Giá khóm từ 12.000 đồng/trái
Nguồn tin: Báo Kiên Giang
Giá khóm ở Kiên Giang trong nửa tháng qua ổn định ở mức 12.000-14.000 đồng/trái, cao hơn gấp đôi so cùng kỳ năm ngoái.
Ông Dư Văn Thái, ngụ ấp An Lạc, xã Bình An, huyện Châu Thành cho biết: Khóm xanh loại nhất (trái từ 1kg trở lên) hiện có giá 12.000 đồng/trái, khóm loại nhì (trái từ 600gram đến dưới 1kg) giá 6.000 đồng/trái. Với 2ha khóm, ông Thái ước đến cuối vụ thu khoảng 10.000 trái.
Theo chị Nguyễn Thị Ngọc - chủ một cơ sở sản xuất rượu khóm tại Kiên Giang, đang chính vụ thu hoạch khóm nhưng giá khóm chín ở mức 14.000 đồng/kg. Với giá này, chi phí khóm nguyên liệu tăng gấp đôi so cùng kỳ năm ngoái, dù vậy nhưng rất khó mua. "Nông dân cắt khóm xanh bán hết cho thương lái, trong khi để làm được rượu khóm, tôi cần 5.000 trái khóm chín”, chị Ngọc chia sẻ.
Nông dân xã Bình An (Châu Thành) thu hoạch khóm Tắc Cậu.
Cùng với khóm, cau trái thương phẩm cũng đang ở mức 35.000 đồng/kg, trong khi cùng kỳ năm ngoái chỉ 2.000 đồng/kg. Với mức giá hiện nay, theo tính toán của nhiều nông dân trồng cau, dự kiến thu lợi nhuận từ 100-150 triệu đồng/ha/năm. Mặc dù được giá, nhưng sản lượng khóm, cau đều giảm khoảng 50% do nắng hạn kéo dài, một số dịch bệnh phát sinh trên khóm khiến năng suất giảm mạnh.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Kiên Giang, hiện toàn tỉnh có hơn 7.000ha trồng khóm, tập trung ở một số huyện như Gò Quao, Châu Thành, Giồng Riềng, Vĩnh Thuận, U Minh Thượng, Kiên Lương, Hòn Đất.
Tin và ảnh: ĐẶNG LINH
Vĩnh Long: Chăm sóc cây ăn trái sau hạn mặn
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Nông dân cần chủ động nhiều giải pháp phục hồi cây trồng sau hạn mặn.
Thời gian qua, do hạn mặn kéo dài, cộng thêm nắng gắt, bên cạnh nhiều diện tích vườn cây ăn trái đã được bảo vệ kịp thời thì cũng có một số vườn cây bị ảnh hưởng. Sau thời điểm hạn mặn, nông dân tiếp tục chăm sóc để vườn cây ăn trái khôi phục, sinh trưởng và phát triển tốt.
Theo ngành nông nghiệp, thời gian qua, do tình hình thời tiết mùa khô, nắng nóng gay gắt diễn biến phức tạp, độ mặn duy trì thường xuyên trong ao, mương… nên cũng đã phần nào tác động đến sinh trưởng, phát triển của cây trồng.
Cụ thể, khi nước mặn xâm nhập vào các mương trong vườn sẽ tích tụ muối hòa tan trong đất. Cường độ của quá trình bốc thoát, tích tụ của muối trong đất, nước gia tăng với độ tiếp xúc của nguồn nước mặn. Quá trình tích tụ muối càng tăng ở những nơi khô hạn. Do lượng nước không đủ để rửa trôi các dạng muối dễ hòa tan dẫn đến đất bị mặn.
Đất bị nhiễm mặn gây trở ngại cho sinh trưởng và phát triển cây trồng, gây xáo trộn và mất cân đối sự hấp thu nước và chất dinh dưỡng của cây trồng. Tùy theo độ mặn, ngưỡng chịu mặn của các loại cây trồng và giai đoạn phát triển của cây mà nhiễm mặn sẽ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng phát triển và năng suất của cây trồng.
Ảnh hưởng của mặn, nắng nóng đối với cây trồng biểu hiện qua các triệu chứng cháy lá, làm giảm sinh trưởng phát triển, ảnh hưởng đến năng suất. Khi đã nhiễm mặn trong đất thì vườn cây ăn trái sẽ bị ảnh hưởng lâu dài. Trường hợp cây bị ngộ độc Natri, Clo nặng sẽ gây chết cây.
Có 2 công chôm chôm bị cháy lá do ảnh hưởng của nắng nóng, hạn mặn, chú Đoàn Văn Hiểu (xã An Bình, huyện Long Hồ) cho hay: “Tôi cũng thường xuyên theo dõi thông tin độ mặn, không tưới nước khi độ mặn trên 0,5‰, tuy nhiên do nắng nóng gay gắt, độ mặn tuy không cao nhưng kéo dài nhiều ngày, khiến lượng nước trữ trong mương vườn không đủ tưới. Sau mấy đợt mưa đầu mùa tôi cũng có rải phân nhưng cây vẫn không phục hồi. Hiện, một số cây chôm chôm của tôi đã bị cháy lá, năng suất giảm đến 80%”.
Tại huyện Vũng Liêm, có 4 công trồng sầu riêng, chú Nguyễn Văn Ba (xã Thanh Bình, huyện Vũng Liêm) cũng cho biết: “Vào thời điểm hạn mặn, rút kinh nghiệm từ những năm trước, tôi cũng dự trữ nước ngọt trong mương để tưới cho cây trong những tháng nước mặn, không tưới khi nồng độ mặn hơn 0,5‰. Đồng thời, thời điểm nắng nóng, để giảm bốc thoát hơi nước và nhu cầu cần nước của cây, tôi cũng tiến hành tỉa cành, tạo tán, tỉa bớt hoa. Tuy nhiên, do mặn kéo dài, chỉ giảm vài ngày lại tăng nên vườn cây cũng có dấu hiệu bị ảnh hưởng”.
Theo ngành chức năng, thời điểm trong và sau hạn mặn, cây rất dễ mẫn cảm, suy yếu. Do đó, khi nông dân thấy có nước ngọt và mưa khi chuyển mùa, liền vội sử dụng phân bón hóa học để bón cho vườn cây ăn trái, điều này sẽ càng làm ảnh hưởng xấu đến cây vì bộ rễ đã suy yếu và hư hỏng, cần phải phục hồi. Do vậy, nông dân cần chủ động áp dụng các biện pháp kỹ thuật để phục hồi sinh trưởng, phát triển vườn cây sau hạn mặn. Theo đó, việc trước mắt cần làm là tạo điều kiện cho cây hồi phục lại bộ rễ đồng thời kết hợp tưới rửa mặn cho vườn cây.
Ông Nguyễn Vĩnh Phúc- Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt-BVTV (Sở Nông nghiệp-PTNT) cho biết: Khi cây bị nhiễm mặn cần tăng cường tháo rửa mặn. Hiện nay nông dân có thể sử dụng một số hoạt chất để bổ sung dinh dưỡng vào đất, cung cấp dinh dưỡng cho cây, hỗ trợ phục hồi cây trồng sau hạn mặn.
Sau khi tháo rửa mặn tương đối thì nông dân có thể sử dụng phân bón để giúp cây phục hồi nhanh. Lưu ý tránh sử dụng quá nhiều phân đạm trong giai đoạn này, chủ yếu là sử dụng phân kali để bộ rễ phục hồi, chống chịu tốt. Theo đó, trong tình hình nắng nóng, hạn mặn nông dân cần theo dõi thông tin để chủ động ứng phó.
Tránh trường hợp khi nồng độ mặn cao cộng thêm nắng nóng kéo dài mà tưới liên tục thường xuyên sẽ bị tích tụ lượng Natri nhiều trong đất, khiến cây trồng bị ảnh hưởng. Sau quá trình này cần có giải pháp lâu dài để phòng chống hạn mặn, cần chủ động ngăn mặn, trữ ngọt kịp thời kết hợp áp dụng biện pháp kỹ thuật để chăm sóc, bảo vệ cây.
Bài, ảnh: NGUYÊN KHANG
Bình Phước: Nông dân phấn khởi thu hoạch sầu riêng
Nguồn tin: Báo Bình Phước
Hiện nay, tổng diện tích cây sầu riêng của Bình Phước khoảng 5.300ha, sản lượng 14.800 tấn. Năm nay, do nắng hạn kéo dài, nhiều vườn sầu riêng bị thiệt hại nặng nề do thiếu nguồn nước tưới. Tuy nhiên, với những vườn chủ động được nguồn nước, các chủ vườn đang phấn khởi bước vào vụ thu hoạch bởi sầu riêng năm nay được thương lái thu mua với giá cao.
Theo các thương lái, hiện giá sầu riêng tại vựa dao động từ 50 ngàn - 100 ngàn đồng/kg tùy loại. Cụ thể, giá Ri6 đẹp lựa 65 ngàn - 68 ngàn đồng/kg và sầu riêng Ri6 xô có mức giá thương lái thu mua 50 ngàn - 52 ngàn đồng/kg; sầu riêng Thái đẹp lựa ở mức 97 ngàn - 100 ngàn đồng/kg; sầu riêng Thái xô đứng ở mức 78 ngàn - 80 ngàn đồng/kg. Giá tại vườn có thể thấp hơn.
