Lâm Đồng: Xây dựng nhãn hiệu sầu riêng, dứa mật Đam Rông và hạt điều Đạ Huoai
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
UBND tỉnh Lâm Đồng vừa cho phép sử dụng tên địa danh Đam Rông và xác nhận bản đồ khu vực địa lý để đăng ký nhãn hiệu tập thể “Sầu riêng Đam Rông”, “Dứa mật Đam Rông” và địa danh Đạ Huoai để đăng ký nhãn hiệu tập thể “Hạt điều Đạ Huoai”.
3 huyện phía Nam Lâm Đồng là vùng khí hậu nắng nóng thích hợp với cây điều
Theo đó, UBND huyện Đam Rông được phép sử dụng địa danh Đam Rông kèm theo bản đồ khu vực địa lý vùng sản xuất sản phẩm mang nhãn hiệu tập thể để đăng ký nhãn hiệu tập thể “Sầu riêng Đam Rông”, “Dứa mật Đam Rông”; UBND huyện Đạ Huoai được phép sử dụng địa danh Đạ Huoai kèm theo bản đồ khu vực địa lý (gồm 3 huyện Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên) và văn bản đồng thuận của UBND huyện Cát Tiên và huyện Đạ Tẻh để đăng ký nhãn hiệu chứng nhận “Hạt điều Đạ Huoai”.
Hai huyện Đạ Huoai và Đam Rông có trách nhiệm kiểm soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính, nguồn gốc sản phẩm của nhãn hiệu chứng nhận; đồng thời, có trách nhiệm xây dựng bộ công cụ quản lý nhãn hiệu; tổ chức quản lý việc sử dụng địa danh làm nhãn hiệu tập thể theo đúng quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.
Việc đăng ký nhãn hiệu cộng đồng cho hạt điều Đạ Huoai, sầu riêng, dứa mật Đam Rông là rất cần thiết nhằm phát triển cây trồng đặc trưng thế mạnh, nâng cao giá trị nông sản của địa phương.
QUỲNH UYỂN
Tiềm năng kinh tế của cây chanh dây
Nguồn tin: Báo Chính Phủ
Chanh dây hiện có diện tích trồng lên tới 9.500ha với sản lượng đạt 188.900 tấn, nằm trong nhóm 18 loại quả có sản lượng trên 100.000 tấn mỗi năm của Việt Nam.
Chanh dây là loại trái cây giàu dinh dưỡng, giàu chất chống oxy hóa, chất khoáng, vitamin và chất xơ
Theo Bộ NN&PTNT, từ năm 2015 đến nay thị trường tiêu thụ, đặc biệt là chế biến xuất khẩu chanh dây được mở rộng, tốc độ tăng trưởng bình quân về diện tích giai đoạn 2015-2022 đạt 31,1%/năm (tương ứng 1.000 ha/năm).
Chanh dây hiện có diện tích trồng lên tới 9.500ha với sản lượng đạt 188.900 tấn, nằm trong nhóm 18 loại quả có sản lượng trên 100.000 tấn mỗi năm của Việt Nam.
Chanh dây (chanh leo) thuộc chi Passiflora edulis, họ lạc tiên, là loại trái cây giàu dinh dưỡng, giàu chất chống oxy hóa, chất khoáng, vitamin và chất xơ. Cây chanh dây lần đầu tiên được du nhập vào Việt Nam từ thời Pháp thuộc. Trước năm 2015 chanh dây chủ yếu tập trung phát triển tại các tỉnh Lâm Đồng, Đăk Nông.
So với một số nước sản xuất chanh dây lớn trên thế giới, Việt Nam có thể sản xuất chanh quanh năm. Trong đó, Tây Nguyên là vùng sản xuất chanh dây thương mại chính, chiếm hơn 90% diện tích trồng chanh dây cả nước.
Tây Nguyên có khoảng 8.200 ha chanh dây năm 2022. Trong đó Gia Lai hiện là tỉnh có diện tích chanh dây lớn nhất với hơn 4.263 ha, sản lượng đạt hơn 134.000 tấn năm 2022 (hiện cũng đang là địa phương thu hút, tập trung các doanh nghiệp đầu tư sản xuất giống, chế biến tiêu thụ chanh dây lớn nhất cả nước); tiếp đến gồm các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng.
Trung du miền núi phía Bắc là vùng chanh dây lớn thứ 2 với hơn 1.000ha (hơn 11%), chủ yếu tập trung tại tỉnh Sơn La (Cục Trồng trọt, 2023). Giống chanh dây chủ yếu hiện nay là giống quả tím Đài nông 1 (LPH04), chiếm hơn 95% diện tích trồng.
Việt Nam đã trở thành một trong những nhà sản xuất và xuất khẩu chanh dây lớn trên thế giới, nằm trong top 10 nước cung ứng, sau các quốc gia như Brazil, Colombia, Ecuador và Peru. Từ tháng 7 năm 2022, chanh dây Việt Nam chính thức được xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, mở ra cơ hội lớn cho việc mở rộng sản xuất. Cùng năm đó, Bộ NN&PTNT đã ban hành Chỉ thị số 8084/CT-BNN-TT về việc phát triển bền vững sản xuất cây chanh dây.
Như vậy, ngành hàng chanh dây không chỉ đóng vai trò quan trọng trong nông nghiệp Việt Nam mà còn mở ra nhiều cơ hội phát triển kinh tế thông qua việc xuất khẩu, đồng thời khẳng định vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, để duy trì và phát triển bền vững, việc quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp và ứng phó với các dịch hại trên chanh dây cần được chú trọng và đầu tư hơn nữa.
Những năm gần đây, do nhu cầu cao của thị trường nước ngoài đối với trái cây tươi nguyên quả và các sản phẩm nước uống chế biến sẵn, chanh dây Việt Nam có triển vọng xuất khẩu cao với 80% sản lượng dành cho thị trường quốc tế với kim ngạch tăng trưởng ổn định.
Khó khăn do dịch bệnh và kỹ thuật canh tác
Sản xuất chanh dây của Việt Nam cũng đang gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh cũng như hạn chế về kỹ thuật canh tác. Bên cạnh đó là sự biến động của thị trường do cung vượt cầu và phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu.
TS Nguyễn Thị Bích Ngọc, Phó Viện trưởng Viện Bảo vệ thực vật trực (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) cho biết, một số địa phương như Gia Lai, Nghệ An, Đắk Lắk đã quan tâm công tác bình tuyển, công nhận vườn cây đầu dòng chanh dây.
Tại tỉnh Gia Lai, Sở NN&PTNT đã công nhận 14 vườn chanh dây đầu dòng. Trên địa bàn tỉnh cũng đã hình thành hệ thống sản xuất giống chanh dây 3 cấp trong nhà lưới tiên tiến, sạch bệnh với quy mô hàng triệu cây giống/năm.
Mặc dù vậy, bệnh virus vẫn là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến sản xuất chanh dây bền vững. Đặc biệt, virus gây bệnh cứng trái đã gây thiệt hại lớn nhất đối với sản xuất chanh dây tại Việt Nam.
Để quản lý bệnh virus, TS Ngọc cho rằng, cần phải sử dụng cây giống được sản xuất trong nhà lưới 3 cấp. Trong đó, cây mẹ phải được kiểm tra bệnh virus hàng năm. Trong quá trình canh tác, cần thu dọn sạch cỏ dại, tàn dư thực vật, đồng thời nhổ bỏ các cây là ký chủ của virus và môi giới truyền bệnh như nhãn lồng, bầu bí, dưa chuột, mướp đắng, su su, cà tím, ớt… trên khu vực dự định trồng chanh leo. Xử lý mối, tuyến trùng và các sâu hại dưới đất bằng các thuốc bảo vệ thực vật trước khi trồng.
