Ngày 7/7, đại diện Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lâm Đồng) xác nhận, đơn vị đã phối hợp các bên liên quan kiểm tra, lấy mẫu phân bón để xác minh thông tin phản ánh vườn cà phê rụng quả, chết cành sau khi bón phân NPK của một hộ nông dân.

Lực lượng chức năng kiểm tra hiện trạng vườn cà phê.
Trước đó, ông Nguyễn Văn Định - nông dân tại xã Bảo Lâm 1 (Lâm Đồng) phản ánh vườn cà phê rộng 5,5 héc-ta (ha) của gia đình có hiện tượng rụng lá, chết cành sau khi bón loại phân NPK 16-16-8+4S mua từ Công ty TNHH H.H.H (địa chỉ tại thôn 8, xã Bảo Lâm 1). Sau khi tiếp nhận thông tin, ngày 5/7, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đã phối hợp UBND xã làm việc với đại diện công ty này. Tại buổi làm việc, doanh nghiệp cung cấp đủ hồ sơ pháp lý liên quan đến hoạt động kinh doanh phân bón.
Đoàn kiểm tra đã lấy mẫu phân từ kho của công ty và một bao phân nguyên vẹn còn lại trong kho của gia đình ông Định để kiểm tra chất lượng. Theo xác nhận của hai bên, tổng số lượng phân bón mà ông Định đã mua 8.600kg và đã sử dụng toàn bộ cho diện tích 5,5ha cà phê của gia đình.
Qua kiểm tra hiện trạng vườn cà phê, cơ quan chức năng ghi nhận cây vẫn sinh trưởng bình thường, lá xanh, đọt non phát triển, rễ có màu trắng nhưng không đồng đều. Tuy nhiên, có hiện tượng mọt đục cành với tỷ lệ gây hại khoảng 35% và bệnh thán thư gây hại khoảng 16,3%, có dấu hiệu lan rộng.


Vườn ông Định có hiện tượng mọt đục cành, bệnh thán thư và có dấu hiệu lan rộng.
Trước thực tế này, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đề nghị Công ty TNHH H.H.H tạm ngưng tiêu thụ 150 tấn phân bón NPK đang tồn kho và khuyến cáo nông dân chưa sử dụng khoảng 50 tấn phân đã mua, chờ kết quả giám định chất lượng từ cơ quan chức năng.
Đồng thời, ngành nông nghiệp tỉnh Lâm Đồng cũng hướng dẫn ông Định áp dụng biện pháp phòng trừ tổng hợp như cắt bỏ, tiêu hủy cành bị hại, kết hợp sử dụng thuốc bảo vệ thực vật thuộc danh mục cho phép như Amistar top 325SC, DuPont Kocide 46,1WG, Tungatin 3.6EC, Crymerin 50EC…
Hiện, ngành nông nghiệp tỉnh vẫn đang chờ kết quả phân tích mẫu phân bón từ hai nguồn (kho công ty và kho gia đình ông Định) để xác định nguyên nhân chính xác khiến vườn cà phê có hiện tượng rụng quả, chết cành sau khi bón phân.
Bảo hiểm nông nghiệp: mua và bán vẫn 'đường ai nấy đi'
Được thí điểm từ rất sớm, nhưng bên doanh nghiệp bán bảo hiểm và bên mua là nông dân vẫn 'đường ai nấy đi'. Bảo hiểm nông nghiệp thất bại vì nhiều lý do, trong đó, quan trọng nhất là sản phẩm nông dân cần thì chưa có, nhưng sản phẩm có nông dân lại ít quan tâm.

Thị trường bảo hiểm nông nghiệp ngày càng nhỏ dần. Ảnh: Trung Chánh
“Teo tóp” qua thời gian!
Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết sau hơn 6 năm triển khai nghị định về bảo hiểm nông nghiệp (Nghị định 58/2018/NĐ-CP) và các quyết định hỗ trợ có liên quan, kết quả của chính sách vẫn còn rất nhiều hạn chế.
Theo đó, dù sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp đã mở rộng thêm cho một số đối tượng cây trồng như cao su, cà phê, tiêu và thủy sản có thêm cá tra…, nhưng vẫn chưa được triển khai trên thực tế vì người tham gia không có.
Tại hội thảo “Giải pháp phát triển bảo hiểm nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) năm 2025” diễn ra ở thành phố Cần Thơ mới đây, ông Trần Minh Hiếu, Đại diện Cục quản lý và giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính) cho biết, rủi ro bảo hiểm chi trả bồi thường được quy định theo từng đối tượng riêng.
Chẳng hạn, cây lúa có phạm vi bảo hiểm gồm 19 rủi ro thiên tai và 2 rủi ro dịch bệnh; các loại cây công nghiệp (cà phê, cao su) chỉ bảo hiểm rủi ro thiên tai; vật nuôi có phạm vi bảo hiểm gồm 17 rủi ro thiên tai và 4 rủi ro dịch bệnh; thủy sản (tôm, cá tra) phạm vi được bảo hiểm gồm 16 rủi ro thiên tai, không bảo hiểm rủi ro dịch bệnh.
Đối tượng tham gia bảo hiểm nông nghiệp, nếu là hộ nghèo và cận nghèo được ngân sách hỗ trợ 90% phí bảo hiểm, trong khi các tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp không thuộc diện nghèo, cận nghèo sẽ được ngân sách hỗ trợ ở mức 20%.
Dù được hỗ trợ phí bảo hiểm, nhưng giai đoạn 2019-2021, bảo hiểm cho cây lúa chỉ có 2/7 tỉnh triển khai là Nghệ An và Thái Bình (Thái Bình hiện là tỉnh Hưng Yên); bảo hiểm cho trâu, bò có 2/8 tỉnh triển khai là Bình Định (hiện thuộc tỉnh Gia Lai) và Hà Giang (hiện thuộc tỉnh Tuyên Quang); bảo hiểm cho tôm sú và tôm thẻ chân trắng không có địa phương nào triển khai.
Theo ông Hiếu, đến giai đoạn 2022-2025, chỉ có 1/14 địa phương triển khai bảo hiểm nông nghiệp là Hà Giang (tỉnh Tuyên Quang hiện nay), với người nuôi trâu bò, trong khi cây trồng và thủy sản không còn được triển khai.
Một con số đáng chú ý, đó là giai đoạn 2019-2021, có 16.731 hộ tham gia với tổng giá trị được bảo hiểm là 146 tỉ đồng; tổng phí mua bảo hiểm gần 7 tỉ đồng, trong đó, ngân sách hỗ trợ 5,72 tỉ đồng. Tuy nhiên, sang giai đoạn 2022 đến nay, chỉ còn 3.630 hộ tham gia, với tổng giá trị bảo hiểm gần 71 tỉ đồng; tổng phí bảo hiểm là 2,6 tỉ đồng, trong đó, ngân sách nhà nước hỗ trợ 2,3 tỉ đồng.
Ông Thịnh của Cục kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, cho biết tổng số tiền được các doanh nghiệp bảo hiểm chi trả bồi thường thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân là nông dân tham gia thời gian qua là khoảng 198 triệu đồng.
Ông Bùi Gia Anh, Tổng thư ký Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, đánh giá dù nhà nước và các doanh nghiệp bảo hiểm rất quan tâm, nhưng việc triển khai còn rất nhiều trở ngại.
Theo ông Gia Anh, giai đoạn 2011-2013, tức trong 3 năm đã thu hút được hơn 300.000 hộ dân và tổ chức tham gia bảo hiểm, doanh thu đạt khoảng 394 tỉ đồng, tức con số lớn hơn giai đoạn 2019-2021 như đã nêu ở trên.
Tuy nhiên, việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp ngày càng “đi xuống” khi cả giai đoạn từ 2019-2024, tức trong 6 năm, 14 đơn vị cung cấp dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp đạt mức doanh thu chỉ còn 283 tỉ đồng, chiếm chưa đến 0,1% tổng doanh thu toàn thị trường bảo hiểm. “Rõ ràng, việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp rất hạn chế”, ông Gia Anh nhấn mạnh.

Cung cầu sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp vẫn chưa gặp nhau. Ảnh: Trung Chánh
Cần không có, có thì không cần!
Ông Hiếu của Cục quản lý và giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính), nhấn mạnh sản phẩm bảo hiểm thiếu linh hoạt chính là lý do không hấp dẫn được bên mua.
Chẳng hạn, với sản phẩm bảo hiểm cho thủy sản là tôm sú và tôm thẻ chân trắng, hiện nay tỷ lệ bị thiệt hại của nhóm này lên đến khoảng 60-70% với nguyên nhân chính là do dịch bệnh nhưng sản phẩm bảo hiểm chỉ dừng lại ở phạm vi rủi ro thiên tai, không bảo hiểm dịch bệnh.
Hay đối với cây lúa, ĐBSCL là vùng trọng điểm sản xuất lương thực của cả nước, nhưng nông dân vẫn không mặn mà bởi tỷ lệ bị thiệt hại để được bảo hiểm chi trả bồi thường là rất thấp!.
Ông Huỳnh Thiện Tín, Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp Trường Thành (tỉnh Đồng Tháp), đơn vị có 146 thành viên, nhưng chỉ có 9 thành viên tham gia bảo hiểm cho cây lúa với diện tích 30 héc ta.
Theo ông, loại bảo hiểm được nông dân mua là bảo hiểm chỉ số thời tiết, trong đó, quy định để được “kích hoạt” chi trả bồi thường với sản phẩm do Công ty bảo hiểm PVI Tây Nam cung cấp là “mưa 5 ngày liên tục, với lưu lượng 200 mm”, trong khi của Công ty MIC Tiền Giang là “mưa 7 ngày liên tục trong tháng 8, 9 và 10 với lưu lượng 225 mm”. “Đây là mức quy định cao so với thực tế khu vực tỉnh Đồng Tháp nên khi tham gia bảo hiểm rất khó được bồi thường”, ông Tín cho biết.
Rõ ràng, không ai muốn sản phẩm cây trồng, vật nuôi bị thiệt hại trong quá trình sản xuất, nhưng sản phẩm bảo hiểm/điều kiện để được chi trả bồi thường ở mức “hiếm khi xảy ra” như trường hợp nêu trên, thì nông dân không mặn mà cũng là điều dễ hiểu, dù có sự hỗ trợ chi phí tham gia từ ngân sách.
Ông Hiếu nêu thực trạng, thủ tục phê duyệt hỗ trợ phí tham gia bảo hiểm phức tạp, mất thời gian, trong khi doanh nghiệp bảo hiểm bị hạn chế về nguồn lực, thậm chí ít đơn vị tham gia loại hình bảo hiểm nông nghiệp cũng là lý do khiến bảo hiểm nông nghiệp không phát triển.
Theo ông Thịnh, khi tham gia bảo hiểm, nông dân phải tuân thủ tiêu chuẩn, quy trình sản xuất để hạn chế rủi ro, giúp đóng góp cho ngành nông nghiệp trong việc gia tăng chất lượng sản phẩm. “Khi tham gia bảo hiểm, hồ sơ sản phẩm nông nghiệp sẽ được minh bạch, giúp chuỗi giá trị vận hành tốt hơn”, ông cho biết.
Ngoài ra, theo ông Thịnh, việc tham gia bảo hiểm cũng là cơ sở giúp các tổ chức, cá nhân dễ dàng tiếp cận nguồn tín dụng từ ngân hàng hoặc sự đồng hành của các cơ chế khác nhau, giúp ngành nông nghiệp thu hút được đầu tư.
Mặc dù vậy, việc triển khai đã có những hạn chế liên quan tổ chức thực hiện như khẩu xác nhận, chứng nhận rủi ro hoặc bảo hiểm chậm ứng dụng công nghệ trong việc thực hiện bảo hiểm. “Tất cả câu chuyện đó làm ngành bảo hiểm nông nghiệp hiện nay không đạt kết quả như kỳ vọng, chiếm chưa đến 0,1% trong tổng doanh thu bảo hiểm cả nước, trong khi ngành nông nghiệp thu hút đến khoảng 30% lao động và doanh thu xuất khẩu lên đến gần 63 tỉ đô la Mỹ năm 2024”, ông Thịnh cho biết.
Thực trạng nhỏ lẻ của ngành nông nghiệp cũng gây khó khăn, nhất là quá trình thu thập dữ liệu, công tác giám định tổn thất và quản lý rủi ro của các doanh nghiệp bảo hiểm nông nghiệp. “Chính vì vậy, dẫn đến việc thu xếp những chương trình tái bảo hiểm chưa hiệu quả”, ông Gia Anh nhấn mạnh.
Mô hình kinh tế tuần hoàn thích ứng biến đổi khí hậu
Dự án 'Giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu trong lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp tại vùng núi Tây Bắc - Giai đoạn 2' được triển khai tại Sơn La đã góp phần cải thiện môi trường, nâng cao sinh kế và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu cho nhân dân.