Lý giải nguyên nhân sầu riêng giá cao, nhiều nhà vườn cho biết: Năm nay do ảnh hưởng thời tiết nắng nóng, khô hạn và sâu bệnh khiến nhiều diện tích vườn sầu riêng bị chết, năng suất sụt giảm mạnh nên nguồn cung không đáp ứng nhu cầu khiến cho sầu riêng tăng giá mạnh trong thời gian gần dây.
Với việc giá sầu riêng đang ở mức cao, nông dân tại các địa phương có diện tích cây sầu riêng lớn, như huyện Bù Đăng, Phú Riềng, Bù Gia Mập, Lộc Ninh đang phấn khởi thu hoạch, tiếp tục đáp ứng nguồn hàng phục vụ xuất khẩu…
Sầu riêng được vệ sinh sạch sẽ, chất thành đống lớn tại vườn trước khi vận chuyển về vựa
Sầu riêng sau khi thu hoạch được công nhân phân loại kỹ, công việc này mỗi tháng mang lại cho họ khoảng 9 triệu đồng sau khi trừ chi phí sinh hoạt, ăn ở. Cắt sầu riêng đang là nghề “hót” mang lại thu nhập “khủng” từ 2 đến 3 triệu đồng/người/ngày. Tuy nhiên theo các “thợ gõ” đây là công việc khó, không phải ai cũng làm được. Công việc vận chuyển sầu riêng mang lại thu nhập ổn định cho người lao động. Trong ảnh: anh Nguyễn Hữu Thuận, quê Tiền Giang được một nhà vườn tại huyện Bù Đăng thuê vận chuyển sầu riêng với mức giá 300 ngàn đồng/ngày sau khi trừ các chi phí.
Xuân Túc
Sầu riêng mất mùa, giá không tăng
Nguồn tin: Báo Bình Dương
Thời điểm này, các vườn sầu riêng trên địa bàn TP.Thuận An (tỉnh Bình Dương) đã bước vào vụ thu hoạch rộ. Tuy nhiên, năm nay do ảnh hưởng của nắng nóng gay gắt, cây sầu riêng bị sốc nhiệt nên trái non rụng nhiều, năng suất giảm mạnh.
Nhiều chủ vườn tại khu vực Cầu Ngang, phường Bình Nhâm, cho biết năng suất năm nay chỉ khoảng 40 - 50% so với năm ngoái. Hiện các vườn đang chờ ngày thu hoạch rộ nhưng giá sầu riêng hiện được thương lái, chủ vựa đến thu mua tận vườn với giá bán từ 50.000 - 60.000 đồng/kg. Giá bán lẻ trên thị trường hiện vẫn đang đứng ở mức 80.000 đồng/kg, không tăng so với năm ngoái.
THANH HỒNG
Lâm Đồng: Người tiên phong trồng mắc ca đất Lâm Hà
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Những ngày cuối tháng 5/2024, những cây mắc ca Lâm Hà (Lâm Đồng) đang bước vào vụ thu hoạch đầy triển vọng. Và, chúng tôi gặp lại người nông dân đã tin tưởng và thành công vào giống cây mới này.
Anh Tiêu Văn Hãnh bên vườn mắc ca đang vụ thu hoạch
Anh Tiêu Văn Hãnh, nông dân thôn Tân Thành, xã Tân Văn, huyện Lâm Hà đang thu hoạch mắc ca của gia đình. Anh bảo, mắc ca chín đều quá, đập là trái rụng đầy. Anh và người nhà đang nhặt trái, chuẩn bị đập vỏ xanh và có thương nhân tới thu mua. Một điều khá đặc biệt, anh Tiêu Văn Hãnh là một trong những nông dân đầu tiên của Lâm Hà trồng cây mắc ca. Vườn mắc ca của gia đình anh hiện là một trong những vườn mắc ca nhiều tuổi nhất của quê Lâm Hà, cho năng suất ổn định và thu nhập tốt.
Anh Tiêu Văn Hãnh kể lại những ngày đầu, khi nông dân Tân Văn, Tân Hà đón Tiến sĩ Nguyễn Lân Hùng về thăm. Tiến sĩ Nguyễn Lân Hùng đã giới thiệu cây mắc ca đến bà con. Tin tưởng nhà khoa học, anh Hãnh và một vài nông hộ đã quyết tâm ra tận trại giống Ba Vì để nhập những cây mắc ca đầu tiên. Anh kể: “ Hồi ấy, tin bác Hùng, tìm thông tin tuyên truyền từ ngành Nông nghiệp nên mình trồng mắc ca xen vào vườn cà phê của gia đình. Chứ thật sự, lúc đấy rất hiếm người biết về cây mắc ca. Bà con xung quanh ai cũng tò mò tôi trồng cây gì. Thật không ngờ, ngày nay cây mắc ca đã trở thành cây trồng quen thuộc với bà con Lâm Hà”.
Anh Tiêu Văn Hãnh, cũng như hầu hết nông dân hoàn toàn không biết về kĩ thuật chăm sóc cây mắc ca. Anh theo sát hướng dẫn của ngành Nông nghiệp, mày mò trên mạng internet để tìm ra cách chăm sóc phù hợp. Không phụ lòng người, cây mắc ca trồng xen trong vườn cà phê lớn dần. Ngay từ năm thứ ba, anh Tiêu Văn Hãnh bắt đầu có thu nhập từ hạt mắc ca. Khi ấy, cây mắc ca cho quả còn khá mới lạ, ngay vụ đầu tiên, anh đã bán được giá 130 ngàn đồng/kg hạt, niềm vui không tưởng với gia đình một người nông dân.
Nhận thấy giá trị của cây mắc ca, anh Hãnh càng chăm sóc tốt. Qua thời gian, cây mắc ca cao vượt, phủ bóng, anh phá cà phê, để mắc ca lớn thuần trong vườn. Sau 16 năm, hiện vườn mắc ca đã mang dáng dấp một khu vườn rừng rợp bóng, dưới đất không còn cỏ mọc. Anh Tiêu Văn Hãnh nhận xét, với nông dân vùng Tân Văn, trồng mắc ca mang lại thu nhập ổn định, trù phú cho đất quê. Anh nhận xét: “Cây mắc ca là cây sống rất lâu, dễ chăm sóc. Cây sau năm thứ 8 mới cho năng suất ổn định. Nhà tôi chỉ có trên một ha, trồng 250 cây, mỗi cây trung bình thu nhập 3-4 triệu đồng/năm. Mắc ca cũng không yêu cầu chăm sóc nhiều công như cà phê, nhàn và phù hợp với những gia đình ít công lao động. Giá mắc ca ổn định 100 ngàn đồng/kg hạt, mỗi năm gia đình cũng thu được 300-400 triệu đồng sau khi trừ hết chi phí”. Anh Hãnh cũng khẳng định, đây là nguồn thu không nhỏ đối với gia đình một người nông dân.
Sau 16 năm gắn bó với cây mắc ca, anh Tiêu Văn Hãnh rút ra nhiều kinh nghiệm quý. Đầu tiên, đó là chọn giống chuẩn và kỹ thuật trồng đúng. Theo anh, nhiều nông dân trồng mắc ca không thành công do chọn giống không chuẩn, cây lâu ra trái, trái nhỏ, giá trị kinh tế không cao. Đồng thời, anh nhắc nhở nông dân khi xuống giống phải đảm bảo khoảng cách giữa các gốc, đảm bảo đủ ánh sáng cho toàn vườn, tránh tình trạng tán cây giao nhau khiến cây giảm năng suất. Cây mắc ca chăm sóc đơn giản, phân bón ít nhưng cần quan sát vườn thật kỹ để phòng ngừa bệnh thường xuyên. Anh cũng đánh giá, chi phí đầu tư cho vườn mắc ca chỉ chiếm khoảng 10-12 % thu nhập. Với giá cả mắc ca ổn định từ nhiều năm nay, người nông dân sẽ có nguồn thu rất tốt với một chi phí hợp lý.
Ông Nguyễn Đình Tuệ - Trưởng thôn Tân Thành, xã Tân Văn đánh giá, anh Tiêu Văn Hãnh là một nông dân hết sức tiến bộ của thôn. Anh và một vài nông hộ đã đi đầu trong việc xen canh mắc ca trong vườn. Từ thành công của anh Tiêu Văn Hãnh và những nông hộ ấy, nông dân Tân Thành nói riêng và nông dân xã Tân Văn, cũng như khu vực Tân Hà đã mạnh dạn trồng cây mắc ca xen trong vườn cà phê, vừa tạo sinh cảnh đẹp, bảo vệ môi trường, vừa tăng thu nhập cho người nông dân. Đến hiện tại, có thể nhận xét, nông dân thôn Tân Thành giàu lên nhờ cây mắc ca. Anh Tiêu Văn Hãnh cũng là hộ nông dân thường xuyên áp dụng các tiến bộ khoa học vào chăm sóc mắc ca. Hiện tại, anh đang phối hợp cùng ngành Nông nghiệp thực hiện Mô hình Quản lý dịch hại tổng hợp trên cây mắc ca tại huyện Lâm Hà, nhằm tìm ra kỹ thuật quản lý dịch hại hiệu quả, chuyển giao cho người nông dân.
DIỆP QUỲNH
Thu nhập cao từ trồng rau an toàn
Nguồn tin: Báo Bình Phước
Nhằm tạo ra những sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm cung ứng cho thị trường, một số đơn vị, doanh nghiệp, cá nhân trong tỉnh Bình Phước đã đầu tư xây dựng mô hình sản xuất rau sạch, an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, công nghệ thủy canh,... góp phần mang lại thu nhập cao hơn và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
TRỒNG RAU THEO QUY TRÌNH VIETGAP
Trước đây, người dân xã Lộc Thái, huyện Lộc Ninh chủ yếu trồng rau theo cách truyền thống, nhỏ lẻ, do đó năng suất không cao, lợi nhuận thấp, thậm chí còn bị thua lỗ. Với mong muốn mở ra hướng đi mới cho người trồng rau, năm 2018, Chi hội trồng rau xã Lộc Thái được thành lập.
Để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, chi hội đã vận động các thành viên ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN) vào sản xuất rau. Đầu tiên là làm nhà lưới, hệ thống tưới, sau đó sử dụng phân bón vi sinh, giảm dư lượng thuốc bảo vệ thực vật,... nhờ vậy năng suất, chất lượng, sản lượng, số vụ canh tác tăng lên so với trước.
Ông Trần Văn Viễn ở ấp Thanh Tâm, thị trấn Thanh Bình chăm sóc vườn rau an toàn của gia đình
Ông Nguyễn Đình Sánh ở ấp 8, xã Lộc Thái, thành viên Chi hội trồng rau xã Lộc Thái cho biết, gia đình ông có 2 sào đất, nhiều năm trước, ông chủ yếu trồng rau theo kinh nghiệm nên năng suất thấp. Từ khi tham gia chi hội, sản xuất theo hướng hữu cơ, ứng dụng KH&CN, lại thụ hưởng từ dự án “Xây dựng mô hình trồng một số loài cây ăn trái và rau màu trên địa bàn các huyện vùng biên giới tỉnh Bình Phước theo quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) và thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu (GlobalGAP)” thuộc Chương trình hỗ trợ ứng dụng chuyển giao KH&CN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội các huyện biên giới tỉnh Bình Phước giai đoạn 2020-2025 do Trung tâm KH&CN tỉnh chủ trì thực hiện, năng suất rau tăng rõ rệt, vụ nào cũng có lời.
Trung bình mỗi ngày ông Sánh bán khoảng 70kg rau sạch cho các vựa rau. Rau làm ra đến đâu tiêu thụ hết đến đó, nhiều khi không đủ bán. Ông cũng là một trong 8 thành viên Chi hội trồng rau xã Lộc Thái được cấp giấy chứng nhận VietGAP với 11 loài rau gồm: cải ngọt, cải xanh, cải ngồng, mồng tơi, rau dền, xà lách, tần ô, ngò rí, hành lá, cải nhúng, rau đay. “Tuân thủ quy trình VietGAP, chúng tôi có một vườn rau an toàn, đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng và cả người trực tiếp canh tác” - ông Sánh khẳng định.
HIỆU QUẢ KINH TẾ CAO
Được xem là một trong những địa phương có diện tích trồng rau an toàn lớn của huyện Bù Đốp, ấp Thanh Tâm, thị trấn Thanh Bình đã phát triển được 13 hộ trồng rau với khoảng 4 ha. Hiện vùng rau an toàn này chủ yếu sản xuất các loại rau ăn lá như: rau dền, mồng tơi, xà lách, rau thơm, các loại rau họ cải,...
Để sản xuất rau an toàn, nông dân tuân thủ quy trình ngay từ khâu xử lý đất, trồng cây con trong vườn ươm, dùng nước sạch để tưới, phòng trừ sâu bệnh bằng các loại thuốc sinh học. Gia đình bà Đỗ Thị Sim ở ấp Thanh Tâm trồng 4 sào rau, trong đó có khoảng 1 sào rau thơm. Mỗi ngày bà cung cấp ra thị trường khoảng 150kg rau các loại, với giá bán từ 12-15 ngàn đồng/kg tùy loại; rau thơm khoảng 30 ngàn đồng/kg. Bà Sim luôn tuân thủ quy trình sản xuất rau an toàn. Đặc biệt đối với rau ăn lá phải kết thúc bón phân hữu cơ, vi sinh trước khi thu hoạch từ 15-20 ngày. Thời gian sinh trưởng đến lúc thu hoạch của rau an toàn chậm hơn 5 ngày so với rau trồng theo cách thông thường, nhưng lá rau dày, năng suất cao và để được từ 2-3 ngày không bị hư.
Gia đình ông Trần Văn Viễn ở ấp Thanh Tâm gắn bó với nghề trồng rau đến nay đã hơn 30 năm. Với 5 sào rau an toàn trồng trong nhà lưới, mỗi ngày ông thu hoạch từ 150-200kg rau, mang lại thu nhập cho gia đình khoảng 1,7 triệu đồng/ngày. Theo ông Viễn, trồng rau không khó, nhưng đòi hỏi phải cần cù. Trồng rau an toàn thì quy trình phải kỹ. Đặc biệt, quy trình trồng, chăm sóc tuyệt đối không xịt thuốc trừ sâu, không bón phân hóa học mà chỉ bón phân vi sinh.
Trồng rau sạch, an toàn là một trong những mục tiêu phát triển kinh tế nông nghiệp đang được người dân huyện biên giới Bù Đốp triển khai, mở rộng nhằm nâng cao thu nhập và ổn định đời sống. Bù Đốp hiện có 830 ha rau các loại, chiếm gần 20% diện tích cây hằng năm; với năng suất bình quân khoảng 80 tấn/ha/năm rau củ, quả và 200 tấn/ha/năm rau ăn lá.
Thạc sĩ Đỗ Hữu Đức, cán bộ kỹ thuật Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Bù Đốp cho biết, nhằm giúp nông dân trồng rau thay đổi nhận thức, tập quán canh tác cũ, nắm bắt được quy trình sản xuất mới theo hướng hữu cơ an toàn, năm 2021, Sở KH&CN đã chọn Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Bù Đốp thực hiện dự án “Xây dựng vùng chuyên canh trồng rau theo hướng hữu cơ an toàn” trên địa bàn huyện. Ngay sau khi được chọn, các thành viên dự án đã tiến hành xây dựng 3 mô hình, với quy mô 3.000m2/mô hình. Đồng thời tập huấn quy trình canh tác rau theo hướng hữu cơ cho 120 nông dân trong huyện.
Thạc sĩ ĐỖ HỮU ĐỨC, cán bộ kỹ thuật Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Bù Đốp: Qua hơn 2 năm thực hiện dự án “Xây dựng vùng chuyên canh trồng rau theo hướng hữu cơ an toàn” đã đem lại hiệu quả cao, đặc biệt trong phòng trừ sâu bệnh hại, góp phần thúc đẩy hình thành vùng chuyên canh trồng rau theo hướng hữu cơ an toàn. Từ đó, giúp tăng năng suất rau và đảm bảo sức khỏe cộng đồng. Cụ thể, hiệu quả kinh tế tăng 42,4%, trung bình mỗi hộ đạt gần 757 triệu đồng/ha/năm, lợi nhuận cao gấp 3-4 lần so với trồng rau truyền thống.
Nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và giảm sức lao động, hầu hết người trồng rau trên địa bàn tỉnh đều tích cực ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất là việc quy hoạch vùng sản xuất tập trung do đặc thù canh tác rau màu của nông dân vẫn nhỏ lẻ, chưa đảm bảo khối lượng cung ứng ổn định cho doanh nghiệp để có thể kêu gọi doanh nghiệp hợp tác đầu tư tạo chuỗi liên kết, bao tiêu sản phẩm... Để tiếp tục phát triển các vùng sản xuất rau màu tập trung, quy mô lớn, công nghệ cao, các cấp, ngành, địa phương cần hỗ trợ nông dân tiếp cận KH&CN, nâng cao trình độ quản lý để dần thay đổi tư duy, phương thức sản xuất. Đồng thời, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng đội ngũ cán bộ kỹ thuật đủ năng lực để tiếp nhận và vận hành công nghệ.
Hiền Lương
Bạc Liêu: Tăng giá trị cho mô hình lúa - tôm
Nguồn tin: Báo Bạc Liêu
Tổng kết mô hình sản xuất lúa - tôm, các nhà khoa học và ngành Nông nghiệp đã khẳng định đây là mô hình sản xuất bền vững nhất trong điều kiện biến đổi khí hậu hiện nay. Song, để phát huy hết các giá trị vốn có, cũng cần tập trung tháo gỡ ngay những khó khăn mang tính nội tại và tạo ra những động lực mới cho mô hình “thuận thiên” này.
Nông dân huyện Phước Long thu hoạch tôm trên đất lúa.
KHÔNG NGỪNG ĐƯỢC MỞ RỘNG VÀ NÂNG CHẤT
Thực tiễn cho thấy, mô hình canh tác tôm - lúa thuận theo mùa tự nhiên không ngừng phát huy hiệu quả và góp phần quan trọng vào giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Hạn chế sử dụng hóa chất độc hại, sử dụng hợp lý tài nguyên nước theo từng thời điểm và mùa trong năm, thích ứng với điều kiện tự nhiên, thời tiết khí tượng thủy văn, mô hình sản xuất tôm - lúa tạo ra những sản phẩm sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm phù hợp với quy trình sản xuất nông nghiệp tốt (GAP). Từ đó, giúp nâng cao giá trị hàng hóa cho con tôm và hạt lúa. Mô hình này cũng đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước đánh giá cao về tính bền vững, lợi nhuận cao hơn 15 - 30% so với độc canh cây lúa.
Một trong những ưu điểm nổi trội của mô hình là tạo ra sản phẩm sạch và có giá trị cao. Đây cũng là cơ sở cho việc tạo ra nguồn nguyên liệu chất lượng phục vụ cho thị trường xuất khẩu, nâng cao thu nhập cho người nông dân và những doanh nghiệp tham gia liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ. Ngoài sản phẩm chính là tôm và lúa, mô hình này còn có thể tận dụng xen canh các loại thủy sản khác mang tính bền vững hơn như: cua, cá đồng…
Với tính thân thiện môi trường cao hơn các hệ thống chuyên canh khác, vì dễ dàng áp dụng giải pháp “quản lý tổng hợp”, giảm nhu cầu sử dụng các loại hóa chất trong sản xuất lúa, ít gây hại đến môi trường tự nhiên, phù hợp với các yêu cầu thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP), mô hình canh tác tôm - lúa cũng phát huy được các yếu tố tích cực của con tôm và cây lúa như: giúp cải tạo đất, trừ sâu hại và cắt đứt vòng đời dịch bệnh trong quá trình sinh trưởng và phát triển. Mô hình này còn tạo môi ra trường sống đa dạng cho các loài sinh vật, góp phần bảo vệ hệ sinh thái...
Hiện nay, người nông dân ngày càng quan tâm hơn đối với việc áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật và áp dụng các thành tựu mới vào sản xuất, tập trung chuyển đổi cơ cấu giống lúa mùa địa phương dài ngày, chất lượng kém sang các giống lúa chất lượng cao, thích ứng với điều kiện đất nhiễm mặn. Nhờ đó, năng suất lúa trung bình đối với mô hình này tăng lên qua từng năm. Cụ thể, năng suất trung bình của lúa trên vùng tôm - lúa đạt trên 6 tấn/ha và năng suất tôm nuôi cũng ổn định ở mức từ 360 - 370kg/ha, năng suất cua từ 200 - 210kg/ha và năng suất cá từ 400 - 450kg/ha. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi để mở rộng diện tích mô hình này trong tương lai.
Mô hình sản xuất lúa - tôm giúp nông dân huyện Hồng Dân tăng thêm thu nhập. Ảnh: K.T
NHỮNG HƯỚNG MỞ CHO LÚA - TÔM
Có thể nói, mô hình sản xuất lúa - tôm tuy hội tụ nhiều lợi thế, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, thách thức cần được hóa giải thông qua việc tăng cường đầu tư nhiều hơn, hướng đến xây dựng một mô hình bền vững và mang lại giá trị gia tăng, có sức cạnh tranh cao.
Khó khăn đầu tiên phải kể đến là quy mô sản xuất của mô hình này khá nhỏ lẻ, manh mún, năng suất và sản lượng tôm nuôi còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế vốn có của mô hình. Cùng với đó, tình trạng nông dân sử dụng con giống rẻ tiền, trôi nổi, kém chất lượng vẫn khá phổ biến. Đặc biệt là chưa có nhiều liên kết trong tiêu thụ sản phẩm cho cả tôm và cây lúa. Việc áp dụng các hệ thống chứng nhận bền vững, hữu cơ cũng còn gặp nhiều khó khăn do tập quán canh tác của người dân chưa được cải thiện và cả việc thiếu vốn đầu tư về hạ tầng, ứng dụng các công nghệ sản xuất mới…
Được biết, để giải quyết những khó khăn này và phát huy giá trị, lợi thế cạnh tranh của mô hình sản xuất lúa - tôm, ngành Nông nghiệp đã tham mưu cho UBND tỉnh Bạc Liêu xây dựng quy hoạch chi tiết đối với các vùng nuôi tôm trên địa bàn tỉnh, trong đó có vùng nuôi luân canh tôm - lúa. Cũng như, đề xuất UBND tỉnh trình Bộ NN&PTNT đầu tư “Dự án hệ thống công trình điều tiết, bổ sung nước phục vụ nuôi trồng thủy sản vùng phía Nam Quốc lộ 1A tỉnh Bạc Liêu” để bổ sung nước ngọt cho vùng Nam Quốc lộ 1A, nhằm mở rộng diện tích mô hình tôm - lúa. Bên cạnh đó, đề xuất danh mục dự án ưu tiên đầu tư đối với mô hình tôm - lúa thuộc các huyện Phước Long, Hồng Dân và TX. Giá Rai giai đoạn 2021 - 2030 trình UBND tỉnh ghi vốn để triển khai thực hiện.
Song song đó, ngành Nông nghiệp đã tích cực kết hợp với UBND các huyện, thị xã triển khai thực hiện tốt các chỉ tiêu, kế hoạch hằng năm, kế hoạch trung hạn và dài hạn đối với việc phát triển mô hình luân canh tôm - lúa. Tổ chức tuyên truyền vận động nông dân thực hiện theo quy hoạch được phê duyệt, tuân thủ lịch thời vụ khuyến cáo của ngành chức năng, áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong sản xuất để nâng cao năng suất và hiệu quả mô hình nuôi. Tăng cường liên kết, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị và quảng bá thương hiệu thông qua các kênh truyền thông online và offline gắn với tham gia các hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước. Đặc biệt, ngành Nông nghiệp đã chủ động đề xuất UBND tỉnh cấp kinh phí để triển khai “Đề án nâng cao năng suất tôm nuôi trong mô hình tôm lúa vùng phía Bắc Quốc lộ 1A định hướng đến năm 2025” và tổ chức thực hiện trên địa bàn huyện Hồng Dân, huyện Phước Long và TX. Giá Rai…
Với những thế mạnh và ưu điểm, mô hình sản xuất lúa - tôm không ngừng được mở rộng và nâng chất trên đồng đất Bạc Liêu. Nếu năm 2000, diện tích thực hiện mô hình này 12.856ha, thì đến năm 2015 tăng lên 29.607ha (tăng 65,81% so với năm 2000); đến năm 2020, diện tích đạt 39.578ha (tăng 208% so với năm 2000) và đến nay có hơn 46.489ha sản xuất mô hình (tăng hơn 3,6 lần so với năm 2000). Theo quy hoạch đến năm 2030, diện tích chuyển đổi sang mô hình tôm - lúa khoảng 18.283ha (vùng Nam: 8.233ha và vùng Bắc: 10.050ha). Qua đó, nâng tổng diện tích canh tác mô hình này lên 70.000ha và đưa tỉnh Bạc Liêu trở thành một trong những địa phương có diện tích sản xuất lúa-tôm lớn của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản - Nguyễn Hoàng Xuân: Xây dựng thành công nhãn hiệu chứng nhận “tôm sạch Bạc Liêu”:
Để xây dựng thành công mô hình “lúa thơm, tôm sạch” và “thuận thiên”, Chi cục Thủy sản sẽ tăng cường công tác tuyên truyền đến nông dân về Quy hoạch ngành, các kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng, nhất là lịch thời vụ các đối tượng nuôi trồng đối với từng tiểu vùng.
Cùng với đó là tăng cường quản lý vật tư nông nghiệp đầu vào và tăng cường kiểm tra các cơ sở sản xuất và kinh doanh (con giống, thức ăn, thuốc thú y thủy sản…). Thường xuyên thực hiện quan trắc, cảnh báo môi trường và giám sát chặt chẽ dịch bệnh. Xây dựng, lồng ghép các nội dung bảo vệ môi trường vào quy hoạch, đề án, dự án, chương trình và kế hoạch phát triển mô hình sản xuất tôm - lúa.
Bên cạnh đó, phối hợp với các đơn vị chuyên môn của Sở tranh thủ mọi nguồn lực từ Nhà nước đến doanh nghiệp và các tổ chức phi Chính phủ, từ Trung ương đến địa phương để hỗ trợ xây dựng các mô hình trình diễn sản xuất hiệu quả gắn với liên kết bao tiêu sản phẩm làm cơ sở để lan tỏa trong dân. Đẩy mạnh việc tổ chức sản xuất tổ hợp tác, hợp tác xã vùng tôm - lúa, phát triển mô hình theo hướng cộng đồng. Tổ chức liên kết chuỗi giữa với doanh nghiệp với các tổ chức hợp tác nông dân sản xuất tôm - lúa từ cung ứng con giống, vật tư sản xuất, thu mua chế biến tiêu thụ sản phẩm.
Song song đó, ngành Nông nghiệp sẽ tăng cường đầu tư xây dựng hệ thống công trình hạ tầng cho vùng lúa - tôm, chủ động trong việc cấp, thoát và trữ nước mặn, ngọt một cách linh hoạt. Sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí từ chính sách bảo vệ và phát triển đất trồng lúa, kinh phí hỗ trợ sản phẩm dịch vụ công ích thủy lợi... để ưu tiên đầu tư xây dựng mới và duy tu sửa chữa các ô đê bao, trạm bơm điện cho từng tiểu vùng sản xuất, nạo vét kênh thủy lợi và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất..., qua đó từng bước ổn định và phát triển có hiệu quả mô hình này.
Đặc biệt, sẽ đẩy mạnh công tác tập huấn kỹ thuật cho nông dân và phối hợp với các cơ quan nghiên cứu chọn tạo các giống lúa chất lượng cao, phù hợp chịu mặn, chịu phèn tốt, chống sâu bệnh, năng suất cao. Sản xuất giống thủy sản có sức đề kháng cao với dịch bệnh, phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng tỉnh. Nghiên cứu các sản phẩm sinh học từ các vi sinh vật có trong mô hình tôm - lúa tại địa phương. Xây dựng thương hiệu tôm sạch, nhằm phát huy lợi thế mô hình này là sản phẩm sạch, an toàn để xây dựng nhãn hiệu, phát triển thành thương hiệu để phản ánh đúng giá trị sản phẩm của mô hình, tăng thu nhập cho nông dân.
Trưởng phòng NN&PTNT huyện Phước Long - Nguyễn Hoàng Mến: Tập trung chuyển đổi số trên mô hình lúa - tôm:
So với các địa phương khác, huyện Phước Long có diện tích sản xuất lúa - tôm lớn nhất tỉnh với hơn 15.000ha. Vì vậy, để phát huy giá trị và lợi thế cạnh tranh này, huyện sẽ tập trung chuyển đổi số trên mô hình từ sản xuất đến nơi tiêu thụ rõ ràng, minh bạch, giúp khách hàng tiêu thụ biết được xuất xứ và chất lượng sản phẩm. Trong đó, chú trọng việc cấp mã số vùng nuôi cho các hộ nuôi tôm, tuyên truyền người dân thực hiện tốt quy trình nuôi tôm sạch và công tác số hóa sản phẩm tôm nuôi.
Cùng với đó, thực hiện hỗ trợ các chính sách theo quy định của pháp luật cho các hợp tác xã nuôi trồng thủy sản đã có và tiếp tục thành lập các hợp tác xã, tổ hợp tác mới theo từng địa bàn nuôi trồng để thực hiện chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Cũng như, tổ chức mời gọi các công ty, doanh nghiệp có uy tín ký kết đầu tư và tiêu thụ sản phẩm, sản xuất theo tiêu chuẩn ASC, Global GAP, tôm hữu cơ... để nâng cao giá trị mô hình tôm lúa gắn với hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu và các hình thức sản xuất an toàn chất lượng sản phẩm, từng bước đưa sản phẩm ra thị trường thế giới.
Bên cạnh đó, tăng cường công tác quản lý nhà nước về nuôi trồng thủy sản, thanh tra, kiểm tra, xử lý các trường hợp vi phạm trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, nhất là hàng kém chất lượng, bơm tạp chất vào tôm thương phẩm. Tiếp tục phát triển các cơ sở chế biến các mặt hàng tôm nuôi, phát triển chuỗi giá trị gia tăng của sản phẩm tôm thông qua chế biến sâu sản phẩm. Xây dựng thương hiệu OCOP và hỗ trợ quản bá sản phẩm tại các hội chợ triển lãm, tiêu dùng trên cả nước cũng như ở các điểm bán hàng sản phẩm OCOP trong và ngoài tỉnh.
Cùng với đó, huyện sẽ tiến hành rà soát lại quy hoạch vùng sản xuất lúa - tôm trên địa bàn huyện và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng sản xuất như: thủy lợi - giao thông - điện và cơ giới hóa các khâu trong sản xuất. Từ đó giúp giảm giá thành đầu tư, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp sản xuất theo mô hình lúa - tôm. Tuyên truyền nông dân không can thiệp sâu vào quá trình sản xuất làm thay đổi các điều kiện tự nhiên; chủ động thích ứng với sự thay đổi đó, đảm bảo không đi ngược lại với tự nhiên. Tăng cường công tác kêu gọi đầu tư từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước có uy tín, trách nhiệm và tiềm lực kinh tế để thực hiện đầu tư vào chuỗi sản xuất lúa thơm, tôm sạch, giảm bớt các đầu mối trung gian để nâng cao giá trị của sản phẩm lúa, tôm. Trước mắt, huyện đề xuất với Bộ NN&PTNT tiếp tục hỗ trợ hoàn chỉnh công trình ngăn mặn tuyệt đối của Âu thuyền Ninh Quới và cống ngăn mặn qua rạch Xẻo Chích huyện Hồng Dân để hạn chế nước mặn xâm nhập vào vùng ngọt, tạo điều kiện thuận lợi để điều tiết nước mặn cho vùng chuyển đổi huyện Phước Long.
Với những thế mạnh và ưu điểm, mô hình sản xuất lúa - tôm không ngừng được mở rộng và nâng chất trên đồng đất Bạc Liêu. Nếu năm 2000, diện tích thực hiện mô hình này 12.856ha, thì đến năm 2015 tăng lên 29.607ha (tăng 65,81% so với năm 2000); đến năm 2020, diện tích đạt 39.578ha (tăng 208% so với năm 2000) và đến nay có hơn 46.489ha sản xuất mô hình (tăng hơn 3,6 lần so với năm 2000). Theo quy hoạch đến năm 2030, diện tích chuyển đổi sang mô hình tôm - lúa khoảng 18.283ha (vùng Nam: 8.233ha và vùng Bắc: 10.050ha). Qua đó, nâng tổng diện tích canh tác mô hình này lên 70.000ha và đưa tỉnh Bạc Liêu trở thành một trong những địa phương có diện tích sản xuất lúa-tôm lớn của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
KIM TRUNG
Khi nhà nông sử dụng nước tưới tiết kiệm, hiệu quả
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Việc sử dụng nước tưới tiết kiệm và hiệu quả trong canh tác các loại cây trồng là rất cần thiết nhằm giảm chi phí sản xuất, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu và hạn chế nguy cơ thiếu nước ngọt trong các tháng mùa khô. Hiện nhiều nông dân trên địa bàn TP Cần Thơ đã áp dụng giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nước tiết kiệm trong canh tác nông nghiệp.
Nhiều giải pháp hiệu quả
Thời gian qua, nhiều diện tích đất sản xuất lúa kém hiệu quả và có nguy cơ bị thiếu nước đã được nông dân chủ động chuyển sang mô hình trồng rau màu và các loại cây trồng trên cạn trong các tháng mùa khô nhằm giảm sử dụng nước tưới. Trong canh tác nhiều loại rau màu, nông dân quan tâm sử dụng màng phủ nông nghiệp để che đậy, bảo vệ cho cây trồng nhằm hạn chế tưới nước cho cây trồng. Anh Lê Hồng Ngự ở ấp Thới Phong A, thị trấn Thới Lai, huyện Thới Lai, cho biết: “Thời gian qua, nông dân địa phương đã ứng dụng màng phủ nông nghiệp trong trồng nhiều loại rau màu trên nền đất ruộng như các loại dưa, ớt, cà chua, cà phổi... Màng phủ nông nghiệp được sử dụng để che đậy các bờ liếp trồng rau màu vừa giúp hạn chế tưới nước cho cây, cỏ dại ít phát triển”.
Ông Phạm Văn Lơ ở huyện Phong Điền sử dụng điện thoại thông minh để điều khiển hệ thống tưới nước tự động tại vườn cây ăn trái của mình.
Nông dân tại nhiều quận, huyện trên địa bàn TP Cần Thơ cũng đã đầu tư, lắp đặt các hệ thống tưới nước nhỏ giọt và tưới phun tự động cho nhiều loại cây trồng như rau màu, hoa kiểng và cây ăn trái. Việc tự động hóa khâu tưới nước cho cây trồng đã giúp nông dân tiết kiệm được nhiều thời gian và giảm chi phí, đồng thời nâng cao được hiệu quả tưới nước, nhất là đối với cây ăn trái.
Ông Phạm Văn Lơ ở xã Nhơn Nghĩa, huyện Phong Điền, cho biết: “Đã lắp đặt hệ thống phun tưới nước tự động cho vườn nhãn của mình từ 4 năm nay, rất hiệu quả bởi nó giúp tiết kiệm nhiều thời gian, chi phí và có thể điều khiển tưới nước từ xa qua chiếc điện thoại thông minh. Trước đây, khi chưa có hệ thống tưới nước tự động này, để tưới nước cho vườn nhãn rộng 1 héc-ta, tôi phải mất nửa ngày, còn hiện nay chỉ khoảng 60 phút. Ước tính mỗi lần tưới, tôi chỉ tốn hơn 10.000 đồng tiền điện, thấp hơn gần 20 lần so với mướn nhân công để tưới nước bằng xuồng chở máy chạy xăng”. Theo ông Lơ, tổng chi phí để đầu tư lắp đặt hệ thống phun tưới nước tự động cho vườn cây của ông là 60 triệu đồng, tương đương 6 triệu đồng/cây. Dù chi phí đầu tư ban đầu có hơi cao nhưng lợi ích mang lại rất lớn, giúp nông dân chủ động triển khai tưới nước cho cây nhanh chóng khi cần thiết. Đồng thời, giúp hạn chế tình trạng vườn cây bị sạt lở và xói mòn đất do tưới nước không đều hoặc do nhà vườn đi lại quá nhiều trong quá tình chăm sóc, tưới nước cho cây.
Hỗ trợ nông dân
Cần Thơ hiện có hơn 114.000ha đất sản xuất nông nghiệp. Với khoảng 78.000ha đất canh tác lúa, mỗi năm TP Cần Thơ sản xuất 3 vụ lúa đạt sản lượng từ 1,3-1,4 triệu tấn, trong đó lúa chất lượng cao và lúa thơm, đặc sản chiếm tỷ lệ trên 95%. Bên cạnh đó, thành phố có khoảng 1.915ha đất trồng cây hằng năm khác và 30.872ha đất trồng cây lâu năm, trong đó có hơn 25.000ha cây ăn trái. Sản lượng trái cây đạt hơn 194.500 tấn, sản lượng rau màu và cây công nghiệp ngắn ngày đạt hơn 200.000 tấn/năm. Để nâng cao hiệu quả sản xuất trồng trọt và giúp giảm vất vả cho người nông dân, thời gian qua ngành chức năng thành phố đã tích chực hỗ trợ, hướng dẫn nông dân đẩy mạnh ứng dụng cơ giới hóa và các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, trong đó có việc áp dụng các hệ thống tưới nước tự động cho cây trồng và giải pháp nhằm quản lý, sử dụng nước tưới tiết kiệm, hiệu quả cao.
Đặc biệt, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Cần Thơ, Hội Nông dân TP Cần Thơ cùng các cấp chính quyền thành phố và địa phương đã triển khai nhiều hoạt động tư vấn, xây dựng mô hình trình diễn và tập huấn kỹ thuật để nông dân ứng dụng các công nghệ và các thiết bị, máy móc mới. Hướng dẫn nông dân áp dụng các quy trình kỹ thuật tiên tiến, mô hình hiệu quả vào sản xuất để có chất lượng sản phẩm tốt và đảm bảo an toàn thực phẩm. Vận động nông dân tăng cường liên kết với nhau và liên kết với doanh nghiệp để hình thành được các vùng chuyên canh sản xuất lúa, trồng rau màu, hoa kiểng và cây ăn trái. Qua đó, có điều kiện thuận lợi trong đầu tư, phát triển các cơ sở hạ tầng, thủy lợi một cách đồng bộ để giúp quản lý, sử dụng nước tưới tiết kiệm và hiệu quả, cũng như thuận lợi trong sản xuất đạt các tiêu chuẩn, chất lượng đáp ứng yêu cầu tiêu thụ trong nước và nhà xuất khẩu.
Đến nay, tại hầu hết các quận, huyện có trồng cây ăn trái như Phong Điền, Ô Môn, Cờ Đỏ, Thốt Nốt… đã hình thành được các vùng trồng cây ăn trái tập trung và số vườn cây được nông dân lắp đặt hệ thống phun tưới nước tự động không ngừng tăng. Để giảm chi phí trong chăm sóc, tưới nước cho cây trồng, thời gian qua nhiều nông dân cũng đã quan tâm sử dụng các loại rơm rạ, cây cỏ... để che đậy cho gốc cây và cho các bờ liếp trồng rau màu, hoa kiểng hay cây ăn trái. Qua đó, giúp giữ độ ẩm cho đất nhằm giảm tần suất tưới nước cho cây trồng, cũng như giúp sử dụng nước tiết kiệm. Nông dân cũng đầu tư xây dựng các nhà lưới và nhà màng nhằm canh tác các loại rau màu, hoa kiểng đạt hiệu quả cao và chủ động sản xuất trước các điều kiện thời tiết bất lợi và mưa nắng cực đoan do biến đổi khí hậu gây ra.
Theo ông Trần Thái Nghiêm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Cần Thơ, đối với sản xuất lúa, nông dân cũng đã được ngành Nông nghiệp hướng dẫn áp dụng các giải pháp về làm đất, về san phẳng mặt ruộng, thực hiện “tưới ngập khô xen kẽ”... nhằm sử dụng nước tưới tiết kiệm, hiệu quả gắn với giảm phát thải khí nhà kính. Ngành Nông nghiệp đã quan tâm khuyến cáo nông dân thực hiện tốt việc làm phẳng mặt ruộng, chú ý kiểm tra gia cố các bờ bao, đê bao thường xuyên và tăng cường liên kết, thực hiện bơm tát nước theo hướng tập thể, đồng loạt trên quy mô lớn nhằm giảm hao hụt, thất thoát nước và giúp tiết kiệm chi phí...
Bài, ảnh: KHÁNH TRUNG
Bình Dương: Toàn tỉnh có khoảng 6.617 ha diện tích trồng trọt ứng dụng công nghệ cao
Nguồn tin: Báo Bình Dương
Năm 2024, diện tích gieo trồng vụ đông xuân trên địa bàn tỉnh Bình Dương ước đạt 5.736,5 ha, diện tích ứng dụng công nghệ cao trong trồng trọt khoảng 6.617 ha, nông nghiệp đô thị khoảng 274,4 ha với các loại cây trồng có giá trị như rau, nấm, cây ăn trái, hoa lan, cây cảnh…
Ứng dụng công nghệ cao sẽ giúp sản phẩm nông nghiệp có chỗ đứng trên thị trường
Ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh tiếp tục phối hợp Cục Bảo vệ thực vật thực hiện công tác thiết lập, quản lý, bảo đảm các điều kiện kỹ thuật đối với các vùng trồng, cơ sở đóng gói tại địa phương được cấp mã số. Lũy kế đến nay trên địa bàn tỉnh đã được cấp 30 mã vùng trồng/17 cơ sở, 16 mã cơ sở đóng gói/13 cơ sở...
KHẢI ANH
Đồng Nai: Bảo tồn giống gà Mã Đà có nguy cơ tuyệt chủng
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai
Gà Mã Đà là một giống gà bản địa tại huyện Vĩnh Cửu (Đồng Nai) có nguồn gen quý đang có nguy cơ tuyệt chủng. Với đặc điểm vẻ ngoài ấn tượng da đen, lông trắng (giống loài chim hơn gia cầm), loài vật này vừa có giá trị nuôi làm vật cảnh, vừa có giá trị là đặc sản với thịt, trứng không chỉ thơm ngon mà còn mang giá trị dinh dưỡng cao.
Với ngoại hình đặc biệt, gà bản địa Mã Đà phù hợp nuôi làm cảnh
Theo đó, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Chăn nuôi Gia cầm VIGOVA (Trung tâm Vigova) đang triển khai đề án “Bảo tồn nguồn gen quý và nhân giống gà bản địa Mã Đà vốn có nguy cơ tuyện chủng”.
Bảo tồn nguồn gen quý bản địa
Năm 2022, đề án “Bảo tồn nguồn gen quý và nhân giống gà bản địa Mã Đà vốn có nguy cơ tuyện chủng: được triển khai. Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Chăn nuôi Gia cầm VIGOVA hợp tác với một trang trại chăn nuôi tại xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom để nuôi giống gà này. Thời gian đầu, chỉ có vài cặp gà bố mẹ được sưu tầm từ một số hộ dân còn nuôi giống gà này với số lượng ít tại xã Mã Đà, huyện Vĩnh Cửu. Đến nay, trang trại này đã nhân được đàn gà khoảng 500 con.
Ông Trần Văn Dũng, chủ cơ sở chăn nuôi gia cầm tại xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom nhận xét, giống gà Mã Đà có đặc trưng toàn thân lông màu trắng, hầu hết lông ở phần cổ, gốc cánh và đùi đều trụi, gà mái thường có mào trên đầu. Da, cẳng chân và mỏ của giống gà này đều có màu đen. Đây là giống gà có thể nuôi làm vật cảnh, thịt, trứng rất bổ dưỡng, thơm ngon. Ông Dũng nhấn mạnh: “Ưu điểm lớn khác là giống gà này rất dễ nuôi, tiêu tốn ít thức ăn hơn nhiều so với nuôi các loại gia cầm khác, gà sinh trưởng tốt, ít dịch bệnh và đến nay chưa xuất hiện dịch bệnh gì nguy hiểm. Vì thế, đây là giống gà rất có tiềm năng về kinh tế và có thể nhân rộng cho chăn nuôi nông hộ”.
Theo TS.Hoàng Tuấn Thành, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Chăn nuôi Gia cầm VIGOVA, vài năm trước, khi phát hiện gà Mã Đà - giống gà bản địa tại huyện Vĩnh Cửu được một số ít nông hộ tại xã Mã Đà nuôi. Đây là giống gà có nguồn gen quý đang có nguy cơ tuyệt chủng nhưng có nhiều tiềm năng phát triển, Trung tâm Vigova đã mua lại nguồn giống bố mẹ từ người dân với mục đích nghiên cứu bảo tồn.
TS.Hoàng Tuấn Thành cho biết thêm, theo kế hoạch của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Chăn nuôi Gia cầm VIGOVA, đề án bảo tồn và xây dựng hoàn chỉnh quy trình nuôi giống gà Mã Đà sẽ tiếp tục được triển khai trong 36 tháng tới. Trong quá trình này, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Chăn nuôi Gia cầm VIGOVA có thể mở rộng hợp tác với một số trang trại, nông hộ để nuôi giống gà này trong thực tế gắn với nhu cầu nghiên cứu.
Mô hình nuôi đặc sản giá trị cao
TS.Hoàng Tuấn Thành đánh giá, giống gà bản địa Mã Đà là một trong những nguồn gen gia cầm quý, cần nghiên cứu sâu để bảo tồn. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu sau vài năm triển khai cũng cho thấy giống gà này có nhiều giá trị về mặt kinh tế.
Theo báo cáo của Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp Đồng Nai, giống gà bản địa Mã Đà có nhiều tiềm năng phát triển, phù hợp với mô hình chăn nuôi nông hộ mang lại giá trị kinh tế cao. Chính vì vậy, Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp Đồng Nai đang hỗ trợ, hướng dẫn Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Chăn nuôi Gia cầm VIGOVA đăng ký tham gia đề tài nghiên cứu khoa học của tỉnh. Khi đủ điều kiện, mô hình này sẽ được chuyển giao đến các nông hộ chăn nuôi trên địa bàn tỉnh. Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Chăn nuôi Gia cầm VIGOVA cũng quan tâm đăng kí nhãn hiệu hàng hóa, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đặc biệt sẽ đăng kí sản phẩm OCOP (mỗi xã một sản phẩm) đặc trưng của Đồng Nai...
Song Lê
Anh nông dân năng động tìm hướng đi riêng
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Không chỉ năng động tìm hướng đi riêng trong việc chăn nuôi heo để đạt lợi nhuận cao, anh Trần Văn Toản, khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP Cần Thơ còn có được nguồn thu nhập khá cao từ việc nuôi chim công. Với bản tính cần cù, ham học hỏi và năng động trong sản xuất kinh doanh, anh Toản đã phát triển mô hình nuôi công sinh sản và đã có trang trại nuôi chim công lớn, nhiều con có giá trị cao và đẹp hàng đầu tại vùng ÐBSCL.
Anh Toản chăm sóc chim công con.
Giá heo hơi bất ổn, nhiều thời điểm giảm sâu xuống dưới giá thành sản xuất nên nhiều hộ gia đình chăn nuôi heo bằng thức ăn công nghiệp bị lỗ nặng, phải nghỉ nuôi. Tuy nhiên, nhờ nuôi heo bằng thức ăn tự chế, gia đình anh Toản vẫn cứ đều đều duy trì số lượng đàn heo từ 80-120 con/năm. Theo đó, mỗi năm gia đình anh có thể kiếm lời từ 100-150 triệu đồng trở lên từ hoạt động nuôi heo.
Anh Toản cho biết: "Hơn 10 năm nay, gia đình tôi nuôi heo với số lượng lớn theo hình thức cho ăn bằng thức ăn tự chế. Hằng ngày, tôi đi thu gom các loại cơm, cháo và cá thịt thừa tại các nhà hàng, quán ăn trên địa bàn TP Cần Thơ đem về nấu lại để làm thức ăn cho heo, đồng thời tôi có cắt thêm môn và một số loại rau để nấu cho heo ăn. Gia đình tôi luôn nuôi từ 4-5 con heo bố mẹ cho sinh sản heo con để nuôi heo thịt, từ đó tiết kiệm được chi phí tiền mua con giống. Với cách nuôi heo như vậy, giá thành nuôi heo rất thấp nên gia đình tôi luôn có lời, đặc biệt gần đây khi giá heo hơi tăng mạnh thì mức lợi nhuận thu được càng cao. Tuy nhiên, nuôi heo bằng thức ăn tự chế thường phải mất thời gian nuôi lâu hơn gấp đôi, khoảng 8 tháng mới xuất bán heo". Với giá heo hơi từ 62.000-65.000 đồng/kg như hiện nay, nhiều hộ nuôi heo bằng thức ăn công nghiệp có thể kiếm lời trên dưới 1 triệu đồng/con khi xuất bán. Còn nuôi heo theo mô hình cho ăn bằng thức ăn tự chế của anh Toản có thể kiếm được mức lời cao hơn gấp 2-3 lần.
Bên cạnh nuôi heo, anh Toản còn có nuôi một loại vật nuôi khá "độc lạ" là chim công. Trại nuôi chim công rộng hơn 350m2, tổng đàn hơn 100 con, trong đó có 18 con công bố mẹ đang cho sinh sản. Những năm qua, mỗi năm anh xuất bán từ 100-150 con công, qua đó giúp mang về lợi nhuận từ 250-300 triệu đồng/năm. Anh Toản chủ yếu nuôi 2 loại công gồm chim công má vàng Việt Nam và chim công Silver có xuất xứ Thái Lan. Chim công có màu sắc lông đẹp sặc sỡ, múa hay và có giá trị cao, được nhiều người coi là con vật may mắn, do vậy nhiều người thích mua chim công về nuôi làm cảnh. Thời gian qua, nhu cầu mua chim công phục vụ làm chim cảnh rất lớn và giá chim công cũng ở mức khá cao, nhờ vậy anh Toản có được thu nhập khá cao từ loại vật nuôi này. Giá chim công con (từ 1,5 tháng tuổi trở lên) ở mức khoảng 8-8,5 triệu đồng/cặp đối với công má vàng, còn công Silver có giá lên đến 17-20 triệu đồng/cặp. Riêng chim công bố mẹ có giá lên đến 55-60 triệu đồng/cặp đối với công má vàng và khoảng 75-95 triệu đồng/cặp đối với công Silver. Chim công được anh Toản bán ra có đầy đủ các giấy tờ theo quy định của ngành chức năng nên người mua rất yên tâm.
Anh Toản cho biết: "Tôi bắt đầu nuôi chim công từ khoảng năm 2015, lúc đầu chỉ nuôi với số lượng nhỏ có vài con. Sau thời gian nuôi, chim công đẻ trứng, mỗi con chim công đẻ được số lượng trứng lên đến 10-15 quả và tỷ lệ ấp nở trứng cũng khá cao, do vậy tôi đã mua thêm công bố mẹ về để phát triển mô hình. Trứng chim công sau khi đẻ được tôi đưa vào máy ấp trứng, giúp tỷ lệ nở con đạt lên tới 80-90%, nhờ vậy đàn công của tôi tăng nhanh về số lượng và chỉ trong vài năm nuôi đã có một số lượng lớn công được bán ra thị trường".
Trước khi đến với mô hình nuôi chim công, anh Toản cũng từng phát triển mô hình nuôi gà đông tảo khá thành công. Tuy nhiên, sau đó thấy thị trường tiêu thụ gà đông tảo không ổn định và khó phát triển nên anh đã quyết định tìm con vật nuôi khác hiệu quả hơn. Qua tìm hiểu trên mạng internet và các phương tiện thông tin đại chúng, cũng như được dịp đến thăm một số trang trại nuôi chim công ở miền Bắc, anh Toản nhận thấy nuôi chim công giúp mang lại hiệu quả kinh tế rất cao nên đã quyết định mua con giống về nuôi thử và đã gặt hái được thành công. Hiện trang trại nuôi công của anh Toản được nhiều người đánh giá là lớn nhất tại vùng ÐBSCL, với nhiều con chim công đẹp và có giá trị cao. Bên cạnh cung cấp con giống ra thị trường tại vùng ÐBSCL và nhiều tỉnh, thành trong nước, thời gian qua anh Toản cũng bao tiêu, thu mua lại sản phẩm cho những bà con có nhu cầu trao đổi mua bán. Ðồng thời, tích cực hỗ trợ kỹ thuật, chia sẻ các kinh nghiệm trong chăn nuôi chim công để giúp bà con nuôi tốt loại chim này, cũng như có thể cho chim công sinh sản thành công.
Theo anh Toản, công con sau thời gian nuôi khoảng 2,5-3 năm là bắt đầu có thể cho đẻ trứng, trong đó chim công Silver nuôi mau cho sinh sản hơn công má vàng. Chim công khi trưởng thành có thể đạt trọng lượng từ 5-8kg/con. Nhìn chung, chim công khá dễ nuôi, chi phí làm chuồng trại cũng không quá lớn và nguồn thức ăn cho công cũng dễ mua và dễ tìm. Song song với việc sử dụng các loại thức ăn công nghiệp chuyên dùng cho con gà để làm thức ăn nuôi chim công, cũng có thể cho chim công ăn thêm các loại rau củ quả và cá thịt như rau muống, cải, chuối, thanh long, tôm tép, thịt bò... Nuôi chim công cho sinh sản chủ yếu cực ở giai đoạn ấp trứng và giai đoạn chăm sóc con non lúc mới nở. Ðể chim công phát triển tốt và không bị các loại bệnh, trong giai đoạn từ 1 đến 5 tháng tuổi, cần chú ý tiêm đầy đủ các loại vaccine phòng bệnh cho chim công, nhất là vaccine phòng bệnh cúm gia cầm.
Bài, ảnh: KHÁNH TRUNG
Phòng, chống dịch bệnh trên gia súc, gia cầm
Nguồn tin: Báo Long An
Tiêu độc, khử trùng, tiêm vắc-xin đầy đủ, vệ sinh chuồng trại thường xuyên, chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học là những giải pháp hiệu quả, thiết thực để phòng, chống dịch bệnh trên gia súc, gia cầm (GSGC) tốt nhất.
Đối với những khu vực chuồng trại đã xảy ra dịch bệnh, cần có thời gian cách ly và vệ sinh đúng quy trình trước khi tái đàn
Người chăn nuôi chủ động phòng dịch
Xã Tân Lân, huyện Cần Đước, tỉnh Long An là địa phương chăn nuôi gà đẻ công nghiệp lớn nhất tỉnh, với hơn 700.000 con của 99 hộ, chủ yếu chăn nuôi quy mô nông hộ. Vì vậy, nơi đây tiềm ẩn nguy cơ bùng phát dịch bệnh trên GC như H5N1, H5N6, H5N8,... rất cao.
Phó Chủ tịch UBND xã Tân Lân - Nguyễn Minh Hiếu thông tin: Thời gian qua, xã đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, khuyến cáo các hộ chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học, quản lý dịch bệnh, nhất là thường xuyên sát khuẩn, vệ sinh chuồng trại và tiêm phòng vắc-xin đầy đủ.
Gia đình bà Hồ Thị Kim Phượng là một trong những hộ chăn nuôi gà đẻ công nghiệp có quy mô lớn tại xã Tân Lân, với hơn 16.000 con. Trung bình mỗi ngày, gia đình bà cung cấp ra thị trường khoảng 12.000 trứng gà. Cả gia đình bà sống chủ yếu bằng nghề chăn nuôi gà đẻ công nghiệp mấy chục năm qua. Với bà, bảo vệ đàn gà trước các loại dịch bệnh cũng đồng nghĩa bảo vệ tài sản của gia đình mình. Do đó, bà vệ sinh, sát khuẩn chuồng trại thường xuyên, cũng như tiêm phòng đủ các loại vắc-xin như H5N1, H5N6, H5N8 định kỳ.
Bà Phượng chia sẻ: “Mỗi buổi sáng, gia đình tôi vệ sinh chuồng trại. Hàng tuần, gia đình tôi phun thuốc sát khuẩn, khử trùng 1 lần. Nước uống của gà được xử lý qua hệ thống lọc trước khi cho gà uống. Chuồng gà được thiết kế cao ráo, xa mặt đất, xa khu dân cư. Phân gà được xử lý bằng vôi để tránh mùi và diệt các loại vi khuẩn”.
Cách đây 5 năm, đàn heo của gia đình ông Nguyễn Văn Lô (xã Bắc Hòa, huyện Tân Thạnh) không may bị bệnh dịch tả heo châu Phi nên phải tiêu hủy hết, với tổng trọng lượng hơn 12 tấn. Vậy là bao nhiêu vốn liếng đầu tư nuôi heo của gia đình ông kể như mất trắng.
Khi được địa phương hỗ trợ chi phí cho những hộ bị ảnh hưởng bệnh dịch tả heo châu Phi, ông Lô tiếp tục gầy dựng lại đàn heo mới. Dù vậy, ông vẫn không dám tái đàn nhiều. Nguyên nhân là bệnh dịch tả heo châu Phi vẫn chưa có vắc-xin phòng ngừa, trong khi đó dịch bệnh vẫn đang tiềm ẩn nhiều. Một nguyên nhân khác là giá thức ăn tăng cao nhưng giá heo hơi ở mức thấp, người chăn nuôi có lợi nhuận rất thấp.
Ông Nguyễn Văn Lô cho biết: “Hiện tại, tôi vừa nuôi heo nái và heo thịt, với 4 con heo nái và gần 30 heo con. Rút kinh nghiệm từ lần chăn nuôi trước, tôi chủ động vệ sinh chuồng trại thường xuyên, hàng tuần đều phun thuốc sát khuẩn. Đặc biệt, tôi hạn chế người ra, vào chuồng trại, kể cả người thân trong gia đình”.
Phòng bệnh giai đoạn chuyển mùa
Thông tin từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện đàn heo toàn tỉnh hơn 115.900 con, đàn GC hơn 9.630 triệu con, đàn bò hơn 115.320 con và đàn trâu hơn 5.500 con. Từ đầu năm 2024 đến nay, bệnh dịch tả heo châu Phi, cúm GC và bệnh dại đã xuất hiện trở lại với quy mô nhỏ, lẻ trên địa bàn tỉnh.
Để chủ động kiểm soát tốt dịch bệnh trên động vật phát sinh và lây lan diện rộng, bảo đảm an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng và hoạt động sản xuất của người chăn nuôi, ngành Nông nghiệp tỉnh đã triển khai, thực hiện kế hoạch tổng vệ sinh, khử trùng môi trường phòng, chống dịch bệnh trên GSGC; đồng thời, nâng cao nhận thức của người dân về thực hiện vệ sinh, tiêu độc, khử trùng định kỳ trong môi trường chăn nuôi, tích cực hưởng ứng các đợt tiêu độc, khử trùng do tỉnh phát động, góp phần khống chế mầm bệnh, không để phát sinh dịch bệnh, nâng cao hiệu quả công tác chăn nuôi.
Theo Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh - Lê Thị Mai Khanh, vào giai đoạn chuyển mùa, khi thời tiết thay đổi, sức đề kháng của vật nuôi giảm, khiến cơ thể yếu cộng thêm yếu tố mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể khiến vật nuôi dễ có nguy cơ mắc bệnh. Đặc biệt là GSGC sơ sinh và GS đang có thai rất nhạy cảm khi thời tiết mưa nắng thất thường. Bên cạnh việc nuôi dưỡng trong điều kiện tốt, người chăn nuôi phải nâng cao sức đề kháng cho vật nuôi.
Cụ thể, người chăn nuôi cần thường xuyên kiểm tra chuồng trại, tu sửa, tránh để ẩm ướt, hạn chế tối đa sự tồn tại của mầm bệnh; di dời đàn vật nuôi lên cao để tránh úng ngập. Khi nhiệt độ môi trường xuống thấp, cần bổ sung thêm chất độn chuồng hoặc sưởi để giữ ấm cho vật nuôi; thường xuyên vệ sinh chuồng trại, máng ăn, máng uống, các dụng cụ chăn nuôi. Định kỳ 1-2 lần/tuần, phun thuốc sát trùng hoặc rắc vôi bột để tẩy uế chuồng trại và khu vực xung quanh chuồng nuôi. Luôn để GSGC nơi khô ráo, sạch sẽ bằng mọi biện pháp vì GSGC trong môi trường ẩm ướt, lạnh chân sẽ rất dễ mắc bệnh. Chú ý giữ ấm cho GSGC, hạn chế tăng đàn trong mùa mưa. Cung cấp đầy đủ thức ăn sạch, dễ tiêu, bảo đảm chất lượng, phù hợp với từng lứa tuổi của vật nuôi.
Song song đó, tiêm phòng đầy đủ các loại vắc-xin cho GSGC theo đúng lịch trình phòng bệnh để tăng khả năng miễn dịch cho vật nuôi. Khi nghi ngờ GSGC mắc các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như cúm GC, lở mồm long móng, tai xanh, phải báo ngay cho nhân viên thú y hoặc chính quyền địa phương để có biện pháp can thiệp kịp thời, tránh lây lan, bùng phát dịch bệnh./.
Minh Tuệ
Hiệu quả với nuôi heo trong chuồng khép kín
Nguồn tin: Báo Long An
Dịch bệnh trên đàn heo là một trong những nguyên nhân khiến người chăn nuôi thua lỗ. Trong bối cảnh đó, việc áp dụng công nghệ và khoa học - kỹ thuật vào chăn nuôi là giải pháp hữu hiệu để giảm thiểu rủi ro dịch bệnh.
Chị Huỳnh Thị Mỹ Loan sử dụng camera để quan sát đàn heo từ xa, hạn chế tối đa việc cho người ngoài vào chuồng để tránh các nguy cơ truyền nhiễm dịch bệnh
Chị Huỳnh Thị Mỹ Loan (xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, tỉnh Long An) bắt đầu nuôi heo từ 10 năm trước. Với số vốn hơn 300 triệu đồng, chị mua 10 con heo nái về nuôi. Với sự hỗ trợ của cán bộ thú y địa phương, cùng với đó là tinh thần ham học hỏi của bản thân, chị Loan thành công trong chăn nuôi heo.
“Hồi trước, xung quanh có nhiều người nuôi heo, thấy có lợi nhuận nên tôi cũng quyết định nuôi. Ban đầu, tôi cứ nghĩ dễ nhưng khi nuôi rồi mới thấy khó. Nhờ có mấy anh bên thú y tư vấn, hỗ trợ làm chuồng, tôi cũng đi học thêm một khóa ngắn hạn để có thêm kiến thức chăn nuôi heo” - chị Loan chia sẻ.
Vừa nuôi, vừa tích lũy kinh nghiệm từ thực tiễn, chị chủ động học hỏi kiến thức mới từ các phương tiện truyền thông đại chúng, Internet; thường xuyên tham gia các lớp tập huấn, hội thảo về chăn nuôi do địa phương tổ chức. Ngoài ra, chị còn “mạnh tay” đầu tư xây dựng chuồng khép kín theo hướng công nghiệp, hiện đại, trang bị đầy đủ các thiết bị như hệ thống làm mát, quạt hút gió,... có khu nuôi heo, khu liên hợp hầm biogas xử lý phân, nước thải,... Nhờ vậy, đàn heo luôn khỏe mạnh, ít bị dịch bệnh và tăng trưởng tốt.
Bên cạnh đó, chị Loan sử dụng camera để quan sát đàn heo từ xa; hạn chế tối đa việc cho người ngoài vào chuồng để tránh các nguy cơ truyền nhiễm dịch bệnh. Nhờ vậy, trong giai đoạn bệnh dịch tả heo châu Phi bùng phát, đàn heo của chị vẫn an toàn, không bị ảnh hưởng.
“Hiện tại, tôi tập trung vào việc nuôi heo giống. Trung bình mỗi năm, tôi cung cấp cho thị trường khoảng 800 con heo. Chất lượng của đàn heo trong 10 năm qua luôn được bảo đảm” - chị Loan chia sẻ thêm.
Năm 2022, chị Loan được Chủ tịch UBND huyện Bến Lức tặng giấy khen vì đã có thành tích tiêu biểu trong phong trào Nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi giai đoạn 2017-2022. Đó là sự ghi nhận cho tinh thần năng động, dám nghĩ, dám làm trong việc ứng dụng những công nghệ và phương thức chăn nuôi mới của chị Loan. Từ đó đã mang lại hiệu quả trong việc phát triển kinh tế gia đình, góp phần xây dựng nông nghiệp hiện đại, bền vững./.
Khánh Duy
Hiếu Giang tổng hợp