"Trồng mới bằng cây giống sạch bệnh làm giảm thiệt hại bệnh virus gây ra trên cây chanh leo. Đồng thời áp dụng biện pháp quản lý tổng hợp để chống tái nhiễm bệnh virus, giảm nguồn bệnh bằng vệ sinh đồng ruộng, điều tra loại bỏ sớm cây bị nhiễm bệnh, quản lý môi giới truyền bệnh từ khi mới trồng. Quản lý các sâu bệnh hại khác, đồng thời quản lý vườn cây bằng các giải pháp quản lý đất, nước tưới, phân bón", TS Ngọc chia sẻ.
GS.TS Nguyễn Hồng Sơn, Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam cho biết, tại Việt Nam, diện tích chanh dây có sự biến động liên tục do tác động của thị trường và dịch bệnh. Vào thời điểm thịnh vượng nhất (2017 - 2020), diện tích chanh dây của Việt Nam đã lên tới 8 nghìn ha và dự kiến mở rộng lên 12 nghìn ha vào năm 2025. Tuy nhiên, hiện nay diện tích không tăng mà còn có xu hướng giảm do tác động của dịch bệnh và yếu tố thị trường. Chính vì vậy, việc tăng cường quản lý chất lượng cho chuỗi giá trị được xác định là khâu then chốt.
Đỗ Hương
Long An: Chanh không hạt chính thức có Giấy chứng nhận chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận 'Bến Lức - Long An'
Nguồn tin: Báo Long An
Ngày 04/7, Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tỉnh Long An tổ chức Hội thảo khoa học công bố Quyết định, trao Giấy chứng nhận Chỉ dẫn địa lý, Nhãn hiệu chứng nhận “Bến Lức - Long An” cho quả chanh không hạt của tỉnh Long An.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Hồ Thị Ngọc Lan nhận Giấy chứng nhận Chỉ dẫn địa lý từ Cục Sở hữu trí tuệ
Tham dự hội thảo có Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN) - Trần Lê Hồng; Giám đốc Sở KH&CN - Nguyễn Minh Hải; Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Hồ Thị Ngọc Lan; Phó Giám đốc Sở Công Thương - Trần Thanh Toản; đại diện Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ và Sở hữu trí tuệ CIPTEK, đại diện một số doanh nghiệp, hợp tác xã có tham gia sản xuất, xuất khẩu chanh không hạt.
Chanh không hạt là một trong những sản phẩm chủ lực của tỉnh, mang lại giá trị kinh tế cao cho nông dân huyện Bến Lức và các vùng lân cận. Hiện nay, diện tích trồng chanh không hạt trên địa bàn tỉnh Long An đạt trên 10.000ha, trong đó huyện Bến Lức chiếm trên 60%.
Giám đốc Sở KH&CN - Nguyễn Minh Hải khẳng định, việc triển khai xây dựng Chỉ dẫn địa lý “Bến Lức - Long An” cho quả chanh không hạt của tỉnh Long An là chủ trương đúng đắn, kịp thời của tỉnh Long An nhằm bảo vệ uy tín, chất lượng cho quả chanh không hạt của tỉnh.
Sau hơn 2 năm triển khai, thực hiện đề tài “Tạo lập, quản lý và quảng bá Chỉ dẫn địa lý “Bến Lức - Long An” cho quả chanh không hạt tỉnh Long An” do Cử nhân Đào Phương Hạnh là chủ nhiệm nhiệm vụ, Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ và Sở hữu trí tuệ CIPTEK là đơn vị chủ trì thực hiện, đến nay quả chanh không hạt đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Giấy chứng nhận Chỉ dẫn địa lý, Nhãn hiệu chứng nhận “Bến Lức - Long An”.
Chỉ dẫn địa lý “Bến Lức - Long An” cho quả chanh không hạt chỉ là bước khởi đầu. Thời gian tới, Sở KH&CN sẽ phối hợp các cơ quan, tổ chức quản lý Chỉ dẫn địa lý là Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, UBND huyện Bến Lức, Sở Công Thương tiếp tục xây dựng các chính sách, hướng dẫn chuyên môn nhằm tạo điều kiện để các tổ chức, người sản xuất, kinh doanh có thể sử dụng Chỉ dẫn địa lý một cách hiệu quả.
Theo Quyết định số 173/QĐ-SNN, ngày 15/3/2024 của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Long An về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý “Bến Lức - Long An” cho quả chanh không hạt của tỉnh Long An, có 3 đơn vị đạt điều kiện sử dụng gồm Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Bến Lức (trụ sở tại xã Lương Hòa, khu vực địa lý sản xuất chanh gồm huyện Bến Lức, Thủ Thừa); Công ty TNHH MTV The Fruit Republic Cần Thơ (trụ sở tại TP.Cần Thơ, khu vực địa lý sản xuất chanh gồm huyện Bến Lức, Thạnh Hóa, Đức Huệ, Thủ Thừa); Công ty TNHH XNK Hoàng Kim Việt Nam - chi nhánh Long An (trụ sở tại xã Thạnh Lợi, khu vực địa lý sản xuất chanh gồm trên địa bàn huyện Bến Lức).
Tại Long An, tính đến tháng 6/2024 có 3 sản phẩm có Giấy chứng nhận Chỉ dẫn địa lý gồm sản phẩm thanh long Châu Thành - Long An, khoai mỡ Bến Kè Thạnh Hóa, chanh không hạt Bến Lức - Long An; 4 nhãn hiệu chứng nhận cho sản phẩm gồm thanh long Châu Thành Long An, nếp Thủ Thừa Long An, khoai mỡ Bến Kè Thạnh Hóa và chanh không hạt Bến Lức - Long An./.
Mai Hương
Ðức Trọng (Lâm Đồng): Hỗ trợ nhân rộng Mô hình Trồng cây mắc ca, sầu riêng xen cà phê
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Thực hiện nguồn vốn cơ cấu lại ngành nông nghiệp hướng đến toàn diện, bền vững, hiện đại năm 2024, Trung tâm Nông nghiệp huyện Đức Trọng (Lâm Đồng) đang triển khai chương trình hỗ trợ nhân rộng mô hình sản xuất hiệu quả trồng cây mắc ca, sầu riêng xen cà phê.
Cụ thể, Trung tâm Nông nghiệp huyện sẽ ưu tiên hỗ trợ giống cây trồng mắc ca, sầu riêng cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ khác. Trong đó, sẽ hỗ trợ cây giống mắc ca cho 5 xã gồm: N’Thol Hạ, Ninh Gia, Ninh Loan, Đà Loan và Đa Quyn. Quy mô: Tối đa không quá 1 ha/hộ; số hộ hưởng thụ 17 hộ với diện tích 8,63 ha. Hỗ trợ cây giống sầu riêng cho các xã gồm: N’Thol Hạ, Phú Hội, Tân Thành, Ninh Gia, Tà Hine, Ninh Loan, Đà Loan, Đa Quyn và thị trấn Liên Nghĩa. Quy mô tối đa không quá 1 ha/hộ; số hộ hưởng thụ 89 hộ, tổng diện tích 35,11 ha.
Trong đó, định mức nhà nước hỗ trợ 50%, Nhân dân đối ứng 50%. Đơn giá cây giống mắc ca ghép (QN1, A38, 246) là 65 ngàn đồng /cây và giống cây sầu riêng ghép (Monthong) là 132 ngàn đồng/cây.
Sau khi hoàn thành thủ tục đấu thầu, giao cây giống, Trung tâm Nông nghiệp huyện sẽ phân công viên chức phụ trách địa bàn theo dõi, hướng dẫn người dân thực hiện đảm bảo mật độ quy định, đảm bảo số lượng và chất lượng cây giống khi giao cho các hộ dân; đồng thời tổ chức tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật trồng và chăm sóc cho các hộ dân để mang lại hiệu quả đầu tư.
Thông qua chương trình, nhằm khuyến khích bà con nông dân trên địa bàn huyện trồng xen cây mắc ca, cây sầu riêng trong vườn cà phê để tăng thu nhập, tăng tỷ lệ che bóng, chắn gió trên đơn vị diện tích đất, nâng cao hiệu quả kinh tế, đời sống của người dân, góp phần thúc đẩy việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
N.MINH
Giá lúa duy trì ở mức cao
Nguồn tin: Báo Long An
Hiện nay, nông dân (ND) tại một số địa phương khu vực Đồng Tháp Mười của tỉnh Long An tất bật thu hoạch lúa Hè Thu (HT) 2024. Mặc dù giá bán lúa được duy trì ở mức tương đối cao nhưng năng suất lại thấp nên lợi nhuận không cao.
Những ngày qua, trên nhiều cánh đồng xuống giống sớm vụ lúa HT ở huyện Tân Thạnh, Thạnh Hóa, Mộc Hóa, Tân Hưng, ND đã và đang tất bật vào vụ thu hoạch. Theo chia sẻ của ND, năm nay, do thời tiết nắng nóng cộng với nguồn nước phục vụ sản xuất lúa đôi lúc không bảo đảm nên phần nào ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa, từ đó dẫn tới năng suất lúa HT đầu vụ đạt không cao.
Vừa thu hoạch xong hơn 2ha lúa HT (giống OM 18), ông Nguyễn Văn Nghĩa (xã Nhơn Ninh, huyện Tân Thạnh) cho biết: “Năng suất lúa ở cánh đồng này chỉ dao động từ 6-6,5 tấn/ha, giảm gần 1 tấn/ha so cùng kỳ. Ngoài ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây lúa thì thời tiết nắng nóng gay gắt từ đầu vụ gieo sạ làm cho ND khó giữ nước trên đồng ruộng. Do đó, cỏ dại, lúa cỏ có điều kiện phát triển và lấn át cây lúa nên năng suất lúa giảm đáng kể”.
Không riêng gì tại cánh đồng lúa mà ông Nghĩa đang canh tác, qua ghi nhận thực tế tại nhiều địa phương khác, ND thu hoạch sớm vụ lúa HT đều chung tình trạng năng suất đạt thấp, dao động 5-6,5 tấn/ha, chỉ có một vài diện tích đạt năng suất khoảng 7 tấn/ha. Nhận định về nguyên nhân năng suất lúa đạt thấp, nhiều ND đều cho rằng do thời tiết năm nay nắng nóng gay gắt, nhất là cỏ dại và lúa cỏ xuất hiện, phát triển khá mạnh trên nhiều ruộng lúa.
Giá lúa duy trì ở mức cao, dao động từ 7.200 - 8.000 đồng/kg (tùy loại giống)
Mặc dù năng suất lúa HT đầu vụ đang ở mức thấp nhưng bù lại, giá bán vẫn duy trì ở mức tương đối cao nên phần nào làm “ấm lòng” ND sau khi cân lúa cho thương lái. Cụ thể, giá nếp IR4625 dao động từ 7.800-8.000 đồng/kg; giá lúa IR50404 từ 7.200-7.400 đồng/kg; lúa OM5451 từ 7.600-7.800 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 từ 7.600-7.800 đồng/kg; lúa OM18 từ 7.600-7.800 đồng/kg.
Vừa xem máy cắt thu hoạch gần 2ha lúa HT (giống OM5451) của gia đình, ông Trần Văn Đợi (xã Thạnh An, huyện Thạnh Hóa) vừa chia sẻ: “Hiện thương lái thu mua lúa tươi tại ruộng với giá 7.600 đồng/kg, giảm khoảng 200-300 đồng/kg so với thời điểm cách nay gần 10 ngày. Mặc dù giá bán lúa đang giảm nhưng so cùng kỳ vẫn cao hơn khoảng 400 đồng/kg. Với năng suất lúa ước đạt khoảng 6,5 tấn/ha, sau khi trừ chi phí, vụ này, tôi có lợi nhuận khoảng 18-20 triệu đồng/ha”.
Thông tin từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, vụ lúa HT năm nay, ND trên địa bàn tỉnh xuống giống hơn 214.600ha. Đến nay, ND đã thu hoạch 31.096,5ha lúa HT, năng suất khô ước đạt 69,2 tạ/ha, sản lượng 215.229,4 tấn.
Về sâu, bệnh gây hại trên lúa HT, theo ghi nhận của ngành chức năng, nhờ ND tích cực chăm sóc và chủ động phòng ngừa nên hiện tình hình sinh vật gây hại trên lúa HT không đáng ngại. Tuy nhiên, ngành chức năng cũng khuyến cáo ND lưu ý phòng bệnh đạo ôn lá, cháy bìa lá do tuần qua, thời tiết nóng ẩm, có mưa lớn ở nhiều vùng, nhất là đối với các trà lúa HT đang giai đoạn đẻ nhánh, đòng trổ.
Nhìn chung, mặc dù năng suất lúa HT đầu vụ hiện không cao nhưng ND vẫn có lợi nhuận từ 15-20 triệu đồng/ha. Theo đánh giá của ngành Nông nghiệp tỉnh và ND thì nhiều trà lúa HT sắp thu hoạch sẽ có năng suất cao hơn do lúa đang sinh trưởng tốt và ít sâu, bệnh./.
Minh Tuệ
An Lão (Bình Định): Gỗ keo được giá, nông dân thu nhập ổn định
Nguồn tin: Báo Bình Định
Gần đây, giá gỗ keo nguyên liệu liên tục tăng, đạt mức hơn 1,2 triệu đồng/tấn, nhu cầu thị trường tăng mạnh. Gia đình ông Đinh Văn Cư (thôn 2, xã An Hưng, An Lão, Bình Định) vừa bán 4 ha keo nguyên liệu với giá hơn 1,2 triệu đồng/tấn. “Thương lái đến tận rẫy thu mua keo với giá khá cao và họ tự thu hoạch. Đợt này tôi thu hơn 100 triệu đồng từ tiền bán keo, nhờ đó lo cho con cái ăn học, trang trải cuộc sống gia đình”, ông Cư hồ hởi.
Gỗ keo có giá cao, người dân An Lão phấn khởi khai thác rừng trồng. Ảnh: D.T.D
Còn ông Đinh Văn Ếc (thôn 8, xã An Trung) trồng hơn 10 ha keo, cho biết: Trong vòng 5 năm trồng, bình quân mỗi héc ta keo khai thác mang lại thu nhập hơn 80 triệu đồng/năm. So với nhiều cây trồng khác, cây keo dễ chăm sóc, đem lại thu nhập ổn định.
Theo nhiều nông dân trồng keo, cây keo trồng từ 4 năm tuổi được thương lái thu mua với giá 70 - 80 triệu đồng/ha; từ 4,5 - 5 năm tuổi có giá khoảng 100 triệu đồng/ha. Cây keo từ 10 năm tuổi trở lên, giá trị kinh tế càng cao do gỗ đạt chất lượng.
Huyện An Lão hiện có hơn 22.000 ha rừng nguyên liệu. Mỗi năm, địa phương khai thác khoảng 2.500 ha rừng keo lai với giá từ 60 - 80 triệu đồng/ha, tổng giá trị khoảng 175 - 200 tỷ đồng.
DIỆP THỊ DIỆU
Đề xuất tăng mức hỗ trợ sản xuất nông nghiệp bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh
Nguồn tin: Báo Chính Phủ
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang dự thảo Nghị định quy định về cơ chế, chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh thực vật.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất cơ chế, chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh thực vật
Tại dự thảo, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất quy định về cơ chế, chính sách hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản, lâm nghiệp, sản xuất muối hoặc một phần chi phí sản xuất ban đầu để khôi phục sản xuất nông nghiệp bị thiệt hại do ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh thực vật.
Theo đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất điều chỉnh nâng mức hỗ trợ đối với cây trồng, cây lâm nghiệp, vật nuôi, nuôi trồng thủy sản và sản xuất muối bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh thực vật cho phù hợp với kinh phí để khôi phục sản xuất hiện nay (tăng so với mức hỗ trợ cũ từ 1,33-3,7 lần).
Trong đó: (i) Đối với cây trồng: hỗ trợ theo loại cây trồng và giai đoạn gieo trồng; (ii) Đối với cây lâm nghiệp, hỗ trợ theo diện tích cây rừng, cây lâm nghiệp lấy gỗ và diện tích cây giống ươm trong giai đoạn vườn; (iii) Đối với nuôi trồng thủy sản, lấy tương đồng theo dự thảo Nghị định về hỗ trợ phòng, chống dịch bệnh động vật; (iv) Đối với vật nuôi hỗ trợ theo ngày tuổi nuôi và đơn vị tính là con (khác về đơn vị tính và mức hỗ trợ so với dự thảo Nghị định hỗ trợ phòng, chống dịch bệnh động vật do đặc thù thiệt hại về thiên tai khác so với thiệt hại do dịch bệnh); (v) Đối với sản xuất muối hỗ trợ theo diện tích muối bị thiệt hại.
Mức hỗ trợ bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh thực vật
Cụ thể, dự thảo nêu rõ mức hỗ trợ đối với cây trồng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh thực vật như sau:
Diện tích lúa:
- Sau gieo trồng từ 1 đến 10 ngày: thiệt hại trên 70% diện tích, hỗ trợ 6.000.000 đồng/ha; thiệt hại từ 30% - 70% diện tích, hỗ trợ 3.000.000 đồng/ha.
- Sau gieo trồng từ trên 10 ngày đến 45 ngày: thiệt hại trên 70% diện tích, hỗ trợ 8.000.000 đồng/ha; thiệt hại từ 30% - 70% diện tích, hỗ trợ 4.000.000 đồng/ha.
- Sau gieo trồng trên 45 ngày: thiệt hại trên 70% diện tích, hỗ trợ 10.000.000 đồng/ha; thiệt hại từ 30% - 70% diện tích, hỗ trợ 5.000.000 đồng/ha.
Diện tích mạ: thiệt hại trên 70% diện tích, hỗ trợ 30.000.000 đồng/ha; thiệt hại từ 30% - 70% diện tích, hỗ trợ 15.000.000 đồng/ha.
Cây hàng năm khác:
- Giai đoạn cây con (gieo trồng đến 1/3 thời gian sinh trưởng): thiệt hại trên 70% diện tích, hỗ trợ 6.000.000 đồng/ha; thiệt hại từ 30%-70% diện tích, hỗ trợ 3.000.000 đồng/ha.
- Giai đoạn cây đang phát triển (trên 1/3-2/3 thời gian sinh trưởng): thiệt hại trên 70% diện tích, hỗ trợ 10.000.000 đồng/ha; thiệt hại từ 30%-70% diện tích, hỗ trợ 5.000.000 đồng/ha.
- Giai đoạn cận thu hoạch (trên 2/3 thời gian sinh trưởng): thiệt hại trên 70% diện tích, hỗ trợ 15.000.000 đồng/ha; thiệt hại từ 30%-70% diện tích, hỗ trợ 7.500.000 đồng/ha.
Cây trồng lâu năm:
- Vườn cây ở thời kỳ kiến thiết cơ bản: thiệt hại trên 70% diện tích, hỗ trợ 12.000.000 đồng/ha; thiệt hại từ 30% - 70% diện tích, hỗ trợ 6.000.000 đồng/ha.
- Vườn cây ở thời kỳ kinh doanh thiệt hại đến năng suất thu hoạch nhưng cây không chết: thiệt hại trên 70% diện tích, hỗ trợ 20.000.000 đồng/ha; thiệt hại từ 30%-70% diện tích, hỗ trợ 10.000.000 đồng/ha.
- Vườn cây ở thời kỳ kinh doanh thiệt hại làm cây chết hoặc được đánh giá là cây không còn khả năng phục hồi trở lại trạng thái bình thường sau 1 năm; vườn cây đầu dòng ở giai đoạn được khai thác vật liệu nhân giống: thiệt hại trên 70% diện tích, hỗ trợ 30.000.000 đồng/ha; thiệt hại từ 30%-70% diện tích, hỗ trợ 15.000.000 đồng/ha.
- Cây giống trong giai đoạn vườn ươm được nhân giống từ nguồn vật liệu khai thác từ cây đầu dòng, vườn cây đầu dòng: thiệt hại trên 70% diện tích, hỗ trợ 60.000.000 đồng/ha; thiệt hại từ 30% - 70% diện tích, hỗ trợ 30.000.000 đồng/ha.
Mức hỗ trợ đối với lâm nghiệp bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh thực vật
Theo dự thảo, diện tích cây rừng, cây lâm sản ngoài gỗ trồng trên đất lâm nghiệp mới trồng đến 1/2 chu kỳ khai thác bị thiệt hại trên 70%, hỗ trợ 8.000.000 đồng/ha; thiệt hại từ 30%-70%, hỗ trợ 4.000.000 đồng/ha.
Diện tích cây rừng, cây lâm sản ngoài gỗ trồng trên đất lâm nghiệp trên 1/2 chu kỳ khai thác bị thiệt hại trên 70%, hỗ trợ 15.000.000 đồng/ha; thiệt hại từ 30%-70%, hỗ trợ 7.500.000 đồng/ha.
Vườn giống, rừng giống bị thiệt hại trên 70%, hỗ trợ 20.000.000 đồng/ha; thiệt hại từ 30%-70%, hỗ trợ 10.000.000 đồng/ha.
Diện tích cây giống được ươm trong giai đoạn vườn ươm bị thiệt hại trên 70%, hỗ trợ 50.000.000 đồng/ha, thiệt hại từ 30%-70%, hỗ trợ 25.000.000 đồng/ha.
Mức hỗ trợ đối với nuôi trồng thủy sản, sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản bị thiệt hại do thiên tai
Dự thảo nêu rõ, thủy sản giống hỗ trợ 20.000.000 đồng/100 m3 bể.
Diện tích nuôi tôm quảng canh (nuôi tôm lúa, tôm sinh thái, tôm rừng, tôm kết hợp) hỗ trợ 10.000.000 đồng/ha.
Diện tích nuôi tôm sú thâm canh, bán thâm canh hỗ trợ 15.000.000 đồng/ha.
Diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh, bán thâm canh hỗ trợ 30.000.000 đồng/ha.
Diện tích nuôi cá truyền thống, các loài cá bản địa hỗ trợ 10.000.000 đồng/ha.
Diện tích nuôi cá tra thâm canh hỗ trợ 50.000.000 đồng/ha.
Diện tích nuôi cá rô phi thâm canh hỗ trợ 30.000.000 đồng/ha.
Diện tích nuôi cá nước lạnh (tầm, hồi) thâm canh hỗ trợ 50.000.000 đồng/ha.
Diện tích nuôi nhuyễn thể hỗ trợ 30.000.000 đồng/ha.
Lồng, bè nuôi thủy sản nước ngọt hỗ trợ 10.000.000 đồng/100m3 lồng.
Lồng, bè nuôi hải sản hỗ trợ 20.000.000 đồng/100m3 lồng.
Mức hỗ trợ đối với vật nuôi bị thiệt hại do thiên tai
Theo dự thảo, gia cầm (gà, vịt, ngan, ngỗng) đến 28 ngày tuổi, hỗ trợ 15.000 - 30.000 đồng/con; trên 28 ngày tuổi, hỗ trợ 31.000 - 45.000 đồng/con.
Lợn đến 28 ngày tuổi, hỗ trợ 500.000 - 600.000 đồng/con; trên 28 ngày tuổi, hỗ trợ 610.000 - 1.500.000 đồng/con; lợn nái và lợn đực đang khai thác, hỗ trợ 3.000.000 đồng/con.
Bê cái hướng sữa đến 6 tháng tuổi, hỗ trợ 2.000.000 - 4.000.000 đồng/con; bò sữa trên 6 tháng tuổi, hỗ trợ 4.100.000 - 12.000.000 đồng/con.
Trâu, bò thịt, ngựa đến 6 tháng tuổi, hỗ trợ 1.500.000 - 3.000.000 đồng/con; trên 6 tháng tuổi, hỗ trợ 3.100.000 - 7.000.000 đồng/con.
Hươu, sao, cừu, dê: Hỗ trợ 1.000.000 - 2.500.000 đồng/con.
Mức hỗ trợ đối với sản xuất muối bị thiệt hại do thiên tai
Dự thảo nêu rõ, diện tích sản xuất muối bị thiệt hại trên 70% được hỗ trợ 3.000.000 đồng/ha.
Diện tích sản xuất muối bị thiệt tại từ 30% – 70% được hỗ trợ 2.500.000 đồng/ha.
Theo dự thảo, trường hợp hỗ trợ bằng hiện vật, mức hỗ trợ được quy đổi tương đương hỗ trợ bằng tiền theo giá tại thời điểm hỗ trợ.
Đối với cơ sở sản xuất bị thiệt hại dưới 1,5 triệu đồng thì không xem xét hỗ trợ.
Tuệ Văn
Những nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi
Nguồn tin: Báo Long An
Những năm qua, phong trào “Nông dân (ND) thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi (SXKDG), đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững’’ đã khơi dậy tinh thần năng động, sáng tạo của ND trong lao động, sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế cao. Qua đó, xuất hiện ngày càng nhiều điển hình tiên tiến, những tấm gương ND tiêu biểu, quyết chí vươn lên làm giàu cho bản thân và xã hội.
Sau gần 25 năm lập nghiệp, ông Nguyễn Văn Buôn (bên trái, ấp 4, xã Vĩnh Châu B, huyện Tân Hưng) có 40ha đất sản xuất nông nghiệp
Mạnh dạn chuyển đổi cây trồng
Có hơn 12ha đất sản xuất lúa nhưng gia đình ông Trần Văn Chính (ấp Trương Công Ý, xã Tân Lập, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An) chẳng mấy khá giả. Trồng lúa có những vụ mùa sâu, bệnh gây hại nên không có lợi nhuận cao. Năm 2012, ông Chính ra tỉnh Bình Thuận chơi, thấy người dân trồng những vườn thanh long bạt ngàn, đời sống ấm no. Nhưng mãi đến năm 2016, ông mới quyết định mua trụ, dẫn đường ống trồng hơn 1ha thanh long. Cùng thời điểm đó, ông lên liếp trồng 0,3ha sầu riêng giống Monthong.
Khi vườn thanh long bước vào thời kỳ thu hoạch cũng là lúc trái thanh long được giá, lợi nhuận khá cao, gấp nhiều lần so với trồng lúa. Thấy diện tích sầu riêng phát triển tốt, năm 2018, ông quyết định đầu tư trồng thêm hơn 1ha sầu riêng (hơn 210 cây giống Monthong và Ri6).
Thu hoạch được vài vụ, dịch Covid-19 bùng phát, thanh long rớt giá. Chỉ tính riêng năm 2020, ông lỗ hơn 500 triệu đồng vì bán không ai mua. Ông quyết định phá bỏ diện tích thanh long này, tiếp tục đầu tư thêm hơn 2ha sầu riêng.
Sau 5 năm chăm sóc, năm 2022, số diện tích sầu riêng ban đầu (0,3ha) cho thu hoạch với sản lượng gần 4 tấn, giá 70.000 đồng/kg, ông thu về gần 300 triệu đồng. Năm 2023, 1ha sầu riêng trồng sau cho trái cộng với 0,3ha trồng ban đầu, ông thu hoạch với sản lượng gần 10 tấn, thu về khoảng 1,4 tỉ đồng.
Theo ông Chính, ngoài việc lựa chọn giống cây phù hợp thì việc bảo đảm trồng sầu riêng đúng tiêu chuẩn kỹ thuật cũng là một trong những yếu tố hàng đầu giúp cây mang lại hiệu quả kinh tế bền vững. Khi trồng sầu riêng nên trồng với mật độ vừa phải, khoảng cách lý tưởng là 8m, bình quân 1ha đất trồng khoảng 220 gốc.
Ngoài việc chăm sóc đúng kỹ thuật, ông Chính còn lắp hệ thống phun nước tự động, cách làm này vừa tiết kiệm được tiền thuê nhân công, vừa bảo đảm cây được ướt đều với lượng nước vừa đủ. Trung bình mỗi cây sầu riêng từ lúc trồng đến lúc thu hoạch ít nhất 5 năm và chi phí đầu tư khoảng 7 triệu đồng/cây.
Thấy cây sầu riêng thích nghi với thổ nhưỡng nơi đây, năm 2023, ông Chính quyết định đầu tư tiếp tục lên liếp 3,5ha đất để trồng thêm sầu riêng. Hiện gia đình ông có tổng cộng 7ha trồng sầu riêng, chủ yếu là 2 giống sầu riêng: Ri6 và Monthong.
Nhiều năm liền, ông Trần Văn Chính đạt danh hiệu NDSXKDG cấp tỉnh; được UBND tỉnh tặng Bằng khen có thành tích trong phong trào thi đua NDSXKDG năm 2021; Giấy khen NDSXKDG của Hội ND tỉnh giai đoạn 2017-2022. Bên cạnh đó, ông còn giúp đỡ nhiều hộ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong cuộc sống, tích cực tham gia các phong trào do địa phương phát động.
Dám nghĩ, dám làm
Với tinh thần “dám nghĩ, dám làm”, sau thời gian học hỏi kinh nghiệm từ những hộ dân trồng bưởi ở các địa phương lân cận, năm 2016, anh Trương Văn Mây (ấp Gò Xoài, xã Hưng Điền A, huyện Vĩnh Hưng) mạnh dạn đầu tư gần 40 triệu đồng để lên liếp và mua 300 cây bưởi da xanh về trồng trên 1ha đất trồng lúa kém hiệu quả của gia đình.
Sau 3 năm, diện tích bưởi của gia đình anh bắt đầu cho thu hoạch. Mỗi năm, bưởi cho thu hoạch từ 4-5 đợt (30-40 tấn trái), với giá trung bình từ 15.000-25.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, anh có lợi nhuận khoảng 300 triệu đồng/năm, gấp nhiều lần so với trồng lúa.
Theo anh Mây, ngoài lựa chọn giống cây phù hợp thì việc chăm sóc đúng kỹ thuật là yếu tố quan trọng giúp cây mang lại hiệu quả kinh tế bền vững. Bình quân 1ha đất trồng khoảng 300 cây bưởi.
Anh Mây còn lắp hệ thống tưới nước tự động, vừa tiết kiệm được tiền thuê nhân công, vừa bảo đảm cây được tưới đều với lượng nước vừa đủ. Cây bưởi từ lúc trồng đến khi thu hoạch ít nhất 3 năm và chi phí đầu tư khoảng 1-1,2 triệu đồng/cây. Thấy cây bưởi thích nghi với thổ nhưỡng, năm 2019, anh Mây quyết định đầu tư thêm, tiếp tục lên liếp 1ha đất để trồng bưởi, số diện tích này cũng đang cho thu hoạch.
Anh Mây chia sẻ: “Tôi thường xuyên tìm hiểu, học hỏi những kiến thức, kinh nghiệm sản xuất, các chuyên gia, các mô hình làm ăn hiệu quả, các buổi tập huấn,... Tôi luôn nghĩ rằng mình còn phải cố gắng học hỏi nhiều hơn nữa để tiếp tục phát triển mô hình trong thời gian tới”.
Không những thế, anh còn mạnh dạn đầu tư máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp (máy cày, máy bay điều khiển từ xa), tham gia vào hợp tác xã. Hiện thu nhập bình quân của gia đình anh hơn 600 triệu đồng/năm. Nhiều năm liền, anh Trương Văn Mây được công nhận danh hiệu NDSXKDG cấp tỉnh, được UBND tỉnh tặng Bằng khen có thành tích trong phong trào thi đua NDSXKDG năm 2021.
Vượt khó vươn lên làm giàu
Từ đôi bàn tay trắng, bằng sự nỗ lực, siêng năng, sau gần 25 năm cần cù lao động, gia đình ông Nguyễn Văn Buôn (ấp 4, xã Vĩnh Châu B, huyện Tân Hưng) vươn lên trở thành hộ gia đình khá giả. Ông còn là tấm gương điển hình trong phong trào thi đua NDSXKDG của địa phương.
Vừa rót ly nước trà mời khách, ông Nguyễn Văn Buôn tâm sự, năm 1990, cuộc sống gia đình khó khăn, từ xã Phú Thọ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, ông đến vùng đất Tân Hưng lập nghiệp. Lúc ấy, trong tay chỉ có một chiếc máy cày cũ để cày đất thuê rồi làm dịch vụ bơm nước. Ban đầu, ông thuê đất sản xuất. Sau vài vụ lúa trúng mùa, được giá, ông bắt đầu có tích lũy. Đến năm 1996, ông lập gia đình. Với sự nỗ lực, không ngại gian khổ, vợ chồng ông lại dành dụm tiết kiệm để mua đất, có khi vài công, cũng có khi vài mẫu. Đến nay, gia đình ông có 40ha đất trồng lúa.
Không dừng lại ở đó, ông còn mạnh dạn đầu tư mua máy cày, máy gặt đập liên hợp, máy bay điều khiển từ xa đưa vào phục vụ trong sản xuất của gia đình cũng như cho các hộ dân trên địa bàn và các xã lân cận, góp phần giảm chi phí trong sản xuất, tạo việc làm cho gần 30 lao động ở địa phương với thu nhập ổn định.
Bình quân mỗi năm, ông thu lợi nhuận từ trồng lúa và các dịch vụ hơn 3,5 tỉ đồng. Ông Buôn bày tỏ: “Để có được thành công, trước hết phải quyết tâm, cần cù lao động, nắm bắt kịp thời các kỹ thuật tiên tiến, sự giúp đỡ của các cấp lãnh đạo qua việc tạo điều kiện cho người dân được học tập, ứng dụng khoa học - kỹ thuật và học hỏi các mô hình kinh tế hiệu quả”.
Từ những cách làm hay, tiên tiến trong sản xuất, ông Nguyễn Văn Buôn là một trong những ND tiêu biểu vượt khó, làm giàu, nhiều năm liền được công nhận danh hiệu NDSXKDG cấp huyện, tỉnh. Ông được UBND tỉnh tặng Bằng khen vì có thành tích trong phong trào thi đua NDSXKDG nhiều năm liền; được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen có thành tích trong phong trào NDSXKDG, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc./.
Văn Đát
Nỗ lực bảo vệ thương hiệu sâm Ngọc Linh Kon Tum
Nguồn tin: Báo Kon Tum
Qua hơn 3 tháng triển khai đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ, Công an tỉnh đã bắt giam đối tượng có hành vi bán sâm Ngọc Linh giả. Điều này cho thấy sự nỗ lực, quyết tâm của lực lượng chức năng của tỉnh trong việc bảo vệ thương hiệu sâm Ngọc Linh.
Vào khoảng tháng 3/2024, trên mạng xuất hiện một fanpage có tên “Trung Tâm Giống Cây Trồng Tỉnh Kon Tum” đăng tải thông tin bán cây giống sâm Ngọc Linh với giá rẻ hơn rất nhiều so với giá trị thực tế. Do có nhu cầu trồng sâm và thấy giá rẻ nên một người dân ở thành phố Kon Tum đã đặt mua 150 cây giống với giá 35.000 đồng/cây trên fanpage này.
Nhưng nạn nhân nhận được đơn hàng đều là giống sâm Ngọc Linh giả, có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc. Sử dụng đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ, Phòng An ninh mạng và phòng chống tội phạm công nghệ cao, (Công an tỉnh) và Công an thành phố Kon Tum đã phối hợp bắt giữ được đối tượng lừa đảo tại tỉnh Vĩnh Phúc. Đối tượng Lưu Văn Chung (28 tuổi) đã khai nhận tại cơ quan công an: “Em tìm hiểu trên mạng xã hội thấy thị trường giống cây sâm Ngọc Linh có nhu cầu mua cao nên nảy sinh ý định tạo một trang fanpage đăng bán cây cho những người có nhu cầu. Cuối tháng 4, có anh Hoàng Sa đặt mua 150 cây, do không có cây nên đặt của chị Hồng trên mạng cây sâm có nguồn gốc từ Trung Quốc để gửi, trong đó em có đảm bảo rằng đó là cây Sâm Ngọc Linh 100%”.
Đây là một vụ án điển hình thể hiện sự phối hợp có hiệu quả giữa Phòng An ninh mạng và phòng chống tội phạm công nghệ cao, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum, dưới sự chỉ đạo của Ban Giám đốc Công an tỉnh, trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm trên không gian mạng.
Chia sẻ thêm về vụ án này, Trung tá Đào Nguyễn Thanh Sơn - Đội trưởng Đội Cảnh sát hình sự, Công an thành phố Kon Tum cho biết: Vụ việc này được trao đổi trên không gian mạng, đối tượng sử dụng nhiều tài khoản facebook, trong đó che giấu địa chỉ, nơi ở. Đồng thời đối tượng này ở vùng phía Bắc nên công tác xác minh, truy xét và truy tìm đối tượng gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng lực lượng Công an đã quyết tâm làm rõ được đối tượng, củng cố tài liệu chứng cứ, thu thập tài liệu chứng cứ để xử lý hình sự đối tượng, từ đó răn đe đối với những đối tượng khác có hành vi tương tự, để bảo vệ được người tiêu dùng, bảo vệ được thương hiệu sâm Ngọc Linh Kon Tum.
Vừa qua, tại huyện Tu Mơ Rông, Cục Quản lý thị trường tỉnh cùng các lực lượng chức năng của Công an tỉnh, các phòng, ban của huyện Tu Mơ Rông đã tổ chức tiêu hủy số cây sâm Ngọc Linh giả trong vụ án trên. Đồng thời, tổ chức giới thiệu, chia sẻ một số kiến thức cơ bản để người dân có thể nhận biết các loại sâm trên thị trường hiện nay.
Các loại sâm được giới thiệu tại huyện Tu Mơ Rông. Ảnh: T.B
Anh A Ku - một người trồng sâm ở xã Măng Ri, huyện Tu Mơ Rông mong muốn, trong thời gian tới, các ngành chức năng tiếp tục xử lý thật nghiêm những đối tượng mua bán sâm giả để bảo vệ những người trồng sâm chân chính, bảo vệ thương hiệu sâm Ngọc Linh Kon Tum.
“Trong thời gian tới, huyện Tu Mơ Rông sẽ phối hợp với lực lương công an và quản lý thị trường tiếp tục đấu tranh quyết liệt với nạn buôn bán sâm giả, đặc biệt là các loại sâm giống. Đồng thời, mong muốn các bộ, ban, ngành Trung ương tham mưu với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ có giải pháp đấu tranh mạnh hơn nữa đối với việc buôn bán sâm trên mạng xã hội. Hiện nay, việc buôn bán lợi dụng sâm Ngọc Linh rất lớn, do người tiêu dùng rất khó phân biệt được sâm Ngọc Linh chính hiệu và các loại sâm khác” - Chủ tịch UBND huyện Tu Mơ Rông Võ Trung Mạnh chia sẻ.
Trong thời gian tới, các cơ quan chức năng sẽ tiếp tục tăng cường công tác theo dõi, nắm tình hình, đặc biệt là trên không gian mạng để xác định các hoạt động giao dịch, mua bán các sản phẩm sâm Ngọc Linh giả, quyết tâm bảo vệ sản phẩm, thương hiệu sâm Ngọc Linh Kon Tum.
Tấn Bình
Cấp mã vùng trồng, vùng nuôi: Cần thiết và cấp bách
Nguồn tin: Báo Bạc Liêu
Xây dựng mã số vùng trồng (MSVT), mã số vùng nuôi (MSVN) nhằm đảm bảo chất lượng và an toàn nông sản, đáp ứng các yêu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Đây cũng là “tấm vé” thông hành, mở ra cơ hội cho nông sản của tỉnh Bạc Liêu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài.
Cán bộ ngành Nông nghiệp kiểm tra chất lượng lúa ở ruộng được cấp mã số vùng trồng.
QUAN TÂM CẤP MÃ SỐ VÙNG TRỒNG
Những năm gần đây, việc cấp MSVT, MSVN luôn được các cơ quan chức năng đặc biệt quan tâm. Từ đầu năm đến nay, ngành Nông nghiệp Bạc Liêu cấp mới 12 MSVT lúa cho 3 hợp tác xã (HTX) với diện tích hơn 1.167ha, nâng tổng số toàn tỉnh lên 65 MSVT với diện tích gần 5.589ha. Trong đó, cấp 56 MSVT nội địa với diện tích 5.338ha (lúa 52 MSVT, bắp 1 MSVT, rau 4 MSVT) và cấp 8 MSVT xuất khẩu với diện tích 252ha (lúa 7 MSVT, nhãn 1 MSVT).
Ngoài cấp MSVT cho cây lúa, ngành chức năng cũng quan tâm cấp MSVT cho rau màu và cây ăn trái. Đáng chú ý là việc cấp MSVT cho cây nhãn với 56,8ha ở xã Hiệp Thành (TP. Bạc Liêu). Được biết, TP. Bạc Liêu có dự án mở rộng diện tích trồng Thanh nhãn lên 1.000ha, vì vậy sẽ cấp giấy chứng nhận thêm phần mở rộng diện tích vùng trồng để người trồng Thanh nhãn thuận tiện trong việc xuất khẩu. Đối với rau màu, ngành chức năng cũng đã cấp MSVT cho hơn 60ha. Cụ thể, cấp MSVT cho rau cần nước với diện tích gần 11ha (ấp Vĩnh Đông, xã Vĩnh Thanh, huyện Phước Long); hẹ lá 4ha (ấp Quốc Kỷ, xã Hưng Thành, huyện Vĩnh Lợi); bắp 14,56ha (ấp Mỹ 1, xã Vĩnh Phú Đông, huyện Phước Long) và rau sạch 30,8ha cho HTX Đoàn Kết (ấp Giồng Giữa, xã Hiệp Thành, TP. Bạc Liêu).
Bà Lê Thị Đào - Phó phòng Kinh tế TP. Bạc Liêu, cho biết: “Trong thời gian tới, đơn vị sẽ hướng dẫn các thủ tục cho người dân đăng ký cấp MSVT, mở rộng diện tích trồng nhãn. Đồng thời, hướng dẫn người trồng rau màu đăng ký để ngành chức năng cấp MSVT cho rau màu ở xã Vĩnh Trạch Đông và xã Hiệp Thành…”.
NHIỀU DIỆN TÍCH ĐƯỢC CẤP MÃ SỐ VÙNG NUÔI
Trên thực tế, việc đăng ký MSVN, đánh mã số ao nuôi đã được triển khai từ lâu. Bạc Liêu đã và đang xây dựng tỉnh trở thành trung tâm ngành công nghiệp tôm cả nước nên việc đẩy mạnh cấp MSVN được xem là một trong những giải pháp nâng cao chuỗi giá trị ngành hàng tôm của tỉnh nói riêng, tôm Việt Nam nói chung trên thị trường thế giới. Theo đó, tỉnh quan tâm cũng như triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, hữu hiệu hơn trong việc cấp MSVN, nhất là vùng nuôi tôm và cơ sở nuôi tôm…
Với sự chỉ đạo của UBND tỉnh, Sở NN&PTNT phối hợp với các huyện, thị, thành phố tổ chức thực hiện quyết liệt, từ đó công tác đăng ký mã số cơ sở nuôi chủ lực trên địa bàn tỉnh đã được đẩy nhanh và đạt kết quả đáng khích lệ. Đến nay, toàn tỉnh đã cấp xác nhận cho 19.884 cơ sở, diện tích 39.523,9ha với 40.900 ao.
Nhằm giúp công tác này thực hiện hiệu quả hơn trong thời gian tới, Sở NN&PTNT tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp cấp MSVT, MSVN như phối hợp với các huyện, thị xã, thành phố đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tổ chức hướng dẫn tập huấn cho cán bộ ở các xã, phường, thị trấn và người dân ở các vùng trồng lúa, nuôi tôm, cơ sở chế biến và xuất khẩu về các quy định và yêu cầu kỹ thuật của nước nhập khẩu. Toàn tỉnh hiện có 135.00ha nuôi trồng thủy sản, đến nay đã có 40% tổng số cơ sở nuôi tôm được cấp vùng nuôi, cơ sở nuôi.
Ông Nguyễn Hoàng Xuân - Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản tỉnh, cho biết: “Để thực hiện tốt công tác cấp MSVN, đơn vị đã đẩy mạnh tuyên truyền và bước đầu tháo gỡ được khó khăn, tạo chuyển biến tích cực trong quá trình triển khai thực hiện cấp MSVN, nhất là cấp mã số cơ sở nuôi cho đối tượng chủ lực trên địa bàn tỉnh. Hiện Bạc Liêu là tỉnh có số lượng cơ sở nuôi tôm được cấp giấy xác nhận đối tượng nuôi chủ lực đứng thứ 2 cả nước, sau tỉnh Kiên Giang…”.
Để đáp ứng các yêu cầu hội nhập quốc tế, việc xây dựng mã vùng trong sản xuất nông nghiệp là thủ tục cần thiết, bắt buộc đối với tổ chức, cá nhân trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Đây là cơ sở pháp lý để cơ quan quản lý nhà nước quản lý tốt vùng trồng, vùng nuôi và an toàn thực phẩm.
Xây dựng MSVT, MSVN không chỉ hướng đến thị trường xuất khẩu mà người tiêu dùng trong nước hiện nay cũng ngày càng đòi hỏi cao hơn về chất lượng, tính minh bạch của nguồn gốc sản phẩm. Vì vậy, mã số vùng được ví như “tấm vé” thông hành cho nông sản của tỉnh tiêu thụ trong nước và ngoài nước.
MINH ĐẠT
Thu nhập cao từ nuôi dúi
Nguồn tin: Báo Cà Mau
Là loài gặm nhấm, dễ nuôi, dễ chăm sóc, cho thu nhập ổn định, thời gian gần đây, mô hình nuôi dúi bắt đầu phát triển trên địa bàn tỉnh. Anh Phạm Ga Băng, ấp Công Ðiền, xã Phong Ðiền, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau đã và đang thành công với mô hình này.
Sinh năm 1992, trước làm công tác Ðoàn ở ấp, năm 2022, anh Phạm Ga Băng đến Tiền Giang tham quan, học tập mô hình, kinh nghiệm nuôi dúi của người bạn. Thấy hiệu quả, anh đem giống về nuôi.
Ban đầu để thử nghiệm, anh chi khoảng 14 triệu đồng mua con giống, với giá mỗi con 1,2 triệu đồng. Sau 4-6 tháng nuôi, nhận thấy nuôi dúi đạt hiệu quả, mau lớn, anh đầu tư thêm, nhân giống tổng số gần 200 con dúi.
Anh Băng cho biết: “Dúi rất dễ nuôi, thức ăn chủ yếu là tre, mía, khoai mì, khoai lang, bắp, cơm nguội... Nếu nuôi bán con giống, chỉ mất khoảng 1,5 tháng, tương đương 300-400 gram, giá khoảng 1,5 triệu đồng/con; còn nuôi thịt thì khoảng 6 tháng, khi đó con dúi đạt trọng lượng 1,2 kg, giá 500 ngàn đồng/kg”.
Về cách thức, chi phí làm chuồng, hiện tại mô hình của anh có 110 ô (chuồng) được làm bằng gạch men, đơn giản, nhẹ công. Anh Băng chia sẻ: “Tôi mua loại gạch men tồn kho nên giá rẻ, tính ra 110 ô này chỉ tốn khoảng 8 triệu đồng. Sau khi xây các ô thì gắn hệ thống nước uống vào mỗi ô, các con dúi sẽ tự động uống nước khi khát”.
Ðể đầu tư chuồng trại, chỉ cần những tấm gạch men, lót tạo thành các ô, mỗi ô nuôi 1 con dúi.
Theo anh Băng, cách nhân giống dúi cũng khá dễ, cho 2 con vào 1 chuồng. Thường 1 con dúi mẹ đẻ từ 3-4 con dúi con. Khi dúi đẻ, không cần chăm sóc, nó tự ôm giữ con, không cần can thiệp, thức ăn chỉ cần bổ sung thêm đậu, khoai mì. Ðến khoảng 1,5 tháng, tách dúi con ra, khi đó có thể bán dúi giống, hoặc nuôi lớn bán thịt.
Mô hình nuôi dúi của anh Băng hiện có 3 loại giống: dúi mốc nhỏ (nặng nhất khoảng 2,8 kg), dúi mốc trung (nặng khoảng 4 kg), dúi má đào (nặng khoảng 5,5 kg); trong đó, giống dúi má đào đang được anh nuôi thử. Hiện tại, anh Băng bán con giống cho các hộ dân trên địa bàn huyện để nhân rộng mô hình, con giống càng lớn giá càng cao. Còn nuôi bán thịt thì có bao tiêu từ người bạn ở Tiền Giang, đến tận nhà mua. Các loại dúi này có da dày, thịt ngọt, thơm, được chế biến nhiều món ăn hấp dẫn.
Với thu nhập bước đầu từ 7-10 triệu đồng/tháng, anh Băng đang dự kiến mở rộng thêm chuồng trại và nhân rộng mô hình.
Ông Nguyễn Vĩnh Thành, Chủ tịch Uỷ ban MTTQ Việt Nam huyện Trần Văn Thời, cho biết: “Ðây là một trong những mô hình mới của người dân ở xã Phong Ðiền cũng như của huyện. Nhận thấy mô hình hiệu quả, ít tốn chi phí, chủ yếu tiền con giống hơi cao, nên thời gian tới, có thể sẽ nhân rộng trên địa bàn huyện”.
Con dúi còn có tên gọi khác là chuột nứa, chuột tre, chuột lách. Ðây là loại động vật thuộc lớp thú và một phân họ gặm nhấm. Dúi được phân bố chủ yếu ở các vạt rừng tre nứa phía Bắc.
Dúi có mình tròn trịa, phủ dày lông. Dúi trông khá giống chuột ở đôi mắt nhỏ, lồi, tròn, đen như hạt nhãn. Ðôi tai của dúi tròn nho nhỏ, bốn chân bén móng vuốt và cái đuôi giống như đuôi chuột. Dúi còn giống với thỏ ở bộ ria, mũi, mõm và giống nhất là hai cặp răng cửa trên. Hai cặp răng cửa trên của dúi to bản và khoẻ, thích hợp để đào hang và gặm thức ăn.
Những con dúi trưởng thành thường có chiều dài thân khoảng 25-35cm, chiều dài đuôi khoảng 7-12cm, đuôi dúi không có lông. Trọng lượng dúi dao động trong khoảng 0,7-3 kg/con.
Hồng Nhung - Hưng Thái
Sóc Trăng: Huyện Long Phú phát triển nuôi chồn hương sinh sản
Nguồn tin: Báo Sóc Trăng
Sóc Trăng có hơn 150 hộ nuôi chồn hương (cầy hương), trong đó huyện Long Phú (Sóc Trăng) có khoảng 19 hộ nuôi. Đây là loài động vật dễ nuôi, nhẹ công chăm sóc và có giá trị kinh tế cao. Qua 8 năm nuôi chồn hương, ông Lâm Khánh Huy, ấp Trường Bình, xã Trường Khánh (huyện Long Phú) có nguồn thu nhập ổn định hàng trăm triệu đồng/năm.
Ông Lâm Khánh Huy, ấp Trường Bình, xã Trường Khánh, huyện Long Phú (Sóc Trăng) nuôi chồn hương thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm. Ảnh: THÚY LIỄU
Ngồi trò chuyện cùng ông Huy ngay cạnh chuồng chồn hương, chúng tôi cảm nhận được mùi thơm thoang thoảng rất dễ chịu, phát ra từ khu vực chuồng nuôi. Theo lời ông Huy nếu vào thời điểm chồn chuẩn phối giống, mùi thơm chồn phát ra bay xa đến hàng chục mét.
Mời chúng tôi tham quan khu vực phía sau nhà dành nuôi chồn cái sinh sản, ông Huy tâm tình: “Cuối năm 2017, tôi mua 5 cặp chồn hương (5 con cái, 5 con đực) và làm luôn chuồng nuôi chồn chi phí chưa đến 40 triệu đồng. Sau gần 8 năm nuôi, tôi đã xuất bán hơn 200 cặp và hơn 30 con chồn thịt. Hiện tại, tổng đàn chồn là 80 con, trong đó 37 chồn cái sinh sản, 30 chồn hậu bị, còn lại là chồn đực và chồn con”. Với số chồn cái sinh sản như trên, mỗi năm sinh sản hơn 200 chồn con. Chồn từ lúc sinh sản đến bán giống được là 70 ngày, chồn sinh sản 2 lứa/năm, mỗi lần sinh sản từ 3 - 5 chồn con; chồn sau sinh 30 ngày sẽ được chồn mẹ tập cho ăn, 60 ngày tuổi sẽ được tách ra khỏi mẹ, nuôi nhốt chuồng riêng và đến 70 ngày tuổi trở lên là bắt đầu xuất bán chồn giống ra thị trường. Giá bán 1 cặp chồn giống sinh sản (1 con đực, 1 con cái) từ 8 - 10 triệu đồng.
“Qua nhiều năm nuôi, tôi thấy nuôi chồn hương ít tốn chi phí, đầu ra ổn định, thị trường tiêu thụ mạnh, đặc biệt là giá bán rất tốt khi nuôi chồn cho sinh sản để bán con giống. Thức ăn của chồn dễ tìm trong tự nhiên, chủ yếu là các loại trái cây như: mít, chuối, xoài, dưa hấu, cá nước ngọt các loại. Tuy nhiên, để đảm bảo sức khỏe cho chồn nuôi tại hộ, tôi cho chồn ăn chủ yếu là chuối xiêm chín được trồng trong vườn nhà; cá trê, cá rô phi nuôi trong ao của gia đình”, ông Huy chia sẻ kinh nghiệm.
Cũng theo lời ông Huy, chồn hương có tuổi đời hơn 10 năm tuổi. Chồn hương từ lúc mới sinh cho đến lúc cho phối giống để sinh sản từ 9 - 12 tháng. Sau phối giống, chồn mang bầu 2 tháng là sẽ sinh và sau sinh được từ 2 tháng trở lên có thể xuất bán chồn giống. Mặc dù chồn hương là loài vật dễ nuôi nhưng để cho chồn phát triển và sinh sản tốt, người nuôi cần phải vệ sinh chuồng nuôi sạch sẽ, chuồng xây dựng thoáng mát và cho chồn ăn thức ăn luôn tươi mới. Đặc tính của chồn là thích sống riêng lẻ nên phải nuôi nhốt riêng từng con và chỉ nhốt chung chồn đực và chồn cái để phối giống trong thời gian ngắn, khi chồn cái có các biểu hiện lên giống. Chồn con sau sinh khi chưa mở mắt cần bú sữa chồn mẹ; đảm bảo giữ ấm chồn con; bổ sung các loại thức ăn và một số chất dinh dưỡng cần thiết cho chồn mẹ để chồn mẹ có nhiều sữa.
Nuôi chồn hương sinh sản bán con giống đã đem lại nguồn thu nhập trên 300 triệu đồng/năm cho hộ ông Huy. Tới đây, ông Huy sẽ nâng đàn chồn cái sinh sản lên 60 con để đảm bảo số lượng chồn giống cung ứng trên thị trường. Ông Huy còn tiếp tục hỗ trợ và đồng hành với người dân đã mua con giống chồn do ông sản xuất về hướng dẫn kỹ thuật nuôi chồn, cách xây dựng chuồng nuôi chồn, kể cả hỗ trợ luôn đầu ra đối với chồn giống, chồn thương phẩm.
THÚY LIỄU
Hiếu Giang tổng hợp