Mô hình canh tác khoai sọ thích ứng với biến đổi khí hậu tại xã Nậm Lầu.Ảnh: PV
Dự án triển khai từ tháng 8/2024 đến tháng 12/2026 tại các xã: Nậm Lầu, Muổi Nọi, Bình Thuận và Mường É do tổ chức Bánh mỳ thế giới (BftW) cung cấp viện trợ, với tổng vốn thực hiện dự án trên 23,1 tỷ đồng, trong đó, vốn viện trợ không hoàn lại trên 17,3 tỷ đồng, còn lại là vốn đối ứng của địa phương.
Ông Bùi Quốc Quân, Trung tâm phát triển nông thôn bền vững (SRD) cán bộ vận hành dự án, cho biết: Từ đầu năm đến nay, dự án đã tập trung vào các hoạt động hỗ trợ nông nghiệp và kinh tế tuần hoàn, bảo vệ rừng. Trung tâm đã khảo sát thực tế tại 125 hộ tại các xã trong vùng dự án triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn; tổ chức 15 lớp tập huấn những kiến thức chung về kinh tế tuần hoàn cho 372 người.
Cũng theo ông Quân, mỗi xã lựa chọn từ 3 đến 5 người để đào tạo về kinh tế tuần hoàn và các kỹ năng truyền thông tham gia nhóm giảng viên cộng đồng. Đồng thời, hỗ trợ 29 hộ lắp đặt và vận hành bể biogas; cấp men vi sinh cho 180 hộ để xử lý chất thải chăn nuôi trong các bể ủ; hướng dẫn cách tự chế men vi sinh gốc phục vụ cho việc vệ sinh chuồng nuôi, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và tận dụng nguồn phụ phẩm nông nghiệp như phân thải, rơm rạ.

Trung tâm Phát triển nông thôn bền vững tập huấn sử dụng men vi sinh xử lý chất thải chăn nuôi cho nhân dân xã Muổi Nọi.
Ông Cà Văn Quý, bản Noong Ỏ, xã Muổi Nọi, cho biết: Gia đình nuôi lợn nái, chuyên cung cấp con giống cho thị trường. Từ ngày được dự án hỗ trợ lắp đặt hệ thống biogas, gia đình tôi vừa tận dụng khí để đun nấu mà không tốn tiền mua chất đốt, vừa có phân bón cho cây trồng, giữ môi trường sạch hơn.
Trong lĩnh vực lâm nghiệp, Trung tâm Phát triển nông thôn bền vững cùng các đối tác đã tổ chức các lớp tập huấn chuyên sâu về vai trò của rừng, đa dạng sinh học và kỹ thuật tái sinh rừng bằng pháo hạt giống; thành lập 10 tổ quản lý bảo vệ rừng, mỗi tổ gồm 20 thành viên; tổ chức 5 lớp tập huấn phòng cháy chữa cháy rừng cho các thành viên tổ tự quản. Phối hợp với lực lượng kiểm lâm khảo sát diện tích rừng và đất canh tác đã được tiến hành, xác định các khu vực phù hợp để trồng rừng phục hồi và cây gỗ che bóng cho cà phê, với mục tiêu phục hồi 50 ha rừng thứ sinh và trồng cây phân tán tại các vườn cà phê, nương mận, hoặc nương hoang hóa.

Trung tâm Phát triển nông thôn bền vững phối hợp với Kiểm lâm tỉnh tập huấn công tác PCCCR tại xã Nậm Lầu.
Bà Cầm Thị Phong, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường, cho biết: Sự thay đổi về địa giới hành chính, nhưng dự án vẫn tiếp tục được triển khai, điều chỉnh thành phần Ban quản lý dự án tại cấp xã. Sở đã chỉ đạo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Chi cục Kiểm lâm phối hợp chặt chẽ với Trung tâm Phát triển nông thôn bền vững triển khai các mô hình đã cam kết. Trong tháng 7, dự án triển khai trồng phục hồi 20 ha rừng tự nhiên và 30 ha rừng phân tán trên đất nương của các hộ dân.
Với định hướng bám sát các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, thời gian tới, dự án tiếp tục triển khai các hoạt động tập huấn về kinh tế tuần hoàn, mở rộng mô hình xử lý phụ phẩm nông nghiệp, tăng cường truyền thông và nâng cao nhận thức cộng đồng. Từng bước chuyển đổi sang các mô hình kinh tế tuần hoàn hiệu quả, tối đa hóa việc khai thác các phế phẩm nông nghiệp hiện có và phát triển lâm nghiệp bền vững.
Dịch vụ nông nghiệp cạnh tranh bằng công nghệ
Là tỉnh công nghiệp, Đồng Nai thu hút đông nguồn lao động nông thôn từ các địa phương về làm công nhân tại các khu, cụm công nghiệp. Sự chuyển dịch mạnh mẽ lao động từ nông thôn vào các khu công nghiệp khiến lĩnh vực nông nghiệp ngày càng thiếu lao động. Tuy nhiên, với lợi thế phát triển mạnh về nông nghiệp, hình thành những vùng chuyên canh lớn, dịch vụ nông nghiệp (DVNN) trên địa bàn tỉnh cũng có bước phát triển đột phá so với nhiều tỉnh, thành khác.

Tổ Dịch vụ nông nghiệp của Tổ Hợp tác sầu riêng Chính Đức (xã Sông Ray) đi tiên phong tại địa phương đầu tư thiết bị bay không người lái trong việc phun thuốc bảo vệ thực vật và phân bón cho vườn cây ăn trái. Ảnh: B.Nguyên
Đặc biệt, trong vài năm trở lại đây, DVNN đã có sự thay đổi lớn về chất từ lao động chân tay, hiệu quả chưa cao sang ứng dụng công nghệ cao (CNC) vào sản xuất. Các tổ dịch vụ nông nghiệp CNC không chỉ tăng nhanh về số lượng mà kỹ thuật, công nghệ cũng không ngừng được nâng cấp nhằm đáp ứng nhu cầu cơ giới hóa, hiện đại hóa trong sản xuất nông nghiệp.
Nhu cầu lớn
Thời gian qua, các địa phương trên địa bàn tỉnh rộ vụ thu hoạch trái cây hè. Đây là thời điểm DVNN, nhất là nhu cầu nhân công thu hoạch trái cây tại các địa phương tăng cao. Trong khi đó, nguồn lao động nông nghiệp ở các vùng nông thôn cung không đủ cầu nên giá nhân công lao động tăng nhanh theo từng năm.
Giá công thu hoạch trái cây thường dao động từ 250-500 ngàn đồng/ngày; giá công phun thuốc bảo vệ thực vật lên đến 1,2-1,5 triệu đồng/ngày. Đặc biệt, công thu hoạch sầu riêng ở mức cao nhất so với công thu hoạch các loại trái cây, nông sản khác. Trong đó, mức giá cao thường được trả cho thợ “gõ”, cắt sầu riêng lên đến mức 2-2,5 triệu đồng/ngày. Ông Nguyễn Minh Vương, thợ cắt sầu riêng tại phường Hàng Gòn, cho biết công việc “gõ” sầu riêng để nhận biết trái đã đủ độ già để cắt đòi hỏi tay nghề, bí quyết riêng. Người thợ thường phải có nhiều năm kinh nghiệm mới làm được. Thợ nào càng có kinh nghiệm thì càng được trả lương cao.
Một trong những lĩnh vực trồng trọt phát triển về DVNN với mức cơ giới hóa cao là trong trồng bắp, trồng lúa. Ông Trần Quang, Giám đốc Hợp tác xã Thương mại dịch vụ nông nghiệp Xuân Tiến (xã Xuân Phú), chia sẻ cùng với việc đầu tư cánh đồng lớn trồng bắp, lúa theo chuỗi liên kết, hợp tác xã đầu tư máy móc nhiều khâu từ làm đất, gieo hạt, làm cỏ, máy gặt đập cho thu hoạch hạt bắp, lúa ngay trên cánh đồng đến nhà máy sấy, xay xát… nhằm giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh, tính cạnh tranh.
Trang trại trồng thanh long ruột đỏ có diện tích cả 100 hécta tại xã Xuân Phú cũng đi đầu tổ chức đội DVNN theo hướng chuyên nghiệp. Trang trại có cả 100 công lao động làm việc thường xuyên. Cách tổ chức đội dịch vụ này khá độc đáo khi người lao động không chỉ làm thuê mà còn được giao khoán cho từng hộ nhân công chăm sóc một số gốc thanh long cụ thể. Họ không chỉ là người làm thuê mà được chia huê hồng trên tổng thu nhập của diện tích vườn được khoán. Nhờ đó, trang trại phát huy tối đa những sáng kiến, cải tiến trong lao động để đưa ra giải pháp chăm sóc cây trồng hiệu quả nhất.
Hỗ trợ, đồng hành với nông dân ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất là một trong những nội dung được Sở Nông nghiệp và môi trường quan tâm triển khai nhiều năm qua. Ðến nay, tỉnh thu hút được 328 doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng CNC. Giá trị sản phẩm nông nghiệp ứng dụng CNC của tỉnh đã đạt hơn 38 ngàn tỷ đồng, chiếm tỷ lệ hơn 51,2% so với tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp chủ lực toàn tỉnh. Toàn tỉnh có 8 vùng nông nghiệp ứng dụng CNC với quy mô gần 1,6 ngàn hécta.
Cạnh tranh bằng công nghệ cao
Đáp ứng nhu cầu về DVNN ngày càng cao, thời gian qua, nhiều hợp tác xã, chủ trang trại mạnh dạn đầu tư vốn lớn, đưa CNC vào lĩnh vực DVNN mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Ông Vũ Viết Châu, có khoảng 4 hécta đất canh tác các loại cây ăn trái, trồng chuối cấy mô xuất khẩu tại xã Gia Kiệm, là nông dân sản xuất giỏi tại địa phương, giàu kinh nghiệm chăm sóc cây trồng. Trước nhu cầu DVNN tại địa phương lớn, ông đầu tư cung cấp đa dạng dịch vụ từ chăm sóc, tỉa cành, xử lý cho cây ăn trái cho thu hoạch sớm, đạt năng suất cao. Đội DVNN này còn đầu tư thiết bị bay không người lái thực hiện việc bón phân, phun thuốc cho các vườn cây trồng tại địa phương. Ông còn có đội chuyên nhận lắp đặt hệ thống tưới nước tiết kiệm, trong đó sử dụng nhiều loại vật tư tự chế để có chi phí rẻ hơn nhiều so với mặt bằng chung ngoài thị trường. Ngoài ra, ông còn có đội công nhân chuyên nhận làm các tuyến đường giao thông, cầu cống tại các ấp, xã với chi phí giá rẻ. Ông là người uy tín trong cộng đồng trong công tác vận động người dân cùng chung tay xây dựng nông thôn mới.

Nông dân tại xã Tân Bình thuê dịch vụ thu hoạch lúa và bán sản phẩm ngay tại ruộng.
Ông Nguyễn Hữu Trung, thành viên Tổ Hợp tác sầu riêng Chính Đức (xã Sông Ray) cũng đi tiên phong tại địa phương đầu tư thiết bị bay không người lái trong việc phun thuốc bảo vệ thực vật và phân bón cho vườn cây ăn trái mang lại nhiều lợi ích. Ông Trung so sánh, một hécta sầu riêng, 1 lao động cần cả ngày mới xịt xong thuốc bảo vệ thực vật, còn với thiết bị bay không người lái, chỉ mất khoảng 20 phút là hoàn thành, đồng thời tiết kiệm hơn nhiều về sử dụng lượng nước, phân, thuốc so với cách làm truyền thống. Ngoài ra, với nhiều cây ăn trái phải thường xuyên xịt phân dưỡng lá, thuốc xử lý sâu bệnh so với việc xịt thuốc bằng hệ thống tưới hoặc thủ công bằng tay thì việc sử dụng thiết bị CNC này kịp thời ngăn chặn sâu bệnh phát sinh, lây lan gây hại đến năng suất và cây trồng. Tổ hợp tác không quá chú trọng đến lợi nhuận nên đưa ra mức giá dịch vụ phù hợp để phục vụ tổ viên và nông dân tại địa phương.
Tổ DVNN do ông Ngô Thành Phong (phường Hàng Gòn), tổ chức vào cao điểm mùa vụ sản xuất đang tạo việc làm cho khoảng 200 lao động. Tổ dịch vụ được ông chia làm 7 nhóm chuyên môn như: nhóm làm cỏ, tỉa cành, bón phân, vận chuyển, thu hoạch... Vào cao điểm mùa khô, nhiều lao động phải tăng ca tưới nước đêm nên tuy lao động phổ thông nhưng thu nhập đến 50-70 triệu đồng/người/tháng. Đặc biệt, ông là người đi tiên phong làm mô hình sầu riêng mini, cắt ngọn khống chế không để cây sầu riêng quá cao, thuận tiện cho chăm sóc, thu hoạch, tiết kiệm phân thuốc chăm sóc mà cây trồng vẫn đạt năng suất cao. Tổ dịch vụ của ông đang nhận chăm sóc cho khoảng 300 hécta sầu riêng tại địa phương và các vùng lân cận. Trong đó, ông đã nhân rộng mô hình trồng sầu riêng mini hiệu quả kinh tế ra hàng chục hécta và đang tiếp tục đồng hành cùng nông dân ứng dụng khoa học, kỹ thuật mới vào sản xuất, góp phần tăng lợi nhuận cho vườn cây.
Phát triển nông thôn mới từ nông sản thế mạnh và HTX bản địa ở Lào Cai
Trong nỗ lực xây dựng nông thôn mới, xã Liêm Phú (nay thuộc xã Khánh Yên, tỉnh Lào Cai) đã lựa chọn con đường phát triển riêng đầy sáng tạo, gắn nông nghiệp với kinh tế xanh, phát huy tài nguyên bản địa thông qua mô hình hợp tác xã (HTX).
Nằm ở vùng núi đầy khó khăn ở tỉnh Lào Cai, xã Liêm Phú trước khi thực hiện sắp xếp địa giới hành chính có hơn 98% dân số là người dân tộc thiểu số. Trước đây, đời sống người dân chủ yếu dựa vào canh tác tự cung tự cấp, thu nhập thấp, hạ tầng yếu kém.
"Chìa khóa" tạo sinh kế bền vững
Tuy nhiên, những năm gần đây, diện mạo nông nghiệp nông thôn Liêm Phú đã đổi thay rõ rệt nhờ vào sự chuyển hướng trong sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới gắn với HTX. Một trong những điển hình là HTX Nông Lâm nghiệp Vạn An, do chị Ngân Thị Trang, một phụ nữ dân tộc thiểu số, thành lập vào năm 2021.

Các mô hình sản xuất mới tạo động lực xây dựng nông thôn mới ở nhiều địa phương tỉnh Lào Cai (Ảnh: BLC).
Xuất phát từ tình yêu với dược liệu bản địa và mong muốn nâng cao thu nhập cho bà con, chị Trang cùng cộng sự đã xây dựng HTX trên nền tảng phát triển vùng nguyên liệu thảo mộc đạt chuẩn sinh học và sản xuất trà thảo dược mang thương hiệu riêng.
"Chúng tôi mong muốn mỗi gói trà không chỉ là sản phẩm, mà còn là kết tinh tri thức của người vùng cao về cây thuốc, là bản sắc văn hóa địa phương", người sáng lập HTX Nông Lâm nghiệp Vạn An chia sẻ.
HTX Vạn An không đơn thuần là một cơ sở sản xuất mà là mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, từ khâu trồng, thu hái, sơ chế, chế biến đến tiêu thụ. Nhờ liên kết này, thành viên HTX và nông dân liên kết được cung ứng giống, tập huấn kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm với giá ổn định.
Đặc biệt, các loại cây như hoa hồng, hoa cúc, gừng, sả, chè dây, nghệ, ý dĩ… đang được HTX triển khai không chỉ phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng vùng cao mà còn giúp cải tạo đất, hạn chế xói mòn.
Nâng tầm nông sản địa phương
Anh Lê Đức Huấn, quản lý sản xuất tại HTX Nông Lâm nghiệp Vạn An, cho hay: “Chúng tôi xác định mục tiêu kép – vừa sản xuất sạch, vừa bảo vệ môi trường. HTX đầu tư nhà xưởng với thiết bị bán tự động hiện đại, kiểm soát nghiêm ngặt từng khâu chế biến để đảm bảo chất lượng trà viên, trà túi lọc và các sản phẩm thảo mộc khác”.
Từ vài người ban đầu, hiện nay, HTX đã tạo việc làm ổn định cho 20 lao động thường xuyên và 40-50 lao động thời vụ, chủ yếu là phụ nữ dân tộc thiểu số, với thu nhập trung bình 6,5 - 7,5 triệu đồng/người/tháng. Với người dân vùng cao, đây là mức thu nhập đáng kể, góp phần rõ rệt vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới tại địa phương.
Không dừng lại ở sản xuất truyền thống, HTX Vạn An còn tiên phong ứng dụng thương mại điện tử vào phát triển thị trường. Ngoài bán hàng qua các cửa hàng đặc sản, gian hàng OCOP địa phương, HTX đã xây dựng thương hiệu “Vạn An” trên các sàn thương mại điện tử như Shopee, Tiktok Shop, Lazada… và cả kênh xuất khẩu.
Hiện, mỗi tháng HTX tiêu thụ trung bình 10 - 12 tấn trà viên, 150.000 gói trà túi lọc, cùng hàng nghìn sản phẩm khác như tinh dầu, trà giảm cân, trà đẹp da… Tổng doanh thu đạt khoảng 750 - 850 triệu đồng/tháng, lợi nhuận lên đến 1,5 tỷ đồng/năm. Đặc biệt, khoảng 100.000 gói trà được xuất khẩu mỗi năm sang Hoa Kỳ – thị trường có tiêu chuẩn khắt khe về an toàn thực phẩm và chất lượng.
Việc đạt chứng nhận OCOP 3 sao cho 3 sản phẩm chủ lực và đang hoàn tất hồ sơ cho 2 sản phẩm mới là minh chứng cho chất lượng và uy tín của HTX. Những bao bì in họa tiết thổ cẩm, thiết kế gần gũi, thân thiện với môi trường cũng giúp sản phẩm dễ nhận diện, mang đậm dấu ấn văn hóa Lào Cai.
Thúc đẩy xây dựng nông thôn mới
Thực tế chỉ ra, sự ra đời và phát triển của HTX Vạn An cùng nhiều HTX tiêu biểu trên địa bàn xã Liêm Phú không chỉ là điểm sáng về sản xuất, mà còn là động lực thúc đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới theo hướng bền vững và toàn diện.

Các HTX đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng nông thôn mới ở Lào Cai (Ảnh: BLC).
Nhờ những đóng góp của các mô hình HTX, người dân địa phương được tiếp cận với phương thức sản xuất mới, có việc làm ổn định, từng bước chuyển đổi từ sản xuất manh mún sang sản xuất hàng hóa.
Tính đến giữa năm 2025, Liêm Phú đã hoàn thành 17/19 tiêu chí NTM (số liệu trước ngày 1/7/2025), trong đó các tiêu chí về thu nhập, lao động, tổ chức sản xuất… có bước chuyển biến rõ rệt. Số hộ nghèo giảm còn dưới 5%, tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên đạt trên 85%.
Thành công của HTX Vạn An cùng các HTX tiêu biểu trên địa bàn xã Liêm Phú nói riêng, trên toàn địa bàn tỉnh nói chung, không thể thiếu vai trò hỗ trợ kịp thời từ Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Lào Cai.
Trong thời gian qua, thông qua Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Lào Cai, các HTX được tiếp cận nhiều chương trình hỗ trợ thiết thực như: Hỗ trợ đào tạo nghề, tập huấn kỹ thuật trồng và chế biến dược liệu. Tiếp cận vốn vay ưu đãi thông qua Quỹ hỗ trợ phát triển HTX, giúp đầu tư máy móc, nhà xưởng chế biến.
Cùng với đó là các chương trình hỗ trợ xúc tiến thương mại, kết nối với sàn OCOP, hội chợ vùng cao, giúp HTX mở rộng thị trường. Tư vấn xây dựng nhãn hiệu, đăng ký sở hữu trí tuệ, bảo hộ thương hiệu và hoàn thiện hồ sơ OCOP.
Câu chuyện của HTX Vạn An cùng những thành công của các HTX trên địa bàn Liêm Phú là minh chứng cho hiệu quả của mô hình phát triển nông thôn mới gắn với HTX, nhất là tại các vùng khó khăn ở Lào Cai.
Khi địa phương xác định đúng hướng đi, cộng đồng dân cư tích cực tham gia, và có sự đồng hành hiệu quả từ các tổ chức như Liên minh HTX Việt Nam, thì nông thôn mới không còn là khái niệm xa vời.
Thành công của các HTX như Vạn An cũng mở ra tiềm năng nhân rộng mô hình HTX sản xuất dược liệu, góp phần chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, tăng thu nhập, giữ gìn bản sắc, và phát triển du lịch cộng đồng vùng cao trong tương lai.
Xây dựng nông thôn mới ở Liêm Phú không chỉ là chuyện làm đường, làm trường, mà là hành trình thay đổi tư duy sản xuất, nâng cao đời sống người dân bằng chính tài nguyên bản địa. Những HTX như Vạn An chính là “hạt nhân” để kích hoạt phát triển toàn diện, là cầu nối đưa người dân vùng cao hòa vào nhịp phát triển chung của cả nước, mà vẫn giữ được hồn cốt văn hóa dân tộc.
Muốn xây dựng nông thôn mới bền vững, không thể thiếu HTX. Muốn HTX phát triển, không thể thiếu sự hỗ trợ bài bản và kịp thời từ các cấp, các ngành – đó là bài học rút ra từ Liêm Phú. Đây cũng là nền tảng để Liêm Phú trước đây, hay Khánh Yên mới hiện tại (hình thành từ 3 xã Khánh Yên Trung, xã Liêm Phú, xã Khánh Yên Hạ) tiếp tục phát huy thành quả xây dựng nông thôn mới, nâng cao thu nhập cho người dân.
Cú hích làm giàu từ nông nghiệp hữu cơ ở Gia Lai
Bằng những bước đi bài bản trong tái cơ cấu nông nghiệp gắn với chuyển đổi sang sản xuất hữu cơ, Gia Lai đang dần định hình một nền nông nghiệp xanh, hiện đại và bền vững, tạo nền tảng cho công cuộc xóa đói giảm nghèo tại các địa phương.
Hạt nhân của quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất, xóa đói giảm nghèo tại Gia Lai không thể không kể đến đóng góp của các HTX - nơi hội tụ những thành viên có tư duy mới, canh tác theo chuỗi giá trị, góp phần quan trọng vào hành trình hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Thúc đẩy tái cơ cấu nông nghiệp
Tỉnh Gia Lai có nhiều lợi thế để phát triển các loại cây trồng chủ lực như cà phê, hồ tiêu, sầu riêng, chanh dây, rau, củ, quả…
Nhận diện rõ thế mạnh này, trong những năm gần đây, các địa phương trong tỉnh đã đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với định hướng phát triển bền vững, thân thiện môi trường, chú trọng sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP và đặc biệt là hữu cơ.

Nông nghiệp hữu cơ là nền tảng phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo ở Gia Lai (Ảnh: Vũ Thảo).
Từ mô hình nhỏ lẻ ban đầu, đến nay Gia Lai đã có hơn 255.000 ha cây trồng được chứng nhận sản xuất theo các tiêu chuẩn tiên tiến như VietGAP, GlobalGAP, 4C, UTZ, hữu cơ (số liệu thống kê trước ngày 1/7/2025)...
Việc xây dựng mã số vùng trồng, các cơ sở đóng gói và chỉ dẫn địa lý cho các loại nông sản như cà phê Gia Lai, hồ tiêu Chư Sê, gạo Ia Lâu… cũng mở ra cánh cửa xuất khẩu sang các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Mỹ, Hàn Quốc… mang lại thu nhập cao, góp phần xóa đói giảm nghèo, làm giàu cho nông dân.
Điểm nổi bật là tỉnh đã có 1 doanh nghiệp và 3 HTX được cấp chứng nhận sản xuất hữu cơ đạt tiêu chuẩn của Việt Nam, Mỹ (USDA), Nhật Bản (JAS), Hàn Quốc và EU với diện tích 110 ha các loại cây trồng như cà phê, hồ tiêu, cây ăn quả và dược liệu. Một số HTX, doanh nghiệp và hộ dân cũng đang chuyển đổi hơn 66 ha sang canh tác hữu cơ.
Theo đại diện ngành Nông nghiệp tỉnh Gia Lai, chuyển đổi sang nông nghiệp sạch, hữu cơ không chỉ là yêu cầu tất yếu để đáp ứng nhu cầu thị trường mà còn là giải pháp căn cơ giúp người dân nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống và từng bước xóa đói, giảm nghèo một cách bền vững.
Hạt nhân của chuyển đổi và kết nối
Không chỉ là cầu nối kỹ thuật, các HTX ở Gia Lai đang đóng vai trò trung tâm trong việc tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị, liên kết với doanh nghiệp để xây dựng vùng nguyên liệu quy mô lớn và ứng dụng công nghệ trong sơ chế, chế biến.
HTX Dịch vụ nông nghiệp Nghĩa Hòa (xã Nghĩa Hòa, nay thuộc xã Chư Păh mới) là một điển hình. Năm 2024, HTX đã phối hợp với cơ quan chức năng tỉnh triển khai mô hình trồng chanh dây theo tiêu chuẩn VietGAP trên diện tích 10 ha.
Tham gia mô hình trồng chanh dây, các thành viên HTX Nghĩa Hòa được tập huấn kỹ thuật canh tác, ghi nhật ký sản xuất, đảm bảo thời gian cách ly thuốc bảo vệ thực vật và các quy trình nghiêm ngặt để đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu.
Ông Nguyễn Thế Minh – Giám đốc HTX cho biết: “Chúng tôi đã xây dựng mã số vùng trồng cho sầu riêng, liên kết với doanh nghiệp sản xuất cà phê theo tiêu chuẩn 4C, chanh dây VietGAP… Nhờ vậy, sản phẩm của HTX được nâng cao giá trị, đầu ra ổn định, thu nhập của thành viên cải thiện rõ rệt, không còn tình trạng “được mùa mất giá” như trước”.
Cùng với các HTX, thành công của chương trình chuyển đổi nông nghiệp ở Gia Lai không thể không nhắc đến những người nông dân tiên phong. Một trong số đó là ông Hoàng Văn Thắng (thôn Bản Tân, xã Ia Phìn, nay thuộc xã Chư Prông mới) – người đã gắn bó hơn 20 năm với cây cà phê.

Liên kết hình thành chuỗi giá trị giúp nông dân, HTX ở Gia Lai nâng cao giá trị sản xuất (Ảnh: Vũ Thảo).
Trước đây, hoạt động sản xuất cà phê của ông Thắng chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống, thiếu kỹ thuật, chi phí cao, năng suất không ổn định. Tuy nhiên, từ năm 2023, khi vườn cà phê của ông được chọn tham gia chương trình canh tác cà phê thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu, mọi thứ đã thay đổi.
“Được tập huấn kỹ thuật, biết cách chăm sóc, bón phân theo từng giai đoạn sinh trưởng…, tôi thấy hiệu quả rõ rệt. Năm 2024, năng suất vườn cà phê của tôi tăng thêm 1 tấn/ha so với trước, chất lượng hạt cũng tốt hơn, bán được giá cao” – ông Thắng hồ hởi chia sẻ.
Từ chỗ loay hoay với cái nghèo, giờ đây nhiều hộ nông dân như ông Thắng đã trở thành “chuyên gia canh tác” có thu nhập ổn định, tích cực tham gia vào các HTX, liên kết sản xuất và từng bước thoát nghèo bền vững, vươn lên làm giàu.
Hướng tới nông nghiệp bền vững
Không chỉ có nỗ lực của người dân và chính quyền địa phương, sự vào cuộc của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Gia Lai cũng đóng vai trò không nhỏ trong thành công của mô hình chuyển đổi nông nghiệp theo hướng hữu cơ.
Thông qua các chương trình hỗ trợ kỹ thuật, vốn vay ưu đãi, đào tạo cán bộ quản lý HTX, tư vấn xây dựng chuỗi giá trị nông sản và xúc tiến thương mại, Liên minh HTX Việt Nam đã giúp các HTX trên địa bàn nâng cao năng lực tổ chức sản xuất, kết nối thị trường trong nước và quốc tế.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Liên minh HTX Việt Nam, cơ quan chức năng địa phương tỉnh là nền tảng để phát triển các mô hình cà phê 4C, UTZ, hồ tiêu và chanh dây VietGAP, cây ăn quả GlobalGAP… Từ đó, giúp HTX cùng thành viên và nông dân liên kết nâng cao kỹ năng, từng bước hội nhập với thị trường toàn cầu.
Từ các mô hình điểm ban đầu, giờ đây, sản xuất hữu cơ, nông nghiệp sạch đã lan tỏa rộng khắp Gia Lai, trở thành xu thế tất yếu trong hành trình xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, thân thiện môi trường và hiệu quả kinh tế cao.
Mô hình vùng nguyên liệu đạt chuẩn, nông nghiệp công nghệ cao, HTX làm trung tâm kết nối… đang chứng minh hiệu quả rõ rệt khi người dân thoát nghèo, có việc làm bền vững, đời sống ngày một cải thiện. Đặc biệt, các mô hình HTX sản xuất nông sản hữu cơ đã trở thành điểm sáng thu hút đầu tư, tạo chuỗi liên kết sản xuất – chế biến – tiêu thụ đồng bộ.
Thời gian tới, ngành nông nghiệp tỉnh Gia Lai dự kiến tiếp tục triển khai đề án vùng nguyên liệu nông-lâm sản đạt chuẩn, mở rộng diện tích sản xuất hữu cơ, hỗ trợ HTX ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước, truy xuất nguồn gốc và chế biến sâu… Mục tiêu là không chỉ xóa đói giảm nghèo mà còn giúp người dân Gia Lai làm giàu từ nông nghiệp sạch, hữu cơ.
Có thể nói, Gia Lai đang cho thấy một hướng đi đúng đắn trong quá trình xóa đói, giảm nghèo nhờ sự chuyển dịch mạnh mẽ sang nông nghiệp hữu cơ, thông minh. Thành công ấy không thể thiếu vai trò trung tâm của các HTX – nơi khơi dậy sức dân, kết nối thị trường và đưa kỹ thuật vào đồng ruộng. Với sự đồng hành từ các cấp, ngành và đặc biệt là Liên minh HTX Việt Nam, hành trình làm nông nghiệp xanh ở Gia Lai đang thực sự mở ra cánh cửa đến với một tương lai thịnh vượng và bền vững.
An Giang phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Ngành nông nghiệp An Giang đã tập trung cơ cấu lại theo hướng nông nghiệp hiện đại, bền vững, có giá trị gia tăng cao. Trong đó, tập trung ứng dụng khoa học - kỹ thuật và khai thác tiềm năng sẵn có để cơ cấu sản xuất. Nhiều mô hình mới, cách làm hiệu quả được triển khai, góp phần giúp nông dân nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống.
Mạnh dạn chuyển đổi đất nông nghiệp kém hiệu quả sang trồng dưa lưới trong nhà màng ứng dụng công nghệ cao đã giúp ông Trần Văn Nghĩa (xã Vĩnh Khánh) có được nguồn thu nhập ổn định trong thời gian qua. Ông Nghĩa cho biết, sau khi tìm hiểu trên các phương tiện truyền thông, năm 2022, ông quyết định đầu tư xây dựng 4 nhà màng trồng dưa lưới, với diện tích trên 2.000m2. Ông Nghĩa ưu tiên chọn các giống dưa Huỳnh Long, dưa đế đặc mật, dưa lê vàng… canh tác, bởi giá cao. Ngoài ra, ông Nghĩa còn sử dụng ong mật để thụ phấn, vừa tiết kiệm công sức, nâng cao tỷ lệ đậu trái…
Năm 2023, từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, ông Nghĩa xây dựng mô hình “Trồng dưa lưới ứng dụng công nghệ IoT (Internet kết nối vạn vật) kiểm soát nhiệt độ môi trường và hệ thống châm phân tự động”. Với hệ thống châm phân tự động và làm mát nhà màng, giúp quản lý tốt môi trường và nâng cao năng suất cây trồng. Từ khi mô hình được hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao, năng suất cây dưa lưới tăng lên đáng kể.
Đánh giá mô hình, ông Nghĩa chia sẻ: “Dưa lưới từ khi trồng đến khi thu hoạch khoảng 70 - 75 ngày, có thể canh tác 3 - 4 vụ/năm, với giá bán bình quân 35.000 - 50.000 đồng/kg tùy theo giống dưa và sản lượng khá ổn định, sau khi trừ chi phí lãi khoảng 30 - 35 triệu đồng/vụ/nhà màng nên khả năng thu hồi vốn đầu tư ban đầu tương đối nhanh”.

Ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp là hướng đi bền vững mà nông dân hướng đến
Theo nhiều nông dân, việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu khá lớn. Tuy nhiên, quá trình sản xuất sẽ tạo ra sự đột phá về năng suất, chất lượng sản phẩm; giảm lệ thuộc vào thời tiết, khí hậu, thị trường…
Tại xã Phú Tân, những năm gần đây, chính quyền địa phương chú trọng phát triển theo chiều sâu thông qua tái cơ cấu ngành nông nghiệp, tập trung phát triển sản xuất các mô hình ứng dụng công nghệ tiên tiến, chọn giống mới có năng suất chất lượng để nông dân tạo ra sản phẩm nông nghiệp an toàn, tăng giá trị kinh tế và sức cạnh tranh trên thị trường. Điển hình như hộ ông Nguyễn Văn Bo.
Ông Nguyễn Văn Bo cho biết, đặc thù là xã chuyên canh rau màu nên nhu cầu về cây giống khá lớn. Khảo sát thực tế địa phương, bà con chủ yếu tự ươm giống theo cách truyền thống, nên tốn nhiều thời gian, công sức, chất lượng cây giống cũng không đảm bảo. Thấy vậy, ông Bo tìm tòi, nghiên cứu, áp dụng phương pháp ươm giống trong nhà màng để khắc phục những hạn chế trên.
Đặc biệt, từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, ông Bo được hỗ trợ hơn 845 triệu đồng (vốn đối ứng 600 triệu đồng) để mở rộng sản xuất. Nguồn kinh phí được ông Bo đầu tư các hạng mục: Nhà màng để ươm, máy gieo hạt chân không “6 trong 1” tự động và một số thiết bị khác. Ông Bo cho biết, bình quân mỗi giờ, máy gieo được khoảng 50.000 hạt giống. Cây giống được bán với giá 140.000 đồng/1.000 cây. Mỗi mùa vụ, người dân đặt 4 - 5 đợt, mỗi đợt khoảng 1,6 triệu cây giống, trừ chi phí ông Bo lợi nhuận khoảng 10 triệu đồng, toàn vụ lợi nhuận từ 40 - 50 triệu đồng/vụ.
Thời gian qua, với sự hỗ trợ của ngành nông nghiệp, nông dân trong tỉnh đã và đang thay đổi tư duy sản xuất, mạnh dạn ứng dụng các giải pháp về công nghệ. Đặc biệt là công nghệ sinh học; công nghệ nhà kính, nhà màng; công nghệ tưới nhỏ giọt; công nghệ tuần hoàn, công nghệ cảm biến, tự động hóa… Nông dân nhiều địa phương còn sử dụng máy bay không người lái (Drone) vào gieo sạ lúa, phun thuốc bảo vệ thực vật; sử dụng năng lượng mặt trời; canh tác rau màu, cây ăn trái theo tiêu chuẩn VietGAP… Bên cạnh đó là các mô hình nuôi tôm thâm canh - bán thâm canh ứng dụng công nghệ biofloc; nuôi tôm - lúa thông minh; ứng dụng công nghệ nuôi mới đối với loại hình nuôi lồng bè trên biển… Qua đó, giúp tiết kiệm chi phí, tăng năng suất, chất lượng nông sản, bảo vệ môi trường…
Để nhân rộng mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp hiệu quả, thời gian tới, tỉnh An Giang tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về chính sách phát triển nông nghiệp; chú trọng chuyển đổi cây trồng, vật nuôi; quy hoạch vùng sản xuất tập trung; đưa ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, đem lại thu nhập cao, giảm nghèo bền vững…
Giải pháp để ngành nông nghiệp tăng trưởng đạt kế hoạch
Ngành Nông nghiệp khu vực tỉnh Lâm Đồng cũ với 51 xã, phường vừa hợp nhất trong 6 tháng đầu năm 2025 đạt tốc độ tăng trưởng 3,91%, so sánh thấp hơn 0,29% so với kế hoạch. Qua xác định nguyên nhân trên từng lĩnh vực, ngành Nông nghiệp Lâm Đồng mới thống nhất các giải pháp tăng trưởng đạt và vượt kế hoạch trong thời gian tới trong khu vực nói riêng, trong toàn tỉnh nói chung.

Lâm Đồng tiếp tục mở rộng các vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao
Theo số liệu tập hợp 6 tháng đầu năm 2025, ngành Nông nghiệp khu vực tỉnh Lâm Đồng cũ đã đạt và vượt kế hoạch trên lĩnh vực trồng trọt, trong đó chuyển đổi 996 ha đất trồng lúa, 356,6 ha đất trồng điều, 3.850,9 ha cây trồng khác. Riêng cây cà phê tái canh, ghép cải tạo 3.884,4 ha, trồng mới, ghép cải tạo 782 ha. Đặc biệt, tiếp tục phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên nhiều đối tượng cây trồng với 72.861 ha, trong đó 800 ha diện tích nông nghiệp thông minh.
Tính chung tổng diện tích gieo trồng 6 tháng đầu năm 2025 khu vực tỉnh Lâm Đồng cũ đạt 372.820,6 ha, tăng 1,5% so với cùng kỳ. Trên các loại cây trồng hầu hết không phát sinh dịch hại lớn so với cùng kỳ năm 2024. Cụ thể, bệnh xì mủ, thối rễ giảm 936 ha (cây sầu riêng); bệnh bọ xít muỗi giảm 222,2 ha (cây điều); bệnh tuyến trùng giảm 170,6 ha (cây dâu tằm). Trong tổng số 98.518 ha diện tích cây trồng sản xuất an toàn có 8.810 ha chứng nhận VietGAP, GlobalGAP; 1.708 ha hữu cơ; 88.000 ha chứng nhận UTZ, 4C. Ngoài ra toàn khu vực được cấp 116 mã số vùng trồng đối với 5.489 ha sầu riêng và 111 ha chanh leo; 10 cơ sở đóng gói sầu riêng; 17 mã số vùng sản xuất giống rau với sản lượng mỗi vụ đạt trên 7.000 kg hạt và 300.000 cây giống, ngọn giống.

Mở rộng chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ là một trong giải pháp trọng tâm của ngành Nông nghiệp tỉnh để đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra
Trong khi lĩnh vực trồng trọt đạt và vượt kế hoạch thì lĩnh vực chăn nuôi, thủy sản gặp nhiều khó khăn do giá bán sản phẩm thịt, trứng vẫn còn thấp, dẫn đến giảm tăng trưởng 1,4% so với cùng kỳ. Theo đó, so với 6 tháng đầu năm 2024, tỷ lệ các đàn vật nuôi giảm xuống như bò thịt (2,7%); trâu (1,3%); heo (0,01%). Chỉ có đàn gia cầm gần 6,2 triệu con, đạt 90,9% so với kế hoạch và ổn định so với cùng kỳ (100,8%). Đáng kể, nghề trồng dâu, nuôi tằm trong 6 tháng đầu năm 2025 cũng gặp nhiều khó khăn do khan hiếm nguồn giống chất lượng cao. Trong khi đó, thời tiết khí hậu diễn biến thất thường đã ảnh hưởng đến chất lượng lá dâu, tằm nuôi dễ bị bệnh, không cuộn kén. Bên cạnh đó, do hiệu quả kinh tế thấp, không gian, quỹ đất chăn nuôi dần thu hẹp, nhiều nông hộ đã giảm quy mô, không tiếp tục đầu tư tăng đàn, nên giá trị sản xuất thấp xuống so với cùng kỳ. Qua rà soát trong cùng thời gian này, diện tích cây dâu và số lượng hộp trứng tằm giống nuôi giảm lần lượt 92,5% và 24,9% so với cùng kỳ. Đây là những yếu tố cấu thành nguyên nhân chủ yếu làm giảm mức tăng trưởng của ngành nông nghiệp như đã nêu trên.
Ðể đạt và vượt những chỉ tiêu kế hoạch đề ra trong 6 tháng cuối năm 2025, ngành Nông nghiệp tỉnh tập trung giải pháp tăng hệ số gieo trồng, mở rộng vùng sản xuất công nghệ cao, nâng cao năng suất và sản lượng cây trồng; phát triển chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản theo hướng trang trại quy mô lớn, an toàn sinh học.
Đồng thời, tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành Trung ương tháo gỡ khó khăn vướng mắc để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh; duy trì phát triển thương mại điện tử kết hợp giảm khâu trung gian; triển khai các giải pháp thúc đẩy thị trường tiêu thụ nông sản trong nước và xuất khẩu. Đặc biệt, phối hợp với các sở, ngành, địa phương và đơn vị liên quan trình cấp thẩm quyền ban hành các cơ chế chính sách, chương trình, kế hoạch thuộc lĩnh vực nông nghiệp và môi trường theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, đảm bảo phù hợp với các quy định của pháp luật và tình hình phát triển kinh tế, xã hội hiện nay, góp phần hoàn thành mục tiêu tăng trưởng toàn ngành Nông nghiệp tỉnh năm 2025 theo kế hoạch đề ra.
Sản xuất thanh long VietGAP: Quyết tâm thực hiện trong thế khó
Tỉnh Lâm Đồng hiện có khoảng 25.800 ha thanh long, sản lượng thu hoạch đạt 560.000 tấn/năm. Trong đó, đến thời điểm này toàn tỉnh có hơn 9.235 ha được chứng nhận VietGAP. Điều đáng chú ý, trong năm 2025 mục tiêu đặt ra của tỉnh là 11.000 ha được chứng nhận VietGAP nên đòi hỏi sự quyết tâm cao của ngành nông nghiệp tỉnh và từng địa phương.
Gặp khó trong triển khai
Thời điểm này, vùng trồng thanh long của tỉnh đang vào vụ mùa, trái thanh long ra trái rộ nên giá bán ở mức từ 6.000 – 12.000 đồng/kg (tùy loại). Một số hộ trồng thanh long ở xã Hàm Liêm cho biết, lâu nay do thị trường thanh long lên xuống thất thường, bán cho thương lái nhưng không phân biệt thanh long sản xuất sạch hay sản xuất thường. Cộng thêm thời tiết ảnh hưởng đến năng suất, nên đã “lơ là” sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP.

Thanh long chín.

Thanh long đang vào vụ mùa.
Theo thông tin từ Trung tâm Khuyến nông tỉnh, trong nửa đầu năm 2025, toàn tỉnh có 18 cơ sở đến hạn phải thực hiện chứng nhận VietGAP lại. Tuy nhiên các cơ sở này đã không thực hiện đăng ký chứng nhận. Vì thế mã số chứng nhận VietGAP của các cơ sở này không còn hiệu lực. Ngoài ra, Trung tâm cũng không thực hiện đánh giá cấp chứng nhận, do không có cơ sở đăng ký.
Lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông tỉnh cho biết, tính đến cuối tháng 6/2025, Trung tâm đã thực hiện giám sát 27 cơ sở/882,196 ha. Diện tích thanh long VietGAP của tỉnh hiện có hơn 9.236 ha. Trong khi đó, UBND tỉnh Bình Thuận (cũ) vừa phê duyệt Chương trình sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP năm 2025 trên địa bàn tỉnh là 11.000 ha. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của ngành nông nghiệp và các địa phương, nông dân trồng thanh long.

Sơ chế thanh long xuất khẩu.
Nâng cao chất lượng nông sản
Không khó để hiểu được mục tiêu đặt ra của tỉnh phải đạt được 11.000 ha thanh long VietGAP. Bởi đây là giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn thực phẩm, phục vụ cho yêu cầu tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Nội dung Chương trình sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP năm 2025 được thực hiện tại các xã, phường có trồng thanh long trên địa bàn tỉnh. Đối tượng triển khai là các tổ hợp tác, nhóm liên kết trồng thanh long, các doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại, hộ gia đình, cá nhân trồng thanh long.
HTX thanh long sạch Hòa Lệ (thôn Nà Bồi, xã Hàm Thuận) đang duy trì 10 ha thanh long GlobalGAP và 32ha thanh long VietGAP. Ông Đỗ Thanh Hiệp – Giám đốc HTX này cho biết: Mục đích chung của HTX là bảo vệ thương hiệu thanh long của tỉnh, dù khó khăn hiện nay là giá thành thanh long VietGAP so với thanh long sản xuất thường không có chứng nhận vẫn không khác biệt. Tuy nhiên, HTX đang có thêm những kênh bán hàng cho một số thị trường khó tính, giá ổn định cho thanh long GlobalGAP. Mặt khác, sản xuất sạch, an toàn là xu hướng tất yếu để giữ vùng nguyên liệu sạch cho thương hiệu và đầu vào cho các sản phẩm chế biến từ thanh long của HTX.
Theo kế hoạch của Trung tâm Khuyến nông tỉnh, trong tháng 7 và những tháng cuối năm 2025, đơn vị sẽ tổ chức giám sát đối với các cơ sở còn hạn chứng nhận VietGAP theo quy định. Đồng thời, tuyên truyền giúp bà con hiểu tầm quan trọng của việc sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, hỗ trợ, hướng dẫn cho người dân sản xuất… Mặt khác, trong bối cảnh tại một số địa phương, cán bộ nông nghiệp cũ bị thay thế sau khi các xã mới đi vào hoạt động, cán bộ mới chưa thể nắm bắt kịp thời thực trạng sản xuất thanh long cũng như kiến thức về quy trình VietGAP. Do vậy, Trung tâm đã có kế hoạch phân bổ chỉ tiêu cho xã mới sau khi bỏ cấp huyện và sáp nhập xã. Bên cạnh đó lên kế hoạch làm việc với từng địa phương để thực hiện công tác kiểm tra duy trì và tư vấn cho các cơ sở tham gia thực hiện sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, quyết tâm thực hiện trong thế khó.
'Cầu nối' trong sản xuất và tiêu thụ nông sản
Thời gian qua, các HTX sản xuất, kinh doanh dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn tỉnh đã tập trung đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh gắn với chuỗi giá trị sản phẩm, tạo điều kiện cho nông dân nâng cao thu nhập, hiệu quả kinh tế và phát triển nông nghiệp bền vững.

Sản xuất cây cảnh theo hướng liên kết tại HTX Dịch vụ nông nghiệp Định Hòa, xã Định Hòa.
Để liên kết thành viên phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao thu nhập, HTX Dịch vụ nông nghiệp Hoằng Đông, xã Hoằng Thanh đã đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, nghiên cứu thị trường, lựa chọn tham gia chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, nâng cao giá trị các sản phẩm cho thành viên. HTX đã thành lập hệ thống dịch vụ phục vụ thành viên theo chuỗi giá trị sản phẩm, từ dịch vụ đầu vào, công tác giám sát quy trình chăm sóc, bảo vệ đến thị trường đầu ra cho sản phẩm. Hàng năm, HTX đều đấu mối ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp thực hiện cung ứng, cho nợ tiền giống, phân bón, chuyển giao kỹ thuật và trực tiếp thu mua nông sản với nông dân. Mỗi năm HTX ký hợp đồng bao tiêu với Công ty TNHH Thực phẩm An Việt với sản lượng từ 800 đến 1.000 tấn khoai tây, tạo việc làm thường xuyên cho 40 lao động, với thu nhập khoảng 8 triệu đồng/người/tháng. Nhờ vậy, chủ trương liên kết, sản xuất lớn của HTX được các hộ thành viên và người dân ủng hộ.
Hiện toàn tỉnh có 857 HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Để hỗ trợ HTX thành viên nâng cao hiệu quả hoạt động, tập hợp được nhiều thành viên tham gia, Liên minh HTX tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp để thực hiện Đề án tái cơ cấu nông nghiệp, đề án hỗ trợ xây dựng HTX sản xuất gắn với chuỗi giá trị của Liên minh HTX Việt Nam, như: đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý, tổ chức điều hành sản xuất của các HTX, hướng dẫn thực hiện chính sách hỗ trợ xây dựng mô hình HTX sản xuất gắn với chuỗi giá trị hàng hóa chủ lực. Đồng thời, để thúc đẩy các mô hình liên kết sản xuất, kinh doanh theo chuỗi giá trị sản phẩm, hàng năm, Liên minh HTX tỉnh đã phối hợp tổ chức cho các HTX tham dự các hội nghị, hội thảo giữa các doanh nghiệp với các HTX trong và ngoài tỉnh. Đến nay, toàn tỉnh có khoảng 150 HTX nông nghiệp tham gia liên kết theo chuỗi chế biến - tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Nhiều mô hình HTX hoạt động hiệu quả theo phương thức sản xuất gắn với chuỗi giá trị và ứng dụng công nghệ cao. Điển hình, như: HTX Dịch vụ nông nghiệp Thiệu Hưng, xã Thiệu Hóa thực hiện liên kết với Công ty CP Mía đường Lam Sơn, đầu tư xây dựng nhà màng, nhà lưới trên diện tích 4,1ha để trồng dưa Kim Hoàng hậu (sản phẩm dưa Kim Hoàng hậu của HTX được công nhận đạt tiêu chuẩn OCOP 4 sao và xây dựng 20ha vùng trồng rau màu theo tiêu chuẩn VietGAP, doanh thu hàng năm của HTX đạt 26 tỷ đồng); mô hình liên kết sản xuất trồng lan Hồ Điệp và 7.000m2 nhà màng trồng dưa chuột, dưa Kim Hoàng hậu của HTX Nông nghiệp Định Thọ, xã Lưu Vệ; mô hình tích tụ ruộng đất 81ha trồng mía nguyên liệu cung cấp cho Nhà máy Đường Việt Đài của HTX DVNN Thành Long, xã Thạch Bình; mô hình liên kết thành viên, hộ nông dân trồng cây chè trên diện tích 30ha và sản xuất sản phẩm chè OCOP chất lượng cao, đạt doanh thu 2,5 tỷ đồng/năm của HTX Nông lâm nghiệp Bình Sơn, xã Thọ Bình; mô hình HTX liên kết tiêu thụ và cung ứng giống, vật tư, máy nông nghiệp, dịch vụ làm đất, bao tiêu sản phẩm cho thành viên, đồng thời xây dựng nhà kho bảo quản, cửa hàng giới thiệu, bán sản phẩm của HTX nông nghiệp Phú Lộc, xã Hoa Lộc... Các mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp giúp tăng năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị sản phẩm và từng bước nâng cao thu nhập cho nông dân. Thực tế cho thấy, khi tham gia chuỗi giá trị, chi phí sản xuất, kinh doanh của HTX giảm từ 5- 8%, thu nhập của thành viên tăng 20 - 25%, mang lại nhiều lợi ích cho các thành viên.
Thời gian tới, Liên minh HTX tỉnh tiếp tục đẩy mạnh công tác hướng dẫn, tư vấn cho các HTX thành viên trong việc phát triển vùng nguyên liệu, tổ chức sản xuất, chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm. Tăng cường công tác phối hợp với các cấp, ngành và các địa phương trong việc vận động các thành viên, hội viên tham gia các tổ chức kinh tế tập thể, HTX. Cùng với đó, các HTX cũng năng động, chủ động tìm kiếm thị trường, liên kết với doanh nghiệp và người dân để hình thành, phát triển các chuỗi giá trị sản phẩm nông, lâm, thủy sản từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ, góp phần đưa nông nghiệp phát triển theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và bền vững. Qua đó, khẳng định vai trò “cầu nối” bền chặt của mình trong sản xuất và tiêu thụ nông sản giữa người dân và doanh nghiệp.
Phát triển kinh tế nông nghiệp: Lấy khoa học, công nghệ làm nền tảng
Trước những thách thức của thị trường và yêu cầu ngày càng cao trong tiến trình phát triển đất nước, ngành nông nghiệp đang đẩy mạnh chuyển đổi từ tư duy sản xuất sang tư duy kinh tế nông nghiệp. Trong đó, lấy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo làm động lực tăng trưởng chủ yếu để thích ứng và phát triển, thực hiện tốt vai trò trụ đỡ của nền kinh tế trong bối cảnh mới.

Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế. Ảnh ST
Chuyển đổi mô hình kinh tế nông nghiệp
Trong bối cảnh nhiều ngành kinh tế đối mặt với khó khăn do tác động của kinh tế thế giới và đại dịch Covid-19, ngành nông nghiệp đã nỗ lực xoay chuyển tình thế, từ bị động sang chủ động, kịp thời, sáng tạo để vượt qua thử thách, đạt kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào thành quả chung của nền kinh tế.
Năm 2024, tốc độ tăng GDP nông nghiệp đạt 3,2%, giá trị sản xuất toàn ngành đạt 50.772 tỷ đồng; kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt mức cao kỷ lục 62,5 tỷ USD, tăng 18,7% so với năm 2023; xuất siêu tiếp tục đạt mức kỷ lục mới 17,9 tỷ USD.
“Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vị thế quan trọng, là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm an ninh lương thực và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô” - Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NNMT) Phùng Đức Tiến cho biết.

Ngành nông nghiệp chuyển hướng tư duy phát triển kinh tế nông nghiệp, lấy khoa học, công nghệ làm nền tảng. Ảnh: N.Lộc
Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, bên cạnh những kết quả định lượng, một dấu ấn nổi bật của ngành là quá trình chuyển đổi mạnh mẽ từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp; đẩy mạnh tái cơ cấu gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy các động lực mới, nâng cao chuỗi giá trị, từ đó cải thiện đời sống nông dân, thay đổi diện mạo kinh tế nông thôn.
Chỉ rõ thêm về chuyển biến này, GS,TS. Nguyễn Hồng Sơn - Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam - cho biết: Nếu trước đây, nông dân chủ yếu tập trung vào sản lượng và giá trị thu được trên mỗi đơn vị diện tích thì nay, từ chính mảnh ruộng đó, người dân có thể phát triển du lịch nông nghiệp, bán tín chỉ carbon...
“10,3 triệu tín chỉ carbon rừng đã được bán, thu về 51,5 triệu USD (tương đương 1.200 tỷ đồng), hay 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp là minh chứng rõ nét cho sự chuyển đổi sang tư duy kinh tế nông nghiệp, gia tăng giá trị” - GS,TS. Nguyễn Hồng Sơn chia sẻ.
Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NNMT) Lê Đức Thịnh cho biết, triển khai định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp, các địa phương đã cụ thể hóa thành đề án phát triển với mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, nâng cao giá trị và năng lực cạnh tranh sản phẩm.

Ngành nông nghiệp cần đẩy mạnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao, tập trung vào nghiên cứu và ứng dụng KHCN trong sản xuất và chế biến, từ đó xây dựng các sản phẩm có lợi thế so sánh, có khả năng cạnh tranh. Ảnh ST
Nhấn mạnh xu hướng chuyển đổi từ giá trị đơn thuần sang giá trị đa chiều, PGS,TS. Lê Quốc Thanh - Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia - cho rằng, cần nhân rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp kết hợp du lịch sinh thái, nông nghiệp hữu cơ; khuyến khích mô hình canh tác bền vững, gắn kết giữa giá trị kinh tế và bảo vệ môi trường. “Sản xuất nông nghiệp phải được đặt trong tổng thể các ngành kinh tế và đời sống người dân để tạo chuỗi liên kết, tối ưu hóa giá trị trên từng đơn vị diện tích canh tác” - ông Thanh nhấn mạnh.
Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo là nền tảng phát triển
Nhìn lại thành quả thời gian qua, nhiều ý kiến cho rằng, tốc độ tăng trưởng ổn định và xu hướng đi lên của ngành nông nghiệp có sự đóng góp quan trọng từ chuyển đổi số và ứng dụng khoa học công nghệ vào chuỗi sản xuất - tiêu thụ.
Trong bối cảnh mới với nhiều cơ hội và thách thức đan xen, các tồn tại cố hữu của ngành - như mô hình sản xuất thủ công, chi phí đầu vào cao, giá trị gia tăng thấp- đang trở thành rào cản trong quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Do vậy, tại Hội nghị triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Bộ trưởng Bộ NNMT Đỗ Đức Duy khẳng định: Muốn thay đổi cục diện, phải đổi mới tư duy và phương pháp tiếp cận, lấy khoa học công nghệ và chuyển đổi số làm nền tảng phát triển.
“KHCN, đổi mới sáng tạo không chỉ là yếu tố quyết định sự phát triển bền vững mà còn là 'thời cơ tốt nhất' để Việt Nam vươn mình thành quốc gia phát triển, trong đó, nông nghiệp phải là lĩnh vực tiên phong trong quá trình chuyển đổi này” - Bộ trưởng nhấn mạnh.

Kết quả nghiên cứu đã cho ra đời nhiều giống mới với năng suất cao, phù hợp với điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Ảnh ST
Dẫn chứng từ Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh, lãnh đạo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ NNMT) cho biết: Nhờ ứng dụng KHCN, nhiều giống lúa mới có khả năng chống chịu điều kiện bất lợi đã được đưa vào canh tác; đặc biệt, các kỹ thuật tiên tiến giúp giảm chi phí sản xuất, hạn chế tác động môi trường... Đây là minh chứng rõ nét về vai trò của KHCN trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng nông nghiệp. “Ứng dụng KHCN đang trở thành chìa khóa quyết định thành công trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng ngành nông nghiệp” - lãnh đạo Cục khẳng định.
Chuyên gia nông nghiệp, TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy cho rằng, ngành cần đẩy mạnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao, tập trung vào nghiên cứu và ứng dụng KHCN trong sản xuất và chế biến, từ đó xây dựng các sản phẩm có lợi thế so sánh, có khả năng cạnh tranh.
“Với động lực mới từ công cuộc sắp xếp đơn vị hành chính, các địa phương sẽ có thêm dư địa phát triển, tạo thuận lợi để ngành tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi sang tư duy kinh tế nông nghiệp, lấy KHCN làm đòn bẩy” - TS. Thủy cho biết.
Có thể nói, trong thời điểm đất nước đang chuyển mình trước những biến động thời đại, phát triển nền nông nghiệp hiệu quả, bền vững, nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng là yêu cầu sống còn trước áp lực cạnh tranh và những diễn biến khó lường của thị trường. Trong đó, KHCN và đổi mới sáng tạo cần được xác định là nền tảng, là động lực dẫn dắt công cuộc đổi mới của ngành nông nghiệp trong thời kỳ mới.
Với phương châm “Thích ứng linh hoạt - Khơi thông nguồn lực - Tăng tốc bứt phá”, năm 2025, ngành nông nghiệp đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành đạt 3,3-3,4%; tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 64 - 65 tỷ USD.
Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai: Đầu tư nguồn lực xây dựng hệ thống thủy lợi, giải bài toán nước tưới cho sản xuất
Giải bài toán nước tưới cho sản xuất nông nghiệp bền vững là một trong những vấn đề cấp bách được đưa ra tại Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất diễn ra vào ngày 7/7.
Thực trạng đáng lo ngại
Tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Gia Lai (mới) diễn ra ngày 7/7, Bí thư Tỉnh ủy Hồ Quốc Dũng đã đặt ra một câu hỏi: Làm thế nào để giải quyết bài toán nước tưới - khó khăn lớn nhất của vùng đất Gia Lai cũ?

Bí thư Tỉnh ủy Hồ Quốc Dũng nêu thực trạng đáng lo ngại về hệ thống thủy lợi của tỉnh Gia Lai hiện không đáp ứng được nhu cầu tưới cho sản xuất.
Sau sáp nhập, tỉnh Gia Lai đang phải đối mặt với một nghịch lý đáng lo ngại trong lĩnh vực thủy lợi. Dù có nguồn nước dồi dào nhưng hiệu quả khai thác cực kỳ thấp. Vùng Bình Định (cũ) có hệ thống thủy lợi và tưới tiêu khá đồng bộ (164 hồ chứa nước với dung tích từ 50.000m3 trở lên), dung tích là 650 triệu m3 nước và hệ thống kênh mương được đầu tư nâng cấp thường xuyên có thể chủ động tưới 95% diện tích đất canh tác.

Hiện vùng Bình Định (cũ) đảm bảo tưới tới 95% diện tích đất canh tác, trong khi đó Gia Lai (cũ) dù dung tích trữ nước tương đương song chỉ mới tưới được 14% diện tích đất canh tác. Trong ảnh: Hệ thống đập dâng và kênh tưới Văn phong ở vùng Bình Định cũ.
Trong khi đó, vùng Gia Lai (cũ) là vùng đất có lợi thế lớn về sản xuất nông, lâm nghiệp hơn 98.700 ha cà phê, 10.040 ha hồ tiêu, 30.000 ha cây ăn quả. Toàn vùng có trên 600 triệu m3 nước nhưng chỉ tưới được 68.000ha, tương đương với 14% diện tích đất canh tác.
Sự chênh lệch giữa diện tích sản xuất và nhu cầu nước tưới cho vùng Gia Lai cũ đang đặt ra một thách thức rất lớn. "Khó khăn nhất của Gia Lai (cũ) không phải là sản xuất phân tán mà là thiếu nước", ông Hồ Quốc Dũng, Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai nói.
Tại hội nghị, Bí thư Hồ Quốc Dũng nêu rõ, không chỉ thiếu đồng bộ về hạ tầng thủy lợi mà một thực trạng đáng lo ngại hơn nữa đó là tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng về chuyên gia thủy lợi. "Hiện Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh có tới 9 phó giám đốc, song không có ai chuyên ngành thủy lợi. Chuyên gia giỏi nhất về thủy lợi thì đã nghỉ hưu, tới đây rất khó để sở tham mưu tốt giải quyết vấn đề này. Tôi yêu cầu lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh phải tính toán lại vấn đề này", ông Dũng nói.
Kế hoạch đầu tư hệ thống thủy lợi 17.000 tỷ đồng
Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai cho hay, sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh rất là quan trọng. Theo đó, đầu tư hệ thống tưới tiêu phục vụ nông nghiệp đã được xác định là một trong 10 nhiệm vụ trọng tâm trong 6 tháng cuối năm 2025, thể hiện sự ưu tiên hàng đầu của lãnh đạo tỉnh trong việc giải quyết bài toán thủy lợi.
Trước mắt, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Gia Lai phải đề xuất ngay việc xây dựng hệ thống tưới cho hồ chứa ở vùng Gia Lai (cũ) để đảm bảo nhu cầu tưới trước mắt.Để giải quyết căn cơ bài toán nước tưới, tỉnh Gia Lai đặt vấn đề cần đầu tư hệ thống tưới tiêu cơ bản cho vùng Gia Lai cũ với tổng kinh phí ước tính 17.000 tỷ đồng.

Tiềm năng sản xuất nông nghiệp của tỉnh Gia Lai rất lớn, song vấn đề đặt ra là bài toán nước tưới.
"Đây là số tiền khá lớn, nên cần phải chia ra từng bước, từng thời gian cụ thể. Tranh thủ tận dụng nguồn vốn trung ương, vốn tỉnh hoặc hình thành dự án mới để vay ODA. Bởi việc giải quyết nguồn nước là vấn đề hết sức quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp bền vững ở khu vực Gia Lai (cũ). Nếu trong 5 năm tới mà không giải quyết được chuyện này thì chính chúng ta có lỗi với dân", ông Dũng nói.
Theo Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai, đất đỏ bazan màu mỡ, nhiều địa phương mơ ước nhưng ở đây lại thiếu nước. Người đứng đầu tỉnh Gia Lai nhấn mạnh, việc giải quyết nguồn nước là vấn đề hết sức quan trọng trong phát triển nông nghiệp bền vững. Tỉnh Gia Lai hội tụ đầy đủ tiềm năng để phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, xây dựng các vùng nguyên liệu lớn…

Hệ thống thủy lợi của Gia Lai cũ đang là một thách thức đối với sản xuất nông nghiệp ở khu vực này.
"Tỉnh có đầy đủ tiềm năng thế mạnh, đứng thứ 2 của cả nước về diện tích nên chỉ tiêu này không có lý gì không thể làm được. Tỉnh sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách, tạo áp lực để phát triển", Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai Hồ Quốc Dũng khẳng định.
Hướng tới nền nông nghiệp đô thị
HNN - Theo Quy hoạch giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, thành phố Huế định hướng phát triển kinh tế xanh, bền vững, với cơ cấu kinh tế: Dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Trong đó, nông nghiệp được xác định là một trụ cột, đặc biệt là nông nghiệp đô thị, gắn với bảo tồn di sản và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Sản xuất công nghệ cao đã giúp cho nhận thức cộng đồng về nông nghiệp bền vững
Thúc đẩy phong trào sản xuất mới
Vườn rau được sản xuất theo quy trình mới của HTX Thủy canh Huế, tại phường Thủy Lương (nay là phường Hương Thủy) là một trong số các mô hình trồng trọt bằng công nghệ cao. Theo đó, mô hình được thực hiện bằng phương pháp tiên tiến, kỹ thuật trồng rau sạch được đơn vị thiết kế trong nhà màng, ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt và quy trình làm mát của Israel, với hệ thống tưới, châm phân, quạt thông gió điều hòa không khí... bằng hệ thống tự động điều khiển qua mạng wifi.
Giám đốc HTX Nông nghiệp thủy canh Huế Ngô Xuân Phước chia sẻ, nông nghiệp công nghệ cao đã góp phần giảm ô nhiễm, ứng phó với biến đổi khí hậu thông qua các mô hình như trồng cây trong nhà kính hoặc canh tác thẳng đứng. Qua đó, đã góp phần thúc đẩy phong trào sản xuất mới, nâng cao nhận thức cho cộng đồng về nông nghiệp bền vững.
Cùng với kỹ thuật trồng rau được thiết kế trong nhà màng, ứng dụng tưới nhỏ giọt và quy trình làm mát của công nghệ Israel, mô hình sản xuất rau sạch của HTX này còn được thực hiện với quy trình thủy canh, tức là kỹ thuật trồng cây trong dung dịch dinh dưỡng hay được gọi là trồng cây trong nước hoặc trồng cây không cần đất. Theo ông Ngô Xuân Phước, quy trình sản xuất rau sạch này đem lại giá trị kinh tế cao gần gấp đôi so với sản xuất thông thường, do thị trường ưu chuộng và tin dùng...
Vườn rau của HTX Thủy canh Huế cũng là mô hình trồng trọt công nghệ cao đang được ứng dụng và đầu tư khá phổ biến tại TP. Huế. Mô hình này bao gồm các hoạt động sản xuất nông nghiệp phù hợp trong không gian đô thị, ven đô như trồng rau sạch, hoa kiểng, đến nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi quy mô nhỏ… Thực tế cho thấy, các mô hình nông nghiệp đô thị ở Huế gần đây đã góp phần cung cấp nguồn thực phẩm tươi sạch tại chỗ, giảm phụ thuộc vào vận chuyển từ nông thôn, tạo thu nhập và việc làm ổn định cho cư dân đô thị.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Lê Văn Anh cho rằng, xuất phát từ nhu cầu thực tế, hầu hết các doanh nghiệp ở lĩnh vực nông nghiệp đều đầu tư nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật cao vào sản xuất, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Cùng với trồng trọt công nghệ cao, thành phố Huế đã và đang triển khai nhiều mô hình nông nghiệp nuôi trồng thủy sản bền vững, ứng dụng công nghệ sinh thái để bảo vệ môi trường đầm phá. Thành phố cũng đang tận dụng rất tốt cảnh quan tự nhiên và di sản văn hóa để phát triển các mô hình nông nghiệp kết hợp với du lịch sinh thái, tổ chức các trang trại ở ven đô, kết hợp sản xuất nông nghiệp với trải nghiệm du lịch, thu hút khách tham quan tìm hiểu về nông nghiệp và văn hóa Huế.

Vườn rau được sản xuất với công nghệ cao của HTX Thủy canh Huế
Cơ hội phát triển
Theo Quy hoạch giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, thành phố Huế định hướng phát triển kinh tế xanh, bền vững, với cơ cấu kinh tế dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Trong đó, nông nghiệp được xác định là một trụ cột, đặc biệt là nông nghiệp đô thị, gắn với bảo tồn di sản và thích ứng biến đổi khí hậu.
Nông nghiệp đô thị đang hướng đến mô hình hiện đại, chất lượng cao với tỷ suất đầu tư cho dự án lớn. Tuy nhiên, trở ngại hiện nay của Huế là phát triển hạ tầng kỹ thuật như nhà màng, kho bãi, hệ thống tưới tiêu… chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát triển nông nghiệp đô thị công nghệ cao. Việc đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi vốn lớn, trong khi nhiều nông dân và hợp tác xã còn thiếu kỹ năng và công nghệ tiên tiến. Vấn đề quan trọng khác là thị trường, đảm bảo đầu ra cho sản phẩm. Nhà nước cần giữ vai trò kết nối, tìm đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao ở các cơ sở du lịch cao cấp và xuất khẩu ra các thị trường khó tính. Xem đó là yếu tố then chốt.
Theo ông Lê Văn Anh, để phát triển nông nghiệp đô thị, bên cạnh việc ứng dụng công nghệ cao trong phát triển, cần xây dựng trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ nông nghiệp phù hợp, tích hợp nông nghiệp đô thị vào quy hoạch đô thị, ưu tiên phát triển các vùng nông nghiệp công nghệ cao tập trung ở các vùng ven đô thị, hình thành không gian sản xuất nông nghiệp gắn với du lịch. Ngoài ra, hỗ trợ hình thành và phát triển các doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao; xây dựng các khu, vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Đẩy mạnh việc phát triển và nhân rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp sạch, giá trị cao tại các vùng sinh thái. Chú trọng đào tạo nhân lực quản trị và lao động có kỹ thuật, tay nghề giỏi, khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp, các trang trại, gia trại tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ và phát huy nội lực để nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nông sản, đặc sản Huế; thông qua kết nối du lịch, như du lịch sinh thái, ẩm thực, làng nghề nhằm gia tăng giá trị sản xuất nông nghiệp, từ đó hình thành liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị...
Phát huy thế mạnh của các chi hội nông dân trong nông nghiệp Thủ đô
Hội Nông dân Thành phố Hà Nội đã và đang khẳng định vai trò nòng cốt trong phát triển nông nghiệp và nông thôn, thông qua việc xây dựng các chi hội nông dân nghề nghiệp gắn liền với thế mạnh của từng địa phương.
Thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/HNDTƯ ngày 27/7/2020 của Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam về phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn, Hội Nông dân Thành phố Hà Nội đã chủ động triển khai các mô hình chi hội nghề nghiệp đặc thù tại các địa phương. Đến nay, Thành phố đã thành lập 251 chi hội nghề nghiệp với tổng cộng 6.260 thành viên. Các chi hội này được chia thành các nhóm nghề nghiệp khác nhau như chăn nuôi, trồng trọt, tiểu thủ công nghiệp và kinh doanh nhỏ lẻ.
Ngoài việc giúp nông dân tập hợp theo ngành nghề, thuận lợi trong tổ chức sản xuất, các chi hội nghề nghiệp này còn là cầu nối quan trọng giữa hội viên với các chính quyền địa phương, doanh nghiệp và tổ chức khoa học kỹ thuật. Nhờ vậy, các mô hình sản xuất tại nhiều địa phương đã hình thành liên kết chuỗi, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, đồng thời mở rộng thị trường tiêu thụ.
Một trong những điểm đáng chú ý của các chi hội nghề nghiệp là sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy sản xuất của nông dân. Thay vì tiếp tục duy trì phương thức sản xuất nhỏ lẻ, nhiều nông dân đã chuyển sang tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, hợp tác xã và sản xuất theo nhu cầu thị trường.

Cán bộ Trung ương Hội Nông dân Việt Nam và Hội Nông dân Thành phố Hà Nội thăm các mô hình chi hội, tổ hội nghề nghiệp.
Tiêu biểu là mô hình chi hội nghề nghiệp sản xuất miến dong tại xã Ba Vì. Trước đây, các hộ sản xuất miến chủ yếu làm thủ công, bán lẻ với giá thấp và bấp bênh. Tuy nhiên, từ khi gia nhập chi hội, các hội viên đã được tập huấn kỹ thuật, xây dựng bao bì, nhãn mác, sản phẩm miến của họ hiện đã có mặt tại các siêu thị, đơn hàng được đặt quanh năm, lợi nhuận tăng gấp đôi.
Tại xã Trần Phú, nơi có nghề làm vườn và cây cảnh truyền thống, Hội Nông dân xã đã xây dựng Chi hội cây cảnh thôn Quyết Tiến và Chi hội làm vườn thôn Tân Hội. Những chi hội này giúp nông dân phát triển cây ăn quả, hoa cây cảnh có giá trị cao, gắn với phong trào “nông dân sản xuất giỏi”. Các hội viên được tham gia sinh hoạt theo chuyên môn, chia sẻ kinh nghiệm về chăm sóc, cắt tỉa, ươm giống, tạo dáng cây cảnh. Nhờ đó, giá trị sản phẩm tăng lên và thị trường tiêu thụ ngày càng mở rộng.
Tương tự, tại các xã khác như Hòa Xá và Vân Đình, các chi hội nuôi thủy sản đã phát huy tốt tiềm năng mặt nước ao hồ, hỗ trợ nông dân trong việc phòng, chống dịch bệnh và sử dụng chế phẩm sinh học. Các sản phẩm cá, tôm sạch hiện đã được tiêu thụ qua các chợ đầu mối và sàn thương mại điện tử.
Chủ tịch Hội Nông dân Thành phố Hà Nội Phạm Hải Hoa đánh giá việc xây dựng các chi hội nghề nghiệp theo hướng đặc thù tại cơ sở đã tạo ra môi trường thuận lợi cho nông dân tự nguyện tham gia tổ chức hội. Các chi hội này đã góp phần vào sự phát triển nông nghiệp sinh thái, nâng cao đời sống nông dân và phát triển nông thôn văn minh, hiện đại.
Thời gian tới, Hội Nông dân Thành phố Hà Nội sẽ tiếp tục chỉ đạo các cấp hội tiến hành khảo sát kỹ lưỡng tình hình sản xuất tại từng xã, nhằm xây dựng các mô hình chi hội nghề nghiệp phù hợp với đặc thù của từng địa phương. Mục tiêu là tránh sự trùng lặp trong các mô hình, đồng thời phát huy rõ nét thế mạnh của từng vùng miền, từ đó tạo ra những mô hình nông nghiệp đặc thù, hiệu quả và bền vững.
Bên cạnh đó, Hội Nông dân Thành phố cũng sẽ tăng cường các hoạt động phối hợp với các cơ quan chuyên môn để triển khai công tác tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho các hội viên. Đồng thời, mở rộng các kênh tiêu thụ sản phẩm nông sản giúp các chi hội kết nối trực tiếp với thị trường trong và ngoài nước, tạo ra những cơ hội phát triển lâu dài cho các hội viên.
Đặc biệt, Hội Nông dân Thành phố sẽ tập trung vào việc hướng dẫn các chi hội tiến dần lên các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và tiêu thụ. Mô hình này giúp nông dân tạo ra sự liên kết bền vững, kết nối các hộ nông dân với nhau để tạo thành những cộng đồng sản xuất mạnh mẽ.
Khi tổ chức hội hoạt động đúng vai trò và đồng hành sát sao với nông dân, phát huy thế mạnh từng vùng, nông dân sẽ không còn phải đối mặt với khó khăn đơn lẻ. Sự liên kết giữa các nông dân sẽ tạo ra giá trị bền vững về kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần xây dựng cộng đồng nông thôn mạnh mẽ và nền nông nghiệp Thủ đô phát triển bền vững.
21 lĩnh vực giám định tư pháp trong nông nghiệp và môi trường
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành Thông tư 29/2025/TT-BNNMT quy định giám định tư pháp trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.

21 lĩnh vực giám định tư pháp trong nông nghiệp và môi trường
Thông tư này quy định giám định tư pháp trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, gồm: lĩnh vực giám định tư pháp; quy chuẩn chuyên môn áp dụng cho hoạt động giám định tư pháp; thời hạn giám định tư pháp; giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc; quy trình, trách nhiệm tổ chức thực hiện giám định tư pháp.
Lĩnh vực giám định tư pháp
Thông tư quy định 21 lĩnh vực giám định tư pháp trong nông nghiệp và môi trường bao gồm:
1- Trồng trọt và bảo vệ thực vật; 2- Chăn nuôi và thú y; 3- Lâm nghiệp; 4- Diêm nghiệp; 5- Thủy sản; 6- Thủy lợi; 7- Quản lý đê điều và phòng, chống thiên tai; 8- An toàn thực phẩm nông, lâm, thủy sản và muối; 9- Quản lý chất lượng đối với giống cây trồng, gia súc, gia cầm, vật nuôi, dụng cụ, thiết bị, vật tư, sản phẩm, dịch vụ nông, lâm, diêm nghiệp, thủy sản; 10- Bảo quản, chế biến, vận chuyển nông, lâm, thủy sản; 11- Đất đai; 12- Tài nguyên nước; 13- Địa chất và khoáng sản; 14- Môi trường; 15- Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; 16- Khí tượng thủy văn; 17- Biến đổi khí hậu; 18- Đo đạc, bản đồ và thông tin địa lý; 19- Quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo; 20- Viễn thám; 21- Quản lý đầu tư, đầu tư xây dựng công trình chuyên ngành thuộc lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.
Thời hạn giám định tư pháp
Khoản 2 Điều 26a Luật Giám định tư pháp quy định:
Thời hạn giám định tư pháp đối với các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định tư pháp được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
Thông tư quy định, thời hạn giám định tư pháp trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường tối đa là 03 tháng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 26a Luật Giám định tư pháp năm 2012, được sửa đổi, bổ sung năm 2020.
Trường hợp vụ việc giám định tư pháp có tính chất phức tạp hoặc khối lượng công việc lớn hoặc liên quan đến nhiều lĩnh vực, thuộc trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức thì thời hạn giám định tối đa là 04 tháng.
Thời hạn giám định tư pháp có thể được gia hạn nhưng không quá một phần hai thời hạn tối đa nêu trên, do cơ quan trưng cầu giám định tư pháp quyết định bằng văn bản theo đề nghị của cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp.
Trường hợp có vấn đề phát sinh hoặc có cơ sở xác định việc giám định không thể hoàn thành đúng thời hạn, cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp phải kịp thời thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho người trưng cầu giám định và thời gian dự kiến hoàn thành, ra kết luận giám định tư pháp.
Thời hạn giám định tư pháp được tính từ ngày cá nhân, tổ chức giám định tư pháp nhận được quyết định trưng cầu giám định tư pháp và nhận được đầy đủ hồ sơ, đối tượng giám định, thông tin, tài liệu, đồ vật, mẫu vật cần thiết cho việc giám định tư pháp.
Trường hợp cần phải bổ sung hồ sơ, tài liệu làm cơ sở cho việc giám định thì cá nhân, tổ chức giám định tư pháp có văn bản đề nghị cơ quan, người đã trưng cầu giám định tư pháp bổ sung hồ sơ, tài liệu; thời gian từ khi có văn bản đề nghị đến khi nhận được hồ sơ, tài liệu bổ sung không tính vào thời hạn giám định tư pháp.
Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 11/8/2025.
Nhiều tập đoàn thực phẩm, nông nghiệp công nghệ cao Brazil muốn phát triển tại Việt Nam
Thủ tướng Phạm Minh Chính làm việc với lãnh đạo các tập đoàn kinh tế hàng đầu Brazil để thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực: hàng không; sản xuất nhiên liệu sinh học; nông nghiệp; chế biến, phân phối thực phẩm…
Trong chương trình hoạt động song phương tại thành phố Rio de Janeiro (Brazil), ngày 6/7 (giờ địa phương), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã làm việc với các tập đoàn kinh tế hàng đầu Brazil để thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực như hàng không, sản xuất nhiên liệu sinh học, nông nghiệp, chế biến, phân phối thực phẩm..
Ở lĩnh vực nông nghiệp, Thủ tướng Phạm Minh Chính làm việc với lãnh đạo Công ty Granja Fujikurz, trang trại nông nghiệp công nghệ cao tại Brazil, thuộc hệ thống Granja Fujikura có nguồn gốc từ Nhật Bản.
Ông Wiliam Shuhei Fujikura, Giám đốc Công ty Fujikura cho biết, năm 2025, Công ty Fujikura Quail Genetics đã khảo sát Việt Nam và hiện đang hợp tác kinh doanh với Công ty Trọng Khôi để phát triển chăn nuôi chim cút tại thị trường Việt Nam và châu Á.

Thủ tướng Phạm Minh Chính làm việc với Công ty Granja Fujikura, ông mong muốn DN sẽ tăng cường hợp tác với các đối tác trong nước để đưa các sản phẩm của Công ty tiếp cận người tiêu dùng Việt Nam.
Ông mong muốn Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương Việt Nam tạo điều kiện để Công ty hợp tác hiệu quả tại Việt Nam, không chỉ chăn nuôi chim cút mà phát triển nông nghiệp công nghệ cao quy mô lớn.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chúc mừng kết quả kinh doanh của Công ty Granja Fujikura trên toàn cầu trong thời gian qua; đánh giá cao hợp tác của Công ty với Trọng Khôi, một trong những doanh nghiệp hàng đầu tại Việt Nam trong lĩnh vực xuất khẩu sản phẩm trứng chim cút; khẳng định trên nền tảng quan hệ tốt đẹp Việt Nam-Brazil, Việt Nam mong muốn các doanh nghiệp Brazil, trong đó có Công ty Granja Fujikura sẽ tiếp tục quan tâm, mở rộng hợp tác đầu tư kinh doanh tại thị trường Việt Nam.
Cũng tại buổi làm việc, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã trao đổi với ông Fábio Maia de Oliveira, lãnh đạo Tập đoàn JBS - tập đoàn hàng đầu thế giới trong lĩnh vực chế biến thực phẩm, có trụ sở chính tại Brazil và văn phòng đại diện tại 24 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Tại buổi làm việc, ông Fábio Maia de Oliveira cho biết JBS đã có mặt tại Việt Nam từ năm 2021. Hiện, tập đoàn đã thành lập 2 công ty hoạt động trong lĩnh vực phân phối thực phẩm đông lạnh và sản xuất, JBS cũng có kế hoạch tiếp tục mở rộng đầu tư tại Việt Nam.
Thủ tướng đánh giá cao JBS đã tổ chức xuất khẩu lô hàng thịt bò đầu tiên sang Việt Nam và có định hướng mở rộng hợp tác đầu tư trong thời gian tới.
Cùng với đó, Thủ tướng cho biết quan hệ Việt Nam - Brazil đang tiếp tục phát triển tốt đẹp, đặc biệt khi 2 nước đã hoàn tất việc nâng cấp lên quan hệ đối tác chiến lược vào tháng 11/2024.
Trên cơ sở phát huy nền tảng quan hệ chính trị - ngoại giao tốt đẹp giữa 2 nước, Thủ tướng mong muốn các doanh nghiệp Brazil, trong đó có Tập đoàn JBS sẽ tiếp tục quan tâm, mở rộng hợp tác đầu tư kinh doanh tại thị trường Việt Nam.
Theo Thủ tướng, Việt Nam đặt mục tiêu phấn đấu xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 100 tỷ USD trong những năm tới. Để đạt được những mục tiêu này, Chính phủ Việt Nam cam kết tháo gỡ các vấn đề của ngành như thể chế, chính sách, nguồn nhân lực, đất đai… và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phát triển, xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp.
Nhấn mạnh Việt Nam có thị trường tiêu dùng tiềm năng với dân số hơn 100 triệu dân, tầng lớp trung lưu ngày càng gia tăng và là cửa ngõ của khu vực ASEAN, khu vực phát triển năng động và điểm đến hấp dẫn hàng đầu thế giới của các nhà đầu tư, Thủ tướng mong muốn các DN, tập đoàn sẽ tăng cường hợp tác với các đối tác trong nước để đưa các sản phẩm của Công ty tiếp cận người tiêu dùng Việt Nam và khu vực cũng như đưa các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam đến với thị trường Brazil và mạng lưới thị trường trên thế giới của Tập đoàn.
Nhiều Bộ trưởng từ châu Phi sẽ đến học tập kinh nghiệm chương trình OCOP tại Việt Nam
Trong các ngày 14-16/7/2025, 14 Bộ trưởng ngành nông nghiệp của các nước châu Phi sẽ đến Việt Nam để tham dự Diễn đàn trao đổi kinh nghiệm cấp cao giữa các khu vực về mô hình OCOP. Sau Diễn đàn, các Bộ trưởng sẽ có chuyến đi thực địa, tham quan học tập các mô hình sản phẩm OCOP tại Việt Nam…

Ninh Bình là điểm sáng của Chương trình OCOP
Sáng ngày 7/7/2025, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam chủ trì cuộc họp về tổ chức Diễn đàn trao đổi kinh nghiệm cấp cao giữa các khu vực về mô hình OCOP (Mỗi xã một sản phẩm).
Tại cuộc họp, TS. Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cho biết nhận được sự quan tâm và ủng hộ mạnh mẽ của Tổng Giám đốc Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) Khuất Đông Ngọc trong chuyến công tác tới Việt Nam hồi tháng 2/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường thống nhất phối hợp với FAO tổ chức Diễn đàn cấp cao trao đổi kinh nhiệm phát triển chương trình OCOP của Việt Nam và các nước trên thế giới.
"Diễn đàn trao đổi kinh nghiệm cấp cao giữa các khu vực về mô hình OCOP sẽ chính thức diễn ra vào ngày 15/7/2025. Đây là diễn đàn quy mô cấp Bộ trưởng, sẽ do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam chủ trì".
TS. Nguyễn Đỗ Anh Tuấn - Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế của Bộ Nông nghiệp và Môi trường.
"Về phía khách quốc tế, đến thời điểm này, đã có 14 Bộ trưởng của các nước châu Phi xác nhận sẽ đến tham dự, cùng với sự có mặt của đông đảo chuyên gia quốc tế”, ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn thông tin.
Theo Vụ trưởng, Diễn đàn sẽ tập trung vào 3 chủ đề chính: Giới thiệu kinh nghiệm của Việt Nam trong triển khai chương trình OCOP; Thảo luận cấp Bộ trưởng về đóng góp của OCOP cho Chuyển đổi hệ thống nông nghiệp và lương thực - thực phẩm theo hướng bền vững và có tính chống chịu; Đối thoại về tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ và các sáng kiến cho chuyển đổi hệ thống nông nghiệp và lương thực - thực phẩm.
Phiên thảo luận thứ hai kỳ vọng mở ra không gian chia sẻ kinh nghiệm và các bài học thành công cho phát triển chương trình OCOP, giúp tăng cường tiếp cận thị trường, thương mại và đầu tư, cũng như nâng cao dinh dưỡng của các sản phẩm đặc sản.
Ngoài ra, bên lề Diễn đàn sẽ có các phiên họp xã giao giữa các lãnh đạo Việt Nam và Bộ Nông nghiệp các nước châu Phi. Ngày 16/7/2025, đoàn công tác các Bộ trưởng châu Phi sẽ có chuyến đi thực địa tại tỉnh Ninh Bình, tới thăm Hợp tác xã Sinh Dược - mô hình OCOP gắn với du lịch cộng đồng, theo chuỗi giá trị từ vùng nguyên liệu đến sản xuất và Công ty CP sản xuất và thương mại Đại Long - cơ sở sản xuất cơm cháy lớn nhất và đầu tiên tại tỉnh.
Phát biểu chỉ đạo, Thứ trưởng Trần Thanh Nam nhận định: "Đối thoại cấp Bộ trưởng về chuyển đổi hệ thống lương thực - thực phẩm hay chương trình OCOP là vấn đề chung của khu vực nên Diễn đàn sẽ là cơ hội để các quốc gia châu Á và châu Phi học hỏi lẫn nhau từ các kinh nghiệm. Định hướng hiện nay của Bộ Nông nghiệp và Môi trường là tập trung vào việc hỗ trợ phát triển sản phẩm OCOP, bao gồm xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, và ứng dụng khoa học công nghệ".
Đồng thời, Thứ trưởng cũng nhấn mạnh việc tổ chức một cách hợp lý các gian hàng, trưng bày sản phẩm tại không gian Diễn đàn mang đậm đặc trưng của các làng nghề.
Thứ trưởng giao Trung tâm Xúc tiến thương mại nông nghiệp phối hợp tham gia chuẩn bị trưng bày các gian hàng, đảm bảo việc thiết kế và trình bày đúng mục tiêu, phản ánh rõ nét giá trị của sản phẩm OCOP. Thứ trưởng Trần Thanh Nam cũng giao các đơn vị phụ trách khảo sát, đảm bảo tổ chức các hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả và an toàn cho các đại biểu tham dự.