Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 7 tháng 10 năm 2024

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 7 tháng 10 năm 2024

 

Nam Định: Làm giàu từ nghề trồng cau ở Hải Đường

 

Nguồn tin: Báo Nam Định

Nghề trồng cau tại xã Hải Đường (Hải Hậu, Nam Định) không chỉ là lợi thế phát triển kinh tế của địa phương, đem lại thu nhập khá cho người dân mà còn tạo cảnh quan không gian làng quê thơ mộng.

 

 

Tách và phân loại cau tươi trước khi đưa vào lò sấy tại xưởng gia đình ông Phạm Văn Định ở xóm 21, xã Hải Đường (Hải Hậu).

Cây cau gắn bó với người dân xã Hải Đường từ hàng trăm năm trước. Trước kia, người dân Hải Đường trồng cau chỉ để lấy quả phục vụ nhu cầu sử dụng đời thường, tập quán ăn trầu, phục vụ lễ hỏi, đám cưới, lễ hội truyền thống trong vùng và trồng cây lấy bóng mát, xanh không gian làng xã. Với điều kiện thổ nhưỡng thích hợp nên cây cau tại đây phát triển tốt, sai quả, dáng đẹp, ngọt mềm, đậm vị. Cau Hải Đường nhanh chóng được các vùng như: Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh… biết đến tin tưởng và đánh giá đứng đầu khu vực miền Bắc... Giá trị kinh tế của cây cau cũng vì thế mà đạt hiệu quả cao hơn các cây trồng khác, dần trở thành cây trồng chủ lực ở địa phương. Trung bình một năm, mỗi cây cau cho thu nhập từ 300-500 nghìn đồng; cây nào cho buồng đẹp được dùng trong các dịp cưới xin, lễ lạt có thể đem về thu nhập vài triệu đồng/năm. Do đó, ở Hải Đường nhà nhà trồng cau. Cau làm đẹp cho khu vực trụ sở, trường học, trạm y tế; cau san sát trên đất vườn nhà, nghiêng bóng bên những bờ ao, dọc các dong ngõ, đường liên thôn, liên xã, bờ vùng, bờ thửa… Nhà trồng ít cũng trên dưới chục cây, nhà trồng nhiều lên đến hàng trăm cây. Nghề trồng cau của địa phương ngày càng phát triển theo hướng thâm canh với kỹ thuật ngày càng cao; không chỉ cau đúng vụ, người dân còn “tài tình” lách thời vụ cho ra quả cau suốt quanh năm. Cách làm này đã giúp người dân có cau tươi cung ứng quanh năm, giá bán cũng hơn hẳn cau đúng vụ. Khi đã có thương hiệu, cùng với trồng để bán quả, nhiều hộ có kinh nghiệm còn ươm cây giống để bán cho người dân địa phương và các tỉnh lân cận, tối đa hóa thu nhập từ cây cau.

Để nâng cao giá trị kinh tế từ cây cau ở Hải Đường, người dân đã đầu tư lò sấy cau non sơ chế làm nguyên liệu để sản xuất kẹo cau cung ứng sang thị trường các nước trong khu vực như Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia và một số nước châu Âu. Theo đó, vào chính vụ từ tháng 8 đến tháng 11 âm lịch hàng năm cau non sau khi thu hái được hấp làm chín để giữ nguyên dưỡng chất, loại bỏ ký sinh trùng rồi mới sấy khô, xuất bán. Nếu chế biến theo phương pháp thủ công, sấy bằng than củi, than tổ ong bình thường một mẻ cau non phải mất 5 ngày mới cho ra lò khoảng 10 tấn cau khô; nhưng hiện tại sấy theo công nghệ mới bằng lò hơi thì chỉ mất 3 ngày với sản lượng 20 tấn cau khô. Cau sấy bằng nhiệt theo công nghệ mới có chất lượng cao hơn so với sấy thủ công, tỷ lệ hao hụt thấp và đảm bảo an toàn, sạch, mẫu mã đẹp. Cau sấy khô của các cơ sở sản xuất được xuất bán sang Trung Quốc để bào chế thành thuốc dùng trong y học cổ truyền, ngày nay còn được chế biến thành kẹo cau dùng cho những nơi có khí hậu lạnh. Hiện Trung Quốc là thị trường tiêu thụ lớn nhất, cau sau khi được sấy khô được làm thành kẹo. Loại kẹo này ăn có vị ngọt ngọt, the the như kẹo gừng, có công dụng chống viêm họng, giữ ấm cơ thể nên rất được ưa chuộng. Hiện cung tại chỗ không đủ cầu, đơn đặt hàng ngày càng nhiều. Người dân Hải Đường phải đi mua gom cau ở các tỉnh Đắk Lắk, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thái Bình, Thanh Hóa… về sơ chế. Thậm chí, nhiều người dân Hải Đường còn đi vào các tỉnh miền Trung, miền Nam nơi có nguồn nguyên liệu cau tươi dồi dào để đầu tư xưởng chế biến sấy cau tại chỗ, đón mùa cau sớm vào độ tháng 3 đến tháng 7 hàng năm.

Đồng chí Phạm Văn Chiến, Chủ tịch Hội Nông dân xã Hải Đường cho biết: “Hiện tại, toàn xã có 100ha trồng cau và 20 xưởng sơ chế cau xuất khẩu với công suất hàng trăm tấn/xưởng. Với giá cau tươi là 80 nghìn đồng/kg và 300 nghìn đồng/kg cau khô, mỗi lò sấy đã đạt doanh thu từ 1 đến cả chục tỷ đồng/năm. Các xưởng tư nhân hiện đã từng bước liên kết thành lập Hợp tác xã sản xuất kinh doanh cây giống, dịch vụ nông nghiệp Văn Minh để hỗ trợ về kỹ thuật sản xuất cau giống, thu hoạch và sơ chế cau”. Đến lò sấy cau khô của ông Nguyễn Văn Tĩnh ở xóm 20, hàng chục lao động đang miệt mài tách cau tươi, phân loại cau, vận chuyển cau vào những lò hơi sấy cau. Ông Tĩnh cho biết: “Qua gần 20 năm gắn bó với cây cau, gia đình tôi đã xây dựng được xưởng sơ chế cau khô với 4 lò sấy với công suất 30 tấn cau/mẻ, tạo việc làm cho chục lao động địa phương với mức thu nhập từ 5-7 triệu đồng/người/tháng”. Ông Phạm Văn Định ở xóm 21 cũng là xưởng đầu tư sớm chuyển đổi lò sấy cau bằng củi sang làm lò hơi. Ông Định cho biết: “Từ xưởng thu mua, sấy cau thủ công bằng than, củi tôi đã đầu tư sắm 3 lò sấy hơi công nghệ mới với công suất 450 tấn cau khô/năm. Cau sấy bằng nhiệt theo công nghệ mới có chất lượng cao hơn so với sấy thủ công và đảm bảo an toàn, sạch, mẫu mã đẹp. Cứ 5 tấn cau tươi sẽ được 1 tấn cau khô. Giá bán vì vậy cũng cao hơn nhiều, từ 250-300 nghìn đồng/kg cau khô”. Hiện tại ở Hải Đường mùa cau đang đến kỳ thu hoạch đại trà, không khí thu hái, mua bán nhộn nhịp ở ngay các vườn, rặng cau. Nhiều thương lái từ Trung Quốc sang đặt hàng cau sấy khô tận các xưởng.

Nghề trồng cau và chế biến cau xuất khẩu ở Hải Đường đang trên đà phát triển nhưng cũng đứng trước không ít khó khăn. Đó là thị trường xuất khẩu chưa ổn định, sản phẩm cau sấy chỉ xuất khẩu tiểu ngạch nên giá, sản lượng tiêu thụ lệ thuộc lớn vào thương lái nước ngoài, dẫn đến thị trường và giá bấp bênh, dễ bị ép giá. Các mối xuất hàng của người dân đều theo hình thức thỏa thuận miệng, dựa trên nguyên tắc “tin tưởng nhau là chính” giữa những thương nhân Việt Nam và Trung Quốc nên ràng buộc pháp lý không cao, dẫn đến nguy cơ thua thiệt nếu xảy ra tranh chấp. Chính quyền địa phương và người trồng cau xã Hải Đường hiện mong muốn được các ngành chức năng hỗ trợ về kỹ thuật trồng cau sạch, công nghệ chế biến sâu sản phẩm cau thành các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, như kẹo cau ăn liền của các nước khác; khi đó lợi nhuận của người sản xuất cao hơn, tạo thêm việc làm tại chỗ. Hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu chứng nhận, chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm cau của địa phương để thương hiệu cau Hải Đường được “chính danh”, tạo thuận lợi khi tham gia các hoạt động thương mại trong và ngoài nước, phát triển nghề trồng cau vững chắc hơn.

Bài và ảnh: Đức Toàn

 

Bình Định: Giá hồ tiêu tăng, nông dân Hoài Ân phấn khởi

 

Nguồn tin: Báo Bình Định

Sau nhiều năm chịu cảnh giá hồ tiêu giảm sâu, năm nay nông dân huyện Hoài Ân nhận tin vui khi giá hồ tiêu tăng mạnh, mang lại thu nhập đáng kể.

