giống cây trinh nữ hoàng cung về trồng trên đất ruộng cho đến nay. Anh Minh khẳng định vốn đầu tư trồng cây dược liệu này khá cao, không dưới 100 triệu đồng/ha, nhưng lợi nhuận mang về cao hơn so với trồng lúa, trồng mì và cao hơn trồng cây cao su.

Một trong những hộ đầu tiên trồng cây trinh nữ hoàng cung ở địa phương là gia đình anh Đỗ Hồng Ân (ngụ ấp Gò Cát). Anh Ân cho biết, trước kia, gia đình từng chuyên canh cây lúa, chuyển sang trồng mì, trồng cao su… nhưng thu nhập không cao. Sau đó, gia đình anh quyết định chuyển sang trồng cây trinh nữ hoàng cung cho đến nay.

Nhiều năm trước, giống cây trinh nữ hoàng cung có giá rất cao, từ 3.000-3.500 đồng/củ, gia đình anh bắt đầu gây ra nhiều củ giống để bán và mang lại thu nhập ổn định. Hiện tại, giống cây trinh nữ hoàng cung đã lên mức giá khá cao, từ 5.000 – 6.000 đồng/củ.

Anh Ân cho biết, giống cây này dễ trồng, sau khi dọn đất, cắt hàng, bón lót một ít phân lân theo hàng, đặt củ trinh nữ hoàng cung xuống, hơn 1 tháng sau sẽ có đợt thu hoạch đầu tiên.

Là giống cây trồng “không kén đất”, hầu như cả vùng đất Tân Phong đều trồng được, nhưng nếu trồng trên đất đen thì loài cây này phát triển mạnh hơn. Cách thu hoạch cũng rất đơn giản, thuê công cắt lá, trải đều lá ra phơi khô ngay tại ruộng, sau đó sẽ có thương lái từ nhiều nơi đến thu mua, cây trinh nữ hoàng cung chưa bao giờ “ế hàng”.

Ông Đặng Thế Phương- Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Tân Phong cho biết, người dân sử dụng vốn vay từ nguồn giải quyết việc làm đầu tư vào sản xuất, chăn nuôi, trong đó có một số hộ nuôi bò, trồng trinh nữ hoàng cung có hiệu quả.

Đánh giá cao mô hình trồng cây thảo dược trinh nữ hoàng cung ở xã Tân Phong, Hội Nông dân huyện Tân Biên cho biết sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ trồng thảo dược nói riêng, các hộ trồng trọt, chăn nuôi nói chung tiếp cận được nguồn vốn ưu đãi khi họ có nhu cầu và đủ điều kiện vay theo quy định phía ngân hàng.

Nhi Trần

 

Tìm giống lúa thích ứng với biến đổi khí hậu cho ĐBSCL

 

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

Thời gian qua, bên cạnh những định hướng, kỹ thuật canh tác phù hợp để giúp nông dân đảm bảo hiệu quả sản xuất, ngành chức năng cũng đã nỗ lực trong khảo nghiệm, tìm ra các giống lúa thích ứng tốt với biến đổi khí hậu (BĐKH).

 

 

Qua các đợt khảo nghiệm đã có nhiều giống lúa lai đáp ứng được yêu cầu của nông dân, có khả năng chịu hạn và chống sâu bệnh.

Theo ngành chức năng, BĐKH thời gian qua diễn ra gay gắt, khó lường gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc sản xuất nông nghiệp, trong đó có nghề trồng lúa. Do đó, việc phát triển các giống lúa lai tạo có khả năng thích ứng với điều kiện vùng đất ĐBSCL đang là một bước tiến quan trọng.

Các nghiên cứu tạo ra những giống lúa có khả năng chịu hạn, chống sâu bệnh, ngắn ngày và đặc biệt là khả năng thích ứng với BĐKH, giúp nông dân giảm bớt rủi ro, nâng cao hiệu quả sản xuất.

Mới đây, Viện Nghiên cứu nông nghiệp công nghệ cao ĐBSCL (HA-TRI) tổ chức đánh giá các giống lúa trồng khảo nghiệm vụ Hè Thu năm 2024 tại cánh đồng lúa khảo nghiệm thuộc phường Thới An Đông, quận Bình Thủy, TP Cần Thơ.

75 giống lúa và 7 giống nếp này có chung đặc tính ngắn ngày, năng suất khá cao, phẩm cấp gạo đạt tiêu chuẩn, đưa vào khảo nghiệm các đặc tính về chống chịu sâu bệnh hại, chống chịu khô hạn thiếu nước, chống chịu với xâm nhập mặn và chống chịu với ngập úng.

Theo đó, đã tìm ra 5 giống lúa triển vọng, đạt năng suất cao, ít sâu bệnh trong đợt nắng nóng lịch sử vừa qua gồm Hatri 10, Hatri 7-2-2, Hatri 1-9-2, Hatri 22 và Hatri 9-2-8.

Từ đó, các đơn vị, nông dân cũng đề nghị viện tiếp tục đưa vào sản xuất thử hướng đến sản xuất đại trà, góp phần đảm bảo hiệu quả sản xuất, nâng cao lợi nhuận cho nông dân trước điều kiện BĐKH hiện nay.

Theo Viện Nghiên cứu nông nghiệp công nghệ cao ĐBSCL, Hatri 10 là một trong nhiều giống lúa thích ứng tốt với BĐKH mà viện lai tạo, nhân giống.

Từ nhiều năm qua, đặc biệt là khi đợt hạn hán, xâm nhập mặn mùa khô 2014-2015 diễn ra, viện đã đẩy mạnh khảo nghiệm để tìm ra các giống lúa có khả năng thích ứng tốt với các điều kiện khắc nghiệt như khô hạn, nhiễm mặn, nhiễm phèn, áp lực dịch bệnh cao. Gần đây là với tình trạng nắng nóng kéo dài.

Đến nay, “ngân hàng lúa giống” của viện lên tới trên 1.000 giống. Trong đó, hàng chục giống đã được cung cấp cho các địa phương ĐBSCL và miền Trung- Tây Nguyên trồng khảo nghiệm; một số giống lúa đã hoàn thành khảo nghiệm và được phép lưu hành.

HTX Nông nghiệp Bình Đức (huyện Châu Phú, tỉnh An Giang) là đơn vị đi đầu của tỉnh An Giang thực hiện canh tác giống lúa Hatri 10, một giống lúa được đánh giá cao trong nhiều lần khảo nghiệm do Viện Nghiên cứu nông nghiệp công nghệ cao ĐBSCL thực hiện.

Nhiều thành viên HTX cho hay, vụ Hè Thu này, nông dân trong HTX càng thấy rõ hơn khả năng thích ứng trong điều kiện nắng nóng gay gắt của giống lúa này.

Ông Đặng Văn Hơn- Chủ tịch HĐQT HTX Nông nghiệp Bình Đức, cho hay: “Lúa nở bụi rất tốt, cây và lá lúa khỏe, chống chịu được với bệnh đạo ôn, kháng được khuẩn. So với ruộng cạnh bên sử dụng giống lúa khác thì tôi thấy ruộng của tôi ít bị dịch hại tấn công hơn”.

GS.TS Nguyễn Thị Lang- Viện trưởng Viện Nghiên cứu nông nghiệp công nghệ cao ĐBSCL, cho biết: “Viện đưa bộ lúa tiêu chí phải chịu ngập, chịu mặn, chịu khô hạn và chịu nóng kể cả chống chịu với điều kiện sâu bệnh. Có nơi trồng 3 vụ, có nơi 2 vụ, trồng 3 vụ dễ bị sâu bệnh nhiều.

Chính vì thế viện đưa những bộ giống phù hợp với từng địa phương. Ví dụ An Giang trồng 3 vụ thì đưa giống chịu khô hạn và ngập nhưng ở Kiên Giang thì thêm có mặn. Do đó, phải để cho nông dân biết được trong thời tiết khó khăn như hiện nay thì sẽ có bộ giống lúa sản xuất cho phù hợp”.

Tại Vĩnh Long cũng đã tổ chức nhiều đợt khảo nghiệm để tìm ra những giống lúa lai chất lượng. Trong đó, nhiều giống lúa lai có năng suất cao, thời gian sinh trưởng ngắn, có đặc điểm hình thái phù hợp với nhu cầu sản xuất và sinh thái trồng lúa trên từng vùng riêng biệt của ĐBSCL.

Theo Trung tâm Giống nông nghiệp (thuộc Sở Nông nghiệp-PTNT tỉnh Vĩnh Long), việc khảo nghiệm giống lúa mới là cơ sở để đánh giá tính thích nghi, tiềm năng, năng suất, chất lượng của giống lúa trong điều kiện canh tác tại tỉnh Vĩnh Long nói riêng và của ĐBSCL nói chung.

Từ đó, làm cơ sở bổ sung vào cơ cấu giống lúa gieo trồng, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, từng bước đưa các giống lúa có năng suất cao, chất lượng tốt vào sản xuất.

Có thể thấy, với nhiều giống lúa thích ứng tốt với BĐKH đã góp phần đảm bảo và từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất lúa của nông dân trước tình trạng BĐKH ngày càng gay gắt như hiện nay, qua đó, tạo ra một hệ sinh thái canh tác bền vững.

Bài, ảnh: TRÀ MY

 

Triển vọng từ trồng hành tím bằng hạt

 

Nguồn tin: Báo Bình Định

Viện KHKT nông nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ (ASISOV) nghiên cứu và xây dựng thành công quy trình nhân giống hành tím bằng hạt giống, bao gồm hai phương pháp chính là nhân giống bằng hạt OP (dòng tự thụ) và nhân giống bằng hạt lai F1. Phương pháp trồng hành tím bằng hạt không chỉ cắt giảm tối đa chi phí sản xuất mà còn giúp tăng năng suất, sản phẩm đồng đều, chất lượng cao đáp ứng được điều kiện, yêu cầu của hoạt động chế biến.

 

 

Th.S Lê Đức Dũng giới thiệu lợi ích của quy trình nhân giống hành tím bằng hạt giống. Ảnh: H.G

Trồng hành tím bằng hạt giống đem lại nhiều lợi ích vượt trội so với trồng bằng củ giống như lâu nay. Theo TS Vũ Văn Khuê, Phó Viện trưởng ASISOV, cây hành từ hạt giống khỏe mạnh hơn, có khả năng chống chịu tốt hơn với điều kiện thời tiết khắc nghiệt và dịch hại. Đồng thời, củ hành thu hoạch cũng to gấp đôi so với hành trồng từ củ giống truyền thống, năng suất cao hơn gấp đôi.

Hơn nữa, sử dụng hạt giống cũng giúp tiết kiệm đáng kể chi phí đầu tư ban đầu, giảm hơn một nửa so với phương pháp truyền thống. Cụ thể, hành tím giống OP cho năng suất 25 tấn/ha, trong khi giống lai F1 là 30 tấn/ha, gấp đôi năng suất hành trồng từ củ giống trung bình 15 - 20 tấn/ha. Th.S Lê Đức Dũng, Phó Bộ môn Rau, Hoa và Cây cảnh thuộc ASISOV, cho biết: Lâu nay, nông dân trồng hành tím sử dụng củ giống tiềm ẩn nhiều rủi ro về sâu bệnh hại làm suy giảm chất lượng, năng suất; trong khi đó, do được sản xuất trong điều kiện khép kín nên hạt giống sạch hơn, củ hành thu hoạch đồng đều và to hơn; phẩm cấp cao hơn vượt trội.

Sau giai đoạn nghiên cứu và thử nghiệm thành công quy trình nhân giống hành tím với quy mô nhỏ, dự kiến từ năm 2025, ASISOV sẽ triển khai sản xuất đại trà công nghệ hạt giống hành tím. Đồng thời, kết nối và chuyển giao công nghệ mới này cho người sản xuất theo 3 hình thức: Chuyển giao hạt giống, cung cấp cây con và củ giống. Trong đó, giống hành tím nhân giống hạt OP được dùng để phục vụ cho nhu cầu sản xuất nội địa, dùng để ăn tươi, làm gia vị. Còn giống hành tím được nhân giống hạt lai F1 sẽ được sản xuất quy mô lớn và bán hạt giống để nông dân tự gieo thành cây con để trồng, hoặc bán củ thương phẩm làm nguyên liệu chế biến hành phi.

HƯƠNG GIANG

 

Triển vọng từ cây sương sâm

 

Nguồn tin: Báo Bình Phước

Cây sương sâm có tính mát, dùng làm thạch giải khát cho những ngày hè nóng bức. Loại cây này được trồng nhiều ở vùng Tây Nam Bộ và khắp các tỉnh, thành trên cả nước. Tại tỉnh Bình Phước, mô hình trồng cây sương sâm còn khá mới, số hộ trồng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nhờ trồng cây sương sâm, một nông dân ở xã Phú Trung, huyện Phú Riềng đã “hái ra tiền”.

Loài cây chỉ lấy lá

Cây sương sâm từng là cây mọc dại trong rừng, leo ở bờ rào. Ngày nay, cây được nhiều hộ dân trồng trong vườn nhà. Cây sương sâm có 2 loại: Lá hình trái tim, bề mặt có lông và lá trơn. Hiện thị trường rất chuộng lá có lông, vì có nhiều dưỡng chất. Trong cuộc đời mỗi người, chắc rằng ai cũng từng một lần được thưởng thức món thạch sương sâm mát lạnh. Và nếu chưa thì bạn hãy thử một lần sẽ bị cuốn hút với loại thức uống giải nhiệt này. Cách làm thạch sương sâm rất đơn giản, chỉ cần vò nát lá cùng với nước, lọc sạch để từ 30 phút đến 1 tiếng đồng hồ cho đông thành thạch. Sau đó, thêm đường, nước cốt dừa cùng với đá thì sẽ cho ra thức uống mát lạnh.

 

 

Anh Nguyễn Văn Ngọc (bìa phải) “hái lá thu tiền” nhờ trồng cây sương sâm

Trong một lần về miền Tây, anh Nguyễn Văn Ngọc ở thôn Phú An, xã Phú Trung phát hiện cây sương sâm được nhiều hộ dân trồng, mang lại lợi nhuận kinh tế cao. Năm 2023, anh mang cây giống về trồng thử nghiệm trên 1.500m2 đất của gia đình. Ban đầu anh làm giàn bằng cây tre, dây thép và sợi chỉ. Sau đó, anh dùng cọc sắt cố định, cao khoảng 4m để sử dụng lâu dài. Chi phí đầu tư làm giàn loại này khoảng 20 triệu đồng/1.000m2. Hiện anh Ngọc trồng với mật độ 3.500 cây/1.000m2, mỗi gốc cách nhau 30cm, mỗi hàng cách nhau 80cm và giữa các luống cách nhau từ 1-1,2m. Anh Ngọc cho biết, không nên trồng quá dày để những lá dưới gốc không bị thiếu ánh sáng. Nếu chăm sóc tốt, mỗi dây sương sâm có thể thu hoạch trong nhiều năm. Trong quá trình chăm sóc, cần bón phân hữu cơ, bổ sung lượng đạm phù hợp cho cây phát triển xanh tốt. Vào mùa nắng, cây ra lá chậm, nên thường xuyên tưới nước giữ ẩm cho khu vườn. Tuy nhiên, cây sương sâm rất sợ ngập úng, nếu đất không tơi xốp, thoát nước chậm thì bệnh hại có điều kiện phát triển mạnh, gây chết dây hoàn toàn. Đặc biệt cây sương sâm cũng mắc bệnh vàng lá, thối rễ, chết nhanh như cây hồ tiêu. Vì vậy, không nên tưới nước quá nhiều, thường xuyên dọn sạch gốc thông thoáng giúp đọt non ra nhiều và nắm bắt thời điểm để cột dây sương sâm lên giàn.

Cây “hái lá thu tiền”

Cây sương sâm dễ trồng, nhưng cần hiểu rõ tập tính sinh trưởng, chăm sóc đúng cách thì mới cho năng suất lá ổn định. Sau 5 tháng trồng thử nghiệm, vườn sương sâm của gia đình anh Ngọc cho thu hoạch 500kg lá, xuất bán cho các cơ sở chế biến thạch sương sâm ở các tỉnh, thành. Giá bán 1kg lá từ 55.000-60.000 đồng, khoảng 20 ngày anh Ngọc sẽ thu hoạch lá một lần. Với diện tích hiện tại, 1 năm anh Ngọc thu hoạch khoảng 3 tấn lá, sau khi trừ chi phí còn lãi khoảng 130 triệu đồng. Vào mùa mưa, nguồn nước dồi dào, cây phát triển xanh tốt nên lượng lá thu hoạch nhiều. Còn mùa nắng, lá sương sâm “cháy hàng”, không đủ cung cấp cho thị trường nên giá bán sẽ cao hơn. Chỉ cần khu vườn có lá bán là thương lái đặt hàng. Anh Ngọc chia sẻ: “So với những loại cây khác trồng từ 3-6 năm mới cho thu hoạch, cây sương sâm chỉ trồng trong thời gian ngắn là đã có thu. Trên cùng đơn vị diện tích, 1 sào sương sâm có thể mang lại hiệu quả kinh tế bằng 1 ha cao su. Nếu mỗi ngày khu vườn của tôi thu từ 50-100kg lá thì cơ sở sản xuất thạch sương sâm sẽ ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm”.

Nhận thấy cây cho thu nhập ổn định, vừa qua, anh Ngọc đã phá toàn bộ sầu riêng trong vườn để trồng 6.000m2 cây sương sâm. Trước đây, anh cột nhiều đọt non lên giàn bằng một sợi chỉ, cách làm này khiến lá chậm phát triển vì thiếu ánh sáng. Vì vậy, sau mỗi lần thu hoạch lá phải đợi 20 ngày sau mới có thể thu hoạch đợt lá tiếp theo. Hiện anh đã thay đổi cách làm, cứ mỗi đọt non sẽ cột một dây chỉ để leo lên giàn. Phương pháp này giúp lá luôn đủ ánh sáng để phát triển tốt, khi hái hết lá già, hôm sau đã có thể thu hoạch đợt lá tiếp theo. Khi mở rộng diện tích, trong tương lai, vườn sương sâm của anh Ngọc sẽ cho thu hoạch mỗi ngày. Anh Ngọc cho biết, trồng sương sâm tốn ít công chăm sóc, chi phí đầu tư không nhiều, trồng một lần nhưng có thể thu hoạch lá lâu dài nên khả năng thu hồi vốn nhanh. Nếu chăm sóc đúng quy trình, 1 ha có thể cho thu hoạch hơn 30 tấn lá/năm. Lá sương sâm là mặt hàng không bao giờ “ế”.

Ông VŨ THANH LONG, Chủ tịch Hội Nông dân xã Phú Trung, huyện Phú Riềng: “Hiện trên địa bàn xã Phú Trung chỉ có duy nhất hộ anh Ngọc trồng cây sương sâm. Theo tôi, đây là mô hình phát triển kinh tế rất hiệu quả, tốn ít chi phí đầu tư nhưng cho thu nhập ổn định. Với mức đầu tư từ 15-20 triệu đồng/1.000m2, những hộ có ít đất cũng có thể trồng để tăng thu nhập. Thời gian qua, Hội Nông dân xã đã giới thiệu nhiều người đến tham quan, học hỏi kỹ thuật trồng sương sâm của anh Ngọc. Hy vọng thời gian tới, mô hình này sẽ được nhân rộng để giúp các hộ dân có thu nhập ổn định”.

Có thể nói, sương sâm là cây trồng triển vọng mang lại lợi nhuận cao nếu được đầu tư đúng mức. Với mong muốn phát triển vùng nguyên liệu rộng lớn, anh Ngọc rất mong có nhiều hộ cùng trồng sương sâm, sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm và cung cấp cây giống. Khi lượng lá thu hoạch ngày càng nhiều thì càng dễ tiêu thụ sản phẩm. Khi đó, các cơ sở sản xuất chế biến thạch sương sâm sẽ ký hợp đồng bao tiêu thu mua lá cho người trồng. Thời gian tới, Hội Nông dân xã Phú Trung định hướng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nhân rộng mô hình. Qua đó, nông dân có thể nắm bắt kỹ thuật trồng, chăm sóc cây sương sâm, góp phần mang lại hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho gia đình.

Thùy Linh

 

Khánh Sơn (Khánh Hòa): Mưa lớn kèm gió lốc gây tốc mái 2 căn nhà, rụng 18 tấn sầu riêng

 

Nguồn tin:  Báo Khánh Hòa

Ngày 4-7, ông Trần Thanh Tùng - Chủ tịch Hội Nông dân huyện Khánh Sơn (Khánh Hòa) cho biết: Vừa qua trên địa bàn huyện xảy ra mưa lớn kèm theo gió lốc đã làm thiệt hại một số tài sản và cây trồng của người dân ở 2 xã Sơn Lâm và Thành Sơn.

 

 

Sầu riêng của người dân xã Sơn Lâm bị rụng do mưa lớn kèm gió lốc

Cụ thể, trận mưa lớn và gió lốc xảy ra chiều 30-6, tại xã Thành Sơn, có 2 ngôi nhà của người dân ở xã Thành Sơn bị tốc mái; 2 cây sầu riêng của người dân bị bật gốc và 10 tấn sầu riêng của 30 hộ dân bị rụng quả. Tại xã Sơn Lâm, có 8 tấn sầu riêng của 7 hộ dân bị rụng. Ước thiệt hại giá trị sầu riêng của 2 địa phương này hơn 1,3 tỷ đồng. Ở các xã, thị trấn còn lại trên địa bàn cũng bị ảnh hưởng bởi mưa lớn nhưng thiệt hại nhẹ.

HẢI LĂNG

 

Bình Thuận: 6 tháng, sản lượng muối sản xuất toàn tỉnh đạt hơn 73.900 tấn

 

Nguồn tin:  Cổng TTĐT tỉnh Bình Thuận

Theo số liệu thống kê, tính đến tháng 6/2024, sản lượng muối sản xuất toàn tỉnh Bình Thuận hơn 73.900 tấn. Trong đó, hơn 64.000 tấn muối sản xuất công nghiệp, 9.000 tấn muối thủ công và gần 890 tấn muối sạch, đạt 147,8% so với kế hoạch được giao.

Riêng trong tháng 6, sản lượng muối sản xuất toàn tỉnh khoảng hơn 24.650 tấn. Trong đó, khoảng 15.500 tấn muối công nghiệp, 9.000 muối thủ công và 156 tấn muối sạch.

Sản lượng muối chế biến trong tháng 6 đạt khoảng 1.906 tấn; trong đó: Muối sấy hơn 1.450 tấn, muối tinh gần 450 tấn. Sản lượng muối bán ra trong tháng 6 là hơn 6.620 tấn gồm: Hơn 4.875 tấn muối sản xuất công nghiệp, hơn 87 tấn muối sạch, 1.240 tấn muối sấy và 418 tấn muối tinh.

Lượng muối tồn lũy kế đến tháng 6 hơn 59.434 tấn gồm: Muối công nghiệp khoảng 58.300 tấn, muối sạch hơn 189 tấn, muối sấy hơn 470 tấn, muối tinh hơn 445 tấn.

Về giá muối tháng 6: Giá muối sạch 1.200 đồng/kg, muối công nghiệp 950 đồng/kg, muối sấy 1.600 đồng/kg, muối tinh 1.320 đồng/kg.

TT Dân

 

Phát triển kinh tế từ kéo vó bè

 

Nguồn tin:  Báo Bình Phước

Mùa mưa, sông Sài Gòn chảy qua địa bàn xã Tân Hiệp, huyện Hớn Quản (tỉnh Bình Phước) đục ngầu. Từng đám lục bình dập dềnh nổi theo con nước. Nhìn mưa, ai cũng có cảm giác buồn. Tuy nhiên, những người làm nghề kéo vó bè ở ven sông Sài Gòn thì ngược lại. Họ rất vui, bởi mùa mưa, nước sông lưu thông, các loại cá, tôm sinh sôi đem về cho họ nguồn thu nhập khá mỗi ngày.

 

 

Hằng ngày, dòng sông Sài Gòn mang về nguồn thu ổn định cho các hộ dân sống bằng nghề kéo vó bè

Từ UBND xã Tân Hiệp, vượt quãng đường ngoằn ngoèo trong những cánh rừng cao su của doanh nghiệp và người dân bằng xe máy, chúng tôi tới địa bàn ấp 9. Những hộ làm nghề kéo vó bè xây nhà ở cạnh bờ sông Sài Gòn, cách xa khu dân cư. Mùa mưa, nước dâng cao khiến lòng sông càng rộng lớn. Đứng trên bờ nhìn ra phía xa, những chiếc xuồng máy của ngư dân chạy giữa sông trông rất nhỏ, nhưng tiếng máy nổ giòn giã, vang vọng một vùng.

Nghe tiếng gọi của bà Lương Thị Ngọc, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Tân Hiệp, anh Phạm Đình Quỳnh nhanh tay chèo chiếc xuồng nhỏ từ chỗ nhốt cá cạnh vó bè vào bờ. Sau cái bắt tay chào hỏi mọi người, anh phấn khởi trò chuyện: “Từ đêm qua tới giờ, nước sông dâng cao, vợ chồng tôi thay nhau vận hành máy nổ kéo vó liên tục. Sớm nay, tôi thu được hơn 1 tạ cá, vừa chở sang tỉnh Tây Ninh bán cho thương lái về”. Theo anh Quỳnh, ở sông Sài Gòn, mùa mưa chủ yếu có cá linh, cá trắng, cá lăng và cá tra. Cá lăng tầm 4-5 con/kg; cá tra to hơn, thi thoảng gia đình kéo được con nặng cả chục kilôgam. Lâu nay, giá các loại cá tương đối ổn định. Cụ thể, cá tra 40 ngàn đồng/kg, cá lăng 100 ngàn đồng/kg, cá linh 120 ngàn đồng/kg.

“Thời điểm này mưa nhiều, nước sông dâng cao, nguồn cá cũng dồi dào. Gia đình tôi có 4 vó bè, bình quân mỗi ngày thu từ 1-2 triệu đồng, nếu hôm nào trúng cá có thể được 3-4 triệu đồng” - anh Quỳnh cho biết.

Dẫn chúng tôi vào nhà, anh Quỳnh giới thiệu chiếc máy điện dùng để kéo vó: “Ngày trước, muốn kéo được vó bè phải dùng ròng rọc, kéo bằng tay vất vả lắm. Hiện việc kéo vó đã nhàn hơn bởi chỉ cần bật công tắc điện máy sẽ chạy, vòng quay tới đâu cuộn dây tới đó nên rất nhanh. Các vó được lần lượt kéo liên tục, cứ khoảng 10 phút lại kéo, sản lượng cá thu về sẽ tăng hơn”.

Hàng xóm với nhà anh Quỳnh, gia đình ông Nguyễn Văn Hải từ tỉnh Đồng Tháp lên Tân Hiệp gắn bó với nghề kéo vó bè hơn 20 năm. Gia đình ông có 5 vó, vận hành cũng bằng máy điện. Ông Hải cho biết: Một chiếc vó bè đầu tư ban đầu khoảng 50 triệu đồng. Mặc dù nặng vốn nhưng sử dụng được nhiều năm. Từ dây cáp tới gọng, lưới ít hư hao. Trường hợp gặp sự cố do mưa gió hoặc ghe xuồng va chạm làm hư hại lưới, vó, các hộ sẽ đoàn kết tương trợ lẫn nhau. Thời điểm này mưa nhiều, bà con thường kéo được cá lớn.

“Mỗi khi được cá lớn, tôi lại bơi xuồng ra đổ giỏ mang vào bờ. Khi đủ chuyến, tôi sẽ mang bán cho thương lái tại tỉnh Tây Ninh. Nếu ít, sẽ nhốt cá trong bể hoặc trong túi lưới dưới sông. Mỗi lần mang cá đi bán, cảm giác rất hạnh phúc, bởi đó chính là thành quả lao động của mình” - ông Hải chia sẻ.

Bà Lương Thị Ngọc, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Tân Hiệp cho biết: Hiện nay, toàn xã có khoảng 20 hộ sống bằng nghề kéo vó bè trên sông Sài Gòn. Để các hộ lao động, khai thác an toàn, đúng luật, Hội Nông dân phối hợp với cán bộ ấp tuyên truyền người dân khai thác, đánh bắt thủy sản phải tuân thủ các quy định pháp luật. Nghiêm cấm hành vi hủy hoại nguồn lợi thủy sản, hệ sinh thái thủy sinh, khu vực tập trung sinh sản như: Không dùng mắt lưới nhỏ, xung kích điện đánh bắt tận diệt, không khai thác khu vực thủy sản còn non; không cản trở trái phép đường di cư tự nhiên của cá, tôm... Hội Nông dân đang tham mưu Đảng ủy, UBND xã và ngành chức năng thành lập tổ nghề nghiệp khai thác thủy sản trên sông Sài Gòn. Trên cơ sở đó sẽ có chính sách hỗ trợ người dân dụng cụ, phương tiện cần thiết để đảm bảo lao động an toàn.

Anh PHẠM ĐÌNH QUỲNH, ấp 9, xã Tân Hiệp, huyện Hớn Quản: Nghề kéo vó bè cơ bản thuận lợi, thu nhập ổn định. Tuy nhiên, khó khăn là đa số các hộ ở đây phải sử dụng điện lưới giá cao. Một số hộ phải dùng máy nổ để kéo lưới, gây tốn kém, tiếng ồn ảnh hưởng môi trường. Ngoài thu nhập từ kéo vó, hầu hết các hộ không có thu nhập khác. Do vậy, chúng tôi mong chính quyền và ngành điện quan tâm, có chính sách hỗ trợ phù hợp. Đồng thời, có hướng hỗ trợ vốn để có thể phát triển hơn nữa, như đầu tư nuôi cá lồng, bè, xây dựng điểm vui chơi, check-in, du lịch dã ngoại, trải nghiệm trên sông. Đây là hướng đi có triển vọng.

Quang Minh

 

Vĩnh Long: Duy trì và phát triển các mô hình chăn nuôi gia cầm tập trung

 

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

Theo Sở Nông nghiệp-PTNT Vĩnh Long, thời gian qua, tỉnh tiếp tục duy trì và phát triển các mô hình chăn nuôi gia cầm tập trung, kết hợp bảo vệ môi trường và an toàn dịch bệnh. Các mô hình chăn nuôi gà theo hình thức gia công phát triển ổn định. Thị trường tiêu thụ sản phẩm thuận lợi, giá cả ở mức khá cao đem lại lợi nhuận khá.

Tính đến tháng 6/2024, toàn tỉnh có gần 10,5 triệu con gia cầm (không kể vịt chạy đồng), tăng 3,8% so với cùng kỳ. Trong đó đàn gà có 7,32 triệu con, tăng 6% so với cùng kỳ. Giá gà thả vườn dao động từ 95.000-100.000 đ/kg, tăng 10.000 đ/kg so với cùng kỳ. So với giá thành sản xuất bình quân là 63.000-65.000 đ/kg thì người nuôi hiện có lãi từ 35.000-37.000 đ/kg.

Tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, đã tiêm phòng vaccine cúm gia cầm được gần 4,6 triệu liều, đạt 122,2% kế hoạch, trong đó các cơ sở chăn nuôi tự tiêm cho trên 1,8 triệu con gia cầm. Tuy nhiên, 6 tháng đầu năm có xảy ra 1 ổ dịch cúm gia cầm trên gà tại xã Hòa Bình, huyện Trà Ôn, đã tiêu hủy 3.500 con gà.

Thời gian tới, ngành nông nghiệp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ tình hình dịch bệnh, tăng cường tuyên truyền đến người chăn nuôi về các biện pháp phòng, chống dịch, chăn nuôi an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, định kỳ tiêu độc khử trùng, tiêm phòng cho đàn vật nuôi. Phát triển chăn nuôi trang trại quy mô lớn, nâng cao chất lượng gia cầm; nhân rộng các mô hình chăn nuôi ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật có hiệu quả…

NGUYÊN KHANG

 

Nuôi chồn hương mang lại hiệu quả cao

 

Nguồn tin: Báo Long An

Mô hình nuôi chồn hương sinh sản đang mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân trên địa bàn tỉnh Long An. Vốn là động vật hoang dã nên chồn hương có sức đề kháng cao, ít bị bệnh, quá trình nuôi không tốn nhiều công chăm sóc nên mô hình này đang được nông dân nhân rộng.

 

 

Nuôi chồn hương giúp anh Đỗ Văn Tửng (ấp Cây Sao, xã Tân Lập, huyện Tân Thạnh) có lợi nhuận từ 300-500 triệu đồng/năm

Chồn hương được thuần hóa để nuôi lấy thịt và xạ hương. Thời gian qua, ngành chức năng đã cấp phép cho người dân nuôi loài động vật có nguồn gốc tự nhiên này nhằm cung cấp một cách hợp pháp cho nhu cầu thị trường. Thịt chồn hương có giá trị dinh dưỡng cao, được chế biến thành nhiều món ăn thơm ngon, bổ dưỡng. Xạ hương chồn hương cũng là một vị thuốc quý trong y học cổ truyền.

Những năm gần đây, mô hình nuôi chồn hương phát triển tại huyện Tân Thạnh. Điển hình là trang trại nuôi chồn hương của anh Đỗ Văn Tửng (ấp Cây Sao, xã Tân Lập, huyện Tân Thạnh). Với khu chuồng có diện tích hơn 200m2, anh Tửng nuôi khoảng 120 con chồn hương và 12 con cầy vòi móc, chủ yếu nuôi sinh sản để bán con giống.

Anh Tửng chia sẻ: “Một lần đi thăm trang trại nuôi chồn hương của người quen, tôi nhận thấy đây là loài vật nuôi có giá trị kinh tế cao, trong khi đó, ở địa phương, người nuôi chồn hương rất ít, chưa đủ cung ứng cho thị trường. Cùng với đó, so với các vật nuôi khác, chồn hương dễ nuôi, dễ chăm sóc”.

Tuy nhiên, chồn hương nuôi vẫn giữ bản tính hoang dã nên rất hung dữ, nếu nuôi chung thường cắn nhau đến chết nên phải thiết kế những ô chuồng nhỏ để nuôi mỗi con 1 ô. Mỗi con chồn hương thuần dưỡng 1 năm đẻ 2 lứa, mỗi lứa từ 4-5 con. Thông thường, thời gian mang thai của chồn hương cái thường kéo dài từ 63-65 ngày.

Chồn hương sau khi nuôi 10 tháng thì có thể xuất bán. Chồn hương chủ yếu ăn các loại nông sản sẵn có ở địa phương nên chi phí đầu tư tương đối thấp, chủ yếu là tốn chi phí đầu tư chuồng trại nên khá phù hợp với điều kiện sản xuất của nhiều hộ dân.

“Khâu quan trọng trong nuôi chồn hương là phải bảo đảm vệ sinh và phòng ngừa dịch bệnh. Bên cạnh đó, phải chú ý cho ăn vừa phải, vì nếu cho ăn nhiều, chồn hương sẽ mập dẫn đến khó đẻ, thương lái sẽ chê. Thị trường tiêu thụ chồn hương khá rộng, từ Bắc đến Nam. Hiện giá chồn bố mẹ từ 40 triệu đồng/cặp, chồn con từ 10 triệu đồng/con, sau khi trừ chi phí, tôi có lợi nhuận từ 300-500 triệu đồng/năm” - anh Tửng cho biết.

Theo Phó Chủ tịch UBND xã Tân Lập, huyện Tân Thạnh - Trần Minh Nghĩa, thời gian qua, trên địa bàn xã xuất hiện nhiều mô hình nông nghiệp mới, trong đó có mô hình nuôi chồn hương của anh Đỗ Văn Tửng ở ấp Cây Sao. Mô hình là hướng phát triển kinh tế mới, góp phần đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp ở địa phương./.

Theo quy định tại Nghị định số 06/2019/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp thì chồn hương thuộc danh mục IIB - danh mục các loài động vật rừng chưa bị đe dọa tuyệt chủng nhưng có nguy cơ bị đe dọa nếu không được quản lý chặt chẽ. Chính vì vậy, khi nuôi chồn hương, cần đăng ký giấy phép chăn nuôi với chính quyền địa phương.

Minh Tuệ

 

Bến Tre: Phát triển nghề nuôi bò ở Ba Tri

 

Nguồn tin: Báo Đồng Khởi

Hiện tại, huyện Ba Tri (Bến Tre) có tổng đàn bò hơn 96,17 ngàn con, đạt tỷ lệ 96,17% so với Nghị quyết số 40/NQ-HĐND (ngày 12-12-2023) của HĐND huyện về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh huyện năm 2024. Người nuôi luôn đặt trọn niềm tin và hy vọng vào ngày mai “tươi sáng” về giá cả vật nuôi trên thị trường tiêu thụ như trước kia.

Gần 20 năm, ông Trần Văn Rai (Rai Em), 51 tuổi, ngụ Tổ nhân dân tự quản (NDTQ) số 5, ấp Bến Nò, xã Mỹ Hòa chăn nuôi bò sinh sản và vỗ béo; tạo nguồn thu nhập bền chắc cho gia đình. Trước kia, ông Rai Em nuôi hơn 20 con bò và đã chiết bán bớt để vừa sức nuôi cùng tầm khả năng chăm sóc của bản thân. Hiện tại, ông Rai Em đang nuôi 6 con bò sinh sản và vỗ béo.

 

 

Chủ tịch Hội Nông dân xã Mỹ Hòa Trương Bé Thơ thực tế tình hình nuôi bò tại hộ ông Trần Văn Rai (bìa trái).

Hiện nay, ông Rai Em có 6 công đất để canh tác (3 công trồng cỏ và 3 công trồng lúa) tạo nguồn thức ăn ổn định cung cấp cho bò. Ngoài ra, ông tranh thủ lúc rơm rẻ mua dự trữ nuôi bò. Từ nguồn thức ăn sẵn có, ông Rai Em nuôi bò cùng quan niệm “Lấy công làm lời” mặc dù giá bán bò giống và thịt trên thị tiêu thụ có sụt giảm cũng không ảnh hưởng nhiều đến công việc chăn nuôi truyền thống của gia đình.

Chủ tịch Hội Nông dân xã Mỹ Hòa Trương Bé Thơ chia sẻ: “Bò là vật nuôi chủ đạo và tạo nguồn thu nhập ổn định cho người dân địa phương. Gần đây, giá bán bò giống và thịt bò trên thị trường tiêu thụ đã tăng nhẹ từ 2 - 3 triệu đồng/con. Bởi thế, người nuôi đã tận dụng nguồn thức ăn sẵn có của gia đình và không vay vốn ngân hàng hay nợ nần vì con bò mà quyết lòng gắn bó bền chặt cùng công việc chăn nuôi. Hướng tới, địa phương tiếp tục vận động và tuyên truyền cho người dân giữ vững sản lượng chăn nuôi để chờ ngày bình ổn giá cả trên thị trường tiêu thụ.”

Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) huyện Ba Tri Nguyễn Hữu Học cho biết: Hiện nay, trên địa bàn huyện chủ yếu nuôi bò theo hình thức hộ gia đình và nhỏ lẻ. Hướng tới, khuyến khích các hộ chăn nuôi có điều kiện mở rộng quy mô chăn nuôi để thành lập trang trại. Huyện đang tập trung thực hiện các chính sách hỗ trợ của Chính phủ và tỉnh cho việc đầu tư chăn nuôi bò theo kiểu trang trại, hợp tác xã (HTX) hay tổ hợp tác (THT). Đồng thời, cấp quyền sử dụng nhãn hiệu “Bò Ba Tri” cho các cơ sở nuôi đủ điều kiện nhằm góp phần phát triển nghề nuôi bò ở địa phương theo hướng bền vững.

Ông Bùi Văn Ân (Sáu Ân), 74 tuổi, ngụ tại Tổ NDTQ số 8, ấp Bảo Hòa, xã Vĩnh Hòa gắn cho biết, nuôi bò, trâu đã gắn chặt cuộc đời tôi từ thuở nhỏ, nay thì cũng lớn tuổi nên vẫn quyết lòng giữ vững công việc này để kiếm thêm ít đồng lời trong cuộc sống. Công việc phù hợp cùng sức khỏe nông dân làng quê trong buổi xế chiều. Để đảm bảo nguồn thức ăn, ông Sáu Ân mướn 2 công đất trồng cỏ, giá thuê 1,5 triệu đồng/công/năm để chăn nuôi,

“Để duy trì và phát triển nghề nuôi bò, huyện tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong chăn nuôi. Xây dựng liên kết hợp tác để cùng nhau quản lý về giống, xử lý dịch bệnh và nâng cao chất lượng vật nuôi. Kết nối doanh nghiệp cung ứng đầu vào và tiêu thụ đầu ra ổn định cho sản phẩm. Mời gọi đầu tư trong việc xây dựng khu liên hợp hay lò giết mổ tập trung, nhằm chế biến sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm kết hợp việc đóng gói và gắn bao bì độc quyền nhãn hiệu “Bò Ba Tri”. (Trưởng phòng NN&PTNT huyện Ba Tri Nguyễn Hữu Học)

Bài, ảnh: Lê Đệ

 

Mô hình nuôi dê theo hướng bền vững đạt lợi nhuận khá

 

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

 

 

Mô hình nuôi dê đem lại thu nhập khá cho nông dân.

Nhẹ công chăm sóc, tận dụng nhiều nguồn thức ăn trong tự nhiên, giá bán tương đối ổn định nên nhiều nông dân đã mạnh dạn phát triển mô hình nuôi dê, qua đó, đem lại lợi nhuận khá cho người chăn nuôi.

Khoảng 4-5 năm trở lại đây, nông dân trong tỉnh đã mạnh dạn phát triển mạnh đàn dê. Đây là vật nuôi có chi phí đầu tư thấp, nhờ tận dụng nhiều nguồn thức ăn trong tự nhiên, ít tốn chi phí thức ăn so với một số loại gia súc khác, nên cho lợi nhuận khá.

Theo đó, nhiều hộ nuôi dê đã có sự đầu tư kỹ lưỡng hơn về mặt chuồng trại, phát triển chăn nuôi dê theo hướng nuôi nhốt trên nhà sàn. Hình thức chăn nuôi này giúp đàn dê hạn chế được rủi ro dịch bệnh khi sinh trưởng và phát triển trong điều kiện môi trường đảm bảo vệ sinh.

Quá trình vệ sinh, chăm sóc đàn dê cũng thuận lợi hơn. Dê được nuôi dưỡng trong vòng 9 tháng sẽ được xuất chuồng. Thời gian từ nuôi đến khi xuất bán mặc dù tương đương hoặc kéo dài hơn với các đối tượng vật nuôi khác nhưng sau khi trừ chi phí, vẫn đảm bảo lợi nhuận tương đối cao.

Nhờ nuôi dê, nhiều hộ thoát nghèo, thậm chí vươn lên khá, giàu. Bên cạnh đó, lượng phân bón thu được trong quá trình chăn nuôi còn được người chăn nuôi tận dụng để phục vụ cho việc sản xuất cây trồng, từ đó, tiết kiệm đáng kể chi phí đầu tư cho sản xuất.

Nuôi dê gần 5 năm, chú Nguyễn Văn Hoàng (xã Trung Thành Tây, huyện Vũng Liêm, Vĩnh Long) cho hay: “So với các loại vật nuôi khác, dê có khả năng kháng bệnh cao, chịu được khí hậu khắc nghiệt; chi phí đầu tư ban đầu ít và không tốn nhiều tiền mua thức ăn. Nhờ nuôi dê mà gia đình tôi có thêm thu nhập ổn định”.

Có kinh nghiệm nuôi dê hơn 10 năm, chú Võ Văn Nhựt (xã Bình Hòa Phước, huyện Long Hồ) cũng cho biết: “Ban đầu tôi có 4 con dê cái, đến nay đã có hơn 80 con. Nhờ có kinh nghiệm nuôi dê nên đạt hiệu quả cao, đồng thời, tận dụng cỏ và các phụ phẩm khác làm thức ăn giúp giảm chi phí trong nuôi dê, giúp lợi nhuận tăng hơn. Mỗi năm tôi xuất bán khoảng 60 con dê ra thị trường, lợi nhuận từ 180-200 triệu đồng/năm. Nhờ đó mà gia đình cũng vươn lên khá hơn”.

Ông Trần Chí Cường- Phó Chủ tịch UBND xã Bình Hòa Phước (huyện Long Hồ) cho biết: Trên địa bàn xã đã xây dựng được 2 tổ hợp tác nuôi dê tại ấp Bình Hòa 1 và Phú An 2 với 28 hộ nuôi, tổng đàn trên 1.350 con. Mô hình mang lại hiệu quả đã góp phần nâng cao đời sống, nâng cao thu nhập hộ gia đình, hộ nghèo, cận nghèo vươn lên thoát nghèo bền vững, giữ vững tiêu chí thu nhập trên địa bàn xã.

Nhiều nông dân cho hay, để đàn dê phát triển tốt thì cần đảm bảo chuồng nuôi luôn sạch sẽ, thoáng mát, tiêm phòng đầy đủ, cho dê ăn đầy đủ thức ăn xanh là rau, cỏ các loại. Đồng thời, mỗi ngày có thể bổ sung thêm từ 100-150g thức ăn cho dê trưởng thành. Bên cạnh đó, cần thường xuyên quan sát đàn dê để sớm phát hiện dê mắc bệnh, điều trị kịp thời.

Hiện tổng đàn dê toàn tỉnh có hơn 21.320 con, tập trung nhiều tại TX Bình Minh, huyện Long Hồ, Bình Tân, Mang Thít và nhiều nhất là huyện Tam Bình với hơn 5.700 con. Nhiều địa phương xác định dê là vật nuôi giúp xóa nghèo, tăng thu nhập cho nông hộ.

Để đàn dê phát triển tốt và đạt năng suất, chất lượng, thời gian qua các ngành chuyên môn của tỉnh đã tăng cường hỗ trợ tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật. Cùng với đó, ngành nông nghiệp tỉnh cũng triển khai nhiều chương trình, dự án góp phần phát triển đàn dê theo hướng quy mô, có liên kết tiêu thụ.

Theo đó, thời gian qua, ngành nông nghiệp tỉnh cũng đã phối hợp thực hiện Dự án “Xây dựng mô hình chăn nuôi dê hướng thịt tại một số tỉnh ĐBSCL” do Trung tâm Khuyến nông quốc gia triển khai. Trong đó, thực hiện tại tỉnh Vĩnh Long với quy mô 300 con, trên địa bàn 2 huyện: xã Long Phước (huyện Long Hồ) và xã Mỹ Thuận (huyện Bình Tân). Tham gia dự án các hộ được hỗ trợ 50% tiền mua giống, thức ăn và vaccine ngừa bệnh cho dê, được tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật, các quy trình chăm sóc nuôi dưỡng.

Ông Lâm Minh Khánh- Trưởng Phòng Khuyến nông Chăn nuôi thú y và Nuôi trồng thủy sản, Trung tâm Dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp (Sở Nông nghiệp-PTNT) cho biết: Mục tiêu của dự án là hình thành, phát triển vùng chăn nuôi tập trung theo hướng an toàn; hình thành các tổ hợp tác để gắn với liên kết và tiêu thụ sản phẩm.

Việc hình thành và nhân rộng các mô hình nuôi dê trên địa bàn tỉnh không chỉ tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân mà còn góp phần phát triển ngành chăn nuôi theo hướng an toàn, bền vững.

Theo khuyến cáo của ngành chuyên môn, để nuôi dê đạt hiệu quả thì hộ nuôi cần lưu ý trong khâu chọn con giống, cần mua con giống có xuất xứ rõ ràng; dê mới mua về cần được cách ly từ 30-40 ngày trước khi nhốt chuồng.

Giữ chuồng trại sạch sẽ, thoáng mát; định kỳ khử trùng cho chuồng nuôi. Thường xuyên kiểm tra sức khỏe đàn dê, nhằm kịp thời phát hiện dê ốm yếu, bị bệnh để cách ly. Đồng thời phải tuân thủ nghiêm lịch tiêm phòng vaccine cho đàn dê theo chỉ dẫn của các cơ quan thú y.

Bài, ảnh: NGUYÊN KHANG

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop