Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 8 tháng 4 năm 2025
Tìm giải pháp khắc phục khó khăn với chính sách thuế mới từ Mỹ
NDO - Trong bối cảnh tình hình thương mại thế giới đảo lộn, sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố mức thuế đối ứng mới hôm 3/4, Tư lệnh ngành Nông nghiệp và Môi trường tổ chức cuộc họp khẩn theo hình thức trực tiếp và trực tuyến với các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng để cùng đồng hành tháo gỡ khó khăn trước mắt và dài hạn, thúc đẩy xuất khẩu.
Trong những năm vừa qua, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam sang Mỹ đều đạt trên mức 13 tỷ USD (xuất siêu trên 10 tỷ USD) và nhập khẩu từ Mỹ khoảng trên 3 tỷ USD/năm.
Nỗ lực gỡ khó cho doanh nghiệp
Báo cáo tại cuộc họp, ông Ngô Hồng Phong, Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường cho biết, trong những năm vừa qua, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam sang Mỹ đều đạt trên mức 13 tỷ USD (xuất siêu trên 10 tỷ USD) và nhập khẩu từ Mỹ khoảng trên 3 tỷ USD/năm. Riêng năm 2024 xuất khẩu đạt 14,31 tỷ USD, tăng 25% so với năm 2023 và nhập khẩu đạt 3,44 tỷ USD.
Quý I năm 2025, Việt Nam xuất sang Mỹ đạt 3,21 tỷ USD, tăng 14,9% so với cùng kỳ năm 2024 và nhập khẩu từ Mỹ đạt 914 triệu USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, các mặt hàng chủ lực qua nhiều năm vẫn là gỗ, tiêu, điều, thủy sản, cà phê và rau quả.
Ông Ngô Hồng Phong, Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường khẳng định việc áp thuế cơ bản 10% với tất cả các mặt hàng nhập khẩu vào Mỹ sẽ có tác động trực tiếp đến tổng thể cán cân thương mại giữa Việt Nam và Mỹ.
Theo ông Phong, việc áp thuế cơ bản 10% với tất cả các mặt hàng nhập khẩu vào Mỹ sẽ có tác động trực tiếp đến tổng thể cán cân thương mại giữa Việt Nam và Mỹ nói chung, tác động lớn đến xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam và ảnh hưởng đến mức tăng trưởng của ngành nông nghiệp năm 2025.
Hiện nay, dù Mỹ đưa ra mức thuế đối ứng là 46%, tuy nhiên có khả năng mức áp dụng cho từng ngành là khác nhau. Do đó, cần có sự phân tích đánh giá một cách cụ thể hơn về biểu thuế sẽ áp đối với từng mặt hàng nông lâm thủy sản của Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ.
Ông Phong cũng đưa ra một số giải pháp, trước mắt cần thông tin và tạo điều kiện (về logistics, thủ tục hải quan...) để các doanh nghiệp kịp đẩy nhanh việc giao hàng trước thời điểm ngày 9/4 và càng sớm càng tốt trong thời gian 1-3 tháng tới.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp, hiệp hội cần chủ động trao đổi với khách hàng, đối tác nhập khẩu để có phương án xử lý các hợp đồng đã ký kết, cùng chia sẻ trách nhiệm khi bị áp thuế bổ sung.
Song song đó, tiếp tục xem xét phương án xử lý đối với các nội dung mà phía Mỹ quan ngại. Kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc xuất xứ để tránh việc Mỹ "cho là" gian lận nguồn gốc xuất xứ hàng hóa từ Trung Quốc và xem xét quyết định cuối cùng về phương án đề xuất áp thuế về 0%.
Trong dài hạn, Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường cho rằng, cần chuyển hướng thị trường xuất khẩu sang một số nước có FTA với Việt Nam, tương ứng với tiêu chí về dung lượng thị trường, có thể là Trung Quốc hoặc châu Âu.
Về thứ tự ưu tiên chuyển hướng mà Cục này đưa ra với từng sản phẩm là: gỗ và sản phẩm gỗ hướng đến Nhật Bản, Trung Quốc, EU; thủy sản hướng đến Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Hàn Quốc; hạt điều hướng đến EU, Trung Quốc, UAE, Anh; hạt tiêu hướng đến EU, UAE, Ấn Độ, Trung Quốc; rau quả hướng đến Trung Quốc, Hàn Quốc, EU, ASEAN; cà-phê hướng đến Đức, Italia và Nhật Bản.
Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy tổ chức cuộc họp với các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng để cùng đồng hành tháo gỡ khó khăn trước mắt và dài hạn, thúc đẩy xuất khẩu.
Đoàn kết, đồng lòng tìm giải pháp
Chia sẻ tại cuộc họp, Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy cho biết, trong những ngày qua, Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã triển khai nhiều giải pháp linh hoạt để ứng phó với các thay đổi trong chính sách thuế của Mỹ.
"Mặc dù các bộ, ngành đã chuẩn bị kỹ lưỡng và có những phương án dự phòng từ trước, nhưng mức thuế cao được công bố vẫn khiến nhiều doanh nghiệp bất ngờ. Thực tế, ngay trong nội bộ Mỹ cũng đang có những ý kiến trái chiều về chính sách này, làm cho các diễn biến trong thời gian tới trở nên khó lường", Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nói.
Không chỉ là vấn đề thuế quan, chính sách này còn liên quan đến các yếu tố như chênh lệch thương mại hai chiều, thuế phi thuế quan và nhiều yếu tố khác mà Mỹ đã nắm rất rõ thông tin. Điều này dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp và đối tác thương mại của Mỹ đã phải tạm dừng hoặc hủy bỏ hợp đồng với Việt Nam.
Khẳng định Chính phủ đã nỗ lực hết mình để đàm phán, tuy nhiên Bộ trưởng Đỗ Đức Duy cho rằng: “Chúng ta phải luôn chuẩn bị cho kịch bản xấu nhất, trong đó đã có những cuộc trao đổi, thuyết phục với các đại diện Mỹ tại Việt Nam”.
Ông Duy cũng cho biết, trước thử thách lớn, Chính phủ và các bộ, ngành xác định phương châm chỉ đạo là: bình tĩnh, linh hoạt, bám sát thực tiễn, đồng hành cùng doanh nghiệp và chủ động đàm phán.
Chính phủ và các bộ, ngành xác định phương châm chỉ đạo là: bình tĩnh, linh hoạt, bám sát thực tiễn, đồng hành cùng doanh nghiệp và chủ động đàm phán. Quan điểm của Việt Nam là không đối đầu, mà tìm kiếm các giải pháp tổng thể, lâu dài, trong đó đặc biệt chú trọng đàm phán.
Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy
"Quan điểm của Việt Nam là không đối đầu, mà tìm kiếm các giải pháp tổng thể, lâu dài, trong đó đặc biệt chú trọng đàm phán", Bộ trưởng nhấn mạnh.
Tư lệnh ngành nông nghiệp và môi trường khẳng định Chính phủ luôn đồng hành cùng doanh nghiệp và sẽ tiếp tục lắng nghe, hiến kế để tìm ra những giải pháp thiết thực. Đồng thời, khẳng định việc đoàn kết, đồng lòng vì lợi ích chung của cộng đồng ngành hàng và quốc gia sẽ là yếu tố quyết định trong giai đoạn khó khăn này.
“Trong các cuộc đàm phán với Mỹ, chúng ta cần phát huy những lợi thế sẵn có của nông sản Việt Nam: chất lượng tốt, giá cả cạnh tranh, không trực tiếp cạnh tranh với sản xuất nội địa Mỹ và nhiều mặt hàng không có lựa chọn thay thế. Bên cạnh đó, cần nhìn nhận thách thức cũng là cơ hội để tái cơ cấu sản xuất, ngành hàng và thị trường xuất khẩu.
Đây là thời điểm phù hợp để thúc đẩy phát triển các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hướng tới mô hình sản xuất bền vững, chất lượng cao hơn. Mỹ vẫn là một trong những thị trường lớn, giàu tiềm năng và có tỷ suất lợi nhuận cao đối với nông sản Việt”, Tư lệnh ngành nông nghiệp và môi trường khẳng định.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhấn mạnh Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã và sẽ tiếp tục triển khai các giải pháp đã được Chính phủ chỉ đạo từ trước. Trong đó, việc đàm phán với các đối tác của Mỹ như Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ, nhằm có tiếng nói chung với Chính phủ Hoa Kỳ.
Đặc biệt, Bộ sẽ chỉ đạo các địa phương, doanh nghiệp và bà con nông dân duy trì kế hoạch sản xuất, không thay đổi trong thời gian này. Đồng thời sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường thay thế và tiếp tục ghi nhận các kiến nghị từ doanh nghiệp, hiệp hội để đề xuất với Chính phủ.
Ngoài ra, Bộ cũng sẽ rà soát các rào cản kỹ thuật về cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu nông sản, đặc biệt là đối với các sản phẩm nông nghiệp từ Mỹ. Bộ cũng phối hợp với các doanh nghiệp nghiên cứu phát triển các ngành sản xuất vật tư đầu vào cho nông nghiệp, như thức ăn chăn nuôi và thuốc bảo vệ thực vật, nhằm giảm chi phí đầu vào. Đồng thời, khuyến khích chế biến sâu, tái cơ cấu sản xuất, nâng cao năng lực tạm trữ, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa.
THANH TRÀ
Nông nghiệp công nghệ cao ở 'vùng đất thép'
Huyện Củ Chi (TPHCM) được biết tới với những biệt danh 'vùng đất thép', 'tam giác sắt' trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Giờ đây vùng đất chịu nhiều bom đạn năm xưa đã hoàn toàn 'thay da đổi thịt', trở thành trung tâm nông nghiệp công nghệ cao của TPHCM.
Đất thép nở hoa
Nằm dưới giàn lưới giữ ẩm và hệ thống phun tưới nước tự động, trang trại trồng hoa lan mokara của ông Bùi Văn Cường ở xã Phước Hiệp (huyện Củ Chi) là một quy trình khép kín, được đầu tư 5 tỷ đồng với khoảng 120.000 gốc lan cắt cành. Sau khi vay nguồn vốn ưu đãi thông qua huyện Củ Chi, ông đầu tư vườn lan này để cắt cành bán hàng ngày. Trung bình mỗi tháng ông Cường cắt được khoảng 70.000 cành hoa lan, thu nhập khoảng 150 triệu đồng sau khi trừ các chi phí. Trong đó chủ yếu là lan mokara đỏ, vàng chanh và tím.
Mô hình trồng hoa lan công nghệ cao ở huyện Củ Chi (TPHCM). Ảnh: Đoàn Xá.
Được biết, sản xuất hoa lan công nghệ cao như ông Cường ở huyện Củ Chi khá phổ biến, thậm chí với quy mô lớn hơn nhiều. Như vườn lan của chị Đặng Lê Thị Thanh Huyền ở xã An Nhơn Tây với diện tích gần chục héc-ta cùng khoảng 320.000 gốc mokara và hơn 80.000 gốc denro. Đây là một trong những vườn lan được đầu tư bài bản theo công nghệ sản xuất hiện đại và đạt doanh thu từ 13 - 15 tỷ đồng mỗi năm.
Sản xuất hoa lan công nghệ cao là mô hình thu hút rất nhiều nông dân ở Củ Chi tham gia bởi dễ tiêu thụ, không cần nhiều diện tích đất canh tác, được hỗ trợ nguồn vốn… Hiện ở Củ Chi cũng có nhiều hợp tác xã (HTX) hoa lan thu hút hàng chục nông dân tham gia, nằm rải rác khắp các xã trong huyện. Đặc biệt, những vườn lan ở đây đều được chăm sóc tự động, máy móc tưới theo giờ, được lập trình sẵn và sự tham gia của con người chỉ ở khâu kiểm tra, thu hoạch sản phẩm.
Không chỉ có hoa lan, Củ Chi hiện đã được quy hoạch là trung tâm nông nghiệp công nghệ cao của TPHCM với rất nhiều sản phẩm đa dạng khác nhau. Trong đó, sản xuất cá cảnh cũng là thế mạnh dù nơi này không có nhiều sông nước tự nhiên. Nằm sâu trong cánh đồng ở ấp Cây Trôm (xã Phước Hiệp) là một trang trại nuôi cá cảnh với bề ngoài khá đơn sơ. Thế nhưng, trung bình mỗi tháng nơi đây xuất khoảng 700.000 con cá các loại như moly, hắc kỳ, hồng kim, bảy màu, cánh buồm… đi nhiều nước trên thế giới như EU, Trung Đông, Nhật Bản, Hàn Quốc…
Dẫn chúng tôi đi xem khu vực nuôi và nhân giống cá cảnh, ông Nguyễn Văn Thủy - Giám đốc HTX Sinh vật cảnh Sài Gòn cho biết, HTX hiện có 13 thành viên góp vốn và nhiều hộ nông dân ở trong xã làm việc theo mô hình vừa có lương hàng tháng, vừa có chia cổ tức lợi nhuận định kỳ. HTX chính thức được thành lập năm 2013 nhưng thực tế trước đó gần 10 năm, đây là nơi nuôi cá cảnh của một số người dân tâm huyết. Đây cũng là nơi dẫn đầu về lượng cá cảnh xuất khẩu trên địa bàn TPHCM và đem về nguồn ngoại tệ khoảng 2 triệu USD mỗi năm. HTX còn bao tiêu xuất khẩu cho một số nông dân nuôi cá cảnh ở Bình Dương, Đồng Nai nhờ thương hiệu uy tín lâu năm với thị trường.
Cũng theo ông Thủy, ngoài việc đầu tư công nghệ cao trong sản xuất, nhân giống, chăm nuôi thì hiện HTX đang tích cực tổ chức theo hướng đảm bảo an toàn (theo tiêu chuẩn phòng dịch EU), nâng cao chất lượng, tạo sản phẩm đặc trưng… để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao thị trường thế giới.
Quan sát hàng trăm các bể cá bằng kính, hàng trăm những hồ xi-măng sử dụng để nhân giống, lai tạo, chăm sóc và hàng chục nông dân đang miệt mài phân loại, kiểm tra sức khỏe, quy trình nuôi dưỡng những loại cá cảnh nhỏ bé, sặc sỡ màu sắc ở HTX chúng tôi mới thấy, làm nông nghiệp công nghệ cao ngoài máy móc, quy trình hiện đại thì cũng cần bàn tay và hiểu biết, sự tỉ mỉ của con người nữa.
Làm giàu trên quê hương mình
Những ngày này, đi trên các tuyến đường ở Củ Chi, từ Tân Thạnh Đông, Tân Thạnh Tây cho tới Trung Lập Thượng, Trung Lập Hạ hay An Nhơn Tây, Phú Hòa Đông… vẫn có rất nhiều vườn cao su bạt ngàn. Thực tế, ngành nghề này không cần nhiều đất đai để sản xuất. Chỉ cần vài nghìn mét vuông cùng ứng dụng khoa học hiện đại, nông dân Củ Chi có thể dễ dàng thu lợi nhuận hàng tỷ đồng mỗi năm.
Điều cũng khá đặc biệt là những con đường ở huyện Củ Chi hầu hết đều mang tên các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng. Đó là những con đường mang tên Mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Rành, Bùi Thị Điệt, Đoàn Thị Mối, Nguyễn Thị Rạng… đã có nhiều hy sinh, đóng góp to lớn và thầm lặng trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Tiếp nối truyền thống giàu lòng yêu nước của mảnh đất nằm ven thượng nguồn sông Sài Gòn, nhiều bạn trẻ ở quê hương Củ Chi hôm nay cũng nỗ lực để làm giàu, mang tới những giá trị thiết thực cho cuộc sống trong thời đại mới. Trong đó, có anh nông dân Bùi Minh Thắng (34 tuổi, ở xã Hòa Phú), người từng được vinh danh là Công dân trẻ tiêu biểu TPHCM (năm 2017) cũng như nhận Giải thưởng Lương Định Của của Trung ương Đoàn thanh niên về những nỗ lực phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở vùng đất Củ Chi.
Anh Bùi Minh Thắng chia sẻ, anh luôn tự hào là một người con của vùng đất Củ Chi giàu truyền thống cách mạng, yêu nước. Ngay từ khi tốt nghiệp THPT, gia đình đã có kế hoạch cho anh Thắng đi du học ở Nhật Bản. Sau đó, anh quyết định trở về quê hương Củ Chi để phụ giúp gia đình trồng nấm. “Mặc dù ba mẹ đã trồng nấm từ lâu và bản thân tôi cũng có một số kinh nghiệm phát triển phôi, chăm sóc nấm nhưng khi quyết định chọn con đường gắn bó với nấm, tôi nghĩ phải thay đổi. Từ kiến thực thực tiễn của gia đình, tôi lên mạng internet học hỏi và quyết định trồng nấm theo mô hình công nghệ cao để tăng năng suất, chất lượng và có thể cạnh tranh với các sản phẩm khác. Ngoài nấm mèo thông thường như trước, tôi quyết định chọn sản xuất thêm nấm bào ngư, nấm linh chi…” - anh Thắng chia sẻ.
Nhưng từ ý tưởng và quyết tâm cho tới thực tế đến thành công là một quãng đường dài có nhiều sự gian khổ của chàng trai trẻ. Thậm chí đan xen trong đó không ít lần anh Thắng phải nhận những bài học để có thể tạo ra những sản phẩm tốt hơn. Hiện nay, ngoài việc sản xuất nấm để cung cấp cho các chợ đầu mối, siêu thị, cửa hàng tiện ích thì trang trại của anh Thắng còn sản xuất phôi nấm để cung cấp cho các trang trại khác.
Điều đặc biệt nhất ở chàng trai trẻ này là anh luôn đặt quê hương, mảnh đất Củ Chi trong suy nghĩ và kinh doanh. Đó là động lực khiến anh Thắng quyết định giúp đỡ về công nghệ và kinh nghiệm để đưa quy trình sản xuất nấm của mình phục vụ bà con nông dân, cán bộ chiến sĩ trên đảo Thạnh An (huyện Cần Giờ) và đảo Thổ Chu (tỉnh Kiên Giang). Do điều kiện cách xa đất liền, khí hậu khắc nghiệt nên việc trồng nấm để tạo ra các sản phẩm nông nghiệp phục vụ cuộc sống trên các đảo này là niềm hạnh phúc thiết thực cho nhiều người.
50 năm qua, với các thế hệ con người ở Củ Chi, mảnh đất này đã thay da đổi thịt. Bởi từ vùng đất khô cằn đầy nắng gió này, những sản phẩm của nông dân Củ Chi đã vươn đi khắp năm châu, không chỉ tiếp nối truyền thống vẻ vang của quê hương mà còn giúp cho đời sống ngày nay thêm sung túc, phù hợp với thời đại mới, kỷ nguyên mới.
Xây dựng mô hình nông nghiệp đô thị
Ông Lê Đình Đức - Phó Chủ tịch UBND huyện Củ Chi (TPHCM) cho biết, nông nghiệp tại huyện Củ Chi được định hướng phát triển theo hướng nông nghiệp đô thị. Theo đó, huyện Củ Chi tập trung trồng và chăn nuôi những cây, con chủ lực, theo chỉ đạo của TPHCM. Đến nay, huyện Củ Chi có khoảng 2.000 ha phục vụ sản xuất, trồng trọt hoa màu. “Chúng tôi tập trung xây dựng các mô hình nông nghiệp công nghệ cao để phát triển các sản phẩm đặc trưng ở Củ Chi; phát triển làng nghề; tạo ra những sản phẩm OCOP. Ví dụ như các sản phẩm cây ăn trái, rau củ quả… của Củ Chi có lợi thế cạnh tranh cao, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Do đó, cần được chú trọng đầu tư để vươn xa hơn nữa trên thị trường, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống bà con nông dân” – ông Đức nói.
Đoàn Xá
Thay đổi tư duy hướng đến nền nông nghiệp bền vững
Những năm qua, nông nghiệp vùng ĐBSCL luôn khẳng định vai trò, vị thế và là trụ đỡ của nền kinh tế khi đóng góp tới 31% GDP toàn ngành nông nghiệp với các thế mạnh về lúa gạo, thủy sản và trái cây. Cùng với đó, nông nghiệp của vùng đang chuyển mình trong bối cảnh hội nhập toàn cầu với xu hướng tiêu dùng xanh.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng kinh tế trọng điểm, có điều kiện thuận lợi phát triển nông nghiệp; đóng góp quan trọng trong xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Nếu như cách đây nửa thế kỷ, nông nghiệp của vùng ĐBSCL vẫn còn lạc hậu, sản xuất chỉ đủ tiêu dùng trong nước thì đến nay đã vươn mình trở thành một trong những quốc gia hàng đầu thế giới về xuất khẩu nông sản.
Trong phần đầu của loạt bài “Nâng tầm vị thế nông sản vùng ĐBSCL trong hội nhập quốc tế” nhóm phóng viên VOV khu vực ĐBSCL đề cập tới những định hướng chiến lược trong phát triển nông nghiệp của vùng. Bên cạnh đó, hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, liên kết, hỗ trợ đầu ra cho các sản phẩm để nâng cao vị thế các mặt hàng nông sản trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng.
Vùng ĐBSCL đang triển khai, nhân rộng đề án 1 triệu ha.
Năm 1975, diện tích canh tác lúa vùng ĐBSCL mới chỉ có hơn 2 triệu ha, trong đó phần lớn là lúa ruộng một vụ, năng suất thấp, sản lượng từ 5-7 triệu tấn/năm. Đất nước thống nhất, nhưng hậu quả chiến tranh tàn phá nặng nề. Thời kỳ đó, mỗi năm, Việt Nam phải nhập khẩu hơn 2 triệu tấn lương thực.
50 năm sau Ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, năng suất lúa tại ĐBSCL từ 5-6 triệu tấn vào năm 1977, nay lên hơn 20 triệu tấn/năm. Hiện sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị mang tính toàn cầu.
Vùng ĐBSCL vựa lúa của cả nước.
Những ngày tháng 4 lịch sử này, cánh đồng lúa hơn 50 hecta của HTX Tiến Thuận, xã Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh là mô hình điểm của Cần Thơ trong thực hiện Đề án 1 triệu ha lúa vùng ĐBSCL hiện lên một màu xanh mướt mắt.
Ông Nguyễn Cao Khải, Giám đốc HTX cho biết, canh tác theo quy trình đề án 1 triệu ha giúp người dân giảm lượng giống, phân bón, thuốc trừ sâu trong khi đó năng suất nâng cao, chất lượng đảm bảo, lợi nhuận của người dân tăng cao hơn so với canh tác truyền thống.
“Sản xuất theo mô hình tuần hoàn so với sản xuất truyền thống thì lợi nhuận cao hơn từ 2 đến 6 triệu/hecta. Tôi làm theo mô hình giảm được chi phí, giảm từ 2 đến 3 lần phun thuốc, số lần giảm như vậy thì sản phẩm sẽ ổn định hơn so với canh tác truyền thống”- ông Nguyễn Cao Khải chia sẻ.
Diện tích cây ăn trái của vùng ĐBSCL đang ngày mở rộng và đáp ứng các tiêu chuẩn vào thị trường khó tính.
Cùng với cây lúa, từ việc thay đổi tư duy để phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, nhờ vậy mà sản phẩm nhãn, xoài của huyện Cờ Đỏ, TP. Cần Thơ đã xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ, Australia, Nhật Bản, Thái Lan, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc và nhiều thị trường khó tính khác.
Ông Trần Phước Sơn, HTX sản xuất cây ăn trái Trạng Tí Garden ở huyện Cờ Đỏ cho biết, HTX luôn quan tâm đến chất lượng, xây dựng thương hiệu để nâng cao sức cạnh tranh.
“Chúng tôi luôn quan tâm tới xây dựng chất lượng, nếu chất lượng tốt thì doanh nghiệp sẽ tìm đến. Chính vì vậy chúng tôi tập trung xây dựng thương hiệu, xây dựng chất lượng để bao tiêu sản phẩm. Hàng hóa của mình muốn cạnh tranh được thì không còn cách nào khác là cải tiến kỹ thuật, làm theo hướng sạch để đảm bảo an toàn, để sản phẩm ngon nhất, sạch nhất” - ông Sơn chia sẻ thêm.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng kinh tế trọng điểm, có điều kiện thuận lợi phát triển nông nghiệp.
Báo cáo kinh tế thường niên ĐBSCL năm 2023 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Trường Chính sách công và quản lý Fulbright (FSPPM) thực hiện cho thấy, nông nghiệp giữ vai trò quan trọng nhất trong GRDP của ĐBSCL. Đây là khu vực có tầm quan trọng trong bảo đảm an ninh, chính trị, phát triển kinh tế của đất nước.
Bốn mũi nhọn kinh tế vùng là hạt gạo, con tôm, cá da trơn và trái cây không chỉ đem lại cuộc sống khấm khá cho người dân nơi đây, mà ngày càng mở rộng xuất khẩu, nâng cao giá trị, thương hiệu Việt Nam trên bản đồ hàng hóa quốc tế.
Thay đổi tư duy để phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững.
Với các thế mạnh về thủy sản, trái cây, lúa gạo, ĐBSCL đã và đang hợp tác đầu tư, giao thương với các nước trong khu vực và thế giới. Hiện nay, nhiều mặt hàng nông sản của vùng đã khẳng định thương hiệu tại các thị trường xuất khẩu.
Ông Trần Thái Nghiêm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Cần Thơ cho biết, sản xuất lúa gạo của Cần Thơ hàng năm khoảng 1,3 triệu tấn; còn ngành hàng trái cây khoảng 200.000 tấn/năm. Những năm qua, Cần Thơ đã hỗ trợ người dân canh tác theo các tiêu chuẩn, xây dựng mã số vùng trồng, tăng cường liên kết, phát triển vùng sản xuất cây ăn trái chuyên canh tập trung gắn các HTX, tổ hợp tác với doanh nghiệp để nâng cao giá trị sản phẩm, đảm bảo chất lượng, đáp ứng yêu cầu của thị trường.
“Chúng tôi đang tập trung gắn kết các doanh nghiệp để đảm bảo đầu ra ổn định. Bên cạnh đó thúc đẩy các lĩnh vực phụ trợ, trong đó phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến và đây cũng là một trong những giải pháp thúc đẩy phát triển cây ăn trái bền vững. Hiện nay các địa phương trên địa bàn cũng phát triển sản xuất nông nghiệp, phát triển chương trình OCOP, đây được xem là nông nghiệp tích hợp đa giá trị”- ông Nghiêm thông tin.
Mở rộng xuất khẩu, nâng cao giá trị, thương hiệu Việt Nam trên bản đồ hàng hóa quốc tế.
Ngày 27/11/2023, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Phát triển bền vững một triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL”. Đề án có ý nghĩa quan trọng trong định hướng chuyển đổi phương thức canh tác lúa bền vững, nhằm gia tăng giá trị ngành hàng lúa gạo Việt Nam, nâng cao thu nhập và đời sống cho người nông dân; thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính, góp phần thực hiện các cam kết của Việt Nam với quốc tế.
Đề án 1 triệu hecta lúa ở vùng ĐBSCL được xem như luồng gió mới, thổi hồn vào cây lúa.
Theo ông Lê Thanh Tùng, Phó Chủ tịch hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam, qua triển khai thí điểm Đề án 1 triệu hecta lúa đã mang lại hiệu quả cho người dân, giảm lượng giống gieo sạ, giảm phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, tăng năng suất, giảm phát thải khí nhà kính. Cùng với đó, trong Đề án đã thể hiện rõ vai trò liên kết giữa doanh nghiệp với người dân, đây là yếu tố then chốt quyết định thành công của đề án.
“Đề án 1 triệu ha lúa giảm phát thải trung bình từ 5-6 tấn carbon/ha/vụ. Đồng thời tăng lợi nhuận trên 5 triệu đồng/ha. Điều này chứng minh rằng chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện các tiêu chí về kỹ thuật, về công nghệ, về thương mại ở trong Đề án này. Về liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp và HTX là hoàn toàn có thể khả thi, đây là minh chứng cho thấy có thể mở rộng diện tích khoảng 1 triệu ha” - ông Lê Thanh Tùng thông tin thêm.
Vùng ĐBSCL ứng dụng cơ giới hóa trong thu hoạch lúa.
Đề án 1 triệu ha lúa ở vùng ĐBSCL được xem như luồng gió mới, thổi hồn vào cây lúa, vào nền nông nghiệp ở nơi đây. Ông Phạm Thái Bình, Công ty Cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An nêu rõ, qua các mùa vụ canh tác, người dân và HTX đồng tình, doanh nghiệp phấn khởi khi xây dựng được chuỗi giá trị, tập trung sản xuất để đưa ngành hàng lúa gạo của ĐBSCL vươn xa.
Ông Phạm Thái Bình nhấn mạnh: “Thực hiện các tiêu chí trong Đề án không khó, chính quyền địa phương, nông dân, doanh nghiệp ở ĐBSCL đã làm rồi. Tuy nhiên, lần này làm quyết liệt hơn, hoàn thiện hơn và cao cấp hơn để đưa ngành hàng lúa gạo Việt Nam nói chung, của ĐBSCL nói riêng, nâng lên một tầm cao mới, đáp ứng được xu thế của biến đổi khí hậu. Đây là vấn đề chúng ta hoàn toàn làm được trong các tiêu chí trong của Đề án, việc liên kết doanh nghiệp với nông dân thì vẫn như thế, tức là gắn sản xuất với thị trường, tiếp tục nâng cao giá trị”.
Nông nghiệp vùng ĐBSCL luôn khẳng định vai trò, vị thế và là trụ đỡ của nền kinh tế.
Những năm qua, nông nghiệp vùng ĐBSCL luôn khẳng định vai trò, vị thế và là trụ đỡ của nền kinh tế khi đóng góp tới 31% GDP toàn ngành nông nghiệp với các thế mạnh về lúa gạo, thủy sản và trái cây. Cùng với đó, nông nghiệp của vùng đang chuyển mình mạnh mẽ để thích nghi trong bối cảnh hội nhập toàn cầu với xu hướng tiêu dùng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Trong phần hai của loạt bài “Nâng tầm vị thế nông sản vùng ĐBSCL trong hội nhập quốc tế”nhóm phóng viên sẽ phân tích, làm rõ sự thay đổi tư duy của người dân trong canh tác theo tiêu chuẩn để đáp ứng yêu cầu của thị trường. Cùng với đó, là xúc tiến thương mại để quảng bá sản phẩm, nâng cao giá trị các mặt hàng nông sản của vùng ĐBSCL trên thị trường quốc tế.
Phạm Hải-Thanh Tùng/VOV-ĐBSCL
Tạo đà bứt phá cho ngành nông nghiệp
Trong những năm qua, tỉnh Quảng Nam đã tiến hành cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững, thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn. Nhiều phương pháp canh tác thông minh, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của thị trường và mang lại thu nhập cao cho người dân.
Quảng Nam phát triển ngành nông nghiệp theo hướng bền vững. (Ảnh: LÊ ANH QUÂN)
Theo quy hoạch tỉnh Quảng Nam thời kỳ 2021-2030, định hướng đến năm 2050, ngành nông nghiệp tiếp tục là trụ cột trong phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương.
Tái cơ cấu ngành nông nghiệp
Tại huyện Tiên Phước, măng cụt là một trong những loại cây trồng chủ lực mang lại hiệu quả kinh tế khá ổn định cho người dân. Trong những năm qua, địa phương đã vận dụng có hiệu quả cơ chế phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại để hỗ trợ người dân các xã Tiên Mỹ, Tiên Châu, Tiên Cảnh, Tiên Hà và thị trấn Tiên Kỳ chuyển đổi cây trồng hiệu quả thấp sang cây măng cụt.
Nhiều hộ đã mạnh dạn đầu tư kinh phí lắp đặt hệ thống tưới nước tiết kiệm, thông qua trí tuệ nhân tạo, sử dụng điện thoại thông minh để kiểm soát sự vận hành, tưới nước, theo dõi sự phát triển của cây trồng. Đây là một trong những chuyển biến tích cực trong quá trình áp dụng công nghệ cao, chuyển đổi số vào sản xuất.
Ông Võ Kim Tuân, xã Tiên Mỹ chia sẻ, trước kia chưa biết áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất thì việc tưới nước cho vườn cây bằng hình thức thủ công rất tốn thời gian và gặp nhiều khó khăn. Nhưng từ khi ông lắp đặt hệ thống tưới nước thông minh mọi việc đã trở nên dễ dàng hơn. Giờ đây, ông ngồi ở nhà hoặc bất cứ ở đâu, thông qua điện thoại di động thông minh có thể điều khiển tưới nước tự động cho toàn bộ khu vườn.
Để tái cơ cấu ngành nông nghiệp, năm 2024, huyện Tiên Phước đã triển khai hỗ trợ 6,8 tỷ đồng cho 155 hộ phát triển kinh tế vườn có áp dụng công nghệ số hóa vùng trồng. Đến nay, đã có gần 1.300 hộ dân trên địa bàn huyện được hỗ trợ phát triển kinh tế vườn, trang trại mới với tổng kinh phí khoảng 40 tỷ đồng.
Điều này đã giúp hơn 1.500 hộ dân có vườn tham gia liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị nhằm hướng đến việc hoàn chỉnh và xây dựng thương hiệu các vùng trồng cây chủ lực, cây đặc sản địa phương, góp phần tăng năng suất, tăng giá trị kinh tế trên một đơn vị diện tích sản xuất.
Theo thống kê, năm 2024, tổng diện tích gieo trồng cây hằng năm của huyện Tiên Phước ước đạt 5.652ha, đạt 104,31% kế hoạch. Diện tích các cây trồng chủ lực tăng đáng kể như tiêu gần 87 ha, thanh trà hơn 307ha, bòn bon hơn 312ha, măng cụt gần 600ha và cau gần 1.200ha…
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tiên Phước Nguyễn Hùng Anh cho biết, hiệu quả đã thấy rõ khi giá trị thu nhập từ kinh tế vườn, kinh tế trang trại của huyện Tiên Phước đã tăng từ 120 triệu đồng/ha năm 2020 lên gần 170 triệu đồng/ha năm 2024 và ước đạt 172 triệu đồng/ha vào năm 2025.
“Tiên Phước phấn đấu giá trị sản xuất kinh tế vườn, kinh tế trang trại chiếm hơn 40% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của huyện”, ông Nguyễn Hùng Anh thông tin.
Dưa hấu Kỳ Lý (huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam) đã xây dựng thành công nhãn hiệu và thương hiệu hàng hóa. (Ảnh: LÊ ANH QUÂN)
Còn tại huyện Phú Ninh, địa phương xác định hạn chế lớn nhất trong kinh tế nông nghiệp là chưa thể xây dựng được các vùng sản xuất tập trung, sản xuất nguyên liệu và hàng hóa.
Phần lớn đất sản xuất vẫn thuộc quyền sử dụng cá nhân và người dân chưa đồng ý cho doanh nghiệp thuê đất để phát triển vùng sản xuất cây chủ lực theo hướng vùng sản xuất lớn. Điều này dẫn đến Phú Ninh chưa thể thu hút đầu tư mạnh trong lĩnh vực nông nghiệp.
Từ thực tế đó, Phú Ninh đã chuyển định hướng phát triển hợp tác xã quy mô hơn nhằm tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng tăng liên kết sản xuất, tăng giá trị sản phẩm nông sản.
Toàn huyện Phú Ninh hiện có 49 hợp tác xã nông nghiệp, trong đó 37 hợp tác xã đang hoạt động hiệu quả. Theo Ủy ban nhân dân huyện, trong thời gian tới, địa phương tiếp tục vận động thành lập thêm bốn hợp tác xã hoạt động trên lĩnh vực nông nghiệp; đồng thời, mở rộng số lượng thành viên, quy mô kinh doanh, thông qua các hình thức liên kết, hợp tác giữa các hợp tác xã và vận động từ 40-50% tổng số hộ nông, lâm nghiệp trên địa bàn huyện tham gia là thành viên hợp tác xã nông nghiệp.
Đặt mục tiêu doanh thu bình quân của hợp tác xã nông nghiệp đạt từ hai tỷ đồng/năm trở lên và hợp tác xã phải phù hợp với điều kiện, yêu cầu sản xuất, kinh doanh ngành hàng, sản phẩm nông nghiệp chủ lực, sản phẩm OCOP của huyện. Tập trung nguồn lực đầu tư, xây dựng ít nhất một mô hình hợp tác xã nông nghiệp phát triển bền vững, hiệu quả, phù hợp điều kiện thực tế của địa phương.
Nông dân Tam Vinh (huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam) tham gia chuỗi liên kết sản xuất ớt. (Ảnh: LÊ ANH QUÂN)
Ông Trần Quốc Doanh, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Phú Ninh cho biết, huyện xác định trong tương lai sẽ nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp theo định hướng phát triển bền vững, ứng dụng khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Ưu tiên cho các hợp tác xã nông nghiệp có định hướng phát triển gắn với phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Đồng thời, mở rộng quy mô, thu hút nông dân, người sản xuất, kinh doanh nông nghiệp tham gia. Điều này sẽ đưa hợp tác xã nông nghiệp trở thành mô hình kinh tế-xã hội quan trọng ở khu vực nông thôn, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và tăng thu nhập cho người nông dân.
Định vị thương hiệu nông nghiệp
Thực hiện Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2050 của Chính phủ và Kết luận số 91-KL/TU Hội nghị Tỉnh ủy Quảng Nam lần thứ năm, khóa XXII về phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, ngành nông nghiệp tỉnh Quảng Nam đã tập trung chỉ đạo sản xuất, phát huy tối đa các nguồn lực, thực hiện chuyển đổi mạnh mẽ sang tư duy kinh tế nông nghiệp, triển khai thực hiện có hiệu quả các đề án, nghị quyết để phát triển ngành, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, bảo đảm an sinh xã hội.
Năm 2024, được xem là năm thành công lớn của ngành nông nghiệp Quảng Nam khi giá trị sản xuất của cả ngành đạt hơn 16.200 tỷ đồng, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó, nông nghiệp đạt gần 9.800 tỷ đồng, góp phần ổn định kinh tếxã hội của tỉnh.
Theo thống kê, năm 2024, diện tích gieo trồng đạt hơn 83.000ha (đạt 100% kế hoạch), năng suất ước đạt hơn 58 tạ/ha, (tăng hơn hai tạ/ha so với năm 2023) và sản lượng lúa đạt hơn 485.000 tấn (tăng 19,8 nghìn tấn so với năm 2023)... Đến nay, Quảng Nam có 75 dự án liên kết lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, trong đó, có 66 dự án liên kết trồng lúa, rau màu, cây ăn quả và chăn nuôi. Các dự án liên kết sản xuất nông nghiệp thu hút 113 hợp tác xã, doanh nghiệp tham gia vào chuỗi với hơn 17.000 hộ dân đồng hành.
Theo quy hoạch tỉnh Quảng Nam thời kỳ 2021-2030, định hướng đến năm 2050, ngành nông nghiệp tiếp tục là trụ cột trong phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương.
Qua 7 năm triển khai thực hiện Chương trình OCOP (2018-2024), toàn tỉnh có 479 sản phẩm của 376 chủ thể được công nhận là sản phẩm OCOP; trong đó, có 419 sản phẩm ba sao, 60 sản phẩm bốn sao. Đầu năm 2025, lần đầu tiên Quảng Nam có hai sản phẩm đạt chuẩn OCOP năm sao là bánh dừa nướng Quý Thu của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất-Thương mại Quý Thu (xã Quế Xuân 2, huyện Quế Sơn) và thực phẩm bảo vệ sức khỏe SAPHRATON của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sâm Sâm (xã Trà Linh, huyện Nam Trà My).
Người dân Tiên Phước (Quảng Nam) chú trọng kinh tế vườn, kinh tế trang trại. (Ảnh: LÊ ANH QUÂN)
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hồ Quang Bửu chia sẻ, Quảng Nam đã chủ động để ứng phó với biến đổi khí hậu trong sản xuất nông nghiệp và linh hoạt thích ứng bằng các giải pháp như thay đổi cơ cấu cây trồng, phát triển hệ thống thủy lợi… đồng thời, các sản phẩm nông nghiệp phải làm theo hướng sản phẩm hữu cơ, đáp ứng các tiêu chuẩn, quy định của nhiều thị trường. Và điều cần thiết là sản phẩm nông nghiệp của Quảng Nam phải có thương hiệu để hạn chế các rủi ro và tiến tới xây dựng thương hiệu mạnh không chỉ trong nước mà còn ở thị trường thế giới.
Tỉnh Quảng Nam định hướng ngành nông nghiệp trong tương lai là phát triển nông nghiệp hữu cơ, an toàn theo hướng tăng cường liên kết chuỗi, ứng dụng công nghệ tiên tiến, thích ứng biến đổi khí hậu; chuyển đổi cây trồng các vùng khô hạn, nhiễm mặn, các vùng trồng lúa kém hiệu quả sang các loại cây trồng, vật nuôi, các vùng chuyên canh rau màu, dược liệu có giá trị cao; hình thành các vùng sản xuất nông sản thực phẩm an toàn cung cấp cho thị trường. Quy hoạch, đầu tư hạ tầng bảo đảm ổn định vùng lúa giống chất lượng cao.
Phát triển nông nghiệp gắn với sản xuất các sản phẩm OCOP, đưa Quảng Nam trở thành địa phương dẫn đầu trong vùng về số lượng, chủng loại, chất lượng sản phẩm OCOP. Bảo tồn, phát triển các làng nghề, làng nghề truyền thống gắn với phát triển các sản phẩm nông nghiệp giàu bản sắc vùng miền. Khuyến khích phát triển chăn nuôi theo nhóm hộ, trang trại, quy mô bán công nghiệp, an toàn. Đẩy mạnh kinh tế vườn, kinh tế trang trại, chuyển đổi trồng các loại cây ăn trái theo mùa vụ với các loại hình hợp tác xã kết hợp phát triển du lịch cộng đồng.
“Năm 2025, hai mục tiêu mà Quảng Nam phải đạt là xây dựng được các thương hiệu lớn cho ngành nông nghiệp để xuất khẩu và đẩy mạnh du lịch nông nghiệp, nông thôn; đồng thời, giải quyết câu chuyện thích ứng biến đổi khí hậu để trong tương lai Quảng Nam định hình trên bản đồ kinh tế nông nghiệp toàn quốc là địa phương mạnh có những sản phẩm đặc sản xuất khẩu, vươn tầm thế giới”, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hồ Quang Bửu kỳ vọng.
LÊ ANH QUÂN
Mỗi xã ở Thanh Hà phấn đấu xây dựng 1 sản phẩm OCOP 3 sao trong năm nay
Xây dựng sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP 3 sao nhằm tiếp tục nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp của huyện Thanh Hà (Hải Dương).
Rươi là sản phẩm OCOP của một chủ thể ở xã Vĩnh Cường
Năm 2025, mỗi xã của huyện Thanh Hà sẽ xây dựng 1 sản phẩm OCOP 3 sao trở lên. Đây là mục tiêu được huyện Thanh Hà đặt ra nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế của địa phương, nâng cao thu nhập, đời sống cho người dân. Qua đó thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển bền vững, ứng dụng chuyển đổi số, bảo tồn các giá trị văn hóa, bảo tồn đa dạng sinh học, cảnh quan và môi trường nông thôn, góp phần xây dựng nông thôn mới theo chiều sâu, hiệu quả và bền vững.
Huyện Thanh Hà sẽ thưởng 8 triệu đồng cho sản phẩm được công nhận OCOP 3 sao lần đầu. Các sản phẩm được công nhận lần đầu cũng được hỗ trợ kinh phí cấp giấy chứng nhận an toàn thực phẩm, mức hỗ trợ theo thực tế, không quá 5 triệu đồng/sản phẩm. Hỗ trợ kinh phí in tem, bao bì, mức hỗ trợ theo thực tế hóa đơn, không quá 5 triệu đồng/sản phẩm...
Huyện Thanh Hà hiện có 20 sản phẩm OCOP được chứng nhận 3 sao và 4 sao còn hiệu lực.
MINH NGUYÊN
Trên 'đôi cánh' HTX, nông dân Bạc Liêu tự tin làm nông nghiệp thông minh, xóa điệp khúc 'được mùa mất giá'
Với điều kiện thổ nhưỡng đặc thù mặn, ngọt và lợ đã tạo nên những tiền đề để Bạc Liêu đa dạng hóa các loại cây trồng, vật nuôi. Đặc biệt, nhiều mô hình sản xuất được nâng chất theo hướng thông minh, ứng dụng khoa học công nghệ đang mang lại hiệu quả vượt trội.
Trong thời gian qua, mặc dù chịu ảnh hưởng bởi thời tiết diễn biến phức tạp, giá cả vật tư tăng cao nhưng HTX Ba Đình, xã Vĩnh Lộc A, huyện Hồng Dân vẫn chủ động liên kết với các đối tác để cung cấp các dịch vụ như con giống, lúa giống, phân bón, thuốc BVTV, … với giá cả hợp lý để cho thành viên và nông dân trong vùng an tâm sản xuất.
Làm nông thông minh
HTX Ba Đình cũng chủ động phối hợp, tìm kiếm chính sách hỗ trợ của các ngành chuyên môn nhằm tổ chức hướng dẫn kỹ thuật cho thành viên sản xuất tôm, nâng cao hiệu quả.
Đặc biệt, HTX đang là một trong những đơn vị tiên phong ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, với việc triển khai sử dụng phần mềm FaceFarm để theo dõi quy trình sản xuất và phần mềm WACA để quản lý tài chính một cách minh bạch.
Sản xuất thông minh hơn giúp nông dân, HTX ở Bạc Liêu nâng cao giá trị gia tăng.
FaceFarm là một phần mềm hiện đại cho phép HTX Ba Đình giám sát toàn bộ quy trình sản xuất từ giai đoạn gieo trồng đến thu hoạch. Thông qua FaceFarm, các thành viên có thể theo dõi tình trạng cây trồng, lịch sử chăm sóc, sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật.
Những thông tin được cập nhật hàng ngày từ FaceFarm giúp HTX nắm bắt kịp thời tình hình sản xuất, phát hiện sớm các vấn đề phát sinh và đưa ra giải pháp nhanh chóng hơn, từ đó nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
Trong khí đó, việc áp dụng phần mềm WACA đã giúp HTX Ba Đình quản lý tài chính một cách hiệu quả và minh bạch hơn. WACA cung cấp các công cụ để theo dõi thu chi, lập báo cáo tài chính và phân tích hiệu quả kinh doanh. Nhờ đó, HTX có thể đưa ra các quyết định tài chính chính xác, nâng cao sự tin tưởng của các thành viên vào hoạt động của HTX.
Ngoài ra, nhờ đẩy mạnh chuyển đổi số, HTX Ba Đình tăng cường quảng bá sản phẩm qua các nền tảng mạng xã hội như TikTok, Zalo, Facebook và website của Liên minh HTX tỉnh, giúp sản lượng tiêu thụ tăng 20 - 30%.
Chuyển đổi số còn giúp các HTX mở rộng kênh tiêu thụ, tiếp cận trực tiếp với người tiêu dùng qua các nền tảng số, giảm bớt sự phụ thuộc vào các phương thức phân phối truyền thống.
Xây nền tảng công nghệ
Không chỉ là trường hợp đơn lẻ, hiện có khoảng 95 HTX trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu đã trang bị đầy đủ các thiết bị công nghệ thông tin như máy tính, điện thoại thông minh và kết nối Internet, tạo nền tảng cho việc áp dụng các phần mềm quản lý, truy xuất nguồn gốc sản phẩm và thực hiện giao dịch trực tuyến.
Việc ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số đã góp phần nâng cao thu nhập cho các thành viên HTX. Chẳng hạn, HTX Tâm Bình (xã Vĩnh Thịnh, huyện Hòa Bình) là một điển hình trong ngành sản xuất muối với sự kết hợp giữa truyền thống và công nghệ hiện đại. Với tổng diện tích 68ha, trong đó có 48ha muối trải bạt, HTX đã tạo ra sản lượng hơn 4.000 tấn muối mỗi năm, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống của các thành viên.
Một trong những yếu tố then chốt giúp HTX Tâm Bình phát triển bền vững chính là việc ứng dụng công nghệ vào sản xuất. Thay vì phương pháp làm muối truyền thống với nền đất, HTX đã triển khai mô hình trải bạt nhựa trên ruộng muối. Điều này giúp cải thiện đáng kể chất lượng sản phẩm, hạn chế tạp chất, tăng độ trắng của muối và giảm thời gian sản xuất.
HTX, nông dân ở Bạc Liêu đang đầu tư mạnh cho khoa học công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất.
Không chỉ vậy, HTX còn đầu tư vào hệ thống bơm nước biển tự động, giúp kiểm soát tốt hơn độ mặn của nước, từ đó nâng cao hiệu suất kết tinh muối. Nhờ vào các biện pháp khoa học này, muối của HTX Tâm Bình luôn đạt tiêu chuẩn cao, được thị trường trong và ngoài tỉnh ưa chuộng.
Đặc biệt, một trong những bước đi chiến lược của HTX Tâm Bình là xây dựng kho trữ muối. Trước đây, do thiếu cơ sở lưu trữ, người làm muối thường phải bán ngay sau khi thu hoạch với giá thấp. Tuy nhiên, với hệ thống kho bãi được đầu tư bài bản, HTX có thể bảo quản muối trong thời gian dài mà không ảnh hưởng đến chất lượng.
Công tác bảo quản được hoàn thiện là điều kiện để HTX Tâm Bình có thể chủ động điều tiết sản lượng bán muối ra thị trường, lựa chọn thời điểm giá muối cao để giao dịch, mang lại lợi nhuận tốt hơn. HTX hiện có trên 50 thành viên, hàng trăm lao động, 100% các hộ có thu nhập ổn định, nhiều hộ vươn lên thành triệu phú, tỷ phú.
Khơi thông những điểm nghẽn
Có thể nói, chuyển đổi số là một xu hướng không thể thiếu đối với sự phát triển của các HTX trong thời đại công nghệ 4.0. Đây cũng là cơ hội lớn để thúc đẩy ứng dụng công nghệ trong khu vực kinh tế hợp tác, HTX, giúp tăng cường năng lực cạnh tranh và nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh.
Nhằm thúc đẩy ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các HTX, thời gian qua, Liên minh HTX Việt Nam đang triển khai nhiều giải pháp quan trọng.
Điển hình, một số nền tảng số tiêu biểu đã được phát triển và đưa vào vận hành, như: Chợ sản phẩm trực tuyến và phần mềm truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Đây là những công cụ quan trọng giúp HTX nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững trong thời kỳ kinh tế số…
Ngày 6/3/2025, Liên minh HTX Việt Nam đã tổ chức hội nghị tại Bạc Liêu để tìm ra giải pháp hỗ trợ các HTX trong việc đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Bên cạnh đó, Liên minh HTX tỉnh Bạc Liêu đã chủ động hỗ trợ các HTX sử dụng các nền tảng số, từ quản lý sản xuất, quảng bá sản phẩm đến kết nối với thị trường qua các sàn thương mại điện tử.
Hiện, có hơn 30 HTX trên địa bàn tỉnh đã tham gia vào các sàn thương mại điện tử và sử dụng các nền tảng số để quảng bá sản phẩm, giúp tiếp cận thị trường một cách nhanh chóng và hiệu quả. Các sản phẩm của HTX, từ nông sản đến thủy sản, giờ đây đã có mặt trên các nền tảng thương mại điện tử lớn như Postmart.vn và Voso.vn, góp phần gia tăng giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ.
Những chuyển biến rõ ràng là rất tích cực, tuy nhiên, quá trình chuyển đổi số trong các HTX tại Bạc Liêu vẫn đang gặp phải một số rào cản lớn. Phần lớn các HTX chỉ mới áp dụng công nghệ trong các công việc quản lý cơ bản, chưa có sự đột phá.
Nhiều HTX vẫn gặp khó khăn trong việc xây dựng nguồn lực tài chính cần thiết để đầu tư vào công nghệ. Năng lực đội ngũ cán bộ quản lý là một yếu tố quyết định, trong khi đa phần chưa được đào tạo bài bản về công nghệ số và kỹ năng sử dụng các công nghệ thông tin, từ smartphone đến các phần mềm quản lý phức tạp.
Trước thực tế trên, ông Nguyễn Văn Vũ, Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh, cho biết trong thời gian tới, Liên minh HTX tỉnh sẽ tích cực phối hợp tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu về công nghệ số, giúp các cán bộ quản lý và thành viên HTX nâng cao nhận thức về vai trò quan trọng của chuyển đổi số đối với sự phát triển bền vững của HTX cũng như nâng cao kiến thức và kỹ năng sử dụng các phần mềm công nghệ, nền tảng thương mại điện tử.
Cùng với đó là đẩy mạnh các chính sách hỗ trợ chuyển đổi số phù hợp với đặc thù của từng HTX, đặc biệt là việc hỗ trợ về nguồn vốn đầu tư vào công nghệ và thiết bị...
Sáu Ngạn
'Cầu nối' đưa sản phẩm nông nghiệp Vĩnh Yên ra thị trường
Những năm gần đây, đến với các hội chợ trưng bày các sản phẩm nông, lâm sản của tỉnh, huyện Bảo Yên, gian hàng xã Vĩnh Yên được khách hàng ghé thăm, tìm hiểu và mua nhiều sản phẩm làm quà, trong đó có các sản phẩm mang nhãn hiệu Hợp tác xã Nông nghiệp dịch vụ Vĩnh Yên như tinh dầu quế, tinh dầu sả…
Chia sẻ với chúng tôi, chị Lò Thị Liên, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp dịch vụ Vĩnh Yên cho biết: Hợp tác xã tập hợp 16 hội viên là những nông dân trong xã, tham gia trên tinh thần tự nguyện. Ngoài yếu tố kinh doanh đem lại nguồn thu cho các thành viên, hợp tác xã còn là cầu nối kết nối giữa các hộ dân sản xuất nông, lâm sản của xã với các nhà máy và thị trường.
Hợp tác xã Nông nghiệp dịch vụ Vĩnh Yên thành lập năm 2020, hoạt động theo mô hình hợp tác xã kiểu mới, tự chủ và kết nối với nông dân xây dựng vùng sản xuất, gắn với tiêu thụ sản phẩm… Với sự năng động và nhạy bén với thị trường, hợp tác xã là một trong những mô hình hiệu quả, hướng đến sản xuất nông nghiệp xanh, an toàn và bền vững, mang lại thu nhập tốt cho nhiều hội viên.
Đóng chân trên địa bàn xã Vĩnh Yên, nơi được coi là “vựa quế” của huyện Bảo Yên và của tỉnh, mặt hàng chủ lực của hợp tác xã là tinh dầu quế. Mỗi năm vào những mùa thu hoạch quế, từ tháng 3 đến tháng 5 và từ tháng 8 đến cuối năm, các thành viên hợp tác xã “căng mình” làm việc. Công việc thường ngày là chia nhóm đến các thôn xa thu mua cành, lá quế và quế bóc vỏ của bà con, sau đó gom thành những chuyến hàng lớn bán cho nhà máy và bán cho các thương lái. Việc thu gom khá thuận lợi, bởi các thành viên đều là người của xã nên thông thuộc địa hình, lại có xe 5 tấn sẵn sàng đi đến các đồi xa và khó khăn nhất nên việc thu mua kịp thời. Hơn nữa, hợp tác xã thu mua bình ổn, không có việc ép giá như các thương lái, thậm chí giá thu mua của bà con còn cao hơn 1 - 2 giá so với các thương lái, do đó bà con thường tin tưởng bán qua hợp tác xã.
Với phần nguyên liệu thu mua được, hợp tác xã sẽ bán cho nhà máy ép tinh dầu, sau đó lại mua tinh dầu thô từ nhà máy về để chưng cất, chắt lọc ra tinh dầu nguyên chất. Mỗi năm, hợp tác xã mua từ nhà máy hơn 400 lít tinh dầu. sau khi chưng cất sẽ chiết xuất ra những chai, lọ có dung tích phù hợp với nhu cầu của thị trường để cung cấp ra các địa phương trong và ngoài tỉnh.
Chị Lò Thị Liên cho biết thêm: Liên kết, bao tiêu cho bà con sản phẩm chính là vỏ và cành lá quế. Tinh dầu thì hợp tác xã có hợp đồng liên kết với bà con để thu mua cành, lá về rồi bán lại cho nhà máy, hợp đồng liên kết lại bao tiêu tinh dầu cho nhà máy.
Ngoài việc tiêu thụ tinh dầu quế cho nhà máy, hợp tác xã cũng bao tiêu sản phẩm tinh dầu sả của nhà máy. Những loại tinh dầu quế, sả thô sau khi chưng cất đều được thị trường đón nhận. Hợp tác xã cũng tích cực tham gia các kỳ hội chợ, trưng bày để giới thiệu sản phẩm, mở rộng thị trường. Như vào cuối năm 2024, hợp tác xã tham gia trưng bày sản phẩm tại Đà Nẵng theo chương trình của Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp tỉnh và ký được đơn hàng xuất bán với đối tác tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn có các mối khách hàng ở Quảng Ninh, Hà Tĩnh cũng rất ưa chuộng các sản phẩm tinh dầu do hợp tác xã cung cấp.
Mỗi năm, ngoài thu mua khoảng 380 - 400 tấn vỏ quế khô, hợp tác xã còn thu mua cành, lá quế, cây sả, chiết xuất khoảng trên 400 lít tinh dầu quế và sả đạt 4 sao OCOP để cung cấp cho thị trường.
Cùng với thu mua và bao tiêu sản phẩm từ quế, sả, Hợp tác xã Nông nghiệp dịch vụ Vĩnh Yên còn thu mua sản phẩm củ sắn tươi của bà con bán cho thương lái. Với phương châm trợ giúp, bao tiêu sản phẩm cho bà con, hợp tác xã luôn niêm yết giá cả thu mua rõ ràng, tích cực tìm đầu ra ổn định, để giúp bà con nông dân được hưởng lợi, yên tâm sản xuất. Các sản phẩm đem lại doanh thu khá ổn định, tạo việc làm, thu nhập cho 19 xã viên với khoảng 4 triệu đồng/người/tháng, chưa kể hàng trăm lao động thời vụ.
Từ năm 2023, với sự hỗ trợ của Trung tâm Hợp tác và Xúc tiến lâm nghiệp quốc tế Nhật Bản (JIFPRO), hợp tác xã đã triển khai dự án SNRM, hỗ trợ người dân địa phương chuyển đổi sang sản xuất cây quế hữu cơ nhằm tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo đầu ra sản phẩm ổn định.
Chị Lò Thị Liên, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp dịch vụ Vĩnh Yên, huyện Bảo Yên cho biết thêm: “Giai đoạn 1, dự án cấp giống và phân cho 19 hộ, diện tích 16,5 ha; giai đoạn 2 đang triển khai, được hơn 26,5 ha”.
Trong định hướng phát triển, Hợp tác xã Nông nghiệp dịch vụ Vĩnh Yên dự định đầu tư hệ thống chưng cất tinh dầu hiện đại, sử dụng nguyên liệu đốt hoàn toàn từ rác thải tự nhiên, không gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, hợp tác xã cũng sẽ tìm hiểu, liên kết để chuyển giao công nghệ trong việc làm phân bón từ bã lá quế sau khi ép, để tăng nguồn thu cho các thành viên và cung cấp sản phẩm phân hữu cơ an toàn cho vùng trồng nông, lâm nghiệp của xã cũng như các xã lân cận, góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Tô Dung
Đưa nông nghiệp Thủ đô 'cất cánh'
Hà Nội đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 và hai con số trong giai đoạn 2026 - 2030. Để đạt được mục tiêu trên, lĩnh vực nông nghiệp cần bảo đảm mức tăng trưởng liên tục trên 3%. Điều này đòi hỏi ngành nông nghiệp cần đẩy mạnh phát triển các mô hình sản xuất có hiệu quả kinh tế cao dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ.
Giá trị kinh tế vượt trội
Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Kinoko Thanh Cao (huyện Mỹ Đức) là một trong những DN tiên phong trong ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất. Trong gần 10 năm qua, khoảng 70 tỷ đồng đã được DN này huy động để phát triển quy trình sản xuất nấm. Giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Kinoko Thanh Cao Dương Thị Thu Huệ cho biết, đơn vị đã xây dựng hệ thống sản xuất nấm hoàn chỉnh từ phòng cấy giống, vườn ươm đến khu sơ chế, đóng gói thành phẩm.
Trồng rau theo công nghệ cao tại xã Phú Cường, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Ảnh: Phạm Hùng
Hiện, 95% sản phẩm của công ty là nấm kim châm, còn lại là nấm hương, nấm linh chi, nấm bào ngư… Năng suất bình quân đạt 3 tấn/ngày, mang lại doanh thu hàng tỷ đồng/năm cho DN và tạo việc làm cho hàng chục nhân công.
Là DN ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi nhiều năm qua, Công ty CP Giống gia cầm Ngọc Mừng (huyện Đông Anh) hiện đang cung cấp cho thị trường một lượng lớn con giống gia cầm với chất lượng từng bước được khẳng định. Giám đốc Công ty CP Giống gia cầm Ngọc Mừng Hoàng Mạnh Ngọc cho biết, trên diện tích 5ha, đơn vị đang chăn nuôi 20 vạn con gà, sử dụng 100 máy ấp trứng. Quy trình sản xuất con giống được kiểm soát bằng công nghệ 4.0.
Việc tự động hóa trong quy trình chăn nuôi giúp đàn gà phát triển tốt, giảm nguy cơ dịch bệnh. Trung bình mỗi tháng, Công ty CP Giống gia cầm Ngọc Mừng cung cấp cho thị trường khoảng 600.000 con gà giống.
Trích dẫn
Trích dẫn 1
Chia sẻ góc nhìn về nông nghiệp Hà Nội, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, nguyên Bộ trưởng Bộ NN&PTNT cho rằng: Hà Nội cần phát triển thành nền nông nghiệp tri thức, nông nghiệp dựa trên trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data)... Đây là điều hoàn toàn có thể, bởi Hà Nội là địa bàn đứng chân của nhiều cơ sở nghiên cứu, giáo dục lớn. Đánh giá Hà Nội hiện nay có nhiều lợi thế, nhưng vẫn đang bị tách rời, ông Lê Minh Hoan mong muốn, TP “cần có tư duy mở để tạo không gian phát triển lớn hơn”; trong đó, ưu tiên hàng đầu là cần phải có quy hoạch rõ ràng cho nông nghiệp, để thu hút DN có tiềm lực về vốn, nhân lực, khoa học công nghệ.
Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội, trên địa bàn TP hiện có 285 mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, trong đó có 185 mô hình thuộc lĩnh vực trồng trọt, 45 mô hình thuộc lĩnh vực chăn nuôi, 54 mô hình thuộc lĩnh vực thủy sản, 1 mô hình kết hợp trồng trọt và chăn nuôi.
Qua đánh giá, các mô hình nông nghiệp ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn phương thức sản xuất truyền thống từ 15 - 20%. Giá trị sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao ngày một tăng, hiện chiếm khoảng 40% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội.
Khai thác hiệu quả nguồn lực
Có thể thấy, các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn Hà Nội đang phát triển phổ biến trên nhiều lĩnh vực, từ trồng trọt đến chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh hiệu quả kinh tế vượt trội mang lại, các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao còn từng bước thay đổi phương thức sản xuất theo hướng giá trị cao và bền vững.
Mặc dù vậy, hạn chế, khó khăn trong việc nhân rộng những mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chưa phải đã hết. Theo Giám đốc Hợp tác xã Đan Hoài (huyện Đan Phượng) Bùi Hường Bích, vấn đề nổi cộm là cơ sở hạ tầng, nguồn vốn, khả năng tiếp cận công nghệ và cơ chế, chính sách khuyến khích sự tham gia của các nhà khoa học, DN.
Để thúc đẩy lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, đại diện một số DN, hợp tác xã cho rằng, cần giải quyết tốt bài toán vốn và kỹ thuật sản xuất thông qua thúc đẩy các chính sách khuyến khích nhà khoa học, DN đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Hỗ trợ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ sản xuất, nhất là đối với các hợp tác xã, DN vừa và nhỏ…
Nhấn mạnh Hà Nội có lợi thế về nhân lực và thị trường, GS.TS Trần Đức Viên - Chủ tịch Hội đồng khoa học và đào tạo Học viện Nông nghiệp Việt Nam cho rằng, TP cần nghiên cứu xây dựng thêm những cơ chế, chính sách đặc thù, đủ mạnh thì khi đó mới mong nông nghiệp phát triển khác biệt… “Ngành nông nghiệp Hà Nội cần ưu tiên tập trung phát triển những cây trồng - vật nuôi đặc sản. Đầu tư mạnh hơn nữa cho khoa học - công nghệ và các công đoạn mang lại giá trị kinh tế cao nhất…” - GS.TS Trần Đức Viên khuyến nghị.
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội Nguyễn Xuân Đại cho biết, TP phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 và hai con số trong giai đoạn 2026 - 2030. Điều này đòi hỏi sự tham gia tích cực của ngành nông nghiệp. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng nông nghiệp 3,1% năm 2025 và trên 3% trong giai đoạn 2026 - 2030, việc tiếp tục duy trì và phát triển các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là giải pháp trọng tâm. Song hành cùng thúc đẩy hoạt động chế biến sâu, hỗ trợ DN đẩy mạnh xuất khẩu nông sản.
Thời gian tới, ngành nông nghiệp Hà Nội sẽ tiếp tục phối hợp với các địa phương triển khai có hiệu quả, để đưa cơ chế, chính sách hỗ trợ theo Nghị quyết số 08/2023/NQ-HĐND của HĐND TP đến với người dân. Mở các lớp tập huấn, phổ biến, chuyển giao kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản nhằm phát triển, nhân rộng các mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao…
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội Nguyễn Xuân Đại cũng nhấn mạnh, nhiệm vụ rà soát quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp tập trung ứng dụng công nghệ cao; công bố công khai quy hoạch vùng sản xuất chuyên canh để kêu gọi cá nhân, DN đầu tư. Đặc biệt, ngành nông nghiệp Hà Nội sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thân thiện với môi trường, để khoa học - công nghệ thực sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển nông nghiệp.
Trích dẫn
Trích dẫn 2
Hà Nội đang trong quá trình đô thị hóa rất nhanh, do đó, nông nghiệp Hà Nội cũng cần phát triển khác biệt so với các địa phương khác trên cơ sở vận dụng 3 lợi thế về trí tuệ (nguồn nhân lực), khoa học - công nghệ và nguồn lực đầu tư. Bên cạnh đó, phát triển các mô hình nông nghiệp cũng cần đổi mới hơn theo hướng liên kết…
Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Mạnh Quyền
Trọng Tùng
Nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển kinh tế nông nghiệp
Để kinh tế nông nghiệp ở địa phương phát triển hiệu quả, bền vững, những năm qua, tỉnh Quảng Trị triển khai đồng bộ các chính sách của trung ương trong lĩnh vực nông nghiệp. Nhờ vậy, sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh phát triển toàn diện, góp phần thúc đẩy sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và cải thiện đời sống người dân nông thôn.
Mô hình nuôi cá kết hợp chăn nuôi vịt hiệu quả ở Triệu Phong -Ảnh: M.L
UBND tỉnh đã cụ thể hóa, ban hành các kế hoạch, cơ chế chính sách và bố trí nguồn lực để triển khai thực hiện chính sách phù hợp để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021-2025.
Triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia: xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; phát triển lâm nghiệp bền vững; các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế thủy sản, hỗ trợ liên kết tiêu thụ sản phẩm...Huy động nguồn vốn đầu tư ngân sách địa phương cho phát triển nông nghiệp hỗ trợ các sản phẩm chủ lực, thúc đẩy ứng dụng công nghệ cao, phát triển nông nghiệp hữu cơ và xây dựng nông thôn mới.
Từ các nguồn vốn huy động được, tỉnh thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển một số cây trồng, vật nuôi có lợi thế cạnh tranh như lúa chất lượng cao, cà phê, hồ tiêu, cây ăn quả, dược liệu, gỗ nguyên liệu, con bò và con tôm. Đến nay, có hơn 1.784 ha cây trồng có liên kết với các doanh nghiệp để bao tiêu sản phẩm. Nhiều mô hình ứng dụng công nghệ cao, sản lượng chăn nuôi hằng năm đều tăng trên 15%.
Nhiều sản phẩm đã xây dựng được chuẩn hóa và xây dựng thương hiệu; được hỗ trợ xúc tiến thương mại, tiếp cận thị trường trong nước và quốc tế như: gạo hữu cơ, hồ tiêu hữu cơ, cà phê chè Khe Sanh, cao dược liệu, gỗ trồng rừng đạt chứng chỉ trồng rừng bền vững (FSC, PEFC, ...); thúc đẩy chế biến sâu, áp dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn tiên tiến như HACCP, ISO 22000, GMP.
Đến nay, toàn tỉnh có 172 sản phẩm OCOP được công nhận, trong đó có 2 sản phẩm OCOP được công nhận OCOP 5 sao, 33 sản phẩm đạt OCOP 4 sao và 137 sản phẩm đạt 3 sao. Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng trên địa bàn ưu tiên nguồn vốn tín dụng cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn. Từ đó cung cấp nguồn vốn cho nhu cầu đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Nhờ triển khai tích cực các chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp, tốc độ tăng trưởng nông-lâm-ngư nghiệp của Quảng Trị bình quân 5 năm trở lại đây đạt 2,96%, đạt mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra (KH: 2,5-3%/năm). Sản lượng lương thực có hạt bình quân đạt 29 vạn tấn/ năm, đạt 111,6% so với kế hoạch (mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh là 26 vạn tấn). Chăn nuôi phát triển theo hình thức thâm canh bán công nghiệp và công nghiệp, hình thành nhiều gia trại, trang trại, áp dụng có hiệu quả nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng tốc độ chu chuyển, nâng cao chất lượng đàn, tăng sản lượng thịt hơi xuất chuồng cũng như giá trị sản xuất của chăn nuôi.
Công tác bảo vệ và phát triển rừng luôn được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo và triển khai đồng bộ, tỉ lệ che phủ rừng được duy trì hằng năm đạt gần 50%. Đến nay toàn tỉnh có 26.002,90 ha rừng có chứng chỉ FSC, tăng 27,7% so với năm 2020, là tỉnh đứng đầu cả nước về diện tích rừng trồng được tổ chức quốc tế cấp chứng chỉ FSC.
Phát huy tiềm năng lợi thế về kinh tế biển, đẩy mạnh khai thác, nuôi trồng đi đôi với bảo vệ môi trường, nguồn lợi thủy sản; từng bước chuyển dịch, phát triển kinh tế thủy sản theo hướng bền vững. Diện tích nuôi thủy sản đạt 3.141ha, trong đó hơn 110 ha nuôi thủy sản theo hướng công nghệ cao.
Chất lượng khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã (HTX) ngày càng được nâng cao. Toàn tỉnh có 318 HTX nông nghiệp và 2 liên hiệp HTX nông nghiệp hoạt động theo Luật HTX, tăng 28 HTX so với năm 2020. Có 193 HTX xếp loại khá, tốt, 81 HTX có tham gia liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho thành viên của HTX, chiếm 25,47% số HTX; 28 HTX có sản phẩm OCOP 3 sao trở lên.
Giai đoạn 2020- 2025, toàn tỉnh có thêm 18 xã đạt chuẩn nông thôn mới, nâng tổng số xã đạt chuẩn đến cuối năm 2024 là 75/101 xã, chiếm 74,25% (nếu tính số xã sau sáp nhập hiện nay là 69/95 xã); dự kiến cuối năm 2025 có thêm 6 xã, nâng số xã đạt chuẩn lên 75/95 xã đạt chuẩn (số xã tính sau sáp nhập), đạt 78,9% xã đạt chuẩn.Đến nay có 27 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 8 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; có thêm 4 huyện đạt chuẩn nông thôn mới.
Trong giai đoạn 2021-2024, tổng giá trị đầu tư công trong nông nghiệp đã thực hiện đạt 674 tỉ đồng, điều đó cho thấy sự quan tâm và ưu tiên của Nhà nước đối với lĩnh vực đầu tư công trong nông nghiệp.
Mặc dù là tỉnh có ngân sách còn hạn hẹp, tuy nhiên nguồn vốn chi thường xuyên trong nông nghiệp vẫn được tỉnh duy trì và tăng đều qua các năm. Trong giai đoạn 2015-2024 ngân sách chi thường xuyên cho nông nghiệp là 1.950 tỉ đồng, trong đó từ năm 2021 đến năm 2024 là 754 tỉ đồng.
Nhìn chung, kinh tế nông nghiệp của tỉnh tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí chiến lược trong nền kinh tế, an ninh lương thực được đảm bảo, cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, tập trung chuyên canh, thâm canh, khai thác được tiềm năng đất đai và lợi thế mỗi vùng, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế.
Minh Long
Hiệu quả trồng mướp đắng theo hướng canh tác tự nhiên ở xã Hải Dương
Xã Hải Dương, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị có vùng đất cát pha rộng lớn. Trước đây, vùng đất này gặp nhiều khó khăn trong sản xuất nông nghiệp do đất đai bạc màu. Những năm trở lại đây, người dân Hải Dương áp dụng mô hình trồng mướp đắng theo hướng canh tác tự nhiên đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần cải thiện môi trường canh tác.
Kiểm tra các mô hình dự án trồng mướp đắng theo hướng canh tác tự nhiên tại xã Hải Dương -Ảnh: M.T
Hiện nay, thực phẩm sạch được người dân quan tâm, nhất là đối với sản phẩm rau sạch. Tình trạng lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật đã ảnh hưởng lâu dài tới môi trường, nguồn nước ngầm và đất đai. Nền nông nghiệp đang đứng trước những thách thức không nhỏ đó là: vấn đề ô nhiễm môi trường, đất đai bạc màu, suy giảm đa dạng sinh học, bùng phát sâu bệnh do sự phá hủy hệ sinh thái xuất phát từ việc lạm dụng hóa chất trong sản xuất ... Bên cạnh đó, việc không có hợp tác trong tiêu thụ sản phẩm nên thị trường sản phẩm nông nghiệp sạch bấp bênh. Do đó, sản xuất nông nghiệp chưa bền vững.
Nhằm giúp nhóm cộng đồng cải thiện một phần sinh kế khi tham gia quản lý và bảo vệ rừng của địa phương, Dự án FMCR đã hỗ trợ một phần kinh phí để xây dựng gói sinh kế cho người dân, qua đó để nâng cao thu nhập và khai thác lợi thế vùng cát. Nhận thấy cây mướp rất phù hợp với đất đai và khí hậu ở vùng cát, năm 2023, nhóm cộng đồng gồm 70 thành viên sống trên địa bàn xã Hải Dương đã đăng ký thực hiện 10 ha trồng mướp đắng bằng hình thức canh tác tự nhiên tại thôn Đông Dương, xã Hải Dương, huyện Hải Lăng.
Nguyên tắc của phương pháp canh tác tự nhiên là sản xuất dựa vào nguồn lực có sẵn trong tự nhiên thay cho việc thâm canh dựa vào hóa chất để tạo ra năng suất vượt trội. Cốt lõi của phương pháp canh tác tự nhiên là tạo ra sản phẩm nông nghiệp sạch, bảo vệ sức khỏe con người, bảo vệ đất đai, nguồn nước, làm nền tảng căn bản cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Sản phẩm làm ra cũng đảm bảo an toàn cho người sử dụng. Được dự án FMCR đầu tư thực hiện mô hình, nhóm trồng mướp đắng canh tác tự nhiên được trang bị về kiến thức khoa học kỹthuật trong quá trình triển khai thực hiện mô hình, được hỗ trợ tìm kiếm thịtrường vàxây dựng chuỗi liên kết tiêu thụnông sản.
Điểm đổi mới của mô hình trồng mướp theo canh tác tự nhiên so với các mô hình sản xuất thông thường là sử dụng phân bón compost và sử dụng chế phẩm dinh dưỡng, thảo mộc lên men để cung cấp trong suốt quá trình sinh trưởng của cây mướp. Nếu như việc sử dụng phân vô cơ nhiều năm sẽ đem lại tác hại như: làm gia tăng sự mẫn cảm của cây trồng với các loại bệnh, diệt các tập đoàn vi sinh vật có lợi, làm cho nhiều diện tích đất trồng trọt bị suy giảm độ phì nhiêu, mất cân đối dinh dưỡng trong đất, đất chai cứng, năng suất cây trồng giảm và tăng các chi phí sản xuất, ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe của con người... thì việc áp dụng quy trình trồng canh tác tự nhiên sẽ làm tăng độ phì nhiêu của đất, tăng chất khoáng và vi sinh vật hữu hiệu cho đất, có tác dụng cải tạo đất rất tốt, nhất là đối với các loại đất bị suy thoái. Về lâu dài sẽ giúp khả năng chống chịu sâu bệnh của mướp tốt hơn, giúp cho trái chắc, thịt dày.
Khi trồng mướp theo canh tác tự nhiên không còn tình trạng vỏ chai thuốc bảo vệ thực vật hóa học vứt bỏ tràn lan trên đồng ruộng mà thay vào đó là ý thức chấp hành quy trình trồng mướp bằng phân compost, phun chế phẩm dinh dưỡng, chế phẩm thảo mộc vi sinh giúp cây mướp sinh trưởng phát triển tốt, cải tạo đất và bảo vệ sức khỏe người nông dân.
Theo một số người dân cho biết, so với các vụ trước giai đoạn từ khi cây con đến thu hoạch bà con thường sử dụng các loại thuốc BVTV để phòng trừ sâu bệnh hại, làm ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và môi trường. Mùa vụ năm nay khi sử dụng các chế phẩm dinh dưỡng, thảo mộc người dân an tâm hơn trong suốt quá trình chăm sóc, thu hoạch mướp, không còn cảm thấy lo sợ ảnh hưởng của thuốc hóa học. Đồng thời, cây mướp sinh trưởng, phát triển đồng đều, ít sâu bệnh hơn, không còn hiện tượng rụi lá ở phần gốc. Định hướng các vụ sau bà con vẫn tiếp tục triển khai, mở rộng mô hình canh tác tự nhiên.
Ngoài ra, sản phẩm mướp đắng hữu cơ có hàm lượng dinh dưỡng cao hơn, an toàn hơn cho người tiêu dùng. Điều này góp phần nâng cao giá trị thương hiệu của nông sản địa phương.
Phó Chủ tịch UBND xã Hải Dương Võ Trung Hiếu cho biết: “Năm 2023, vụ đầu tiên trồng mướp đắng theo hướng canh tác tự nhiên năng suất thấp hơn so với canh tác thông thường tại địa phương, nhưng thu nhập cao hơn từ 20-21 triệu đồng/ha và giảm chi phí đầu tư hơn so với canh tác thông thường.
Ngoài ra, sản xuất canh tác tự nhiên đã cải tạo môi trường tốt về đất đai, chống được sa mạc hóa vùng cát, đất trống do không sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón vô cơ. Bảo vệ môi trường sống cho sinh vật biển ven bờ. Duy trì tính đa dạng sinh học vùng ven biển, góp phần điều hòa khí hậu, làm sạch môi trường. Đồng thời, trồng mướp canh tác tự nhiên góp phần giải quyết việc làm cho lao động địa phương, thông qua việc thuê khoán lao động trồng, chăm sóc, thu hoạch”.
Minh Trí
Nông nghiệp vùng ĐBSCL khẳng định vị thế xuất khẩu
Trong chặng đường 50 năm qua, vùng ĐBSCL đã đối mặt với nhiều thách thức từ biến đổi khí hậu, suy thoái nguồn tài nguyên, tác động từ thị trường. Với sự nỗ lực vượt khó, sự cần cù, cần mẫn của người dân, cùng các cơ chế, chính sách đã giúp cho vùng trở thành trung tâm về sản xuất nông nghiệp
Trong phần đầu của loạt bài “Nâng tầm vị thế nông sản vùng ĐBSCL trong hội nhập quốc tế” chúng ta đã thấy rõ sự chuyển mình của vùng ĐBSCL trong việc khẳng định vị thế trong đảm bảo an ninh lương thực và vươn mình trở thành vựa lúa, thủy sản, trái cây của đất nước.
Trong chặng đường 50 năm qua, vùng ĐBSCL đã đối mặt với nhiều thách thức từ biến đổi khí hậu, suy thoái nguồn tài nguyên, tác động từ thị trường. Nhưng với sự nỗ lực vượt khó, sự cần cù, cần mẫn của người dân, cùng các cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước đã giúp cho vùng ĐBSCL thêm động lực để trở thành trung tâm về sản xuất nông nghiệp. Trong phần hai của loạt bài, nhóm PV CQTT ĐBSCL sẽ phác họa rõ hơn sự thay đổi tư duy của người dân, sự cam kết, đồng lòng của doanh nghiệp và cơ chế chính sách để nông sản của vùng ĐBSCL khẳng định thương hiệu trên trường quốc tế.
Canh tác theo tiêu chuẩn VietGap xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.
Hơn 5 ha nhãn canh tác theo tiêu chuẩn VietGap xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, Australia đã giúp cho gia đình nông dân Nguyễn Hoàng Anh, xã Thới Hưng, huyện Cờ Đỏ thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi vụ. Chính áp dụng quy trình canh tác nghiêm ngặt đã giúp cho sản phẩm được giá, không còn lo đầu ra như nhiều năm trước.
“Mỗi thị trường đòi hỏi quy trình khác nhau, muốn để vào thị trường Mỹ thì mình làm cho chất lượng, muốn được vào thị trường Châu Âu là mình làm theo tiêu chuẩn của VietGap. Mình phải vào HTX rồi mình làm theo quy trình để xuất khẩu sang các thị trường”, nông dân Nguyễn Hoàng Anh chia sẻ.
Canh tác cây ăn trái ở vùng ĐBSCL.
Cờ Đỏ có diện tích trồng cây ăn trái lớn của Cần Thơ với khoảng 5.000 ha, với nhiều loại cây ăn trái đặc sản xuất khẩu sang Hoa Kỳ, Australia, Nhật Bản, EU và Trung Quốc. Nông dân Phạm Tấn Tài ở huyện Cờ Đỏ đang trồng nhãn theo hướng hữu cơ để vào thị trường EU. Nếu sản phẩm chiếm được niềm tin của người tiêu dùng sẽ mở ra hướng đi mới cho người dân, đầu ra của sản phẩm ổn định, khẳng định được thương hiệu nông sản.
“Sản xuất hữu cơ thì cung cấp chất hữu cơ cho đất, lợi ích nhiều lắm, mấy chất hữu cơ, vi sinh vật trong đất để cải tạo đất, làm tơi xốp đất, giúp cho rễ cây hấp thụ hết chất dinh dưỡng để nuôi cây. Giờ mình đã ký hợp đồng xuất khẩu sang Mỹ thì đương nhiên giá cả cao hơn, đời sống bà con mình sẽ khả quan hơn”, nông dân Phạm Tấn Tài thông tin.
Quy trình canh tác theo bền vững để bảo vệ môi trường và giảm phát thải khí nhà kính.
Trong bối cảnh hiện nay, sản xuất theo hướng xanh, tuần hoàn, giảm phát thải là xu thế toàn cầu. Vì vậy, nông dân Trịnh Văn Khôn, xã Trung An, huyện Cờ Đỏ đã đăng ký tham gia các lớp tập huấn về sản xuất lúa bền vững, giảm phát thải. Qua đó đã thấy rõ được lợi ích sản xuất lúa bền vững, giảm lượng giống, giảm phân bón, thuốc trừ sâu, ứng dụng quy trình canh tác theo bền vững để bảo vệ môi trường và giảm phát thải khí nhà kính trong canh tác nông nghiệp.
“Tôi làm mấy chục năm nay nhưng mà tôi thấy sản xuất lúa bền vững, giảm phát thải rất tốt, tốt cho nông dân. Lúc đầu mình phải có sự tập huấn cho nông dân mới hiểu được, mới thực tập được”, nông dân Trịnh Văn Khôn chia sẻ.
Vùng ĐBSCL khẳng định vị thế trong đảm bảo an ninh lương thực.
Trong canh tác lúa theo phương thức truyền thống trước đây người dân người sử dụng lượng giống gieo sạ từ 100 đến 120 kg/ha, thậm chí có những mùa vụ lên tới 150kg/hecta. Điều này đã tác động đến môi trường, gia tăng dịch bệnh trên mùa vụ. Với đề án 1 triệu ha đã được triển khai, nhân rộng ở vùng ĐBSCL đã giảm 50% lượng giống gieo sạ, giảm 30% lượng phân bón, giảm số lần phun thuốc hóa học.
Tiến sĩ Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL cho rằng, trong bối cảnh canh tác lúa theo hướng giảm phát thải cần phải giảm tối đa lượng giống, nếu mỗi ha sạ từ 60 – 70kg thì vẫn đảm bảo năng suất. Tại Viện lúa đã thí điểm trên mô hình khi sử dụng lượng giống gieo sạ 40kg/ha, năng suất vẫn đảm bảo, điều này chứng tỏ giảm lượng giống gieo sạ sẽ không ảnh hưởng tới năng suất. Tuy nhiên, trong thực tế khi triển khai Đề án cần phải quan tâm đến đồng ruộng, áp dụng phương pháp sạ hàng, sạ cụm để nâng cao hiệu quả sử dụng cơ giới.
“Giống phải có khả năng đẻ nhánh rất sớm để chúng ta ức chế được lượng cỏ dại và chúng ta chắc chắn là sử dụng phân đạm tiết kiệm. Chúng tôi cũng đặt ra vấn đề đối với những giống trong thế hệ tiếp theo, ngoài những yêu cầu về chất lượng, phẩm chất thông thường thì tiêu chí đẻ nhánh sớm, tiêu chí về phát thải thấp và tiêu chí về sử dụng phân đạm hiệu quả là ba vấn đề đặt ra trong công tác nghiên cứu”, Tiến sĩ Trần Ngọc Thạch thông tin.
Vai trò, vị thế trụ đỡ của nông nghiệp, nhất là tại vùng ĐBSCL càng ngày càng được khẳng định.
Có thể khẳng định, vai trò, vị thế "trụ đỡ" của nông nghiệp, nhất là tại vùng ĐBSCL càng ngày càng được khẳng định, bảo đảm đủ nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu cho tiêu dùng trong nước, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, gia tăng xuất khẩu, giải quyết việc làm, tạo sinh kế cho người dân.
Hàng năm diện tích sản xuất lúa của An Giang khoảng 600.000 ha ta, với sản lượng khoảng 4 triệu tấn, đứng thứ 2 khu vực ĐBSCL về sản xuất lúa gạo.
Ông Tôn Thất Thịnh, Phó Giám đốc Sở NN&MT An Giang cho biết, ngành hàng lúa gạo là ngành hàng chủ lực của địa phương. Hiện nay, An Giang đã triển khai nhiều biện pháp để nâng cao chuỗi giá trị ngành lúa gạo, như đầu tư về kỹ thuật, công nghệ và tổ chức sản xuất. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu, hạn mặn đã tác động đến sản xuất lúa gạo của địa phương. Trước thách thức đặt ra cho ngành nông nghiệp, An Giang đang tập trung vào sản xuất lúa gạo thích ứng với biến đổi khí hậu, phát thải thấp, mở rộng diện tích liên kết sản xuất, tiêu thụ nhằm góp phần cải thiện sinh kế cho nông dân trồng lúa.
“Thúc đẩy chuyển đổi sang cái phương thức công tác lúa gạo có khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu và phát thải carbon thấp thông qua việc phát triển chuỗi giá trị bền vững, thúc đẩy tăng cường liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ lúa gạo để phát triển bền vững. Mục tiêu chung là nhằm cải thiện sinh kế cho người trồng lúa”, ông Thịnh nhấn mạnh.
Sản xuất, canh tác theo hướng bền vững, truy xuất nguồn gốc để phục vụ nhu cầu tiêu dùng.
Trong xu thế toàn cầu sản xuất giảm phát thải là điều tất yếu hiện nay. Trong triển khai đề án 1 triệu hecta lúa ở ĐBSCL, Việt Nam đang cụ thể hóa cam kết với cộng đồng quốc tế tại COOP 26 về biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường.
Từng theo dõi và chứng kiến quy trình canh tác lúa giảm phát thải tại Việt Nam, chuyên gia cao cấp về kinh tế nông nghiệp của Ngân hàng Thế giới (World Bank) ông Li Guo cho biết, Đề án 1 triệu ha lúa đang triển khai tại ĐBSCL sẽ giúp người dân tăng thu nhập; tăng tính cạnh tranh của ngành lúa gạo và đóng góp vào giảm phát thải khí nhà kính. Hiện ngân hàng Thế giới đang cam kết, đồng hành cùng Việt Nam trong triển khai, nhân rộng đề án.
“Đề án này nó có 3 tiêu chí. Mục tiêu số 1 là giúp cho người nông dân tăng thu nhập từ trồng lúa. Cái thứ 2 là tăng cường tính cạnh tranh của chuỗi giá trị ngành lúa gạo Việt Nam. Thứ 3 là đóng góp cho việc giải quyết các thách thức của biến đổi khí hậu trong ở Việt Nam và trên thế giới”, ông Li Guo thông tin.
Vùng ĐBSCL vựa trái cây của cả.
Trong nửa thập kỷ đã qua, nông nghiệp vùng ĐBSCL đã khẳng định vị thế dẫn đầu cả nước về sản lượng và xuất khẩu. Cùng với đó, là vấn đề đảm bảo an ninh lương thực trước những thách thức của biến đổi khí hậu đã và đang tác động gay gắt đến vựa lúa, thủy sản, trái cây của quốc gia.
Tuy nhiên, nông nghiệp vùng ĐBSCL cũng đang đối mặt với những mặt trái của sự phát triển nhanh chóng, thâm canh tăng vụ trong thời gian dài đã gây suy thoái tài nguyên đất, sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật vượt ngưỡng cho phép đã tác động tiêu cực tới môi trường sinh thái, sức khỏe và sản phẩm nông sản.
Nông nghiệp vùng ĐBSCL đã khẳng định vị thế dẫn đầu cả nước về sản lượng và xuất khẩu.
Trong phần cuối của loạt bài “Nâng tầm vị thế nông sản vùng ĐBSCL trong hội nhập quốc tế” nhóm phóng viên Đài TNVN – khu vực ĐBSCL sẽ làm rõ câu chuyện thay đổi tư duy của người dân trong sản xuất nông nghiệp, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, canh tác theo hướng bền vững, truy xuất nguồn gốc để phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Cùng với đó, cần liên kết, hình thành vùng nguyên và hỗ trợ đầu ra cho các sản phẩm là thế mạnh của vùng ĐBSCL.
Phạm Hải-Thanh Tùng/VOV-ĐBSCL
Đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp công nghệ cao
Đồng Tháp là tỉnh có thế mạnh về nông nghiệp. Do đó, đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao để phát triển nền nông nghiệp là yêu cầu cấp bách, là thách thức lớn đang đặt ra đối với địa phương. Nguồn nhân lực này còn giúp địa phương phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao thu nhập cho người dân.
Sinh viên tìm hiểu, nghiên cứu mô hình trồng nấm vân chi đỏ tại Trường đại học Đồng Tháp. (Ảnh Trường đại học Đồng Tháp cung cấp)
Nguồn nhân lực cho tương lai
Chúng tôi có mặt tại nhà trồng nấm dược liệu rộng 150m2 của Trường đại học Đồng Tháp.
Tiến sĩ Trần Đức Tường, giảng viên ngành Công nghệ sinh học, Khoa Công nghệ và Kỹ thuật đang cùng gần 20 sinh viên tất bật treo 3.600 phôi nấm vân chi đỏ.
“Mỗi khi treo phôi nấm, em cũng như các bạn hết sức tập trung để cho phôi cân bằng, thẩm mỹ. Sau những lần như thế, chúng em có dịp nghiên cứu quy trình phát triển của nấm vân chi đỏ và một số loại nấm khác...”, Phạm Thị Ngọc Anh, sinh viên năm nhất, ngành Công nghệ sinh học chia sẻ.
Ngọc Anh cho biết thêm, em cũng khá bất ngờ khi mới đang là sinh viên năm nhất, em cùng nhiều bạn trong lớp đã được tạo điều kiện nghiên cứu khoa học, đi thực tế để có thêm kiến thức hỗ trợ cho ngành học.
Mô hình nhà trồng nấm vân chi đỏ nằm trong khu thực hành nông nghiệp của Trường đại học Đồng Tháp. Mô hình vừa phục vụ giảng dạy, nghiên cứu, vừa là nơi sinh viên trực tiếp thực hành quy trình nuôi trồng, chăm sóc và thu hoạch nấm theo hướng hiện đại, an toàn sinh học.
Tiến sĩ Trần Đức Tường cho biết, nấm vân chi đỏ của trường hiện là dự án khởi nghiệp. Mục tiêu của dự án là tận dụng hiệu quả các phụ phế phẩm phát thải từ nông nghiệp của vùng Đồng bằng sông Cửu Long (cùi bắp, vỏ trấu…) để tạo ra nấm vân chi đỏ - sản phẩm quý từ thiên nhiên có giá trị dược tính và giá trị kinh tế cao, bảo đảm chất lượng kiểm nghiệm.
Dự án xuất phát từ công trình nghiên cứu khoa học “Nghiên cứu thành phần cơ chất sẵn có tại địa phương để trồng nấm vân chi đỏ” của Tiến sĩ Trần Đức Tường và nhóm tác giả.
Từ dự án này, đến nay, nhiều giảng viên, sinh viên Trường đại học Đồng Tháp đã thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ, công bố nhiều công trình nghiên cứu về nấm vân chi đỏ trên các tạp chí khoa học chuyên ngành có uy tín, đạt được nhiều giải thưởng và bằng khen cấp tỉnh, bộ, Trung ương.
Hiện, dự án đang tiếp tục phát triển theo hướng nghiên cứu hoàn thiện quy trình sản xuất bằng công nghệ IoT và phát triển các sản phẩm giá trị gia tăng từ nấm vân chi đỏ. Dự án đã thúc đẩy tinh thần nghiên cứu sáng tạo của sinh viên các ngành học liên quan của nhà trường.
“Chúng tôi luôn tạo mọi điều kiện để sinh viên sớm tiếp cận với nhiều vốn kiến thức. Giảng viên thực hiện nhiều đề tài khoa học cho sinh viên cọ sát thực tế, tham gia học việc. Sau đó, những sinh viên nào có kỹ năng tốt sẽ được tuyển làm kỹ thuật viên cho đề tài nghiên cứu, nhằm tạo động lực để các em tiếp tục thực hiện đề tài nghiên cứu cấp cơ sở...”, Tiến sĩ Trần Đức Tường cho biết.
Hiện, Trường đại học Đồng Tháp có 143 sinh viên đang theo học các ngành thuộc khối nông nghiệp, tài nguyên, môi trường. Trong 5 năm qua, giảng viên và sinh viên của Khoa Nông nghiệp, Tài nguyên và Môi trường đã thực hiện 24 đề tài nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực nông nghiệp ở các cấp và công bố 108 bài báo khoa học, trong đó có 45 bài trên các tạp chí quốc tế.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Văn Thống, Hiệu trưởng Trường đại học Đồng Tháp cho biết, Nhà trường rất chú trọng đầu tư cơ sở vật chất hiện đại phục vụ công tác nghiên cứu và thực hành, như: các phòng thí nghiệm chuyên sâu, nhà lưới, nhà màng, khu trồng rau, thủy sản và nhà trồng nấm công nghệ cao. Mạng lưới hợp tác rộng khắp với các viện, trường và doanh nghiệp đã mở ra nhiều cơ hội thực tập và việc làm cho sinh viên, tạo nền tảng vững chắc cho nguồn nhân lực nông nghiệp chất lượng trong tương lai.
Để tạo nguồn nhân lực nông nghiệp công nghệ cao, tỉnh Đồng Tháp đã tạo điều kiện cho cán bộ chuyên môn của các sở, ngành tham dự các hội thảo khoa học-công nghệ, lớp tập huấn, đào tạo ngắn hạn tại nhiều viện, trường trong nước và nước ngoài. Tỉnh phối hợp thực hiện đào tạo sau đại học ở nước ngoài cho các lĩnh vực có nhu cầu phát triển.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đồng Tháp Huỳnh Tất Đạt cho biết, các nghề đào tạo được đánh giá là đa dạng và đáp ứng nhu cầu thực tế của người dân, giúp họ tiếp cận công nghệ mới và áp dụng mô hình sản xuất tiên tiến. Một số chương trình đã góp phần nâng cao tay nghề và kiến thức về kinh tế nông nghiệp, sản xuất hữu cơ.
Đồng hành để cùng phát triển
Phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp công nghệ cao là chìa khóa để tỉnh Đồng Tháp chuyển đổi sang nền nông nghiệp hiện đại, bền vững và có sức cạnh tranh. Điều này cần có sự chung tay giữa chính quyền, cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và người dân trong quá trình đào tạo, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực.
Thực hiện Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Tỉnh ủy Đồng Tháp đã đặc biệt chú trọng, đặt yêu cầu cao cho công tác đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp công nghệ cao.
Từ khát vọng tạo nguồn nhân lực nông nghiệp công nghệ cao, tỉnh Đồng Tháp đã tổ chức nhiều hội thảo, buổi làm việc với các trường đại học, doanh nghiệp liên quan công tác đào tạo, thực hiện các dự án khởi nghiệp. Mới đây, tỉnh đã thảo luận và mong muốn sớm có các hợp tác cụ thể về khoa học, công nghệ, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo giữa Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Hải Quân, Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đánh giá, tỉnh Đồng Tháp là địa phương thứ hai sau Thành phố Hồ Chí Minh đồng hành cùng Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh triển khai thực hiện Nghị quyết số 57.
Phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp công nghệ cao là chìa khóa để tỉnh Đồng Tháp chuyển đổi sang nền nông nghiệp hiện đại, bền vững và có sức cạnh tranh. Điều này cần có sự chung tay giữa chính quyền, cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và người dân trong quá trình đào tạo, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực.
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã nghiên cứu kỹ chương trình hành động của tỉnh cũng như đối sánh với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và một số tỉnh Đông Nam Bộ. Qua nghiên cứu, đã nhận thấy Đại học Quốc gia và Trường đại học Đồng Tháp cần tổ chức bình dân học vụ số để tạo kiến thức nền tảng về công nghệ số cho nguồn nhân lực của tỉnh.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Hải Quân đề xuất, tỉnh Đồng Tháp chọn một doanh nghiệp cùng Đại học Quốc gia xây dựng chương trình nghiên cứu chung gắn với nông nghiệp, bảo tồn thiên nhiên. Chương trình này hứa hẹn tạo đột phá, chẳng hạn về nông nghiệp công nghệ cao, với nguồn đầu tư bài bản, định hướng sản phẩm cụ thể sẽ có khả năng đạt hiệu quả cao. Đây sẽ là mô hình tiên phong về kết hợp 3 nhà “doanh nghiệp-đại học-Nhà nước” thực hiện Nghị quyết số 57 trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Giáo sư, Tiến sĩ Trần Linh Thước, Chủ tịch Hội đồng Khoa học-Đào tạo Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đánh giá, tỉnh Đồng Tháp đã xây dựng vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nhưng lại thiếu các trung tâm nghiên cứu cơ bản để làm chủ về giống.
Ông đề xuất, tỉnh có thể xây mới hoặc dựa trên sự kết hợp của các đơn vị như Trường đại học Đồng Tháp, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II với Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh để xây dựng trung tâm nghiên cứu cơ bản về chỉnh sửa bộ gen kết hợp di truyền phân tử nhằm ươm tạo sản xuất giống. Từ đó, trung tâm sẽ cung cấp giống chuẩn cho các đơn vị sản xuất. Ngoài ra, trung tâm này sẽ đảm nhận công tác bảo tồn nguồn gen để phát triển cây giống, con giống.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Văn Thống, Hiệu trưởng Trường đại học Đồng Tháp cho biết, Nhà trường đang tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp, viện nghiên cứu để tổ chức các đợt thực tập, thực tế, chuyển giao công nghệ và hỗ trợ sinh viên triển khai ý tưởng khởi nghiệp.
Đối với tỉnh Đồng Tháp, công tác đào tạo nguồn nhân lực và thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao luôn song hành. Do đó, Giáo sư, Tiến sĩ Mai Thanh Phong, Hiệu trưởng Trường đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, tỉnh phải xây dựng các chính sách tạo ra hạ tầng công nghệ và các tiềm lực khoa học, công nghệ chứ không đặt nguồn lực vào việc xây dựng các trung tâm nghiên cứu khoa học cơ bản.
Tỉnh cần xây dựng các chính sách tạo ra hạ tầng công nghệ nhằm thu hút doanh nghiệp. Ngoài ra, cần có chính sách thu hút nhân tài là các chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh vực nông nghiệp. Việc thu hút nhân tài không chỉ giới hạn trong lĩnh vực công mà còn trong lĩnh vực tư.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đồng Tháp Huỳnh Tất Đạt chia sẻ, thời gian tới, tỉnh sẽ tăng cường công tác đào tạo sau đại học thông qua việc hợp tác với các trường đại học và viện nghiên cứu trong nước và quốc tế để tạo ra môi trường học tập nâng cao chất lượng cán bộ; xây dựng các mô hình hợp tác giữa các doanh nghiệp công nghệ cao và nông dân để đẩy mạnh việc chuyển giao công nghệ, đồng thời phát triển các mô hình nông nghiệp thông minh và bền vững; tổ chức các khóa đào tạo nghề ngắn hạn về công nghệ cao trong nông nghiệp, đặc biệt là các lĩnh vực có ứng dụng công nghệ tiên tiến như sản xuất nông sản hữu cơ, công nghệ tưới tiết kiệm nước, sử dụng thiết bị tự động hóa trong nông nghiệp...
HỮU NGHĨA - MINH ANH
Giữa bão hạn mặn, nông dân Bến Tre vẫn 'khỏe re' nhờ sản xuất hữu cơ
Trong những năm gần đây, tỉnh Bến Tre đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong việc phát triển nông nghiệp hữu cơ, đặc biệt là thông qua sự thành công HTX, tổ hợp tác hoạt động theo chuỗi liên kết, góp phần xóa đói giảm nghèo, làm giàu cho thành viên.
Kể từ đầu năm đến nay, Bến Tre đã trải qua 2 đợt xâm nhập mặn sâu, một đợt vào cuối tháng 2 sang đầu tháng 3 và một đợt vào cuối tháng 3. Ảnh hưởng là không nhỏ, tuy nhiên, với công tác dự báo kịp thời, cùng sự chủ động trong sản xuất, dự trữ nguồn nước tưới tiêu, các HTX và nông dân tại các địa phương vẫn duy trì hoạt động ổn định.
Thúc đẩy sản xuất hữu cơ
Cây dừa từng bước khẳng định dễ thích ứng với biến đổi khí hậu. Hiện nay, dừa nguyên liệu đang được xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc nên người dân mạnh dạn hơn trong chuyển đổi từ những cây ăn trái, cây lúa kém hiệu quả sang trồng dừa.
Hiện, toàn tỉnh có tổng diện tích khoảng 79.744ha. Sản lượng thu hoạch trong quý I/2025 đạt khoảng 181,4 triệu trái, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm 2024, đạt 25,52% kế hoạch năm. Giá dừa khô nguyên liệu thời gian qua dao động ở mức 130 - 150 ngàn đồng/12 trái.
HTX, nông dân trồng dừa ở Bến Tre đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ, an toàn sinh thái.
HTX Nông nghiệp Định Thủy (xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày Nam) là một điển hình tiêu biểu trên địa bàn tỉnh Bến Tre trong phát triển mô hình trồng dừa theo hướng hữu cơ, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho thành viên, nông dân liên kết.
Đặc biệt, sự hợp tác chặt chẽ giữa HTX và doanh nghiệp, cùng loạt chính sách hỗ trợ, đồng hành thiết thực từ chính quyền địa phương, đã giúp thành viên HTX vượt qua thách thức, đảm bảo năng suất, chất lượng cây trồng, từ đó làm giàu bền vững.
Cụ thể, trong những năm qua, HTX Nông nghiệp Định Thủy tập trung vào sản xuất dừa hữu cơ, với tổng diện tích vườn dừa hữu cơ đạt 244,6 ha. HTX đã ký kết hợp đồng với doanh nghiệp chế biến để tiêu thụ sản phẩm cơm dừa trắng với giá 9.000 đồng/kg.
Bên cạnh đó, các sản phẩm phụ như nước dừa, gáo, vỏ và xơ dừa cũng được HTX kết nối với doanh nghiệp đối tác, mở hướng bao tiêu, từ đó tăng nguồn thu đáng kể cho thành viên.
HTX Định Thủy hiện có 151 thành viên, với tổng nguồn vốn hoạt động sản xuất, kinh doanh trên 2,5 tỷ đồng. HTX đã tạo việc làm thường xuyên cho 105 lao động địa phương.
Nhờ việc ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm với doanh nghiệp, các hộ gia đình với diện tích sản xuất bình quân trên 1ha đều có đầu ra ổn định, với giá thu mua cao hơn thị trường từ 5.000 đến 12.000 đồng/12 quả, mang lại thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi vụ.
Hình thành các chuỗi giá trị
Tương tự, HTX Nông nghiệp Thới Thạnh (xã Thới Thạnh, huyện Thạnh Phú) những năm qua cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong việc xây dựng chuỗi giá trị sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho thành viên.
Kể từ khi thành lập vào năm 2017, HTX Nông nghiệp Thới Thạnh tập trung vào việc thu mua, bao tiêu nông sản của nông dân, đặc biệt là sản phẩm từ cây dừa. HTX đã ký hợp đồng liên kết đầu vào với các công ty phân bón hữu cơ và thuốc bảo vệ thực vật sinh học, giúp cung cấp vật tư đầu vào với giá gốc, hỗ trợ nông dân an tâm sản xuất ngay cả khi giá dừa trên thị trường xuống thấp.
Đặc biệt HTX đã tích cực ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, canh tác dừa hữu cơ. Hiện tại, có 99 thành viên tham gia canh tác dừa hữu cơ trên diện tích 150 ha, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm và đáp ứng nhu cầu thị trường.
Nhờ những nỗ lực trong việc xây dựng chuỗi giá trị sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật và tạo việc làm cho người dân địa phương, HTX Nông nghiệp Thới Thạnh đã góp phần quan trọng vào công tác giảm nghèo và phát triển kinh tế tại xã Thới Thạnh, huyện Thạnh Phú.
Sản xuất hữu cơ, an toàn sinh thái giúp trái dừa Bến Tre được mùa, được giá hơn.
Được biết, HTX Nông nghiệp Thới Thạnh đang giải quyết việc làm cho 30 lao động địa phương, thông qua công việc gia công dừa cho các công ty chế biến. Công việc này bao gồm việc cạy, gọt vỏ lụa để giao phần cơm dừa cho công ty ép dầu, giúp tạo thu nhập ổn định cho người lao động.
Ông Phạm Văn Hà là thành viên của HTX Nông nghiệp Thới Thạnh, trong hơn 5 năm qua ông canh tác 1,7ha dừa đạt chuẩn hữu cơ với hiệu quả khá cao. Theo ông Hà, đầu vào, đầu ra sản phẩm quả dừa rất ổn định do được HTX bao tiêu.
“Đối với những hộ dân có nhân công được cán bộ chuyên môn tập huấn kỹ thuật ủ phân hữu cơ tại nhà để sử dụng nên giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận. Hàng tháng, đội nhân công của HTX đến tận vườn thu hoạch dừa hữu cơ cung ứng cho doanh nghiệp”, ông Hà chia sẻ.
Điểm tựa vững vàng từ HTX
Có thể thấy việc liên kết thành lập các HTX, tổ hợp tác để phát triển sản xuất hữu cơ theo hướng hàng hóa, đang giúp nông dân Bến Tre vững vàng vượt qua bão hạn mặn, xây dựng các mô hình kinh hiệu quả, từ đó thoát nghèo, nâng cao thu nhập, vươn lên làm giàu.
Theo thống kê, toàn tỉnh Bến Tre đang có 88 tổ hợp tác, 78 HTX, 4 tổ liên kết tham gia vào chuỗi giá trị các sản phẩm nông nghiệp chủ lực. Qua đó, hình thành các vùng sản xuất hữu cơ tập trung, với các loại sản phẩm chủ lực như: dừa, bưởi da xanh, rau màu, cây lúa, con tôm, bò, heo, cây giống, hoa kiểng, xoài, nhãn, chôm chôm…
Tập trung nhất là chuỗi dừa, với 32 THT, 34 HTX tham gia vùng sản xuất tập trung gắn với chuỗi giá trị, với hơn 20,7 ngàn ha, trong đó có hơn 16,5 ngàn ha đạt chứng nhận hữu cơ. Diện tích tập trung phân bố đều trên địa bàn các huyện như Bình Đại, Giồng Trôm, Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc, Thạnh Phú và Ba Tri.
Kết quả hiện tại, bên cạnh các chính sách hỗ trợ của ban ngành tỉnh, địa phương, không thể không kể đến sự đồng hành của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Bến Tre.
Nổi bật là lễ ký kết chương trình phối hợp giữa Liên minh HTX tỉnh Bến Tre và Hội Nông dân tỉnh vào đầu tháng 9/2024, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế hợp tác, HTX trong nông nghiệp giai đoạn 2024-2030.
Chương trình này tập trung vào việc tuyên truyền, vận động hội viên nông dân tham gia các tổ hợp tác, HTX nông nghiệp, đồng thời nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các tổ hợp tác, HTX trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Cùng với đó, vào cuối năm 2024, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Bến Tre đã ký kết chương trình phối hợp với Liên minh HTX tỉnh Bến Tre, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế hợp tác, HTX và hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp, tạo việc làm cho lao động nữ đến năm 2030.
Đặc biệt, trong bối cảnh chuyển đổi số ngày càng sâu rộng, Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Bến Tre cũng đặc biệt chú trọng đến việc chuyển đổi số trong khu vực kinh tế hợp tác, HTX. Trong 3 năm trở lại đây, đã có hàng chục HTX được lựa chọn để tư vấn, hướng dẫn và hỗ trợ thực hiện chuyển đổi số, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng khả năng cạnh tranh.
Có thể nói, những chương trình và chính sách hỗ trợ liên tục được thông qua thể hiện sự quan tâm và nỗ lực của Liên minh HTX Việt Nam, Liên minh HTX tỉnh, cùng các ban ngành, địa phương tỉnh Bến Tre trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế hợp tác, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Minh Khuê
Du lịch gắn với nông thôn mới, nâng cao thu nhập cho người dân
Trong giai đoạn 2026-2030, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) chú trọng khai thác tiềm năng, lợi thế bản địa trong phát triển kinh tế nông nghiệp. Giải pháp này góp phần quảng bá văn hóa địa phương, đồng thời gia tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp, nâng cao thu nhập người dân.
Ảnh minh họa
Thực tế cho thấy, tiềm năng phát triển du lịch nông thôn tại các địa phương rất lớn, đã trở thành xu hướng phát triển chung của các địa phương. Song để phát triển du lịch hiệu quả, đóng góp tích cực vào phong trào xây dựng NTM vẫn còn nhiều thách thức.
Phát huy giá trị văn hóa bản địa
Xã Chiềng Châu (huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình) được biết đến là "cái nôi” văn hóa của đồng bào dân tộc Thái. Năm 2009, bà Vì Thị Oanh cùng một số đảng viên đã thành lập hợp tác xã (HTX) Dệt thổ cẩm và dịch vụ du lịch Chiềng Châu. Với sự hỗ trợ của các nghệ nhân, chính quyền và tổ chức JICA (Nhật Bản), nghề dệt thổ cẩm truyền thống tại địa phương từng bước được khôi phục và phát triển mạnh mẽ. Hiện những sản phẩm dệt thủ công của HTX đã được xuất khẩu sang nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ.
Theo bà Oanh, HTX đã liên kết với một số đơn vị lữ hành tổ chức các tour du lịch khám phá, trải nghiệm văn hóa truyền thống, trong đó có nghề dệt thổ cẩm. Qua đó, thu nhập của thành viên HTX đã tăng thêm từ 5-6 triệu đồng/người/tháng. Phó Bí thư Huyện ủy Mai Châu Hà Công Nghị cho biết, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc có vai trò quan trọng trong việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế-xã hội của địa phương. Huyện Mai Châu xác định phát triển du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa là hướng đi trọng tâm.
Làng hoa Sa Đéc (thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp) cũng đã biến giá trị văn hóa bản địa thành sản phẩm du lịch đặc trưng. Được biết đến là làng nghề truyền thống có tuổi đời hơn 100 năm, làng hoa Sa Đéc cung cấp hoa, cây cảnh lớn nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đồng thời cũng là địa chỉ văn hóa mang đặc trưng vùng sông nước miền tây, thu hút đông đảo du khách trong nước và quốc tế.
Gắn bó với nghề trồng hoa, cây cảnh hơn 40 năm, ông Trần Văn Tiếp cho biết, người trồng hoa nơi đây đang nỗ lực đổi mới để bắt nhịp xu thế hiện đại và phát triển. Nhiều giống hoa mới được nông dân Sa Đéc đưa vào canh tác nhưng vẫn giữ phương pháp trồng trên giàn, tạo nên sự khác biệt của làng nghề. Những ngôi nhà khang trang, đầy đủ tiện nghi được xây dựng ngày càng nhiều từ nguồn thu nghề hoa. Các nghệ nhân trồng hoa kiểng đã không ngừng sáng tạo, cho ra đời nhiều sản phẩm nghệ thuật, đồng thời quảng bá hình ảnh con người Sa Đéc hiền hòa và khơi dậy lòng tự hào cùng ý thức bảo tồn di sản văn hóa truyền thống.
Tại Sa Đéc có nhiều mô hình du lịch trải nghiệm. Các hộ trồng hoa phối hợp công ty du lịch xây dựng các tour du lịch sinh thái tại vườn, du lịch văn hóa, tiếp tục quảng bá thương hiệu nông sản địa phương, nâng cao thu nhập và đổi mới tư duy làm kinh tế nông nghiệp. Chính quyền thành phố Sa Đéc nói riêng, tỉnh Đồng Tháp nói chung đang tập trung nguồn lực đầu tư nâng cấp hệ thống giao thông, hỗ trợ người dân, các hợp tác xã tham gia tập huấn nghiệp vụ để phát triển du lịch nông nghiệp bền vững.
Đa dạng hóa mô hình du lịch
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã hướng dẫn các địa phương tuyên truyền nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy về phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn; chỉ đạo xây dựng các mô hình phù hợp thế mạnh và lợi thế của địa phương. Mục tiêu đặt ra là mỗi tỉnh, thành phố đến năm 2025 có ít nhất một điểm du lịch nông thôn tiêu biểu được công nhận gắn với lợi thế về nông nghiệp, văn hóa, làng nghề, môi trường sinh thái.
Thống kê sơ bộ cho thấy, cả nước có hơn 584 mô hình du lịch nông nghiệp, nông thôn đang hoạt động, tập trung ở khu vực miền núi phía bắc và Đồng bằng sông Cửu Long. Có 382 điểm du lịch ở khu vực nông thôn được cấp tỉnh công nhận, trong đó có 11,3% là điểm du lịch nông nghiệp, làng nghề; 21,2% điểm du lịch cộng đồng; 21,7% điểm du lịch sinh thái; còn lại là di tích lịch sử, lưu trú và thương mại dịch vụ.
Theo Chánh Văn phòng điều phối nông thôn mới Trung ương Ngô Trường Sơn, việc tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực, thay đổi tư duy về vai trò của du lịch nông thôn trong xây dựng nông thôn mới được triển khai mạnh mẽ. Tại 21 tỉnh, thành phố đã tổ chức 83 lớp tập huấn cho 4.964 lượt cán bộ quản lý du lịch, chủ thể kinh doanh du lịch địa phương, điển hình tại: Hà Nội, Hà Giang, Bắc Giang, Hưng Yên, An Giang...
Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy Hòa Bình Võ Ngọc Kiên cho biết, tỉnh đặt ra định hướng bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc gắn với xây dựng con người mới để góp phần tạo nên những sản phẩm du lịch đặc sắc. Tỉnh xác định việc phát huy bản sắc văn hóa cộng đồng các dân tộc thiểu số và bảo tồn hệ thống di tích, hiện vật của nền văn hóa Hòa Bình là điểm cốt lõi trong xây dựng môi trường du lịch bền vững, tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn; từ đó nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh trên bản đồ du lịch quốc gia, quốc tế.
Thực tế cho thấy, để du lịch nông nghiệp-nông thôn trở thành khâu đột phá trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2026-2030, các địa phương cần đẩy mạnh liên kết vùng để cùng khai thác tiềm năng, lợi thế từ chuỗi nông sản đặc trưng và giá trị văn hóa bản địa. Cần xây dựng kế hoạch phát triển du lịch cả ngắn hạn và dài hạn. Đây là nhiệm vụ trọng tâm để khai thác tiềm năng kinh tế nông nghiệp, phát huy lợi thế bản sắc văn hóa dân tộc; là nguồn nội lực quan trọng trong việc nâng cao chất lượng xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2026-2030.
(Theo NDO)
Mù Cang Chải 'thay da đổi thịt' từ những mô hình HTX nông nghiệp hiệu quả
Xác định nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế, huyện Mù Cang Chải (Yên Bái) tập trung đẩy mạnh cơ cấu lại nông - lâm nghiệp, thủy sản. Trong đó nhiều mô hình HTX nông nghiệp đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, giúp người dân xóa nghèo, vươn lên trong cuộc sống.
Tại xã Nậm Khắt - địa phương đầu tiên của huyện Mù Cang Chải hoàn thành 19/19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới, đời sống kinh tế- xã hội có nhiều đổi thay. Đặc biệt, nhiều mô hình HTX trồng cải mầm đá, su su... ra đời đã giúp đời sống của người dân ngày càng ổn định, đi lên.
Hiệu quả từ trồng su su và cải mầm đá
Điển hình như mô hình trồng rau cải mầm đá của HTX Sản xuất Nấm ăn và Nấm dược liệu Mù Cang Chải. Anh Nguyễn Hoàng Anh, Giám đốc HTX cho biết, trung bình mỗi cây rau mầm đá có trọng lượng 1,5 - 2 kg, sản lượng thu hoạch vụ đầu tiên đạt khoảng 30 tấn/ha, doanh thu khoảng 300 triệu đồng/ha.
“Hiện tại HTX chủ yếu xuất bán cho các trường học trên địa bàn huyện và tỉnh Sơn La, thành phố Hà Nội với giá từ 50 - 60 ngàn đồng/kg”, anh Hoàng Anh thông tin.
Rau cải mầm đá của HTX Nấm ăn và Nấm dược liệu Mù Cang Chải phát triển tốt, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Không những đem lại lợi nhuận, khi HTX Sản xuất nấm ăn và nấm dược liệu Mù Cang Chải về đầu tư sản xuất nông nghiệp tại xã Nậm Khắt còn giải quyết được việc làm thường xuyên người dân bản địa.
Chị Hảng Thị Sú, một người dân tại xã Nậm Khắt không khỏi vui mừng khi được tham gia vào HTX. Theo chị Sú, khi được vào làm tại đây có thu nhập cao hơn nhiều so với trước đây trồng lúa 1 vụ/năm. Hiện tại, mỗi tháng cả hai vợ chồng chị được HTX trả công khoảng 9 - 10 triệu đồng.
Rời Nậm Khắt lên đỉnh Háng Gàng, xã Lao Chải - nơi chuyên canh nông nghiệp sạch của HTX Nông nghiệp sạch T&D. Gần 12 ha rau, quả được đầu tư bài bản theo tiêu chuẩn VietGAP với hệ thống giàn được làm bằng ống kẽm, dây thép.
Theo anh Phạm Quang Thọ, Giám đốc HTX, hoạt động chính của HTX là sản xuất rau, củ, quả, trong đó trồng su su là chính. Hiện, HTX có 12 ha su su, mùa thu hoạch quả thường bắt đầu từ tháng 5 kéo dài đến tháng 11, tháng 12 Dương lịch. Một ha su su cho thu nhập từ 300 - 500 triệu đồng/năm. Vào vụ thu hoạch, trung bình mỗi ngày HTX cung ứng ra thị trường từ 7 - 10 tấn quả cho các chợ đầu mối ở Yên Bái, Phú Thọ, Hà Nội với giá từ 5.000 - 7.000 đồng/kg; cuối vụ giá từ 10.000 - 12.000 đồng/kg.
"Hiện, có một số người từ Ấn Độ, Đài Loan đã đến tìm hiểu và mong muốn nhập khẩu sản phẩm su su của HTX. Vì vậy, HTX tiếp tục mở rộng diện tích, nâng cao chất lượng, sản lượng, phấn đấu cung ứng ra thị trường từ 15 - 20 tấn quả/ngày”, anh Thọ cho biết thêm.
Tập trung chuyển đổi sản xuất nông nghiệp
Tiếng lành đồn xa, mô hình trồng su su hiệu quả của HTX Nông nghiệp sạch T&D tại bản Háng Gàng đã được bản Háng Đề Chu nhân rộng.
Tại xã Hồ Bốn (bản Háng Đề Chu), hơn 100 hộ đồng bào dân tộc Mông sinh sống đã được địa phương hỗ trợ phát triển cây su su. Từ diện tích 2,5 ha ban đầu, đến nay, diện tích trồng su su mang lại hiệu quả thiết thực, toàn xã đã tăng diện tích lên 3,5 ha.
Không chỉ vậy, Hồ Bốn giờ đã có nhiều tổ hợp tác (THT) khác được thành lập như: THT trồng lúa Séng cù do Hội Nông dân thực hiện; THT trồng cây ăn quả do Hội Liên hiệp Phụ nữ thực hiện; THT trồng lạc đỏ, trồng ngô tí hon, trồng dưa trái vụ…
Cùng với rau cải mầm đá, su su, thời gian qua, huyện Mù Cang Chải tập trung chuyển đổi các diện tích sản xuất nông nghiệp kém hiệu quả sang trồng các cây trồng có giá trị cao, mang lại thu nhập cho người dân như mô hình trồng hoa hồng, trồng nấm ở xã Nậm Khắt; trồng sâm Ngọc Linh ở xã Kim Nọi; trồng cà phê ở xã Khao Mang… với vùng chuyên canh tập trung hàng trăm ha.
Trong đó, HTX Nông nghiệp Nhà Páo Ly tại bản Nậm Khắt, xã Nậm Khắt đã thu hút được các hộ thành viên đều là người dân tộc Mông, cùng nhau liên kết, hợp tác làm giàu từ cây hoa hồng.
Anh Lý A Tính – Giám đốc HTX Nông nghiệp Nhà Páo Ly cho biết, năm 2024 giá hoa hồng bán buôn trung bình 1.500 đồng/bông, bình quân 1 ha hoa hồng cho thu 700 triệu đồng, trừ chi phí, lợi nhuận của HTX đạt 350 triệu đồng/năm.
Thu nhập của thành viên HTX từ 6 -15 triệu đồng/người/tháng tùy từng vị trí, đồng thời HTX còn tạo việc làm thời vụ cho khoảng 40 lao động địa phương với mức tiền công 250.000 đồng/người/ngày.
Các thành viên của HTX Nông nghiệp Nhà Páo Ly đang thu hoạch hoa hồng.
Đến nay, phần lớn diện tích đất trồng cây hằng năm được chuyển đổi trồng những loại cây đặc sản có giá trị kinh tế cao, tạo việc làm quanh năm, giúp người dân thoát nghèo, từng bước làm giàu ngay trên mảnh đất quê hương.
Thay đổi tư duy canh tác truyền thống, tự cung tự cấp sang thâm canh, sản xuất hàng hóa, liên kết xây dựng vùng sản xuất tập trung không chỉ giúp đông đảo người dân tận dụng tối đa lợi thế mà còn thoát nghèo nhanh, bền vững… đã giúp địa phương giảm hộ nghèo bình quân trên 8%/năm trong nhiều năm qua; diện mạo nông thôn nhiều đổi mới, chất lượng cuộc sống người dân vùng cao được cải thiện rõ rệt.
Tốc độ giảm nghèo nhanh nhất cả nước
Nhờ những thay đổi cả về tư duy và phương thức sản xuất của các HTX, đến cuối năm 2024, tỉ lệ hộ nghèo trên địa bàn huyện Mù Cang Chải chỉ còn gần 29%, tương đương gần 4.000 hộ nghèo. Dự kiến, hộ nghèo toàn huyện năm 2025 còn hơn 23%, là một trong số ít huyện đặc biệt khó khăn có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất của cả nước.
Đại diện huyện Mù Cang Chải cho biết, huyện đã cải thiện khả năng tiếp cận của người nghèo đối với các dịch vụ sản xuất, dịch vụ xã hội cơ bản, quan tâm đến công tác đào tạo nghề, nhất là các nghề phổ thông, đào tạo ngắn ngày... từ đó nhận thức, năng lực, trách nhiệm về xóa đói, giảm nghèo của người nghèo được nâng lên rõ rệt.
Bên cạnh đó, huyện cũng ban hành chính sách, cơ chế nhằm xây dựng mối liên kết chặt chẽ để tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, đảm bảo thị trường tiêu thụ nông sản ổn định, tạo sinh kế bền vững cho người dân; khuyến khích người lao động trong độ tuổi, có sức khỏe đi làm việc tại các khu công nghiệp và xuất khẩu lao động để có việc làm, nguồn thu nhập ổn định.
Mới đây, từ ngày 31/3 đến ngày 3/4, Trung tâm Dịch vụ, Hỗ trợ phát triển nông nghiệp huyện Mù Cang Chải đã phối hợp với các đối tác tổ chức 16 lớp tập huấn cho nông dân các xã trên địa bàn huyện.
Tại các lớp tập huấn, người dân ở các xã: Nậm Có, Cao Phạ, Nậm Khắt, Púng Luông, Kim Nọi, Chế Cu Nha, Mồ Dề, Lao Chải đã được các giảng viên, chuyên gia hướng dẫn về quy trình kỹ thuật chăm sóc các giống cây trồng, tư vấn cho bà con về các loại giống cây trồng, hướng dẫn bà con cách nhận biết một số giống giả, cũng như phân bón giả kém chất lượng và nhái nhãn mác trên thị trường để phòng tránh rủi ro cho bà con trước khi vào mùa vụ sản xuất.
Công tác giảm nghèo bền vững của huyện vùng cao Mù Cang Chải được đánh giá là địa phương tiêu biểu, có nhiều cách làm sáng tạo, phù hợp với thực tiễn, mang lại kết quả tích cực, tạo được sức lan tỏa, khích lệ người nghèo quyết tâm vươn lên, sức dân được được huy động mạnh mẽ, góp phần làm thay đổi đời sống, mở ra tương lai tốt đẹp hơn cho gần 7 vạn đồng bào người Mông, người Thái ở huyện vùng cao Mù Cang Chải.
Giang Nguyễn
Phát triển phong trào sản xuất, kinh doanh giỏi trong nông dân
Phát huy vai trò chủ thể, trung tâm của nông dân trong sản xuất nông nghiệp, thời gian qua các cấp Hội Nông dân trên địa bàn tỉnh luôn đồng hành với hội viên nông dân thông qua nhiều hoạt động gần hội viên và sát cơ sở.
Hội Nông dân phường Tân Hiệp (TP.Tân Uyên) trao hỗ trợ nông dân trong chương trình mô hình “Cà phê sáng nông dân”
Nâng cao hiệu quả công tác hội
Với sự đa dạng hình thức, hướng mạnh công tác, phong trào hội về cơ sở, các cấp Hội Nông dân (ND) đã tập hợp và thúc đẩy hội viên tham gia phát triển phong trào ND sản xuất, kinh doanh giỏi, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Một trong những điển hình về đổi mới nội dung và phương thức hoạt động hội cơ sở là mô hình “Cà phê sáng ND” đang được nhân rộng trên địa bàn TP.Tân Uyên. Mô hình đã cụ thể hóa thực tiễn công tác, phong trào hội gắn bó, gần gũi với ND. Cụ thể, tại Văn phòng khu phố Tân Hội, phường Tân Hiệp, Hội ND phường vừa tổ chức mô hình sinh hoạt “Cà phê sáng ND”. Trong buổi sinh hoạt, hội viên ND thảo luận về tình hình sản xuất nông nghiệp, giá cả thị trường và các phương pháp canh tác bền vững; đồng thời cập nhật thông tin về chính sách hỗ trợ, các chương trình vay vốn ưu đãi và ứng dụng khoa học - công nghệ trong nông nghiệp.
Tùy vào mỗi địa phương có đặc trưng nông nghiệp khác nhau, mô hình “Cà phê sáng ND” sẽ có những nội dung phù hợp với tình hình sản xuất của bà con ND. Điển hình như Hội ND xã Bạch Đằng (TP.Tân Uyên) vừa sinh hoạt mô hình “Cà phê sáng ND” kết hợp tập huấn phòng trừ sâu bệnh trên cây bưởi cho các hộ trồng bưởi trên địa bàn xã. Ngoài ra, hội viên còn trao đổi về cách nhận dạng, tập tính gây hại, biện pháp phòng trừ bằng sinh học, thủ công, hóa học và các loại thuốc đặc trị rệp vảy trên cây bưởi hiệu quả nhất...
Có thể nói, mô hình sinh hoạt “Cà phê sáng ND” là hoạt động thiết thực khuyến khích hội viên ND tích cực trao đổi, học hỏi kinh nghiệm để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Mặt khác, qua mô hình còn lồng ghép hoạt động trao hỗ trợ, trao quà tặng cho ND có hoàn cảnh khó khăn nhằm chia sẻ, động viên, tiếp thêm động lực để hội viên vươn lên trong lao động sản xuất.
Hiện nay, Hội ND ở cơ sở còn duy trì tốt hoạt động chi, tổ hội ND nghề nghiệp nhằm tạo môi trường cho ND trao đổi, tham quan học tập kỹ thuật từ các mô hình thực tiễn. Qua hoạt động này, Hội ND tại cơ sở sẽ đồng hành với ND phát triển sản xuất; tuyên truyền, vận động cán bộ, hội viên ND tích cực tham gia thực hiện các chủ trương, chính sách về xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; nâng cao nhận thức chính trị, hiểu biết pháp luật, tham gia bảo đảm an sinh xã hội và khơi dậy khát vọng vươn lên làm giàu chính đáng cho ND.
Hỗ trợ sản xuất
Trong quá trình thực hiện công tác hội, các cấp Hội ND luôn quan tâm và xác định nhiệm vụ tăng cường hỗ trợ, đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật, ứng dụng công nghệ cao và đẩy mạnh kết nối, hợp tác, tiêu thụ nông sản cho ND. Trong công tác năm, Hội ND các cấp đề ra kế hoạch tham gia quảng bá và kết nối xúc tiến thương mại hàng hóa, nông sản; hỗ trợ ND đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, nông sản và phương thức sản xuất an toàn, sản xuất hữu cơ theo hướng VietGAP, GlobalGAP…
Thực hiện Chương trình “Mỗi xã, phường một sản phẩm” (OCOP), Hội ND xã Trừ Văn Thố (huyện Bàu Bàng) đã phối hợp tổ chức và triển khai trong cán bộ, hội viên ND về những giá trị từ Chương trình OCOP mang lại, với nhiều lợi ích cho các hộ trồng cây ăn trái. Được biết, hộ ông Nguyễn Thanh Tuấn với 30 ha bưởi da xanh chăm sóc theo quy trình hoàn toàn bằng phân hữu cơ và gia đình có mong muốn xây dựng thương hiệu, Hội ND xã phối hợp với Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện và Phòng Kinh tế huyện hướng dẫn làm các thủ tục để đăng ký OCOP. Thời gian tới, Hội ND xã sẽ tiếp tục đẩy mạnh hỗ trợ hội viên về giống, vốn, khoa học kỹ thuật; tập huấn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới, áp dụng quy trình sản xuất tiên tiến, quản lý sản phẩm theo tiêu chuẩn chất lượng để có nhiều sản phẩm đạt tiêu chí OCOP, góp phần quảng bá các sản phẩm tại địa phương.
Không những vậy, Hội ND các cấp còn tích cực hỗ trợ hội viên ND tiếp cận các cơ chế chính sách, nguồn vốn vay ưu đãi; thường xuyên tạo điều kiện, hỗ trợ cán bộ, hội viên ND học tập kinh nghiệm, tham gia các hội nghị, hội thảo chuyên đề, nâng cao kiến thức, kỹ năng, tư duy về ứng dụng công nghệ kỹ thuật mới vào sản xuất, phương pháp canh tác sản xuất nông nghiệp tiến bộ…
Sự đồng hành của Hội ND các cấp và các chính sách hỗ trợ sản xuất sẽ giúp cho ND an tâm đầu tư phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Theo Ban Thường vụ Hội Nông dân tỉnh, năm 2025, toàn hội thực hiện chỉ tiêu trên 60% hộ hội viên nông dân đăng ký thi đua đạt danh hiệu “Nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi”; trong đó có từ 80% số hộ xét đạt danh hiệu hộ nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp so với số hộ đăng ký; phấn đấu vận động tăng trưởng nguồn vốn Quỹ hỗ trợ nông dân các cấp đạt chỉ tiêu được giao...