Theo ông Võ Duy Tín, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Hoài Ân (Bình Định), toàn huyện hiện có khoảng 300 ha hồ tiêu, trong đó 260 ha đã cho thu hoạch. Năng suất ước đạt khoảng 7 tấn/ha, một con số khá khả quan dù có giảm nhẹ so với những năm trước, do thiếu đầu tư.

 

 

Ông Đặng Văn Cấp bắt tay ngay vào công việc chăm sóc cho vụ hồ tiêu mới. Ảnh: TRỌNG LỢI

Ông Đặng Văn Cấp, nông dân ở thôn Thạch Long 1, xã Ân Tường Đông, người có kinh nghiệm trồng hồ tiêu lâu năm, phấn khởi cho biết: Năm ngoái giá hồ tiêu chỉ dao động từ 70.000 - 75.000 đồng/kg, năm nay đầu vụ lên đến 200 nghìn đồng/kg, cuối vụ tuy giảm còn 167 nghìn đồng/kg nhưng vẫn là mức giá tốt nhất trong 3 năm qua.

Với 7.000 trụ hồ tiêu, ông Cấp thu hoạch được 10 tấn hồ tiêu khô. Sau khi trừ chi phí, ông lãi hơn 500 triệu đồng. Chia sẻ về kế hoạch sắp tới, ông cho biết: “Thu hoạch xong, tôi bắt tay ngay vào việc chăm sóc lại vườn hồ tiêu bằng cách làm cỏ, bón phân… để đảm bảo vụ mùa tới đạt năng suất cao hơn”.

Cùng chung niềm vui, ông Lê Văn Chức, ở thôn Hội An, xã Ân Thạnh, cũng thu được kết quả ấn tượng. Gia đình ông thu hoạch gần 3 tấn hồ tiêu khô từ 700 trụ hồ tiêu, bán được với giá dao động từ 165 - 205 nghìn đồng/kg. Ông chia sẻ: “Kết thúc vụ, tôi lãi ròng khoảng 300 triệu đồng, một con số không ngờ sau nhiều năm vất vả. Năm nay giá tốt, gia đình tôi có thêm tiền để tái đầu tư”.

Dù giá hồ tiêu tăng, song năng suất lại giảm so với các năm trước. Nguyên nhân chủ yếu là do giá hồ tiêu giảm sâu liên tục nhiều năm, người trồng tiêu cắt giảm suất đầu tư, cây hồ tiêu không được chăm sóc tốt. Ông Đặng Văn Cấp cho biết: “Khi giá hồ tiêu giảm chỉ còn 40.000 - 45.000 đồng/kg, bà con không còn mặn mà đầu tư vào nước tưới, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, dẫn đến năng suất giảm rõ rệt!”.

Trước tình hình giá hồ tiêu tăng cao, nhiều nông dân tại Hoài Ân có ý định mở rộng quy mô trồng hồ tiêu. Tuy nhiên, cơ quan chức năng khuyến cáo cần thận trọng để tránh rủi ro cung vượt cầu trong tương lai. Ông Võ Duy Tín nhấn mạnh: “Bà con không nên mở rộng diện tích trồng hồ tiêu một cách ồ ạt. Thay vào đó, cần tập trung nâng cao chất lượng cây trồng, áp dụng các kỹ thuật tiên tiến để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm”.

Theo nhận định của các chuyên gia nông nghiệp, giá hồ tiêu tăng có thể chỉ mang tính tạm thời, vì thị trường hồ tiêu thường xuyên có biến động lớn. Ông Lê Văn Chức chia sẻ thêm về kế hoạch của mình: “Thay vì mở rộng diện tích, tôi đang đầu tư thêm vào phân bón hữu cơ, thuốc sinh học kích thích rễ… để cây phát triển tốt hơn. Nếu thời tiết thuận lợi, khoảng 10 tháng tới tôi sẽ có vụ thu hoạch mới, kỳ vọng sẽ có kết quả tốt hơn”.

Ngoài vấn đề giá cả và năng suất, một trong những yếu tố quan trọng mà cơ quan chức năng nhấn mạnh là việc phát triển nông nghiệp bền vững và bảo vệ môi trường. Ông Võ Duy Tín khuyến cáo: “Bà con nông dân nên tìm kiếm các giải pháp canh tác thân thiện với môi trường, như thế không chỉ giúp cây trồng phát triển bền vững mà còn góp phần tạo ra sản phẩm chất lượng cao, nâng cao giá trị nông sản trên thị trường”.

TRỌNG LỢI

 

Tiền Giang chú trọng xây dựng thương hiệu lúa - gạo

 

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang

Với sự hỗ trợ của các ngành chức năng, doanh nghiệp (DN) và nông dân trên địa bàn tỉnh Tiền Giang đã bắt tay sản xuất và xây dựng thương hiệu lúa gạo địa phương. Đến nay, tỉnh đã xây dựng được thương hiệu "Gạo Gò Công" và ngày càng được nhiều người biết đến.

* DN và nông dân hưởng ứng

Xác định việc xây dựng thương hiệu sẽ giúp nâng cao giá trị cho sản phẩm lúa gạo của DN và địa phương, thời gian qua, Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Thương mại HK (TP. Mỹ Tho) đã tích cực đồng hành cùng nông dân triển khai thực hiện. Theo đó, công ty chọn giống lúa VD 20 - đặc sản của vùng Gò Công để xây dựng thương hiệu. Để hiện thực hóa mục tiêu này, DN đã liên kết với các hợp tác xã (HTX), nông dân xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn. Ông Châu Minh Hải, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại HK cho biết, gạo VD 20 Gò Công là sản phẩm tâm huyết từ ngày đầu thành lập của DN. Đây là loại gạo đặc sản của Tiền Giang, được sản xuất tại vùng đất Gò Công. Sản phẩm gạo VD 20 đã được chứng nhận OCOP 4 sao cách nay 3 năm và vừa được tái công nhận. Cũng theo ông Châu Minh Hải, thời gian qua, thương hiệu gạo VD 20 Gò Công đã được nhiều người tiêu dùng biết đến và ưa chuộng. Hiện công ty đang hướng đến xuất khẩu VD 20 Gò Công sang thị trường các nước. Diện tích vùng nguyên liệu để sản xuất gạo VD 20 Gò Công hiện có trên 500ha, với sản lượng này, DN đủ sức để xuất khẩu. Do đó, DN đang phấn đấu để sản phẩm đạt chứng nhận OCOP 5 sao. "Hạn chế hiện nay của sản phẩm là chưa đạt tiêu chí xuất khẩu. Tới đây, DN sẽ đến một số nước để chào sản phẩm nhằm khắc phục tiêu chí xuất khẩu chưa đạt, để tiến tới được công nhận OCOP 5 sao" - ông Châu Minh Hải cho biết thêm.

Còn đối với Công ty TNHH Vinh Hiển (huyện Gò Công Tây), thời gian qua, DN cũng đã tích cực xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm gạo của đơn vị. Theo đó, công ty đã liên kết với các HTX, nông dân xây dựng chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ trên cây lúa. Từ đó, công ty đã xây dựng được vùng nguyên liệu sản xuất lúa đạt tiêu chuẩn an toàn, không dư lượng thuốc bảo vệ thực vật với diện tích trên 300ha/mỗi vụ. Song song đó, DN còn tham gia xây dựng sản phẩm OCOP. Đến nay, DN đã có 5 sản phẩm gạo được công nhận đạt chuẩn OCOP. Với việc thương hiệu "Gạo Gò Công" đã được chứng nhận, DN đã khai thác thương hiệu này để phát triển các sản phẩm gạo của DN. Theo đó, trong 4 giống lúa được chứng nhận thương hiệu "Gạo Gò Công", DN chọn giống lúa OM 5451 để xây dựng thương hiệu "gạo Đỗ Uyên" tại đơn vị. Đây là một trong trong những loại gạo được người tiêu dùng ưa chuộng và tin dùng. Ngoài ra, DN còn xây dựng được thương hiệu gạo Khổng Tước Nguyên từ 2 giống lúa chủ lực là Nàng Hoa 9 và Đài Thơm 8. "Từ khi khai thác thương hiệu "Gạo Gò Công", thị trường tiêu thụ các sản phẩm của DN không ngừng mở rộng. Để đưa thương hiệu "Gạo Gò Công" nói chung và các thương hiệu gạo của đơn vị nói riêng ngày càng vươn xa, hiện DN đang thực hiện thủ tục xin giấy phép xuất khẩu. Khi có được giấy phép, DN sẽ xuất khẩu loại gạo ở phân khúc cao cấp" - ông Huỳnh Văn Danh, Giám đốc Công ty TNHH Vinh Hiển cho biết.

* Tín hiệu tích cực

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tỉnh Tiền Giang, toàn tỉnh hiện có hơn 54.000 ha đất trồng lúa. Diện tích gieo trồng hàng năm khoảng 130.000 ha, sản lượng thu hoạch gần 800.000 tấn. Mặc dù diện tích gieo trồng lúa có giảm trong những năm gần đây, nhưng năng suất và chất lượng lúa gạo ngày càng tăng, đáp ứng yêu cầu thị trường xuất khẩu. Trong đó, ngành Nông nghiệp tỉnh đã tập trung nâng cao giá trị sản xuất lúa, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - kỹ thuật trong sản xuất, cụ thể là sử dụng giống xác nhận, giống chất lượng cao, áp dụng chương trình "3 giảm, 3 tăng", "1 phải, 5 giảm". Đồng thời, đẩy mạnh sản xuất theo hướng an toàn, sử dụng công nghệ sinh thái để quản lý rầy nâu và bệnh vi rút trên lúa; cơ giới hóa các khâu làm đất, chăm sóc, thu hoạch, sấy lúa...

 

 

Tỉnh Tiền Giang đang tập trung phát triển thương hiệu lúa gạo.

Bên cạnh đó, nhiều chương trình, kế hoạch đề án, dự án phát triển lúa gạo cũng được tỉnh quan tâm thực hiện như: Dự án xây dựng "Vùng sản xuất lúa ứng dụng công nghệ cao giai đoạn 2018 - 2020 và định hướng đến năm 2025"; Đề án "Cắt vụ, chuyển đổi mùa vụ và cơ cấu cây trồng các huyện phía Đông tỉnh Tiền Giang đến 2025"; Kế hoạch Phát triển nông nghiệp ứng dụng khoa học công nghệ, công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2022 - 2025, định hướng đến năm 2030. Tỉnh cũng đang triển khai Đề án "Phát triển bền vững một triệu hec-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030" nhằm góp phần gia tăng giá trị hạt gạo… Nhìn chung, sản xuất lúa trên địa bàn tỉnh ngày càng đi vào chiều sâu, chất lượng và lợi nhuận sản xuất lúa ngày càng tăng. Trong 5 năm gần đây, năng suất lúa tăng từ 1,2 - 2,2 tạ/ha, kết hợp với giá bán lúa cao, lợi nhuận trong sản xuất tăng khoảng 15 triệu đồng/ha so với 5 năm trước.

Đặc biệt, việc xây dựng thương hiệu cho ngành hàng lúa gạo cũng được tỉnh quan tâm triển khai. Theo đó, tỉnh Tiền Giang đã triển khai Đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đến các sở, ngành, doanh nghiệp và địa phương sản xuất lúa trọng điểm của tỉnh. Các nội dung trọng tâm là đẩy mạnh hoạt động xây dựng, quản lý, khai thác và phát triển nhãn hiệu, thương hiệu gạo của địa phương; hỗ trợ doanh nghiệp, tổ chức sử dụng và khai thác hiệu quả thương hiệu đã được xây dựng. Đồng thời, xây dựng quy hoạch vùng sản xuất, hỗ trợ thành lập các tổ chức nông dân tập thể để đăng ký và quản lý thương hiệu gạo địa phương… Việc xây dựng thương hiệu lúa gạo trong thời gian qua luôn được ngành Nông nghiệp và các doanh nghiệp hưởng ứng nhằm định vị giá trị, hình ảnh sản phẩm gạo Việt. Trên địa bàn tỉnh hiện có một số giống lúa chất lượng, đặc sản địa phương như: VD 20, lúa cẩm Cai Lậy… Đặc biệt, giống lúa VD 20 trồng trên vùng đất các huyện phía Đông của tỉnh hoàn toàn vượt trội so với canh tác ở các vùng trồng khác trên cả nước. Lúa cho năng suất cao, tạo ra hạt gạo thơm ngon, có vị đậm đà. Do đó, tỉnh đã đẩy mạnh xác lập quyền bảo hộ nhãn hiệu cho sản phẩm "Gạo Gò Công" ở các huyện phía Đông và đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận vào năm 2022 với 4 giống lúa: VD 20, Nàng hoa 9, OM 4900, OM 5451. Từ khi nhãn hiệu chứng nhận "Gạo Gò Công" được xác lập, các doanh nghiệp sử dụng nhãn hiệu trong quá trình kinh doanh bước đầu có nhiều thuận lợi, được nhiều người tiêu dùng biết đến. Điều này góp phần nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của sản phẩm "Gạo Gò Công" trên thị trường.

T. Đạt

 

Vũng Liêm (Vĩnh Long): Ủ nấm rơm hơn 2.300ha

 

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

Sau khi thu hoạch lúa, nhiều nông dân huyện Vũng Liêm (Vĩnh Long) đã tận dụng rơm lúa để sản xuất nấm. Theo Phòng Nông nghiệp-PTNT huyện Vũng Liêm, giá nấm tươi từ đầu năm đến nay ở mức khá cao từ 55.000-65.000 đ/kg.

Nông dân sử dụng rơm trữ lại trong vụ Hè Thu để ủ nấm, tổng diện tích ủ nấm toàn huyện 2.324ha, đạt 92,9% so kế hoạch, có 485 hộ tham gia trồng nấm.

Theo nông dân, mỗi công lúa Hè Thu có thể thu được từ 10-15 cuộn rơm. Nếu sản xuất ngoài trời quy mô lớn, bình quân, mỗi cuộn có thể cho năng suất hơn 1kg nấm rơm.

Trong tháng 9, giá nấm rơm ở mức khá cao nên nông dân đạt lợi nhuận khá. Anh Nguyễn Văn Dụng (xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm) cho hay: “Sau vụ lúa Hè Thu tôi tận dụng rơm làm nấm. Thời gian sản xuất vụ nấm rơm chỉ tốn hơn 1 tháng, thu hoạch nấm kéo dài nhiều ngày. Nhờ bán được giá cao nên gia đình có thu nhập khá từ trồng nấm, lợi nhuận cao gấp nhiều lần so với trồng lúa”.

Ngoài việc bán nấm rơm, sau khi sản xuất nấm nông dân còn bán phân rơm với giá trung bình 3.000 đ/m phân rơm, góp phần tăng thêm lợi nhuận.

TRÀ MY

 

Cà Mau: Diện tích xuống giống vụ lúa - tôm vượt xa so kế hoạch

 

Nguồn tin: Báo Cà Mau

Theo thông tin từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cà Mau, tính đến hết ngày 1/10/2024, bà con vùng sản xuất lúa - tôm đã giống giống đươc 42.936 ha, tăng 15,73% so kế hoach, tăng 9,83% so cùng kỳ. Theo nhận định của ngành chuyên môn, diện tích xuống giống sẽ còn tiếp tục tăng cao trong những ngày tới.

 

 

Theo kế hoạch huyện Cái Nước xuống 3.500 ha, nhưng đến thời điểm này người dân xuống giống trên 6.000 ha. (Trong ảnh: Lãnh đạo huyện Cái Nước kiểm tra tình hình sản xuất lúa - tôm tại ấp Cái Rắn A, xã Phú Hưng).

Nguyên nhân là do năm nay lượng mưa nhiều, phân bổ đều, tạo điều kiện thuận lợi cho khâu rửa mặn; nguồn lúa giống và các mặt hàng vật tư nông nghiệp cũng được các doanh nghiệp và người dân chuẩn bị đầy đủ, đáp ứng nhu cầu xuống giống. Nhiều vùng, người dân không chỉ trồng lúa kết hợp nuôi tôm sú, mà còn kết hợp nuôi tôm càng xanh, thu hoạch vào dịp cuối năm, thu nhập cao.

Để góp phần thực hiện thắng lợi vụ lúa - tôm, Hội Nông dân tỉnh hỗ trợ gần 6 tấn lúa giống, cho 20 hộ hội viên nông dân ấp Cái Bát, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời.

Trước đây, bà con nông dân coi việc sản xuất lúa trên đất nuôi tôm là để cắt vụ, cải tạo đất, tiêu diệt mầm bệnh lưu truyền trong đất và tạo thêm nguồn thức ăn cho tôm. Nhưng vài năm trở lại đây, nhiều nông dân mạnh dạn chuyển đổi giống lúa chất lượng thấp sang giống lúa chất lượng cao đáp như nhu cầu tiêu thụ của thị trường và tham gia xuất khẩu như: ST24, ST25, Jasmine… không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà năng suất cũng không ngừng tăng, từ 3- 4 tấn/ha, nay tăng lên trên 5 tấn/ ha, tăng thêm thu nhập đáng kể cho bà con nông dân.

Theo ước tính của bà con nông dân, hiện nay bình quân thu nhập 1 ha lúa và tôm nuôi từ 100-120 triệu đồng/ha/năm, cao hơn lợi nhuận so với vùng chuyên canh 2 vụ lúa trong năm.

Trung Đỉnh

 

Trồng khoai mài trên đất cát: Giải pháp nâng cao thu nhập cho nông dân

 

Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Nhiều năm qua, nông dân xã Phước Hội, huyện Đất Đỏ (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) đã thành công với mô hình trồng khoai mài trên đất cát, mang lại thu nhập cao và ổn định cho nhiều gia đình, góp phần phát triển kinh tế địa phương.

 

 

Người lao động thu hoạch khoai mài tại vườn gia đình ông Đinh Công Trường.

Dễ chăm sóc, lợi nhuận cao

Gia đình ông Đinh Công Trường (ấp Hội Mỹ, xã Phước Hội), có hơn 6 năm gắn bó với cây khoai mài. Năm nay, gia đình ông trồng 2ha khoai mài và đang trong giai đoạn thu hoạch. Ông dự kiến thu về khoảng 80 tấn củ, với giá bán lẻ từ 90.000-100.000 đồng/kg và giá bán sỉ từ 60.000-80.000 đồng/kg. Theo ông Trường, chi phí đầu tư cho mỗi vụ trồng khoai mài chỉ chiếm khoảng 20%, lợi nhuận thu về khoảng 80%. Sau khi trừ chi phí, gia đình ông ước tính sẽ thu về gần 4 tỷ đồng từ vụ thu hoạch này.

Ông Trường chia sẻ: “Trước đây, gia đình tôi trồng cây ăn trái, nhưng năng suất không còn cao. Khi chuyển sang trồng khoai mài, thu nhập trở nên ổn định hơn. Để nâng cao chất lượng sản phẩm và tiết kiệm chi phí, tôi đã lắp đặt hệ thống tưới tự động và sử dụng phân bón vi sinh đã được ủ hoai mục”.

Tương tự, gia đình ông Đặng Văn Trung (ấp Tân Hội, xã Phước Hội), cũng chuyển từ trồng điều sang trồng khoai mài từ 7 năm nay. Với diện tích 2.500m², ông Trung dự kiến thu hoạch khoảng 3 tấn củ trong vụ này, với giá bán dao động từ 80.000-100.000 đồng/kg. Sau khi trừ chi phí khoảng 40 triệu đồng, ông ước tính thu về khoảng 200 triệu đồng.

Ông Trung cho biết, việc chăm sóc khoai mài trên đất cát rất dễ dàng: “Cây khoai mài phát triển tốt mà không cần sử dụng nhiều thuốc bảo vệ thực vật. Chỉ cần bón phân hữu cơ, đặc biệt là phân vịt, gà ủ hoai mục, còn nếu sử dụng phân từ trâu, bò thì củ dễ bị con sùng phá hoại”.

Gia đình ông Trung có 9 anh chị em đều trồng khoai mài. Để đảm bảo cung cấp sản phẩm quanh năm, các thành viên trong gia đình trồng xoay vòng và rải vụ. Nhờ vậy, khoai mài luôn bán được giá và đem lại thu nhập ổn định. Dự kiến, đầu năm 2025, gia đình sẽ mở rộng thêm 2ha để tiếp tục mô hình trồng luân phiên.

Thúc đẩy khoai mài qua thương mại điện tử

Khoai mài, hay còn gọi là hoài sơn, không chỉ là thực phẩm, mà còn là dược liệu quý có giá trị kinh tế cao. Trước đây, người dân Bà Rịa - Vũng Tàu phải lên rừng tìm và khai thác khoai mài dại. Tuy nhiên, hiện nay, loại cây này đã được trồng phổ biến tại vùng đất cát Phước Hội. Chỉ sau 8-9 tháng trồng, khoai mài có thể thu hoạch, mang lại thu nhập ổn định cho người dân. Phần lớn các hộ trồng khoai mài tại Phước Hội đều đã đầu tư giàn leo và hệ thống tưới tự động, giúp cây dễ phát triển và tiết kiệm chi phí cho các vụ sau.

Ông Châu Văn Trung, Chủ tịch Hội Nông dân xã Phước Hội, cho biết: “Hiện tại, xã có 44 hộ nông dân tham gia trồng khoai mài với diện tích hơn 7ha. Đầu tư ban đầu cho hệ thống giàn leo và tưới tự động giúp nông dân tiết kiệm chi phí về lâu dài, đồng thời tăng lợi nhuận. Với diện tích khoảng 1.000m², nông dân có thể đạt lợi nhuận từ 80-100 triệu đồng/năm”.

Năm 2023, khoai mài Phước Hội đã được cấp chứng nhận đạt chuẩn VietGAP và sản phẩm còn đạt chứng nhận OCOP 3 sao. Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh cũng đã cấp 7 mã vùng trồng khoai mài với diện tích 1,1ha, góp phần mở rộng thị trường cho sản phẩm này.

Ông Trung thông tin thêm: “Thời gian tới, Hội Nông dân xã sẽ tiếp tục phối hợp với các ngành chức năng để hỗ trợ nông dân quảng bá sản phẩm trên các nền tảng thương mại điện tử như Zalo, Facebook, PostMart… Qua đó, sản phẩm khoai mài Phước Hội sẽ tiếp cận được nhiều người tiêu dùng hơn, mở rộng đầu ra và nâng cao giá trị sản phẩm, giúp tăng thu nhập cho bà con”.

Bài, ảnh: ĐÔNG HIẾU - CHÂU TRUNG

 

Xuất khẩu nông lâm thủy sản 9 tháng đạt 46,28 tỷ USD

 

Nguồn tin:  Báo Chính Phủ

Đến thời điểm này, hầu hết các nhóm hàng đều tăng, nên kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng và đạt 46,28 tỷ USD, tăng 21%.

 

 

Trong 9 tháng, xuất khẩu rau quả 5,87 tỷ USD, tăng 39,4%

Bộ NN&PTNT cho biết, 9 tháng năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 46,28 tỷ USD, tăng 21%; nhập khẩu 32,42 tỷ USD, tăng 7,5%. Giá trị xuất siêu nông lâm thủy sản đạt 13,86 tỷ USD, tăng 71,2%.

Trong tháng 9, xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 5,85 tỷ USD, tăng 31% so với tháng 9/2023; trong đó, xuất khẩu nông sản chính 3,41 tỷ USD (tăng 50,9%), lâm sản 1,33 tỷ USD (tăng 11%), thủy sản 920 triệu USD (tăng 13,4%), chăn nuôi 46,1 triệu USD (tăng 19,1%).

Tính chung 9 tháng, hầu hết các nhóm hàng đều tăng, nên kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng và đạt 46,28 tỷ USD, tăng 21%. Đóng góp vào kết quả này có: nông sản 24,85 tỷ USD, tăng 27,7%; lâm sản 12,46 tỷ USD, tăng 20,3%; thủy sản 7,23 tỷ USD, tăng 9,5%; chăn nuôi 376 triệu USD, tăng 3,8%...

Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của ngành đều cao hơn cùng kỳ năm ngoái như: gỗ và sản phẩm gỗ 11,66 tỷ USD, tăng 21,3%; cà phê 4,37 tỷ USD, tăng 39,6% trong khi lượng xuất khẩu giảm 10,5%; gạo 4,37 tỷ USD, tăng 23,5% với lượng 7,01 triệu tấn, tăng 9,2%; hạt điều 3,17 tỷ USD, tăng 22,5%; rau quả 5,87 tỷ USD, tăng 39,4%; tôm 2,79 tỷ USD, tăng 10,5%; cá tra 1,36 tỷ USD, tăng 7,8%; hạt tiêu 1 tỷ USD, tăng 46,9%.

Giá xuất khẩu bình quân của cà phê tăng cao nhất, với 56% và đạt 3.897 USD/tấn; đứng thứ hai là hạt tiêu tăng 49,2% và đạt 4.941 USD/tấn; tiếp đến là cao su tăng 19%, gạo tăng 13,1%...

Giá trị xuất khẩu vào các thị trường đều tăng như: châu Á tăng 17,4%; châu Mỹ tăng 26,1%; châu Âu tăng 34,6%; châu Đại Dương tăng 16,1%; riêng châu Phi giảm 0,3%. Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản tiếp tục là 3 thị trường xuất khẩu lớn nhất; trong đó Mỹ chiếm tỷ trọng cao nhất với mức 21,6%; tiếp đến là Trung Quốc chiếm 20,8% và Nhật Bản chiếm 6,6%.

Trong nước, mặc dù có biến động tăng ở một số mặt hàng tuy nhiên vẫn giữ ở mức ổn định. Giá lúa gạo, rau màu tại một số địa phương biến động tăng cục bộ do ảnh hưởng của cơn bão số 3; giá lợn hơi có xu hướng tăng vào cuối tháng 9 ở cả 3 miền; giá cá tra tăng nhẹ (từ 150 đồng - 300 đồng/kg); giá tôm thẻ giữ ở mức ổn định so với tháng trước, duy trì ở mức 83.000 đồng/kg.

Để thúc đẩy xuất khẩu, các địa phương đã thiết lập và cấp 7.639 mã số vùng trồng tại 56 tỉnh và 1.557 mã số cơ sở đóng gói được phép xuất khẩu sang các thị trường: Trung Quốc, Hoa Kỳ, Australia, New Zealand, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU… Điều này cũng góp phần định hướng sản xuất theo nhu cầu của thị trường, nâng cao uy tín của nông sản Việt Nam.

Bộ NN&PTNT cho biết, các đơn vị chức năng tiếp tục phát triển thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Đặc biệt là xử lý các vấn đề thị trường nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu nông sản, thủy sản; triển khai các Đề án thúc đẩy xuất khẩu nông lâm thủy sản sang các thị trường: Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, EU…

Đỗ Hương

 

Xu hướng tất yếu phát triển nông nghiệp xanh

 

Nguồn tin:  Báo Vĩnh Long

Nông nghiệp ĐBSCL đang đối mặt với những bất lợi từ biến đổi khí hậu, suy thoái nguồn tài nguyên nước, phương thức canh tác thâm canh, độc canh, tăng vụ và lạm dụng hóa chất nông nghiệp… Trong khi đó, phát triển nông nghiệp xanh là xu hướng tất yếu và yêu cầu bắt buộc trong sản xuất, xuất khẩu nông sản và hội nhập kinh tế quốc tế.

 

 

Nông nghiệp Việt Nam đã và đang thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững.

Trong những năm gần đây ở khu vực ĐBSCL các vấn đề về ngập lũ, khô hạn, xâm nhập mặn, cạn kiệt nguồn tài nguyên nước phục vụ cho sinh hoạt và nông nghiệp hay ô nhiễm môi trường diễn biến rất phức tạp và không theo quy luật tự nhiên.

Theo các chuyên gia, nguyên nhân chủ yếu do tác động của biến đổi khí hậu và canh tác nông nghiệp theo hướng thâm canh, độc canh, tăng vụ và lạm dụng hóa chất nông nghiệp.

Theo đó, phát triển nông nghiệp xanh là một xu hướng tất yếu và yêu cầu bắt buộc trong sản xuất hàng hóa, hàng hóa xuất khẩu, hội nhập quốc tế trong giai đoạn tới.

Tại Hội nghị COP26 (tháng 12/2021), Việt Nam đã cam kết mạnh mẽ đưa mức phát thải ròng về “0” đến năm 2050; giảm phát thải khí methane toàn cầu vào năm 2030 so với năm 2010.

Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 định hướng phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp sinh thái, trong đó chú trọng phát triển nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn.

Phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững, minh bạch, trách nhiệm, tích hợp đa giá trị theo hướng sinh thái, khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn.

Để phát triển nền nông nghiệp theo hướng nông nghiệp xanh, nông nghiệp sinh thái, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 150/QĐ-TTg, ngày 28/1/2022). Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030 (Quyết định số 885/QĐ-TTg, ngày 23/6/2020); Quyết định số 300/QĐ-TTg ngày 28/3/2023 ban hành Kế hoạch hành động quốc gia chuyển đổi hệ thống lương thực thực phẩm minh bạch, trách nhiệm và bền vững ở Việt Nam đến năm 2030; Quyết định số 1490/QĐ-TTg ngày 27/11/2023 phê duyệt Đề án Phát triển bền vững 1 triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030.

Điều này cho thấy nông nghiệp Việt Nam đã và đang thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững, thúc đẩy phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp xanh.

Việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, thay đổi quy trình sản xuất, xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn, nâng cao chất lượng, xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm, thay đổi quản trị sản xuất bằng nông nghiệp số để tiếp cận các tiêu chuẩn của thế giới, đồng thời góp phần gia tăng giá trị sản phẩm là xu hướng mà nền nông nghiệp Việt Nam đang hướng tới.

Mới đây, Trường Nông nghiệp (Trường ĐH Cần Thơ) phối hợp Công ty CP Phân bón dầu khí Cà Mau đã tổ chức tọa đàm “Nông nghiệp sáng tạo cho phát triển xanh và bền vững”.

Buổi tọa đàm có sự tham dự của lãnh đạo Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp-PTNT, các nhà khoa học, lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước lĩnh vực nông nghiệp, khoa học công nghệ các tỉnh, thành phố ĐBSCL.

GS.TS Bùi Chí Bửu- nguyên Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, cho rằng: “Trước đây nông dân đua theo năng suất thì bây giờ phải đua theo chất lượng. Chất lượng ở đây là chất lượng dinh dưỡng.

Phải sản xuất những giống lúa chịu nóng, chịu hạn, kết hợp giải quyết vấn đề người dân đang bị tiểu đường nhiều, bị huyết áp nhiều thì đó là chiến lược mà cả thế giới đang đầu tư nghiên cứu”.

PGS.TS Châu Minh Khôi- Phó Hiệu trưởng Trường Nông nghiệp (Trường ĐH Cần Thơ) cho biết: Tọa đàm nhằm chia sẻ, trao đổi và thảo luận các khía cạnh về đẩy mạnh phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hàng hóa tập trung, nông nghiệp tuần hoàn gắn với công nghiệp chế biến, tham gia chuỗi giá trị.

Bên cạnh đó, tọa đàm còn là cơ hội để kết nối hợp tác giữa các nhà khoa học và sở, ban, ngành, địa phương cũng như các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp.

Ðể đạt được mục tiêu đề ra, theo các chuyên gia, các địa phương cần đề cao yếu tố sáng tạo, quyết liệt trong xây dựng, triển khai các giải pháp tối ưu hóa hiệu quả sử dụng nguồn lực và kiến tạo những động lực mới thúc đẩy phát triển nông nghiệp xanh, bền vững.

Ðồng thời, chú trọng xây dựng và phát triển các doanh nghiệp HTX, công nhân nông nghiệp, phát triển cộng đồng sản xuất nông sản chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh, trên nền tảng tôn tạo, phát triển văn hóa, truyền thống của địa phương…

Bài, ảnh: TRÀ MY

 

Nhiều nông sản tăng giá sau thời gian dài ở mức thấp

 

Nguồn tin:  Báo Cần Thơ

Sau thời gian dài giữ ở mức thấp, trong 3 tháng gần đây, nhiều mặt hàng nông sản trên địa bàn tỉnh Kiên Giang như lươn, hồ tiêu, khóm tăng giá trở lại giúp nông dân có lợi nhuận.

 

 

Nông dân xã Bình An, huyện Châu Thành (Kiên Giang) thu hoạch khóm.

Tiêu là mặt hàng tăng giá mạnh nhất, hiện nay, giá tiêu đen loại xô tại các huyện trong tỉnh Kiên Giang được thương lái thu mua tại vườn với giá 180.000 đồng/kg, trong khi đầu năm 2024, giá mặt hàng này chỉ ở mức 95.000-100.000 đồng/kg.

Bà Nguyễn Thị Út, ngụ ấp Hòa Phú, xã Ngọc Hòa, huyện Giồng Riềng (Kiên Giang) cho biết, giá tiêu tăng từng ngày. Hiện giá tiêu đen xô thành viên hợp tác xã bán ra với giá 180.000 đồng/kg, trong khi trước đó 3 ngày còn ở mức 150.000-160.000 đồng/kg.

"Tiêu chín phơi khô hiện có giá 300.000 đồng/kg. Nhưng đa số bà con đã bán khi giá tiêu tăng từ 75.000 đồng/kg lên 100.000 đồng/kg. Hiện trong hợp tác xã chỉ còn vài hộ còn tiêu trữ lại, hầu hết diện tích hồ tiêu đang ở giai đoạn xử lý ra hoa niên vụ mới, phải 5-6 tháng nữa mới tới kỳ thu hoạch", bà Út nói.

Thực tế tại huyện Giồng Riềng cho thấy, trước tình hình giá tiêu liên tục giảm mạnh trong 5 năm trở lại đã khiến nhà vườn bỏ tiêu sang trồng sầu riêng, cây ăn trái khác. Mặt khác, nhiều diện tích tiêu nhiễm bệnh chết dây chưa có thuốc đặc trị.

"Thời điểm hưng thịnh nhất, giá hạt tiêu đạt mức 250.000 đồng/kg nhưng sau đó liên tục giảm chạm đáy còn 50.000-60.000 đồng/kg trong khoảng 5 năm trở lại đây nên nhiều nông dân bỏ tiêu, diện tích tiêu dần thu hẹp", ông Nguyễn Văn Hồng, ngụ xã Hòa Thuận, huyện Giồng Riềng nói.

Thông tin từ Hiệp hội hồ tiêu Việt Nam, Việt Nam, Indonesia và Brazil dự báo đều giảm sản lượng mùa vụ tiêu vì ảnh hưởng bởi El Nino. Trong khi đó, ngoài Mỹ, các thị trường Pakistan, Đức, Hàn Quốc, Ấn Độ nhu cầu dự trữ cao là nguyên nhân giúp giá tiêu tăng cao.

Lươn cũng là mặt hàng tăng giá mạnh sau thời gian dài giữ ở mức thấp. Phong trào nuôi lươn không bùn trong bể xi măng bằng thức ăn công nghiệp rộ lên tại một số huyện như Giồng Riềng, Châu Thành, Hòn Đất trong 5 năm trở lại đây giúp nhiều hộ ăn nên làm ra với loài thủy sản da trơn này nhưng cũng có hộ trắng tay vì thua lỗ.

Từ cuối năm 2023 đến tháng 7-2024, giá lươn giảm mạnh còn 65.000-70.0000 đồng/kg. Hiện giá lươn thịt tại Kiên Giang tăng trở lại, đạt mức 105.000 đồng/kg loại lươn xô, tăng từ 40.000-45.0000 đồng/kg so với trước đó.

Ông Võ Xuân Trường, ấp Trung Đoàn, An Minh Bắc, huyện U Minh Thượng nói: "Dự kiến khoảng 1 tháng nữa tôi xuất bán khoảng 1,5 tấn lươn thương phẩm. Do nuôi bằng thức ăn công nghiệp dạng viên nên giá thành mỗi ký lươn đến khi xuất bán là 47.000-50.000 đồng/kg. Hiện giá lươn được thương lái báo giá 105.000 đồng/kg, giá này tôi lãi từ 50.000-51.000 đồng/kg".

Đến nay, giá khóm luôn giữ ổn định ở mức 12.000-14.000 đồng/trái, tăng gấp đôi so cùng kỳ năm ngoái. Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Kiên Giang, hiện toàn tỉnh có hơn 7.000ha trồng khóm, tập trung ở một số huyện như Gò Quao, Châu Thành, Giồng Riềng, Vĩnh Thuận, U Minh Thượng, Kiên Lương, Hòn Đất. Được biết, nguyên nhân giá khóm tăng do sản lượng khóm tại vùng chuyên canh giảm khoảng 50% do nắng hạn kéo dài, một số dịch bệnh phát sinh trên khóm khiến năng suất giảm mạnh.

Ông Lê Văn Bình, ngụ ấp An Lạc, xã Bình An, huyện Châu Thành, cho biết: "Khóm xanh loại nhất (trái từ 1kg trở lên) hiện có giá 12.000 đồng/trái, khóm loại nhì (trái từ 600 gram đến dưới 1kg) giá 6.000 đồng/trái". Với 2ha khóm, ông Bình ước đến cuối vụ thu khoảng 10.000 trái.

Bên cạnh mặt hàng nông sản, mặt hàng tôm các loại tại các huyện vùng U Minh Thượng như An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận cũng tăng giá nhẹ khi đang vào thu hoạch cuối vụ năm 2024. Hiện tôm càng xanh đầu cỡ tôm 12 con/kg, bắt tới lóng 4 giá bán 120.000 đồng/kg, tăng 10.000 đồng/kg so với tháng 7-2024 và cao hơn cùng kỳ năm 2023 gần 20.000 đồng/kg. Tôm càng xanh loại xô giá 80.000 đồng/kg tăng 5.000 đồng/kg. Ngoài ra tôm sú và tôm thẻ chân trắng cũng tăng giá nhẹ từ 5.000-10.000 đồng so với tháng 8-2024.

Bài, ảnh: AN NAM

 

Tp. Bạc Liêu: chủ động ứng phó thiên tai, bảo vệ sản xuất

 

Nguồn tin:  Báo Bạc Liêu

Để đảm bảo sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định và chủ động ứng phó với thiên tai, UBND TP. Bạc Liêu đã xây dựng Kế hoạch sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH) năm 2024 - 2025. Qua đó, tập trung nhiều giải pháp gắn với các kịch bản ứng phó với BĐKH.

 

 

Nông dân TP. Bạc Liêu thu hoạch tôm công nghiệp.

Phát triển nhanh, toàn diện và bền vững

Theo đó, mục tiêu chung của kế hoạch này là tập trung thực hiện quyết liệt các giải pháp đột phá trong phát triển nông nghiệp, nông thôn thành phố phát triển nhanh, toàn diện và bền vững. Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới đảm bảo thực chất, đi vào chiều sâu; nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp theo liên kết chuỗi, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số và sản xuất theo các tiêu chuẩn chất lượng; tận dụng mọi nguồn lực để phát huy tốt tiềm năng, lợi thế của địa phương.

Đồng thời, đẩy mạnh xây dựng vùng sản xuất, nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ cao hiệu quả và bền vững; tăng cường quản lý chặt chẽ vùng nuôi tôm theo quy hoạch và khuyến khích phát triển mô hình nuôi tôm siêu thâm canh. Nâng diện tích lúa chất lượng cao, mô hình hợp tác xã thực hiện liên kết sản xuất tiêu thụ theo chuỗi giá trị với doanh nghiệp. Tiếp tục quan tâm đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hạ tầng nông thôn gắn với tăng cường năng lực phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai, thích ứng với BĐKH và bảo vệ môi trường sinh thái…

Theo dự báo, đối với vùng sản xuất phía Nam Quốc lộ 1A, do ảnh hưởng của hiện tượng El Nino nên có thể xảy ra nắng nóng kéo dài và xâm nhập mặn vào mùa khô năm 2024 - 2025 làm độ mặn trên hệ thống kênh rạch và trong các ao nuôi tăng cao (trên 30‰). Do đó, cần có giải pháp trữ nước ngọt trong hệ thống ao chứa để pha loãng độ mặn khi cần thiết. Ngoài ra, nên hạn chế thả giống vào thời điểm cao điểm của mùa khô, đặc biệt đối với các ao nuôi tôm chưa chuẩn bị tốt các điều kiện thả giống và khu vực ven biển Bạc Liêu để hạn chế bị ảnh hưởng. Đối với những ao nuôi đang có tôm, bổ sung các sản phẩm để tăng sức đề kháng cho tôm.

Bên cạnh đó, tùy tình hình thực tế như: độ mặn, thời tiết, khả năng đầu tư, kỹ thuật mà các hộ nuôi quyết định mật độ thả, thời điểm thả giống trong khung lịch thời vụ khuyến cáo cho phù hợp. Đối với những địa bàn khó khăn về nguồn nước thuộc các ấp: An Trạch Đông, Thào Lạng, Bờ Xáng, Kim Cấu, Giáp Nước (xã Vĩnh Trạch) và khóm 4, khóm 7, khóm 8 (Phường 5), khóm Trà Kha A, khóm Cầu Sập (Phường 8), khuyến cáo người nuôi tôm thả giống vào các thời điểm đảm bảo nguồn nước (từ tháng 12/2024 - 1/2025 và từ tháng 4 - 6/2025).

Đối với nuôi nghêu, khuyến cáo người dân tuyệt đối không nên thả giống vào thời điểm thời tiết nắng nóng kéo dài. Nên duy trì mật độ thả nuôi phù hợp từ 500 - 1.000 con/m2 (nghêu cám) hoặc 200 - 250 con/m2 (nghêu trung). San bằng mặt bãi nuôi, khai thông các vùng nước đọng trên bãi để hạn chế tối đa hiện tượng đọng nước kết hợp với nắng nóng làm nhiệt độ tăng cao cục bộ gây ảnh hưởng đến sức khỏe nghêu nuôi…

TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ HẠ TẦNG

Để chủ động tránh thiệt hại, Phòng Kinh tế, Phòng Tài nguyên, các địa phương cần tích cực tuyên truyền và hướng dẫn nông dân thực hiện nghiêm các văn bản quy định của Nhà nước. Các tổ chức, cá nhân nuôi tôm cần đặc biệt quan tâm về vấn đề bảo vệ môi trường như: việc xử lý nước thải, bùn thải trong quá trình nuôi đảm bảo theo quy định (tại Quyết định 23 của UBND tỉnh về việc ban hành Quy định bảo vệ môi trường trong hoạt động nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu). Cần nâng cao ý thức sản xuất vì cộng đồng, thực hiện nghiêm các biện pháp cách ly và xử lý khi có dịch bệnh xảy ra. Thủy sản chết và chất thải của ao có vật nuôi bị bệnh phải thu gom, xử lý kịp thời; không được thải nước từ ao nuôi ra kênh cấp nước của vùng nuôi và thải nước chưa xử lý ra môi trường tự nhiên. Thường xuyên theo dõi các bản tin dự báo thời tiết để đề phòng bão, lũ lụt, triều cường có thể xảy ra. Trên cơ sở hướng dẫn lịch thời vụ nuôi trồng thủy sản năm 2025 do Sở NN&PTNT ban hành, UBND thành phố chỉ đạo Phòng Kinh tế thành phố phổ biến lịch thời vụ, hướng dẫn kỹ thuật, quản lý tốt việc thả giống, có đề xuất kịp thời điều chỉnh lịch thời vụ phù hợp với thực tế sản xuất của địa phương.

Để phục vụ tốt cho phát triển sản xuất, TP. Bạc Liêu sẽ tăng cường đầu tư và thực hiện kế hoạch nạo vét các tuyến kênh tạo nguồn theo phân cấp quản lý đảm bảo nước phục nhu cầu sản xuất trên địa bàn của thành phố. Theo dõi diễn biến và cập nhật thông tin thời tiết mưa, bão, hạn hán, xâm nhập mặn mùa khô năm 2025 trên địa bàn thành phố. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện duy tu, bảo dưỡng các công trình thủy lợi, ô đê bao, nạo vét kênh tạo nguồn, nhằm tăng khả năng trữ nước. Đồng thời, tiếp tục đề xuất Ban Quản lý Dự án đầu tư xây dựng các công trình NN&PTNT tỉnh đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án trên tuyến đê Biển Đông trên địa bàn thành phố, nhằm đảm bảo nguồn nước phục vụ sản xuất nuôi trồng thủy sản. Tiếp tục chỉ đạo Trung tâm Dịch vụ Kỹ thuật nông nghiệp thành phố vận hành điều tiết nước các cống: Trà Kha, Cầu Xáng… để tiêu thoát nước khi mưa lớn xảy ra trên địa bàn; riêng các xã Hiệp Thành và Vĩnh Trạch Đông vận hành các trạm bơm trong ô đê bao khép kín trên địa bàn để tiêu thoát nước, chống ngập úng khi mưa lớn xảy ra. Rà soát các khu vực có nguy cơ bị xâm nhập mặn trong vùng sản xuất nông nghiệp: rau màu, cây ăn trái, lúa… trên địa bàn thành phố. Giao Phòng Kinh tế phối hợp với UBND các phường, xã rà soát, tham mưu cho UBND thành phố đề xuất danh mục công trình thủy lợi bức xúc cần nạo vét tạo nguồn và công trình cần duy tu, sửa chữa để phục vụ sản xuất nông nghiệp…

Do tác động của El Nino, dự báo trong mùa khô năm 2024 - 2025 có nguy cơ xảy ra hạn hán và xâm nhập mặn khá gay gắt trên địa bàn TP. Bạc Liêu cụ thể cho từng vùng như sau:

* Đối với cây lúa

Diện tích canh tác lúa là 992ha, trong đó: lúa cao sản (tại Phường 5, xã Vĩnh Trạch và Vĩnh Trạch Đông); lúa vụ mùa thu đông (tại Phường 1, Phường 7, Phường 8).

Nhận định chung: nếu nguy cơ xảy ra hạn hán và xâm nhập mặn khá gay gắt trong mùa khô năm 2024 - 2025 thì tình hình sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn do thiếu nước ngọt, độ mặn tăng cao, ảnh hưởng đến năng suất trong canh tác lúa và làm ảnh hưởng thời gian gieo sạ vào tháng 4 và 5/2025.

* Đối với rau màu

Diện tích canh tác là 4.500ha, trong đó: màu trên rẫy (tại phường Nhà Mát, xã Hiệp Thành, Vĩnh Trạch và Vĩnh Trạch Đông); màu xuống ruộng (tại Phường 8, xã Vĩnh Trạch, Vĩnh Trạch Đông).

Nhận định chung: nếu nguy cơ xảy ra hạn hán và xâm nhập mặn khá gay gắt trong mùa khô năm 2024 - 2025 thì tình hình sản xuất rau màu gặp nhiều khó khăn do thiếu nước ngọt, không trữ nước được cho việc tưới tiêu, độ mặn tăng cao, ảnh hưởng đến năng suất trong canh tác. Thời gian khó khăn cho việc thu hoạch rau màu các tháng cuối năm 2024 và ảnh hưởng thời gian gieo trồng vào tháng 2 và 3/2025.

TÚ ANH

 

Đa dạng sinh kế xây dựng nông thôn mới

 

Nguồn tin:  Cổng TTĐT tỉnh Trà Vinh

Đa dạng hóa sinh kế, giúp người dân phát triển, tăng thu nhập là nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng nông thôn mới. Theo đó, nhiều mô hình kinh tế được triển khai, nhân rộng. Mô hình trồng sen lấy ngó và lấy bông ở xã Thạnh Hòa Sơn, huyện Cầu Ngang (Trà Vinh) là một điển hình.

 

 

Chị Thạch Thị Sa Thia với mô hình trồng sen lấy ngó và lấy bông

Mạnh dạn chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng sen, chị Thạch Thị Sa Thia, ngụ ấp Trường Bắn, xã Thạnh Hòa Sơn đầu tư 9 công đất trồng sen bán lấy ngó và bông sen, mô hình giúp tăng thu nhập đáng kể. Chị Sa Thia cho biết: sen rất dễ trồng, ít tốn công chăm sóc, ít sâu bệnh, chi phí đầu tư thấp nhưng hiệu quả kinh tế khá cao. Hằng ngày gia đình thu được 300 bông, 15 kg ngó sen. Giá thành ngoài thị trường hiện nay là 3 ngàn đồng sen trắng, sen hồng là 5 ngàn đồng với giá sỉ, thường chị sẽ giao sỉ nhiều hơn. Ngó sen mình nhổ lên rổi chà sạch cho khách là 30 ngàn đồng/kg và giao sỉ là nhiều, như các huyện Duyên Hải, Thành phố Trà Vinh, mình đóng gói hút chân không gửi về Thành phố Hồ Chí Minh

Theo chị Sa Thia, chi phí đầu tư một vụ sen là 3 triệu đồng/công. Sau hai tháng gieo trồng, gia đình sẽ thu hoạch ngó và bông sen liên tục suốt một năm. Mỗi vụ sen thu được lợi nhuận từ 25 đến 30 triệu đồng sau khi trừ mọi chi phí. Như vậy, gia đình có thu nhập gần 300 triệu đồng mỗi năm từ mô hình sen. Tết Sen Dolta năm nay, gia đình chị Sa Thia rất phấn khởi bởi ngó sen, bông sen đều được mùa, được giá cao.

Chị Thạch Thị Sa Thia chia sẻ thêm: dịp lễ Sen Dolta thì nhu cầu của khách rất là cao để chế biến món ăn, truyền thống người dân tộc Khmer rất là thích chưng hoa sen lên bàn thờ Phật, bàn thờ tổ tiên. Nhu cầu hiện nay, khách đặt trước đã trên 1.000 bông trước ngày đi chùa.

Gia đình chị Sa Thia trồng sen chủ yếu lấy công làm lời, muốn sen phát triển nhanh nên bón phân với liều lượng ít. Trồng sen cũng làm đất như trồng lúa, gia cố bờ giữ nước, đất được xới trục tạo thành lớp bùn dày. Chị Sa Thia bày tỏ: Hội Phụ nữ xã rất là quan tâm, các chị luôn tạo mọi điều kiện để mình tham quan các mô hình, như tổ mô hình trồng sen, trong đó có 7 chị em phụ nữ cũng được tham quan tại Đồng Tháp để về áp dụng và phát triển nghề trồng sen. Mong muốn của mình là ngó sen sớm đạt sản phẩm OCOP, để mình cung ứng ra ngoài thị trường và sàn giao dịch điện tử, người tiêu dùng sẽ biết được nhiều hơn, giúp cho bà con ở đây phát triển.

Cũng với mô hình trồng sen, nhiều người dân xã Thạnh Hòa Sơn chia sẻ: thu nhập gia đình ổn định hơn nhiều từ sen, mỗi tháng thu nhập từ 5 đến 7 triệu đồng. Ngoài nguồn thu chủ lực từ sen, người dân còn kết hợp mặt nước để nuôi vịt, nuôi cá tăng thêm thu nhập trên cùng một diện tích. Hiện tại, Tổ hợp tác trồng sen xã Thạnh Hòa Sơn đã phát triển hơn 6 hecta, nâng tổng diện trồng màu toàn xã hơn 320 hecta. Hướng tới, xã tiếp tục duy trì, nhân rộng mô hình để người dân có điều kiện phát triển kinh tế. Qua đây, nâng chất tiêu chí thu nhập, góp phần xây dựng thành công tỉnh đạt chuẩn nông thôn mới.

Nguyệt Hân

 

Chủ động sản xuất, chăn nuôi mùa mưa lũ

 

Nguồn tin:  Báo Hậu Giang

Chủ động ứng phó với thời tiết diễn biến phức tạp, khó lường, đặc biệt là mưa nhiều và nước lũ dâng cao để bảo vệ cây trồng, vật nuôi đang được bà con nông dân trong tỉnh Hậu Giang quan tâm.

 

 

Anh Trương Văn Triều, ở ấp Mỹ Quế B, thị trấn Cây Dương, huyện Phụng Hiệp, chăm sóc cho vườn rau của mình.

Sản xuất bị ảnh hưởng

Anh Trương Văn Triều, ở ấp Mỹ Quế B, thị trấn Cây Dương, huyện Phụng Hiệp, đã nối nghiệp gia đình làm nghề trồng rau màu hơn 10 năm nay, cho biết: “Cái nghề nhà nông đã gắn với gia đình tôi và bà con vùng này từ nhiều đời. Vùng này tuy là vùng trũng thấp của tỉnh, hay bị ảnh hưởng bởi mưa lũ nhưng ai cũng bám đất, bám nghề, không có ý định thay đổi, bởi cũng không biết làm nghề gì khác để phát triển kinh tế, mà trồng hay nuôi con gì thì cũng bị ảnh hưởng nên vẫn cứ thế mà làm từ năm này qua năm khác”.

Gia đình anh Triều hiện đang trồng gần 6.000m2 rau màu, gồm bầu và dưa leo, hiện đang phát triển tốt, dự đoán khoảng hơn 20 ngày nữa là thu hoạch. Tuy nhiên, những ngày mưa gần đây đã ảnh hưởng ít nhiều đến quá trình sinh trưởng của cây khiến anh lo lắng.

“Mấy ngày nay, mưa nhiều mà kéo dài dẫn đến thoát nước không kịp nên rau màu dễ bị ảnh hưởng, nhất là bộ rễ. Nước triều cường cũng đang dâng lên, hiện đã gần ngang với bề mặt các liếp trồng rau màu của tôi, cứ đà này thì sớm hay muộn cũng ngập. Nếu ngập thì lại phải tốn chi phí tấn cao su và bơm nước liên tục, lợi nhuận lại càng giảm”.

Tương tự, chị Huỳnh Hoa, người dân chuyên canh tác dưa hấu và trồng nấm rơm ở xã Trường Long Tây, huyện Châu Thành A, cũng đã ngưng trồng vụ này. Chị Hoa cho biết: “Trước đó cũng có theo dõi thông tin từ báo đài, biết được năm nay nước lũ về cao hơn so với mọi năm nên gia đình tôi quyết định bỏ vụ để tránh thua lỗ”.

Chủ động ứng phó

Để phòng trường hợp nước lũ dâng cao ảnh hưởng đến quá trình chăn nuôi, sản xuất, người dân trên địa bàn tỉnh đã chủ động thực hiện nhiều biện pháp để tránh gây thất thoát năng suất và ảnh hưởng chất lượng cây trồng, vật nuôi. Ông Trần Văn Thương, ở ấp 6, xã Lương Nghĩa, huyện Long Mỹ, cho biết: “Hiện tại, gia đình tôi đang nuôi tôm trên 18 công đất ruộng, lứa tôm khoảng gần giữa tháng 10 là thu hoạch. Đoán trước nước lũ về, tôi đã tự gia cố các bờ ruộng, hàng ngày theo dõi mực nước để tránh ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm. Với 30 thiêng con giống (mỗi thiêng là 1.000 con), nếu nuôi đạt thì khi thu hoạch mỗi công sẽ thu được từ 30-40kg tôm (loại 26 con/kg), giá bán trung bình hiện nay rơi vào khoảng 280.000 đồng/kg. Sau khi trừ chi phí đầu tư, con giống, thức ăn,… lợi nhuận thu về đạt từ 2-3 triệu đồng mỗi công.

Theo báo cáo của Chi cục Chăn nuôi, Thú y - Thủy sản tỉnh, hiện tổng diện tích chăn nuôi thủy sản trên địa bàn tỉnh là hơn 12.900ha. Trong đó, diện tích nuôi mương vườn là cao nhất, với hơn 3.000ha. Ước tổng sản lượng thủy sản của tỉnh là hơn 76.000 tấn.

Riêng về lĩnh vực sản xuất rau màu, bà con được tập huấn, hướng dẫn, hỗ trợ để nhận thức rõ tầm quan trọng trong công tác chủ động ứng phó với mùa mưa lũ. Tự thực hiện các biện pháp như gia cố bờ, nâng cao liếp trồng, xây dựng nhà lưới, theo dõi sát sao các diễn biến thất thường của thời tiết để có cách ứng phó kịp thời, tránh gây thiệt hại cho cây trồng và ảnh hưởng năng suất, thu nhập.

Ông Bạch Văn Sơn, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt, Bảo vệ thực vật và Kiểm lâm tỉnh, cho rằng: Thời gian mưa bão liên tục xảy ra sẽ gây ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của rau màu. Trường hợp một số ruộng không đảm bảo được đê bao ở những vùng đất thấp có thể bị ngập nước lâu ngày, dễ phát sinh dịch hại và ảnh hưởng năng suất.

Một số bất lợi gặp phải khi canh tác vào mùa mưa có thể kể đến như cây con bị chết ngay từ lúc gieo, hạt bị úng nước hoặc nảy mầm mà không phát triển được. Hiện tượng này thường gặp trên các ruộng gieo sạ trực tiếp hoặc có thể cây con bị mưa vùi dập, chậm phát triển, còi cọc, dễ bị bệnh tấn công. Bên cạnh đó, nếu thời tiết mưa kết hợp với giông, gió bão sẽ làm cây bị lung lay, ảnh hưởng đến sự phát triển của bộ rễ. Ngoài ra, ánh sáng yếu kết hợp với ẩm độ cao cũng làm ảnh hưởng đến quá trình hô hấp của cây. Thời tiết nóng, ẩm và trời thiếu sáng tạo điều kiện thích hợp cho các loại nấm, bệnh gây hại trên rau dễ phát sinh và phát triển. Thêm vào đó, những giọt nước mưa cũng góp phần lây lan nguồn bệnh, dễ gây rách lá, tạo vết thương cho nấm bệnh và vi khuẩn xâm nhập.

“Dù còn gặp khá nhiều khó khăn, nhưng việc sản xuất hoa màu trong mùa này đã tạo nguồn rau màu cho thị trường, tránh tình trạng đội giá vào mùa mưa. Đồng thời, nếu chăm sóc tốt sẽ cho thu nhập cao hơn, nhờ giảm công tưới nước, bán được giá cao, qua đó tạo nguồn thu nhập ổn định cho người dân”, ông Bạch Văn Sơn thông tin thêm.

Chi cục Trồng trọt, Bảo vệ thực vật và Kiểm lâm tỉnh khuyến cáo bà con chọn nền đất cao ráo, tầng canh tác dày, đất tơi xốp và cần có bờ bao để tránh ngập nước, có hệ thống thoát nước tốt, nhanh tránh để nước bị tồn đọng khi gặp mưa to hoặc mưa dầm lâu ngày gây ngập úng rau. Song song đó, cần theo dõi thường xuyên các đối tượng gây hại, nếu có điều kiện bà con nông dân nên sử dụng nhà lưới, hoặc mái che giúp làm giảm tối đa tác động của mưa đến cây trồng.

MAI THANH

 

Vượt khó nhờ nuôi gà đen H’Mông

 

Nguồn tin: Báo Bình Định

Từ niềm đam mê khởi nghiệp, muốn làm giàu trên chính mảnh đất quê hương, anh Đinh Văn Điu (32 tuổi, dân tộc Bana, ở thôn T1, xã Bok Tới, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định) đã mở ra hướng phát triển mới từ mô hình chăn nuôi gà đen H’Mông, mang lại hiệu quả kinh tế cao, từng bước thoát nghèo hiệu quả.

Anh Điu chia sẻ, trước đây, anh từng đi làm công nhân tại nhiều tỉnh, thành phố; tuy nhiên, do sức khỏe yếu, công việc lại vất vả, thu nhập không đủ sống, nên anh trở về quê tìm hướng sản xuất, kinh doanh phù hợp hơn. Đầu năm 2023, sau khi xem một số video về mô hình nuôi gà đen H’Mông ở các tỉnh miền núi phía Bắc, anh nhận thấy gà đen dễ nuôi, ít bệnh, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều so với các giống gà thông thường, anh quyết định thực hiện mô hình.

 

 

Anh Đinh Văn Điu (bên trái) chăm sóc đàn gà đen tại chuồng. Ảnh: C.H

Trên mảnh vườn gần 400 m2 của gia đình, anh đầu tư 50 triệu đồng từ số tiền tiết kiệm để xây dựng chuồng trại và nhập 200 con gà đen giống từ tỉnh Bắc Kạn về nuôi. Đây là giống gà mới, ở địa phương lại chưa có hộ dân nào nuôi, anh phải tự tìm hiểu các tài liệu, kiến thức liên quan đến gà đen qua sách, báo, internet và áp dụng vào thực tế nuôi. Lúc đầu chỉ nuôi 200 - 300 con, sau đó nâng dần lên 700 con và cho kết quả rất khả quan.

Anh Điu cho hay, gà đen H’Mông có khả năng thích ứng với môi trường và chống chọi với dịch bệnh rất tốt, nhưng để gà sinh trưởng tốt nhất cũng cần phải tiêm một số loại vắc xin phòng bệnh và cho gà uống nước điện giải vào mùa nắng nóng. Về thức ăn, anh chủ yếu cho gà ăn lúa, bắp, rau xanh và các phụ phẩm nông nghiệp. Từ khi mới bắt đầu nuôi đến khi gà cho xuất chuồng gần 6 tháng, mỗi con có trọng lượng ước đạt từ 1,5 - 2 kg trở lên.

Cũng theo anh Điu, nhờ chăn nuôi gà gối lứa, mỗi năm anh xuất bán ra thị trường trong và ngoài tỉnh 2 lứa, mỗi lứa bán hơn 400 con, với giá từ 150 - 160 nghìn đồng/kg, có lãi hơn 130 triệu đồng/lứa. “Thời gian tới, tôi sẽ làm hồ sơ vay vốn từ nguồn vốn Quỹ Thanh niên Bình Định khởi nghiệp, lập nghiệp, để xây dựng, mở rộng khu chuồng trại; mua con giống mới; nhập các loại máy móc khác…, phát triển mô hình nuôi gà đen ngày một hiệu quả hơn, từng bước xây dựng thành dòng sản phẩm đặc trưng riêng cho địa phương”, anh Điu nói.

Anh Đinh Văn Nghiêm, Bí thư Xã đoàn Bok Tới, đánh giá: Anh Đinh Văn Điu là một trong những gương điển hình thanh niên vượt khó trong phát triển kinh tế tại địa phương. Mô hình chăn nuôi gà đen của anh có tính đột phá, Xã đoàn đang khuyến khích các thanh niên trong xã đến học hỏi, tham quan mô hình này để mở ra hướng đi mới mang lại hiệu quả kinh tế cao cho thanh niên.

CHƯƠNG HIẾU

 

Vĩnh Long: Đàn gia cầm tăng 4,4%

 

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

Theo Sở Nông nghiệp-PTNT Vĩnh Long, tỉnh duy trì và phát triển các mô hình chăn nuôi gia cầm tập trung, kết hợp bảo vệ môi trường và an toàn dịch bệnh. Các mô hình chăn nuôi gà theo hình thức gia công phát triển ổn định.

Tính đến tháng 9/2024, toàn tỉnh có trên 11,4 triệu con gia cầm (không kể vịt chạy đồng), tăng 4,4% (hay tăng 479.800 con) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, đàn gà có 7,4 triệu con, tăng 6,1% so với cùng kỳ.

Giá gà thả vườn dao động từ 85.000-100.000 đ/kg, tăng 5.000 đ/kg so với cùng kỳ. So với giá thành sản xuất bình quân là 63.000-65.000 đ/kg thì người nuôi hiện có lãi từ 20.000-22.000 đ/kg.

Thời gian tới, ngành nông nghiệp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ tình hình dịch bệnh trên gia cầm, chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện sớm, xử lý kịp thời không để lây lan ra diện rộng.

Tăng cường tuyên truyền đến người chăn nuôi về các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, chăn nuôi an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, định kỳ tiêu độc khử trùng, tiêm phòng cho đàn vật nuôi…

NGUYÊN KHANG

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop