Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 9 tháng 5 năm 2025

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 9 tháng 5 năm 2025

 

Phát triển nông nghiệp xanh: Liên kết '5 nhà' phải trở thành chiến lược dài hạn

Để ngành nông nghiệp thực sự hiện đại hóa, tăng trưởng xanh, liên kết '5 nhà': nhà nước, ngân hàng, nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân phải trở thành một chiến lược dài hạn, thực chất, bền vững và hiệu quả.

Quang cảnh Diễn đàn "Doanh nghiệp đồng hành cùng nhà nông và phát triển bền vững năm 2025".

Yêu cầu cấp thiết

Theo Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, nông nghiệp luôn giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế quốc dân.

Năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đã đạt mức cao kỷ lục 62,5 tỷ USD, tăng 18,7% so với năm 2023, xuất siêu tiếp tục đạt mức kỷ lục mới 17,9 tỷ USD , tăng 46,8% .

Trong đó xuất khẩu nông sản chính 32,8 tỷ USD, tăng 22,4%; chăn nuôi 533,6 triệu USD, tăng 6,5%; lâm sản chính 17,28 tỷ USD, tăng 19,4%; thủy sản 10,07 tỷ USD, tăng 12,2%.

Đặc biệt, có 7 mặt hàng/nhóm mặt hàng xuất khẩu trên 3 tỷ USD (tăng 1 sản phẩm so với năm 2023).

Nhưng thực tế cũng cho thấy 90% nông dân Việt Nam canh tác trên quy mô dưới 1 ha, trong khi chỉ có khoảng 20% sản lượng nông sản có hợp đồng bao tiêu.

Rất nhiều trường hợp, nông dân “được mùa mất giá”, doanh nghiệp thì thiếu nguyên liệu chuẩn hóa, còn ngân hàng và nhà khoa học chưa thực sự tiếp cận được với người sản xuất.

Sự thiếu liên kết này khiến cả chuỗi giá trị dễ bị đứt gãy, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu và cạnh tranh thương mại ngày càng gay gắt.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, mô hình liên kết 5 nhà đã dần được tái định hình, với những điểm sáng khẳng định hiệu quả rõ rệt. Từ một nền sản xuất manh mún, thiếu đầu ra ổn định, thiếu vốn và công nghệ, ngành nông nghiệp Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ – nhờ sự bắt tay chiến lược giữa 5 nhà: nhà nước, ngân hàng, nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân.

Vai trò then chốt của ngành nông nghiệp được ông Hồ Xuân Hùng- Chủ tịch Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam tiếp tục nhấn mạnh tại Diễn đàn "Doanh nghiệp đồng hành cùng nhà nông và phát triển bền vững năm 2025" với chủ đề “Phát triển nông nghiệp theo hướng xanh, bền vững và phát huy vai trò của 5 nhà: Nhà nước, Nhà băng, Nhà khoa học, Nhà doanh nghiệp và Nhà nông” được tổ chức ngày 8/5.

Ông Hồ Xuân Hùng, Chủ tịch Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.

Tuy nhiên, ông Hùng cũng cho biết, ngành nông nghiệp Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức lớn: biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên đất – nước, yêu cầu cao về chất lượng nông sản và sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế.

Trong bối cảnh đó, phát triển nông nghiệp xanh, bền vững không chỉ là xu thế tất yếu mà còn là yêu cầu cấp thiết nhằm đảm bảo sinh kế lâu dài cho nông dân, bảo vệ môi trường và giữ gìn tài nguyên cho thế hệ tương lai.

Ông Hồ Xuân Hùng cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết nối và thúc đẩy hợp tác giữa các chủ thể trong chuỗi giá trị nông nghiệp, đặc biệt là 5 nhà: nhà nước – nhà băng – nhà doanh nghiệp – nhà khoa học – nhà nông.

"Mỗi “nhà” trong 5 nhà đều có vai trò không thể thay thế. Nhưng chỉ khi cả 5 nhà cùng phối hợp, cùng trách nhiệm và cùng cam kết thì nông nghiệp Việt Nam mới có thể phát triển thực sự xanh và bền vững", ông Hồ Xuân Hùng khẳng định.

Đề xuất thành lập các quỹ đầu tư chuyên biệt cho nông nghiệp xanh

Theo PGS.TS. Luật sư Trần Văn Dũng- Chủ sở hữu Hãng luật Vũ MacKenzie Việt Nam (VMK), trong thời gian qua, ngành ngân hàng đã đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy tín dụng phục vụ lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn.

Theo Luật sư Trần Văn Dũng, nhà nước cần tạo ra các cơ chế tín dụng ưu đãi, giúp nông dân và doanh nghiệp có thể vay vốn với lãi suất thấp, hạn mức vay linh hoạt, và thời gian vay dài hạn. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các mô hình sản xuất nông nghiệp xanh và bền vững, khi vốn đầu tư ban đầu có thể cao hơn so với các mô hình sản xuất truyền thống.

Đáng chú ý, ông Dũng cũng đề xuất thành lập các quỹ đầu tư chuyên biệt nhằm hỗ trợ các dự án nông nghiệp xanh, bao gồm việc phát triển giống cây trồng, vật nuôi có khả năng chống chịu biến đổi khí hậu, hoặc các công nghệ canh tác mới giúp giảm thiểu ô nhiễm và sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn.

Bên cạnh đó, tín dụng vi mô thông qua hợp tác giữa ngân hàng, tổ chức tín dụng địa phương và các nền tảng fintech sẽ là giải pháp hiệu quả cho các hợp tác xã và nông hộ nhỏ.

TS. Phùng Hà- Chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam.

Tại diễn đàn, TS. Phùng Hà- Chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam cho biết, nông nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu, mặt khác ngành nông nghiệp cũng phát thải khí nhà kính nhiều thứ hai sau ngành năng lượng sinh ra từ các quá trình sản xuất và sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, quản lý đất, trồng lúa nước... ảnh hưởng đến nông nghiệp xanh.

Với định hướng “xanh hóa” ngành phân bón, TS. Phùng Hà nhấn mạnh, giảm thiểu phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp nói chung và ngành phân bón nói riêng là nhiệm vụ quan trọng để ứng phó với biến đổi khí hậu. Giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trong ngành phân bón bao gồm cả lĩnh vực sản xuất và sử dụng phân bón.

Chuyên gia này cho biết, nhiều công ty sản xuất urea trên thế giới và tại Việt Nam đã thu hồi CO2 từ khí thải trong quá trính sản xuất dùng để sản xuất urea. Đơn cử như, FVFCCo và PVCFC mỗi năm thu hồi được 40.000 tấn CO2.

"Song hành với việc sử dụng phân bón hợp lý, việc nghiên cứu, phát triển các dòng sản phẩm phân bón thế hệ mới, vừa đáp ứng nhu cầu phân bón cho sản xuất nông nghiệp xanh, vừa giúp tăng năng suất và chất lượng nông sản cũng như giúp bảo vệ môi trường, giảm phát thải chính là một hướng tiếp cận cần được tăng cường phát triển", TS. Phùng Hà nói.

Theo ông Đào Duy Nam- Phó Giám đốc Khu vực Miền Bắc, Ngân hàng Nam Á, việc xây dựng một hệ sinh thái nông nghiệp hiện đại, bền vững và có khả năng chống chịu là trách nhiệm không chỉ của người nông dân mà còn của doanh nghiệp – đặc biệt là các tổ chức tài chính.

Đại diện đơn vị này cũng chia sẻ ba định hướng lớn mà ngân hàng này theo đuổi gồm: phát triển tài chính toàn diện và tín dụng xanh; chuyển đổi số cho nông dân qua hệ sinh thái ngân hàng mở; kiến tạo chuỗi liên kết giá trị giữa nông dân - doanh nghiệp - ngân hàng - thị trường.

Tại diễn đàn, các chuyên gia cũng thống nhất quan điểm, để ngành nông nghiệp thực sự hiện đại hóa, tăng trưởng xanh, liên kết 5 nhà không chỉ là một mô hình – mà phải trở thành chiến lược dài hạn, thực chất, bền vững và hiệu quả.

Thu Hiền

 

Trợ lực nông dân vượt khó làm giàu

Những năm qua, Phong trào 'Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững' trên địa bàn tỉnh ngày càng phát huy hiệu quả tích cực. Thể hiện rõ vai trò là cầu nối, chỗ dựa tin cậy của hội viên, các cấp Hội Nông dân (HND) trên toàn tỉnh đã đồng hành, hỗ trợ hội viên triển khai hiệu quả nhiều hoạt động, cách làm, mô hình mới giúp hội viên nông dân phát triển kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền vững.

Nhờ chăm sóc đúng kỹ thuật, những vườn ổi ở xã Hoàng Xá, huyện Thanh Thủy cho hiệu quả kinh tế cao.

“Điểm tựa” vững chắc

Năm 2023, từ định hướng xây dựng các mô hình kinh tế tập thể gắn với phát triển nông nghiệp hàng hóa, Chi hội trồng trọt xã Hoàng Xá, huyện Thanh Thủy được thành lập với 15 thành viên. Ngay sau khi thành lập, Chi hội đã nhận được sự hỗ trợ của HND tỉnh với 1.800kg phân bón cùng khoản vay 300 triệu đồng từ Quỹ Hỗ trợ nông dân huyện triển khai dự án “Nâng cao chất lượng ổi quả”. Từ kết quả khả quan bước đầu, năm 2024 HND huyện chỉ đạo HND xã phát triển mô hình và thành lập Hợp tác xã (HTX) nông nghiệp và dịch vụ xã Hoàng Xá. Đồng thời, tổ chức tập huấn kỹ thuật thâm canh cây ổi theo hướng an toàn và quy trình VietGAP; đồng hành, hướng dẫn HTX lập hồ sơ, thủ tục chứng nhận OCOP cho quả ổi Hoàng Xá.

Đồng chí Đào Công Hoàng - Chủ tịch HND xã Hoàng Xá cho biết: “Với mục tiêu tiếp sức cho hội viên phát triển sản xuất bền vững, năm 2024, HTX tiếp tục được Quỹ Hỗ trợ nông dân tỉnh hỗ trợ vật tư, phân bón và giải ngân 500 triệu đồng cho 10 hộ vay vốn. Ngoài ra, HND huyện cũng quay vòng nguồn quỹ 300 triệu đồng cho 6 hộ vay chăm sóc, nâng cao chất lượng vườn ổi. Nhờ đó, diện tích trồng ổi của HTX đã tăng từ 10ha lên hơn 14ha. Chính quyền, HND xã đang xây dựng kế hoạch tổ chức các chuyến tham quan học tập kinh nghiệm ở các tỉnh để nâng cao trình độ sản xuất cho các hội viên”.

Nhiều năm nay, táo xanh được xem là cây trồng lợi thế của huyện Thanh Sơn, trong đó chủ lực ở xã Lương Nha, nổi bật là mô hình trồng táo xanh của HTX rau, củ, quả Lương Nha. Song hành với hỗ trợ kỹ thuật, HND các cấp đã đặc biệt quan tâm đến việc tháo gỡ khó khăn về vốn cho hội viên. Năm 2024, Quỹ Hỗ trợ nông dân tỉnh đã giải ngân 400 triệu đồng cho 10 hội viên đầu tư cải tạo đất, xây dựng hệ thống tưới nước và mở rộng diện tích trồng táo... Đưa chúng tôi tham quan vườn táo xanh của các hộ dân trong HTX, anh Lê Thành Đông - Giám đốc HTX rau, củ, quả Lương Nha chia sẻ: “Hơn 20 năm bén rễ ở đồng đất Lương Nha, chất lượng, hiệu quả kinh tế của quả táo xanh đã được khẳng định. Nhờ sự hỗ trợ của HND và chính quyền địa phương về vốn và kỹ thuật, các thành viên HTX đã mạnh dạn mở rộng quy mô, từng bước nâng cao thu nhập; thương hiệu táo Lương Nha ngày càng được nhiều người tiêu dùng biết đến”. Sản phẩm táo Lương Nha luôn được thương lái đặt mua ngay tại vườn, giá bán ổn định từ 35.000 - 40.000 đồng/kg, mang lại thu nhập trung bình cho mỗi hộ từ 200 - 250 triệu đồng/năm.

HND huyện Thanh Sơn hiện có 13 chi hội nghề nghiệp, 24 tổ hội nghề nghiệp, 21 tổ hợp tác, 38 HTX với trên 17.400 hội viên. Xác định các hoạt động hỗ trợ nông dân là một trong những chương trình trọng tâm, các cấp HND trong huyện đã tập trung đổi mới, nâng cao hiệu quả các hoạt động tư vấn, hỗ trợ, dịch vụ, đào tạo nghề cho nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh. Cùng với đó, Hội tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động, quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn Quỹ Hỗ trợ nông dân nhằm giúp hội viên có điều kiện phát triển kinh tế, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, giảm nghèo.

Cùng với ổi Hoàng Xá, táo xanh Lương Nha, nhiều nông sản tiêu biểu của tỉnh như: Tương nếp truyền thống Tân Đức, gà đồi Lam Sơn, thịt thính xứ Mường, gạo nếp Quạ đen, gạo nếp Gà gáy Mỹ Lung... ngày càng phát triển, nâng cao chất lượng, giá trị, sức cạnh tranh cao nhờ sự tiếp sức kịp thời từ HND.

Sản phẩm OCOP của các hội viên nông dân tham gia các phiên chợ quảng bá, xúc tiến thương mại trên địa bàn tỉnh.

Đòn bẩy cho sản xuất nông nghiệp bền vững

Những năm qua, Quỹ Hỗ trợ nông dân là một trong những nguồn tín dụng quan trọng trợ giúp nông dân Phú Thọ phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nâng cao thu nhập. Hiện nay, tổng nguồn vốn Quỹ Hỗ trợ nông dân các cấp trên địa bàn tỉnh đạt gần 60 tỷ đồng cho vay 237 dự án với 1.563 hộ vay. Trong đó nguồn vốn Quỹ Hỗ trợ nông dân Trung ương ủy thác là 15,5 tỷ đồng; nguồn vốn cấp tỉnh 21 tỷ đồng; nguồn vốn cấp huyện 21 tỷ đồng. Các cấp HND đã phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Chính sách xã hội tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình tín dụng cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách trên địa bàn. Tổng dư nợ các chương trình tín dụng là gần 1.900 tỷ đồng; quản lý gần 980 tổ tiết kiệm và vay vốn với trên 31.400 thành viên tham gia vay vốn.

Đồng chí Hà Thị Thanh Hương- Chủ tịch HND huyện Thanh Thủy cho biết: Phát huy vai trò “điểm tựa” cho các hội viên, HND huyện tiếp tục tập trung xây dựng, củng cố tổ chức hội vững mạnh. Đồng thời, thường xuyên phối hợp với HND tỉnh tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật cho hội viên. Đối với phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững, Hội sẽ vận động, hỗ trợ hội viên phát huy tiềm năng, xây dựng các sản phẩm OCOP trên địa bàn; liên kết với nhà sản xuất để tiêu thụ sản phẩm cho hội viên”.

Nhờ cơ chế, chính sách phù hợp của địa phương, sự hỗ trợ, tiếp sức kịp thời của Quỹ Hỗ trợ nông dân tỉnh và các nguồn vốn vay ưu đãi giúp nông dân trên địa bàn tỉnh vươn lên làm giàu, tạo việc làm cho nhiều lao động, nhiều hội viên đã vươn lên trở thành những hộ nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi, tạo việc làm cho nhiều lao động địa phương. Năm 2024, toàn tỉnh có trên 85.500 hộ đạt danh hiệu sản xuất, kinh doanh giỏi; 40 câu lạc bộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi được thành lập với 460 thành viên.

Cùng với đó, các cấp Hội chủ động thực hiện các hoạt động chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, phối hợp với các cơ quan tư vấn hỗ trợ, dạy nghề cho nông dân, cung cấp giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, hỗ trợ hội viên mua vật tư nông nghiệp, máy công cụ, phân bón trả chậm... Tổ chức nhiều chương trình hội nghị tập huấn hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, tạo sản phẩm OCOP năm 2024 cho gần 500 hội viên nông dân trên địa bàn các huyện: Cẩm Khê, Tam Nông, Thanh Sơn, Tân Sơn, Thanh Ba, Đoan Hùng; hỗ trợ, hướng dẫn xây dựng phát triển thương hiệu 6 sản phẩm OCOP: “Rượu gạo Nguyên Hương 19”, “Rau sắn chua” tại huyện Thanh Ba; “Mỳ gạo Cự Thắng” tại huyện Thanh Sơn; “Chè khô Tây Cốc” tại huyện Đoan Hùng; “Cá thính Phúc Sen” tại huyện Phù Ninh; “Nem chua Phước Duyên” tại huyện Cẩm Khê.

Đặc biệt, các cấp Hội đã tập trung đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ nông dân giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm. Mỗi năm tổ chức từ 3 - 5 “Phiên chợ quảng bá, xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu sản phẩm OCOP và Nông sản an toàn”, mỗi phiên chợ có từ 18 - 20 gian hàng với trên 100 sản phẩm OCOP và nông sản an toàn của các địa phương trong và ngoài tỉnh. Hỗ trợ trên 6.000 hộ nông dân đăng ký tài khoản trên sàn thương mại điện tử. Đến nay đã có hơn 100 sản phẩm được các cấp hội tư vấn, hỗ trợ xây dựng thương hiệu.

Đồng chí Lê Thị Quỳnh - Phó Chủ tịch HND tỉnh cho biết: “Trong thời gian tới, HND tỉnh sẽ tập trung nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ chuyên trách tại cơ sở, tạo điều kiện phát huy tối đa vai trò trong việc hỗ trợ hội viên. Hội sẽ tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ nguồn vốn vay để đảm bảo tính hiệu quả trong việc sử dụng, tránh tình trạng đầu tư không hiệu quả dẫn đến nợ xấu, nợ quá hạn; đẩy mạnh các chương trình chuyển giao khoa học kỹ thuật, áp dụng công nghệ cao vào sản xuất nông - lâm nghiệp, đặc biệt là sản xuất theo hướng hàng hóa. Việc định hướng và kết nối thị trường tiêu thụ nông sản cho nông dân sẽ là yếu tố then chốt, giúp hội viên không chỉ mở rộng sản xuất mà còn nâng cao giá trị sản phẩm. Qua đó, không chỉ giúp nông dân cải thiện thu nhập, tạo ra động lực mạnh mẽ để nhiều hội viên vươn lên, phát triển kinh tế gia đình bền vững”.

Ninh Giang

 

'Nhân đôi' giá trị nông sản nhờ gắn chặt sản xuất với chế biến

Với chủ trương trở thành một trong những trung tâm nông nghiệp công nghệ cao của cả nước, ngành nông nghiệp Bà Rịa - Vũng Tàu có nhiều chuyển biến mạnh mẽ trong công tác áp dụng khoa học kỹ thuật để phát triển đa dạng, phong phú các nguồn nguyên liệu kết hợp với ngành công nghiệp chế biến nhằm tạo ra những dòng sản phẩm có chất lượng cao, số lượng lớn và ổn định. Trong đó không thể không nhắc tới vai trò của các HTX tiên phong ứng dụng công nghệ cao, sản xuất sạch, nâng cao giá trị sản phẩm, tăng thu nhập cho thành viên và các hộ dân liên kết, góp phần vào công tác xóa đói, giảm nghèo.

Mới đây, đại diện nhiều HTX trên địa bàn TP. Phú Mỹ và huyện Châu Đức đã được tham gia các lớp tập huấn nâng cao kiến thức về an toàn thực phẩm (ATTP) trong sản xuất, chế biến. Nội dung của các lớp tập huấn là phổ biến Luật ATTP; các mối nguy về ATTP; bảo đảm ATTP trong chuỗi sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Đồng thời, hướng dẫn quy trình sản xuất an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, ứng dụng công nghệ cao, sản xuất theo chuỗi giá trị; kiến thức sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón; cách bảo quản, chế biến, hướng đến kinh tế xanh.

Thích ứng với biến đổi khí hậu

Trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, để cây nhãn phát triển bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu, nông dân đã áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm tiết kiệm chi phí, tăng năng suất.

Sản xuất sạch, thích ứng với biến đổi khí hậu là định hướng phát triển bền vững của ngành nông nghiệp Bà Rịa - Vũng Tàu.

Sở hữu vườn nhãn trái vụ diện tích 4ha, ông Trần Văn Xuyên, ấp Phú Lâm, xã Hòa Hiệp, huyện Xuyên Mộc cho biết, nhãn trái vụ thường được xử lý ra hoa từ tháng 11, 12 âm lịch và giai đoạn quan trọng để trái đạt chất lượng và năng suất là khoảng tháng 3-4. Giai đoạn này thường rơi vào mùa nắng nóng nên việc chăm sóc cũng phải kỹ lưỡng, trong đó quan trọng phải đủ nước cho cây phát triển.

“Tôi đã đầu tư hệ thống tưới phun tự động cho toàn bộ vườn nhãn được vài năm nay. Có hệ thống tưới này, tôi đã giảm được tiền điện, công tưới rất nhiều. Với 4ha nhãn này, nếu tưới thủ công mất 10 công, nhưng sử dụng hệ thống tưới phun chỉ mất khoảng 4 công. Việc đầu tư hệ thống tưới phun tự động còn giữ ẩm đất quanh gốc, giúp cây nhãn rụng hoa ít, ra trái ổn định”, ông Tuyên chia sẻ.

Thấy được hiệu quả của việc lắp hệ thống tưới phun tự động, ông Trương Đình Nam, cũng ở ấp Phú Lâm, đã đầu tư hệ thống này để tưới cho 1,7ha nhãn. Nhờ được cung cấp đủ nước, nhất là vào mùa khô, hoa nhãn bung đều, không bị rụng.

“Chỉ cần bật công tắc khoảng 30 phút, hệ thống tưới phun mưa đã tự động đáp ứng đủ nhu cầu nước cho các cây trồng trong nhà vườn, đơn giản và thuận lợi hơn rất nhiều so với cách làm cũ, đồng thời giúp cây phát triển tốt”, ông Nam hồ hởi nói.

Trên địa bàn xã Hòa Hiệp có hơn 400ha nhãn, chủ yếu là xuồng cơm vàng và nhãn Thái Ido, tập trung ở các ấp Phú Quý, Phú Sơn và Phú Lâm. Khu vực này thường xuyên phải chịu tác động bất lợi của biến đổi khí hậu. Các tháng mùa khô, nguồn nước tích trữ trong công trình thủy lợi và nguồn nước mặt, nước ngầm khô cạn. Để giảm thiểu tối đa tác động của việc thiếu nước, nông dân đã đẩy mạnh ứng dụng tưới tiên tiến, tiết kiệm nước giúp nâng cao năng suất cây trồng.

Theo tính toán của người trồng nhãn, việc áp dụng hệ thống tưới tiên tiến, tiết kiệm đã mang lại hiệu quả thiết thực đối với sản xuất nông nghiệp, giúp tăng năng suất cây trồng 6-15% so với canh tác truyền thống; đồng thời tiết kiệm 30-50% chi phí công lao động để tưới và chăm sóc, tiết kiệm 30-40% lượng nước so với phương pháp tưới truyền thống. Đặc biệt, đây là một trong những ứng dụng hiệu quả trong ứng phó với hạn hán, thiếu nước, biến đổi khí hậu.

Tăng giá trị từ chế biến sâu

Cuối tháng 3 vừa qua, HTX Bưởi da xanh Sông Xoài, TP. Phú Mỹ đã giới thiệu sản phẩm chế biến từ trái bưởi như mứt, nước bưởi lên men, bưởi xuất khẩu. Thời gian tới, HTX sẽ tiếp tục ra mắt thêm nhiều sản phẩm từ bưởi như tinh dầu bưởi, trà hoa bưởi, nhang bưởi. Đây là hướng đi mới của HTX nhằm nâng cao giá trị cho trái bưởi Sông Xoài đã được dày công xây dựng thương hiệu, đồng thời đạt chuẩn OCOP 4 sao cũng như có chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong và ngoài nước.

Các HTX và doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong liên kết theo chuỗi giá trị, gia tăng giá trị nông sản nhờ gắn với chế biến sâu.

HTX Bưởi da xanh Sông Xoài là một minh chứng về chế biến sâu sau thu hoạch là cách để gia tăng giá trị nông sản. Ngoài việc đẩy mạnh khâu liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ còn góp phần giải quyết đầu ra, tăng thu nhập cho nông dân trên cùng một diện tích, việc làm này đã được nhiều HTX, doanh nghiệp (DN), trang trại triển khai, bước đầu mang lại hiệu quả cao.

Có thể kể đến như sản phẩm chế biến sâu từ tiêu Bầu Mây của Công ty CP Nông nghiệp Thương mại Du lịch Bầu Mây (huyện Xuyên Mộc) như tiêu một nắng, tiêu sữa, tiêu không hạt... Ngoài ra, DN này còn có nhiều sản phẩm chế biến từ củ hoài sơn như sữa, bún, hoài sơn sấy lát. Các sản phẩm từ tiêu Bàu Mây đã xuất khẩu vào các thị trường yêu cầu cao về chất lượng như Nhật Bản, Mỹ, Úc, Singapore, Canada, Dubai.

Tại huyện Châu Đức, HTX Thương mại Dịch vụ Nông nghiệp Bà Rịa-Vũng Tàu tuy mới đi vào hoạt động từ tháng 5/2023 nhưng đã thực hiện hiệu quả mô hình liên kết với nông dân, DN xây dựng vùng nguyên liệu, thu mua trái ca cao tươi và hạt ca cao phơi khô lên men. HTX hiện có 3 sản phẩm: bột ca cao nguyên chất, chocolate đen và bột ca cao 3 trong 1 đã được công nhận OCOP 4 sao.

Theo khảo sát, nông sản Bà Rịa-Vũng Tàu thời gian qua với sự đầu tư công nghệ, liên kết sản xuất đạt chuẩn về an toàn thực phẩm đã xuất khẩu vào thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, EU. Tuy nhiên, hầu hết hàng xuất khẩu là sản phẩm tươi, chưa qua chế biến, do đó giá trị kinh tế mang lại chưa cao. Điều này cũng dẫn đến tình trạng thiếu tính ổn định về đầu ra…

Hiện nay, ngành nông nghiệp Bà Rịa-Vũng Tàu đang kêu gọi các DN vào cuộc, liên kết với nông dân, HTX hình thành chuỗi giá trị đối với nông sản chủ lực của tỉnh. Tỉnh cũng đang đầu tư phát triển vùng nông nghiệp công nghệ cao với diện tích khoảng 7.000ha, tạo nền tảng cho vùng nguyên liệu đáp ứng nhu cầu chế biến sâu. Cùng với đó là triển khai nhiều chính sách thúc đẩy công nghiệp chế biến theo chuỗi liên kết, gia tăng giá trị nông sản, giải quyết bài toán về thị trường tiêu thụ cũng như mở rộng thị trường xuất khẩu.

“Điểm tựa” giảm nghèo, làm giàu

Với nhiều giải pháp đồng bộ và thiết thực, công tác giảm nghèo của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã đạt được những thành tựu đáng tự hào, trở thành một điểm sáng của cả nước về giảm nghèo, nâng cao đời sống cho người dân trên địa bàn. Tính đến cuối năm 2024, tổng hộ nghèo theo chuẩn của tỉnh là 736 hộ, chiếm tỷ lệ 0,23% so với tổng số hộ dân; giảm 403 hộ so với đầu năm. Đây cũng là năm thứ 3 liên tiếp tỉnh không còn hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn quốc gia.

Toàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện đã có 40/40 xã đã đạt chuẩn nông thôn mới (NTM); 34/40 xã đạt chuẩn NTM nâng cao; 14/40 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu, đạt 35%; 7/7 đơn vị cấp huyện đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn NTM. Hiện nay, tỉnh đã hoàn chỉnh hồ sơ và đề nghị Thủ tướng Chính phủ xét, công nhận tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM năm 2025.

Thu nhập bình quân đầu người tại các xã xây dựng NTM là 80 triệu đồng/người/năm và 86 triệu đồng/người/năm đối với các xã xây dựng NTM nâng cao. Tính đến cuối tháng 3/2025, toàn tỉnh có 214 sản phẩm của 120 chủ thể được công nhận sản phẩm OCOP từ 3 sao trở lên (101 sản phẩm 4 sao, 113 sản phẩm 3 sao).

Lãnh đạo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cho biết, thời gian tới, tỉnh ưu tiên tập trung phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, cơ bản đồng bộ, đảm bảo kết nối nông thôn - đô thị. Đồng thời, ưu tiên giải pháp phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn. Tỉnh sẽ huy động các nguồn lực, lồng ghép các nguồn vốn đầu tư để tiếp tục triển khai thực hiện Chương trình xây dựng NTM trên địa bàn; phấn đấu đến năm 2030, toàn tỉnh có 100% số xã đạt chuẩn NTM nâng cao; 100% số huyện đạt chuẩn NTM nâng cao, trong đó huyện Long Đất đạt chuẩn NTM kiểu mẫu. Phấn đấu tiêu chuẩn hóa ít nhất 200 sản phẩm OCOP đạt tiêu chuẩn từ 3 sao trở lên, trong đó tập trung vào các sản phẩm chủ lực, đặc trưng và tiềm năng của tỉnh.

Nhằm thực hiện những mục tiêu lớn này, Bà Rịa - Vũng Tàu xác định việc phát triển khu vực kinh tế tập thể (KTTT), HTX là một trong những giải pháp căn bản và quan trọng. Hiện, toàn tỉnh có 113 HTX nông nghiệp và 1 liên hiệp HTX; tạo việc làm cho 2.318 lao động khu vực nông thôn. Năm 2025, tỉnh khuyến khích, vận động, hướng dẫn các hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi, nông dân xuất sắc làm nòng cốt, hạt nhân thành lập tổ hợp tác (THT), HTX nông nghiệp; phối hợp với các sở ngành, Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh hỗ trợ đào tạo nghề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng thương hiệu, đẩy mạnh chuyển đổi số trong sản xuất và phân phối hàng hóa.

Đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có 198 HTX, tạo việc làm ổn định cho hơn 4.845 lao động. Trong đó có 172 HTX đang hoạt động, lĩnh vực nông nghiệp chiếm đa số với 113 HTX. Tổng nguồn vốn hoạt động hơn 1.444 tỷ đồng, doanh thu ước đạt 980 tỷ đồng, lợi nhuận hơn 46 tỷ đồng, tăng 25,1% so với năm 2023...

Với mục tiêu củng cố, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động các HTX, THT nông nghiệp, tỉnh cũng sẽ tập trung rà soát, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức KTTT tiếp cận nguồn vốn tín dụng ưu đãi, các chính sách hỗ trợ về khoa học, công nghệ; kỹ năng tiếp thị và nghiên cứu thị trường, chính sách về thuế; xây dựng sản phẩm OCOP, tham gia xúc tiến thương mại, giúp các DN, HTX, THT tăng sức cạnh tranh trên thị trường, đáp ứng yêu cầu liên kết của đối tác.

Lãnh đạo Liên minh HTX tỉnh cho biết, để KTTT phát huy tiềm năng, lợi thế hơn trong năm 2025, Liên minh HTX tỉnh khuyến khích xây dựng mối liên kết giữa các HTX, THT với DN nhằm hỗ trợ nhau trong sản xuất, hạn chế rủi ro và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đồng thời, tiếp tục phối hợp với các sở, ngành, địa phương tham mưu UBND tỉnh ban hành chính sách hỗ trợ phát triển KTTT trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2025-2030; hướng dẫn, tư vấn HTX xây dựng phương án kinh doanh, tiếp cận được chính sách hỗ trợ của Nhà nước về vốn, khoa học kỹ thuật; nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý HTX; chủ động nghiên cứu, học tập kinh nghiệm các mô hình hay, đề xuất, nhân rộng ở địa phương mình.

Đức Nguyễn

 

HTX, nông dân Quảng Ninh chuyển mình nhờ đổi mới sáng tạo và sở hữu trí tuệ

Quảng Ninh không chỉ nổi danh với ngành công nghiệp than và du lịch biển đảo, mà nay còn nổi lên như một điểm sáng trong chuyển đổi nông nghiệp hiện đại, nhờ vào đổi mới sáng tạo và ứng dụng sở hữu trí tuệ.

Đáng chú ý, những mô hình HTX, tổ hợp tác kiểu mới đang trở thành hạt nhân thúc đẩy quá trình chuyển đổi nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, nâng cao sở hữu trí tuệ, từng bước đưa sản phẩm nông nghiệp Quảng Ninh vươn tầm trong nước và xuất khẩu.

Bước ngoặt thành công

Về xã Dương Huy, TP Cẩm Phả những ngày đầu tháng 5, dễ dàng cảm nhận được không khí tất bật của mùa thu hoạch nấm linh chi tại HTX Linh Chi Quảng Ninh. Trong gian nhà xưởng rộng hơn 500m², hàng ngàn bịch phôi nấm được xếp thẳng hàng ngay ngắn, tỏa ra mùi hương thảo mộc đặc trưng.

Nhìn vào những thành công đầy ấn tượng ở thời điểm hiện tại, ít ai biết, cách đây chưa lâu, những sản phẩm nấm của HTX mới chỉ dừng lại ở mức tiêu thụ nội địa, chưa có thương hiệu, chưa thể cạnh tranh.

“Mọi thứ thay đổi kể từ khi chúng tôi được hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu tập thể, đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ cho sản phẩm 'Nấm Linh Chi Quảng Ninh'. Khi có thương hiệu, người tiêu dùng tin tưởng hơn, đối tác cũng dễ tiếp cận hơn. Doanh thu HTX năm 2024 đã tăng hơn 40% so với năm trước,” ông Nguyễn Văn Dũng – Giám đốc HTX chia sẻ.

Nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh đang chuyển đổi mạnh mẽ, tăng cường sở hữu trí tuệ.

Không chỉ dừng lại ở bảo hộ thương hiệu, HTX Linh Chi còn đầu tư đổi mới quy trình nuôi trồng – sử dụng công nghệ vi sinh lên men sinh học trong quá trình sản xuất phôi, góp phần giảm thiểu rủi ro và tăng năng suất.

Năm vừa qua, HTX đã cung cấp ra thị trường hơn 15 tấn nấm các loại, trong đó một phần đã được xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc qua chuỗi liên kết với doanh nghiệp logistics ở TP Hạ Long.

Không chỉ là những trường hợp cá biệt, từ năm 2020 đến nay, tỉnh Quảng Ninh đã triển khai hàng chục đề án hỗ trợ doanh nghiệp, HTX và hộ nông dân đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, kiểu dáng bao bì, mã số mã vạch. Các địa phương như Đông Triều, Uông Bí, Cô Tô… đều có những sản phẩm OCOP được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, góp phần nâng cao giá trị nông sản.

Sáng tạo là con đường tất yếu

Đến nay, sở hữu trí tuệ không còn là khái niệm xa lạ, mà là chìa khóa mở cánh cửa cho nông nghiệp phát triển bền vững ở Quảng Ninh. Thời gian qua, tỉnh đã có chính sách hỗ trợ tới 100% kinh phí đăng ký nhãn hiệu đối với sản phẩm OCOP tiềm năng, đồng thời ưu tiên các mô hình có yếu tố đổi mới sáng tạo.

Một trong những mô hình tiêu biểu là HTX Sản xuất và Tiêu thụ Mật ong rừng Yên Tử (TP Uông Bí). Đây là đơn vị đầu tiên trong tỉnh mạnh dạn đưa công nghệ blockchain vào truy xuất nguồn gốc mật ong rừng, nhằm chống hàng giả và nâng cao niềm tin người tiêu dùng.

Nhờ mã QR định danh, mỗi lọ mật ong của HTX khi đến tay khách hàng đều kèm theo thông tin cụ thể về thời gian thu hoạch, vị trí tổ ong, đơn vị sản xuất…

“Chúng tôi từng mất đơn hàng xuất khẩu sang Nhật chỉ vì không chứng minh được nguồn gốc sản phẩm. Nay với blockchain, mọi thông tin đều minh bạch. Chúng tôi vừa ký được hợp đồng xuất khẩu hơn 3 tấn mật ong sang Osaka thông qua sàn thương mại điện tử,” bà Nguyễn Thị Hồng – Phó Giám đốc HTX phấn khởi nói.

Không chỉ đổi mới công nghệ, nhiều HTX còn đi đầu trong việc sáng tạo mô hình canh tác mới, kết hợp giữa nông nghiệp – du lịch – giáo dục. Tiêu biểu là HTX Nông nghiệp hữu cơ Quảng La (TP Hạ Long), nơi canh tác theo mô hình canh nông kết hợp giáo dục trải nghiệm.

“Khách du lịch, nhất là học sinh, sinh viên được trải nghiệm trồng rau, thu hoạch, làm nước ép rau má tại chỗ… Điều này không chỉ giúp tiêu thụ sản phẩm tại chỗ, mà còn nâng cao nhận thức về sản phẩm sạch. Chúng tôi cũng được hỗ trợ đăng ký bảo hộ cho mô hình ‘Trải nghiệm nông nghiệp Quảng La’ như một tài sản trí tuệ”, đại diện HTX chia sẻ.

Nhờ những bước đi sáng tạo, HTX Quảng La không chỉ phát triển bền vững mà còn trở thành điểm đến du lịch giáo dục được nhiều trường học lựa chọn. Sản phẩm rau củ của HTX hiện đã có mặt trong nhiều siêu thị lớn tại Hà Nội và Hải Phòng với mã QR truy xuất đầy đủ.

Các HTX khẳng định dấu ấn trong quá trình chuyển đổi nông nghiệp theo hướng hiện đại ở Quảng Ninh.

Có thể thấy các HTX, tổ hợp tác đang có những đóng góp tích cực trong quá trình chuyển đổi sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại, tăng cường sở hữu trí tuệ, đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp ở Quảng Ninh.

Đây là kết quả của các chính sách hỗ trợ thiết thực từ ban ngành tỉnh, địa phương, đặc biệt là sự đồng hành của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Quảng Ninh nhằm thúc đẩy khu vực kinh tế hợp tác, HTX phát triển mạnh mẽ, phù hợp với xu thế hiện đại và hội nhập.

Cần cơ chế dài hơi và đồng bộ

Dưới sự định hướng của Liên minh HTX Việt Nam và sự vào cuộc chủ động của Liên minh HTX tỉnh Quảng Ninh, các chính sách hỗ trợ không chỉ tập trung vào việc thành lập mới HTX mà còn hướng tới nâng cao chất lượng hoạt động và khả năng cạnh tranh của các đơn vị kinh tế hợp tác.

Một trong những điểm nhấn nổi bật là việc tăng cường hỗ trợ HTX ứng dụng chuyển đổi số. Thông qua hợp tác với các đơn vị chức năng, Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh đã tổ chức tư vấn, đào tạo, giúp các HTX từng bước ứng dụng phần mềm quản lý, sàn thương mại điện tử, và các giải pháp công nghệ trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Nhờ đó, nhiều HTX nông nghiệp đã từng bước tiếp cận thị trường rộng lớn hơn và nâng cao giá trị gia tăng.

Ngoài ra, các chương trình xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, hỗ trợ xây dựng thương hiệu cũng được triển khai đồng bộ. Liên minh HTX tỉnh Quảng Ninh tổ chức nhiều hội chợ, sự kiện quảng bá sản phẩm OCOP và đặc sản địa phương, giúp các HTX mở rộng đầu ra, nhất là trong bối cảnh thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt.

Đang có nhiều kết quả tích cực, song thực tế cho thấy, nhiều HTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh vẫn chưa tiếp cận hoặc chưa hiểu rõ giá trị của sở hữu trí tuệ. Một số HTX dù có sản phẩm tốt nhưng chưa đăng ký nhãn hiệu, dẫn đến dễ bị sao chép, mất thị phần.

Tỉnh Quảng Ninh đang hướng đến mục tiêu đến năm 2030, 100% sản phẩm OCOP chủ lực, sản phẩm của HTX nông nghiệp có đăng ký sở hữu trí tuệ, trong đó ít nhất 50% có ứng dụng công nghệ số trong quản lý chuỗi sản xuất và tiêu thụ.

Trong bức tranh nông nghiệp hiện đại của Quảng Ninh, những HTX kiểu mới như Linh Chi Quảng Ninh, Mật ong rừng Yên Tử hay Quảng La chính là những “hạt giống đổi mới” đang nảy mầm mạnh mẽ. Họ không chỉ làm nông nghiệp theo cách truyền thống, mà đang đưa chất xám, công nghệ và trí tuệ vào từng khâu sản xuất.

Từ việc đăng ký thương hiệu, bảo hộ sở hữu trí tuệ, truy xuất nguồn gốc đến ứng dụng công nghệ số, mô hình HTX đang thực sự trở thành “cánh tay nối dài” của quá trình chuyển đổi số và hiện đại hóa nông nghiệp ở Quảng Ninh.

Nam Phong

 

Liên kết làm nông nghiệp sạch, HTX giúp kinh tế nông thôn ở Tây Ninh ngày một khấm khá

Thời gian qua, trên địa bàn tỉnh Tây Ninh đang có nhiều chuyển biến trong công tác xóa đói giảm nghèo. Một trong những điểm nhấn thành công trong công tác này là việc nhiều HTX đã giúp người nông dân tham gia sản xuất nông nghiệp sạch, chủ động liên kết với các thành phần kinh tế khác để phát triển, tiêu thụ sản phẩm.

HTX dịch vụ nông nghiệp Phước Bình (thị xã Trảng Bàng) là một điển hình trong câu chuyện này. Thời gian qua, HTX liên kết với Tập đoàn Lộc Trời sản xuất lúa giống mới với diện tích 20 ha. Sản lượng sau thu hoạch bán lại cho Tập đoàn Lộc Trời hoặc thỏa thuận để lại cho thành viên HTX tiếp tục sản xuất lúa thương phẩm nhằm nâng cao năng suất, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống thành viên.

Liên kết sản xuất giúp nông dân thoát nghèo

Ngoài ra, HTX còn sản xuất lúa thương phẩm, liên kết với Công ty Lúa Vàng Việt sản xuất lúa OM 5451, OM 18 với tổng diện tích 174 ha; mỗi năm sản xuất 2 vụ. HTX còn liên kết với người dân ngoài thành viên HTX để mở rộng diện tích sản xuất, tạo tiền đề để mở rộng, kết nạp thành viên mới, tăng quy mô của HTX.

Liên kết trồng lúa đang giúp các HTX trên địa bàn tỉnh Tây Ninh đạt được những thành công mới, góp phần xóa đói giảm nghèo cho người dân.

Ông Cao Văn Thả- Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc HTX dịch vụ nông nghiệp Phước Bình cho biết, HTX được lựa chọn là một trong những mô hình HTX kiểu mới hiệu quả. Ngoài sản xuất lúa, HTX còn hoạt động dịch vụ cung ứng vật tư nông nghiệp và dịch vụ đầu mối bao tiêu nông sản cho thành viên. Mỗi năm, HTX cung cấp cho thành viên trên 156 tấn phân bón và các loại thuốc bảo vệ thực vật đáp ứng khâu đầu vào trong sản xuất; đồng thời hỗ trợ kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm cho thành viên mỗi năm gần 1 tấn.

Một HTX khác là HTX Giống cây trồng và Dịch vụ Nông nghiệp xã Bàu Đồn cũng là một điển hình trong câu chuyện này. Thời gian qua, HTX đã và đang khẳng định vai trò là một “cầu nối” vững chắc giữa người nông dân và các doanh nghiệp. Bằng việc chú trọng vào liên kết sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật và tạo ra nhiều cơ hội việc làm, HTX Bàu Đồn không chỉ nâng cao thu nhập cho các thành viên mà còn góp phần quan trọng vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, thay đổi diện mạo kinh tế - xã hội của địa phương.

Một trong những chiến lược then chốt của HTX là chủ động tìm kiếm và ký kết các hợp đồng liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản với các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu. Thông qua các hợp đồng này, HTX đảm bảo đầu ra ổn định cho sản phẩm của các thành viên với mức giá hợp lý, giúp người nông dân yên tâm sản xuất và có thu nhập bền vững.

Bên cạnh đó, HTX còn chú trọng đến việc cung cấp giống cây trồng chất lượng cao, được kiểm định rõ ràng, giúp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. HTX cũng tích cực phối hợp với các cơ quan khuyến nông, các nhà khoa học để chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, hướng dẫn người nông dân áp dụng các quy trình canh tác tiên tiến, giảm chi phí và tăng hiệu quả kinh tế.

Một thành viên của HTX, chia sẻ: “Trước đây, gia đình tôi thuộc diện hộ nghèo, cuộc sống rất vất vả. Từ khi tham gia HTX và canh tác theo hướng dẫn, lại có doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm, thu nhập của gia đình tôi đã ổn định hơn rất nhiều. Tôi đã có tiền để sửa sang nhà cửa và cho con cái đi học đầy đủ. Tôi rất biết ơn HTX đã giúp gia đình tôi thoát nghèo”.

Kinh tế tập thể ngày một vững mạnh

Nhờ sự nỗ lực, tận tâm trong phát triển KTTT, HTX của tỉnh, huyện và Liên minh HTX tỉnh Tây Ninh mà thời gian qua, khu vực HTX đã có những chuyển biến rõ rệt. Đến nay, trên địa bàn tỉnh Tây Ninh có 130 HTX nông nghiệp, trong đó có 31 HTX trồng trọt, 7 HTX chăn nuôi, 2 HTX nuôi trồng thủy sản, 10 HTX dịch vụ thủy lợi, 80 HTX nông nghiệp tổng hợp. Các HTX nông nghiệp từng bước trở thành mắt xích quan trọng trong phát triển chuỗi giá trị liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản, tiền đề quan trọng thúc đẩy hình thành các tổ hợp sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản quy mô vừa và nhỏ hướng đến quy mô lớn.

Nhờ chiến lược đúng đắn và sự hỗ trợ từ các chính sách phát triển nông nghiệp của tỉnh Tây Ninh, KTTT, HTX trên địa bàn ngày một phát triển. Ảnh BTN

Hiện nay, các chính sách hỗ trợ lĩnh vực kinh tế tập thể, HTX đã được tỉnh quan tâm, cụ thể hóa bằng nghị quyết để triển khai thực hiện thuận lợi hơn; các chính sách hỗ trợ lĩnh vực nông nghiệp cũng được lồng ghép để hỗ trợ tổ hợp tác, HTX trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế tập thể.

Ngày càng nhiều tổ hợp tác, HTX nỗ lực, khắc phục khó khăn, định hướng thành viên tham gia sản xuất nông nghiệp sạch theo mô hình VietGAP, nông nghiệp hữu cơ, chủ động liên kết với các thành phần kinh tế khác để phát triển, tiêu thụ sản phẩm.

Đơn cử như HTX Cây Ăn trái Bàu Đồn, huyện Gò Dầu, được thành lập vào năm 2020 với chỉ 32 thành viên, quản lý và canh tác trên diện tích 40 ha sầu riêng. Qua hơn ba năm hoạt động, HTX đã không ngừng phát triển và mở rộng quy mô, hiện nay có 62 thành viên với diện tích canh tác trên 115 ha.

Sản phẩm sầu riêng của HTX Cây Ăn trái Bàu Đồn đã đạt chứng nhận OCOP 4 sao, khẳng định chất lượng vượt trội và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt, HTX đã chủ động đăng ký vùng trồng và xây dựng mã QR nhãn hiệu cho sầu riêng.

Nhờ chiến lược đúng đắn và sự hỗ trợ từ các chính sách phát triển nông nghiệp của tỉnh Tây Ninh, HTX Cây Ăn trái Bàu Đồn đang trở thành một mô hình tiêu biểu, không chỉ nâng cao thu nhập cho nông dân mà còn góp phần đưa nông sản địa phương vươn xa trên thị trường.

Xóa đói giảm nghèo bền vững

Một điểm nữa rất đáng ghi nhận từ khu vực KTTT, HTX ở Tây Ninh là thời gian qua, khu vực này đang trở thành lực lượng nòng cốt trong công tác xóa đói giảm nghèo. Những HTX như trên chỉ là một vài trong số hàng trăm HTX đang phát triển mạnh mẽ, tạo công ăn việc làm và góp phần xóa đói giảm nghèo cho địa phương.

Dù đạt được nhiều thành tựu, các HTX nông nghiệp ở Tây Ninh vẫn đối mặt với một số thách thức, như thiếu vốn đầu tư dài hạn, khó khăn trong việc tiếp cận thị trường quốc tế và hạn chế về công nghệ sản xuất hiện đại.

Theo đó, tổng số hộ dân cư trên địa bàn tỉnh Tây Ninh năm 2024 là 324.906 hộ/1.179.989 người. Tổng số hộ nghèo, hộ cận nghèo qua rà soát là 1.486 hộ, chiếm 0,46% (giảm 597 hộ; giảm 0,19 % so với năm 2023), cụ thể: hộ nghèo có 334 hộ, chiếm 0,1% (giảm 178 hộ, giảm 0,06 % so với năm 2023); hộ cận nghèo có 1.152 hộ, chiếm 0,36% (giảm 419 hộ, giảm 0,13% so với năm 2023).

Theo Liên minh HTX tỉnh Tây Ninh, thời gian qua nhờ sự chỉ đạo và hỗ trợ từ phía Liên minh HTX Việt Nam, Liên minh HTX tỉnh đã hỗ trợ, đào tạo, định hướng cho khu vực HTX tỉnh phát triển. Theo đó, chất lượng nông sản hàng hóa của các HTX nông nghiệp ngày càng được nâng lên; sản phẩm bảo đảm an toàn thực phẩm, mẫu mã, bao bì phong phú; các HTX nông nghiệp đã thu hút được nhiều doanh nghiệp liên kết đầu tư; liên kết vùng nguyên liệu, phát triển thị trường, mở rộng sản xuất, thu hút được nhiều lao động ở nông thôn tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh.

Bên cạnh đó, đã hình thành và phát triển liên kết kinh tế giữa các HTX nông nghiệp với nhau và giữa HTX nông nghiệp với doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất. Đến nay, tỉnh có 94/130 HTX hoạt động có hiệu quả; có 30/130 HTX ứng dụng công nghệ cao; có 80/130 HTX tham gia chuỗi liên kết.

Tuy nhiên, thực tế khu vực HTX trên địa bàn vẫn còn nhiều việc phải làm, sự phát triển còn chưa được như kỳ vọng. Do đó, tỉnh Tây Ninh đặt ra các định hướng phát triển trong thời gian tới như: Tiếp tục hoàn thiện chính sách hỗ trợ, đặc biệt là các chính sách về đất đai, tín dụng và khoa học công nghệ để các HTX có đủ nguồn lực đầu tư và phát triển bền vững.

Tỉnh sẽ ưu tiên hỗ trợ các HTX chuyển đổi sang mô hình nông nghiệp thông minh, áp dụng công nghệ cao để nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm chi phí sản xuất. Các HTX cần hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp để xây dựng chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ, đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu thông qua việc đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.

Đức Anh

 

Nho Quan chuyển mình từ nông nghiệp sinh thái

Nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản, bắt nhịp thị trường tiêu dùng hiện đại, từ đó xóa đói giảm nghèo, làm giàu cho người dân, huyện Nho Quan (tỉnh Ninh Bình) đang đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sinh thái, an toàn, bền vững.

Những năm gần đây, thay vì canh tác nhỏ lẻ, manh mún, nhiều hộ nông dân ở Nho Quan đã bắt đầu tham gia vào các mô hình sản xuất theo chuỗi. Đặc biệt, các chuỗi liên kết với các HTX là cầu nối giữ vai trò hạt nhân trong sản xuất – tiêu thụ, nâng cao thu nhập cho người dân.

Từ đất dốc đến vườn quả tiền tỷ

Một trong những mô hình nổi bật là HTX Phú An (xã Văn Phong), thành lập năm 2013 với 8 thành viên, hoạt động trên diện tích 76 ha đồi dốc. Đến nay, HTX đã khẳng định được hiệu quả khi chuyển hướng sang trồng cây ăn quả, cây lâm nghiệp và chăn nuôi theo mô hình trang trại khép kín, đạt doanh thu trung bình hơn 5 tỷ đồng/năm.

Theo anh Lê Văn Chừng – đại diện HTX Phú An, ngay sau khi thành lập, HTX đã mạnh dạn cải tạo đất hoang hóa, trồng chuối tiêu hồng, thanh long ruột đỏ, dứa và một số cây lấy gỗ. Tuy nhiên, sau hai năm, trước biến động của thị trường, HTX linh hoạt chuyển hướng, mở rộng diện tích trồng thanh long ruột đỏ – loại cây có giá trị cao, phù hợp điều kiện canh tác và có thể nhân giống ngay tại chỗ.

Nông dân, HTX ở Nho Quan đang giàu lên nhờ sản xuất theo hướng hàng hóa.

“Chúng tôi không chỉ bán quả mà còn gây giống để cung cấp cho thành viên và các hộ liên kết, chủ động được nguồn giống chất lượng cao, tránh bị thương lái ép giá”, anh Chừng chia sẻ. Bên cạnh thanh long, HTX cũng mở rộng trồng cam, bưởi theo hướng hữu cơ, toàn bộ quy trình tuân thủ tiêu chuẩn VietGAP, thân thiện môi trường.

Đến nay, hơn 90% diện tích của HTX được canh tác hiệu quả, 100% diện tích cây ăn quả đạt tiêu chuẩn VietGAP và được bao tiêu sản phẩm, không còn cảnh nông dân “được mùa mất giá”.

Tương tự, HTX sản xuất na trái vụ và tiêu thụ trái cây an toàn Phú Long (xã Phú Long), được thành lập năm 2020 với 19 thành viên. HTX đã áp dụng quy trình VietGAP vào sản xuất, loại bỏ hoàn toàn các loại hóa chất độc hại, ưu tiên sử dụng phân bón hữu cơ và thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học.

“Nhờ canh tác theo quy trình sạch, quả na của HTX giữ được độ ngọt tự nhiên, mẫu mã đẹp và được thị trường ưa chuộng, giá bán cao gấp 1,5 – 2 lần so với trước đây”, ông Nguyễn Văn Quân – Giám đốc HTX chia sẻ.

Cánh tay nối dài của chương trình giảm nghèo

Không chỉ dừng lại ở cây ăn quả, tại xã Đồng Phong, HTX Công Nông nghiệp sạch Ninh Bình đã xây dựng vùng trồng ớt xanh và ớt chỉ thiên rộng hơn 12 ha. Áp dụng mô hình canh tác khép kín từ giống, phân bón đến thu hoạch và sơ chế, HTX không chỉ nâng cao năng suất mà còn tạo việc làm ổn định cho hàng chục lao động tại địa phương.

Đáng chú ý, nhiều HTX ở Nho Quan không chỉ dừng lại ở khâu sản xuất mà đã chủ động xây dựng thương hiệu, kết nối với thị trường tiêu thụ. Sản phẩm na Phú Long và ổi Đồng Phong hiện đã đạt tiêu chuẩn OCOP, được gắn tem truy xuất nguồn gốc, qua đó tạo được niềm tin với người tiêu dùng và được thương lái thu mua tận vườn.

Không những thế, các HTX còn tích cực tham gia hội chợ, triển lãm, chương trình xúc tiến thương mại, đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử, giúp gia tăng giá trị và mở rộng đầu ra. Đây là bước chuyển quan trọng, giúp nông sản Nho Quan “bước ra khỏi lũy tre làng” để tiếp cận các thị trường tiềm năng trong và ngoài nước.

Quá trình chuyển đổi sản xuất ở Nho Quan đang cho thấy hiệu quả tích cực, mang lại giá trị cao hơn cho nông dân, HTX.

Song hành với chuyển đổi sản xuất, huyện Nho Quan triển khai hiệu quả Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2022–2025. Các HTX không chỉ là đơn vị sản xuất mà còn trở thành “địa chỉ” hỗ trợ sinh kế, đào tạo nghề và tạo việc làm cho người dân, đặc biệt là các hộ nghèo và cận nghèo.

Trường hợp của bà Ngô Thị Tâm (thôn Đại Hòa, xã Xích Thổ) là một ví dụ tiêu biểu. Trước đây là hộ nghèo, năm 2022, bà Tâm được hỗ trợ một cặp bò sinh sản trị giá 30 triệu đồng từ dự án "Đa dạng hóa sinh kế, phát triển mô hình giảm nghèo". Được cán bộ nông nghiệp hướng dẫn kỹ thuật, bà đã chăm sóc bò sinh sản thành công, cải thiện thu nhập và vươn lên ổn định cuộc sống.

Đến nay, tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện giảm còn hơn 2%. Con số biết nói này thể hiện hiệu quả rõ rệt từ việc lồng ghép các chính sách, trong đó có vai trò quan trọng của các HTX trong tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân.

Sinh kế bền vững – nền tảng giảm nghèo

Một điểm nhấn trong quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân huyện Nho Quan là những đóng góp tích cực từ các HTX, tổ hợp tác, với vai trò đồng hành của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Ninh Bình.

Trong những năm gần đây, Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Ninh Bình đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ thiết thực nhằm thúc đẩy sự phát triển của các HTX trên địa bàn huyện Nho Quan, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Một trong những hoạt động nổi bật là việc hỗ trợ xây dựng mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị. Cụ thể, HTX sản xuất và chế biến nông sản Mai Anh tại xã Quỳnh Lưu đã được hỗ trợ phát triển mô hình sản xuất từ cây sen Nhật, bao gồm các sản phẩm như củ sen tươi hút chân không, trà củ sen, bột củ sen và trà lá sen. Sự hỗ trợ này đã giúp HTX nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, góp phần tăng thu nhập cho thành viên và tạo việc làm cho lao động địa phương.

Ngoài ra, để nâng cao năng lực công nghệ thông tin cho các xã thuộc huyện Nho Quan, Liên minh HTX tỉnh đã bàn giao máy vi tính cho UBND các xã trong khu vực. Đây là một phần trong chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, nhằm hỗ trợ các địa phương trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và điều hành.

Có thể nói, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng sinh thái ở Nho Quan đã tạo ra một làn sóng mới trong nền nông nghiệp của huyện. Việc kết hợp giữa phát triển sản xuất và bảo vệ môi trường không chỉ giúp nâng cao thu nhập cho người dân mà còn góp phần bảo tồn cảnh quan thiên nhiên, bảo vệ tài nguyên đất đai và nước, đảm bảo sức khỏe cho cộng đồng.

Những mô hình nông nghiệp sinh thái tại Nho Quan đã và đang chứng minh rằng, việc thay đổi tư duy sản xuất là con đường không chỉ giúp nâng cao giá trị kinh tế mà còn xây dựng nền nông nghiệp bền vững, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới. Nếu tiếp tục duy trì và phát triển mạnh mẽ, Nho Quan sẽ trở thành một điểm sáng trong phát triển nông nghiệp sinh thái của Ninh Bình và cả nước.

An Chi

 

Mở rộng nguồn vốn đầu tư lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn

Xác định nông nghiệp, nông thôn là một trong những lĩnh vực ưu tiên đầu tư vốn, tỉnh đã chỉ đạo các sở, ngành, tổ chức tín dụng trên địa bàn triển khai nhiều giải pháp đồng bộ nhằm mở rộng các chương trình hỗ trợ, ưu tiên đầu tư tín dụng đối với khu vực này. Qua đó không chỉ thúc đẩy tăng trưởng dư nợ bền vững, phát triển kinh tế hộ mà còn góp phần quan trọng trong quá trình xây dựng nông thôn ngày càng đổi mới, hiện đại, văn minh.

Nhờ nguồn vốn vay từ Agribank Chi nhánh Bình Xuyên, gia đình chị Nguyễn Thị Hà, thôn Thiếu Khanh, xã Hương Sơn (Bình Xuyên) đã mở rộng mô hình chăn nuôi, vươn lên làm giàu. Ảnh Nguyễn Lượng

Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách, tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

Hằng năm, tỉnh xây dựng kế hoạch dành nguồn vốn đầu tư công phân bổ cho các công trình, dự án trong lĩnh vực này. Đồng thời huy động nhiều nguồn lực đầu tư như vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi nước ngoài, tài chính vi mô, tín dụng ngân hàng…

Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước Khu vực 4 đã chỉ đạo các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh bám sát chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, định hướng phát triển của tỉnh tập trung cấp tín dụng hướng vào các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, điều hành lãi suất, tích cực triển khai các chương trình tín dụng ưu đãi với lãi suất điều chỉnh giảm cho cả ngắn hạn và trung hạn…

Chi nhánh Ngân hàng Chính sách Xã hội tỉnh luôn đồng hành, hỗ trợ người nghèo, cận nghèo và các đối tượng chính sách tiếp cận vốn vay ưu đãi, góp phần ổn định cuộc sống, vươn lên thoát nghèo. Ảnh: Ngọc Lan

Tính đến hết tháng 4/2025, dư nợ tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn trên toàn tỉnh đạt hơn 30 nghìn tỷ đồng, lãi suất cho vay ưu đãi thấp hơn so với các lĩnh vực khác, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận vốn.

Giai đoạn 2021 - 2025, tổng vốn đầu tư công trung hạn từ ngân sách cấp tỉnh thuộc phạm vi quản lý của Sở Nông nghiệp và Môi trường đạt gần 1.300 tỷ đồng, dự kiến phân bổ cho các lĩnh vực như trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp, thủy lợi, đê điều…

Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh đang thực hiện 2 dự án trong lĩnh vực nông nghiệp sử dụng vốn viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài. Điều này cho thấy, Vĩnh Phúc không chỉ dựa vào nguồn lực đầu tư công mà còn tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn từ các thành phần kinh tế khác, góp phần đa dạng hóa nguồn lực và nâng cao hiệu quả đầu tư trong lĩnh vực này.

Nhờ đó, ngành Nông nghiệp của tỉnh những năm qua liên tục tăng trưởng, sản xuất phát triển toàn diện và đúng hướng, cơ cấu cây trồng - vật nuôi chuyển dịch tích cực. Hàng loạt công trình hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật được đầu tư, làm cho nông thôn trên địa bàn tỉnh ngày càng đổi mới, hiện đại, văn minh…

Với tỷ trọng cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân thời gian qua luôn ở mức từ 65 - 70% tổng dư nợ, trên cơ sở đó, Agribank Chi nhánh Vĩnh Phúc thường xuyên điều chỉnh dư nợ cho vay ngắn hạn về mức tối đa không quá 10%/năm và dư nợ trung hạn về mức không quá 11%/năm, đồng thời giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp từ 1,5 - 2,5%/năm tùy từng kỳ hạn; nỗ lực đa dạng kênh dẫn vốn, đưa nguồn vốn tín dụng đến tận tay người dân.

Gia đình anh Nguyễn Đức Quyết, thôn Đại Lữ, xã Đồng Ích (Lập Thạch) đầu tư hàng tỷ đồng xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng VietGAP. Ảnh: Ngọc Lan

Tính đến hết tháng 4/2025, tổng dư nợ cho vay nền kinh tế của Agribank Chi nhánh Vĩnh Phúc đạt gần 17.500 tỷ đồng, góp phần tạo điều kiện để người dân tăng thu nhập, giảm nghèo.

Đại diện Agribank Chi nhánh tỉnh Vĩnh Phúc cho biết: Thực hiện chủ trương của Chính phủ về nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ ngân hàng phù hợp với nhu cầu, có chất lượng, nhất là dân cư ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, Agribank Chi nhánh Vĩnh Phúc tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các chính sách tín dụng đến người dân, linh hoạt triển khai các gói tín dụng ưu đãi, đa dạng các kênh dẫn vốn, tạo thuận lợi về thủ tục hành chính vay vốn cho khách hàng… Từ đó góp phần cải thiện đời sống của người dân, từng bước thay đổi bộ mặt nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại.

Kiên định mục tiêu hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và mở rộng nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực này, tỉnh tiếp tục huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong triển khai và đề xuất các cơ chế, chính sách đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn. Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ và chú trọng xây dựng, mở rộng các vùng sản xuất nông nghiệp quy mô lớn gắn với các sản phẩm chủ lực của tỉnh.

Phát triển các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ theo chuỗi giá trị. Tiếp tục huy động các nguồn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp như vốn đầu tư công, ODA, FDI… và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn hiện có. Đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư, đơn giản hóa thủ tục hành chính và triển khai các chính sách hỗ trợ kịp thời để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, đặc biệt là lĩnh vực có tiềm năng và lợi thế của tỉnh.

Yêu cầu các tổ chức tín dụng tiếp tục xây dựng và triển khai nhiều sản phẩm tín dụng phù hợp với người nông dân và đặc thù của sản xuất nông nghiệp; cải tiến quy trình, thủ tục, thời gian xét duyệt cho vay; kịp thời hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay vốn, như cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vay, tiếp tục cho vay mới khôi phục sản xuất...

Ngọc Lan

 

Khai thác tiềm năng du lịch nông thôn ở huyện Vĩnh Linh

Du lịch nông nghiệp, nông thôn đã và đang là xu hướng ngày càng phổ biến ở nhiều địa phương, trong đó có huyện Vĩnh Linh. Vĩnh Linh được xác định có nhiều tiềm năng về du lịch nông nghiệp, nông thôn để phát triển trước mắt cũng như lâu dài dựa trên cơ sở giá trị văn hóa truyền thống, môi trường cảnh quan khu vực nông thôn.

Khu du lịch sinh thái Rú Lịnh ngày càng thu hút nhiều du khách đến tham quan -Ảnh: N.T

Hoạt động thực tế từ du lịch cộng đồng, du lịch nông thôn trên địa bàn huyện Vĩnh Linh những năm trở lại đây cho thấy, người dân nắm bắt được làm du lịch hiệu quả là hướng đi thúc đẩy phát triển kinh tế và góp phần thay đổi diện mạo của các làng quê.

Như Phú Quý farm tại thôn Tiên An, xã Vĩnh Sơn được gia đình anh Bùi Minh Phú xây dựng trên diện tích hơn 1 ha. Khu du lịch sinh thái này bước đầu đưa vào hoạt động từ tháng 8/2024 với các dịch vụ: check in vườn hoa, khu vui chơi, dịch vụ cà phê, ẩm thực. Hiện nay gia đình anh Phú đang tiếp tục hoàn thành nhiều hạng mục khác tại khu du lịch như: hồ sen, bể bơi, vườn nông sản.

Anh Phú chia sẻ: “Từ dự định hình thành nên khu du lịch sinh thái cộng đồng, chúng tôi đầu tư số vốn ban đầu trên 1 tỉ đồng để từng bước triển khai. Tuy chưa hoàn thiện nhưng rất phấn khởi khi thời gian qua đã nhận sự ủng hộ từ nhiều khách hàng trong và ngoài tỉnh”.

Cảm nhận lần đầu đến tham quan tại Phú Quý farm, chị Nguyễn Thị Bích Thủy, du khách đến từ phường Đông Lương, thành phố Đông Hà cho hay: “Tôi thích không gian và không khí ở đây khi trải nghiệm các dịch vụ du lịch nông thôn. Chắc chắn sau này tôi sẽ quay trở lại cũng như giới thiệu thêm bạn bè, người thân cùng đến đây. Hy vọng tỉnh Quảng Trị sẽ có thêm nhiều khu du lịch như thế này”.

Để khuyến khích phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn, những năm qua, huyện Vĩnh Linh, các địa phương đã tích cực phối hợp hỗ trợ hộ dân, nhà đầu tư, doanh nghiệp trong tháo gỡ khó khăn liên quan, đặc biệt đối với những dự án quy mô lớn. Như dự án Khu du lịch sinh thái Rú Lịnh thuộc huyện Vĩnh Linh được UBND tỉnh Quảng Trị chấp thuận chủ trương đầu tư năm 2016, có tổng mức đầu tư 319,7 tỉ đồng.

Tuy nhiên do một số nguyên nhân, dự án bị chậm tiến độ và điều chỉnh chủ trương đầu tư. Trước những khó khăn và thực tế dự án bị chậm tiến độ, UBND huyện Vĩnh Linh đã kịp thời báo cáo lên cấp trên. UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ban, ngành xem xét, rà soát quy định để hướng dẫn nhà đầu tư hoàn thiện thủ tục pháp lý.

Ngày 22/11/2022, UBND tỉnh Quảng Trị quyết định chấp thuận điều chỉnh chủ trương đầu tư. Sau điều chỉnh, dự án có tổng mức đầu tư giảm còn 104,4 tỉ đồng; diện tích đất dự kiến sử dụng trên 137 ha. Đến tháng 8/2024, chủ đầu tư dự án tổ chức lễ khởi công xây dựng khu du lịch. Từ đó đến nay tiếp tục đẩy mạnh tiến độ triển khai dự án.

Chị Lê Thị Hà Giang, Công ty TNHH Thương mại - Du lịch Sông Hiền CNF cho biết thêm: “Dự án Khu du lịch sinh thái Rú Lịnh liên quan đến hoạt động rừng đặc dụng, rừng nguyên sinh. Do đó thủ tục bàn giao rừng gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, công ty được thuê đất năm 2017 thì đến năm 2019 Luật Lâm nghiệp thay đổi nên thủ tục dự án bị chậm. Vì vậy chính quyền địa phương và các đơn vị đã hỗ trợ rất lớn đối với dự án. Nhờ đó đến nay về xây dựng đạt khoảng 50%. Hy vọng đến năm 2027 khu du lịch hoàn thành 100%”.

Với sự đầu tư của các hộ gia đình, doanh nghiệp, địa phương và tạo điều kiện, hỗ trợ từ tỉnh, huyện, hiện nay tại huyện Vĩnh Linh đã có nhiều điểm du lịch nông nghiệp, nông thôn, cộng đồng, sinh thái thu hút khá lớn lượng du khách đến tham quan, trải nghiệm.

Tiêu biểu như: bãi tắm Cửa Tùng, bãi tắm Vĩnh Thái, Mũi Lay, Mũi Si, rừng nguyên sinh Rú Lịnh, Rú Đưng, Bàu Trạng, đồi cát Vĩnh Trung, khu sinh thái ẩm thực bàu Thủy Ứ, điểm du lịch sinh thái bến sông Sa Lung, trang trại Dfarm, Khải Mộc farm, Phú Quý farm... Từ đó góp phần tăng số lượng khách du lịch đến Vĩnh Linh trung bình mỗi năm đạt khoảng 70.000 lượt khách.

Dù đã hình thành những điểm đến thu hút du khách trong và ngoài tỉnh, tuy nhiên để khai thác đúng mức tiềm năng du lịch nông nghiệp, nông thôn, Vĩnh Linh xác định cần khắc phục những hạn chế, khó khăn, nhất là về hệ thống cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực làm du lịch theo hướng chuyên nghiệp. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý về lĩnh vực du lịch.

Tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng phát triển du lịch, phối hợp đẩy nhanh tiến độ một số dự án, công trình liên quan đến du lịch đang triển khai và đã được quy hoạch trên địa bàn... Với kết quả đáng khích lệ trong nỗ lực đa dạng loại hình du lịch tại địa phương và những định hướng phù hợp, hy vọng du lịch nông nghiệp, nông thôn nói riêng và du lịch huyện Vĩnh Linh nói chung sẽ có bước tiến mạnh mẽ hơn trong thời gian tới.

Nguyễn Trang

 

Làm giàu từ mô hình khuyến nông hiệu quả

Thực hiện chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ truyền thống, hiệu quả thấp sang sản xuất nông nghiệp đô thị, hiệu quả cao, công tác khuyến nông ở huyện Củ Chi được chú trọng. Nhiều mô hình khuyến nông đã phát huy hiệu quả và lan rộng, góp phần giúp nông nghiệp Củ Chi ngày càng phát triển, đời sống của người dân không ngừng nâng cao.

Cán bộ Trạm Khuyến nông huyện Củ Chi kiểm tra, đánh giá tốc độ sinh trưởng cây lan tại mô hình trồng lan của anh Nguyễn Hoàng Em. (Ảnh THẾ ANH)

Nhân rộng các mô hình

Dẫn chúng tôi đi thăm mô hình trồng lan của anh Nguyễn Hoàng Em (xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi), chị Đỗ Kim Hạnh, cán bộ Trạm Khuyến nông huyện Củ Chi cho biết: Đây là một trong ba hộ mà Trạm triển khai mô hình trình diễn trồng lan tiêu biểu trong năm nay. Với hai giống được nhập từ Thái Lan là dendrobium mini và dendrobium nắng, mô hình trồng lan của anh Nguyễn Hoàng Em được triển khai từ tháng 11/2024, tới nay, cây sinh trưởng tốt. Nhờ phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng và sự chăm sóc theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, hiện tại nhiều cây đã ra hoa bói.

Chị Hạnh chia sẻ: “Củ Chi đã triển khai nhiều mô hình trình diễn trồng lan trong những năm trước và thấy rằng, hiệu quả kinh tế đem lại cho người dân khá cao. Để được tham gia chương trình, các hộ phải đáp ứng được những tiêu chuẩn như diện tích sản xuất, khả năng tưới tiêu, chăm sóc và vốn đối ứng. Bà con được hỗ trợ 50% về giống ban đầu, được tham gia tập huấn kỹ thuật trồng và chăm sóc; đồng thời, hằng tuần cán bộ khuyến nông xuống tận vườn kiểm tra, đánh giá tình hình phát triển của cây, đưa ra những khuyến cáo kịp thời trong phòng ngừa sâu bệnh”. Chị Hạnh cũng cho biết thêm: Những giống lan được triển khai là dòng lan khỏe mạnh, dễ chăm sóc, siêng hoa, hoa đẹp và đang được người tiêu dùng ưa chuộng. Thời gian tới, địa phương sẽ tiếp tục triển khai một số mô hình tương tự để hỗ trợ bà con, giúp tăng năng suất và thu nhập.

Những năm gần đây, tình hình kinh tế gặp nhiều khó khăn, nhu cầu chơi lan của khách hàng cũng giảm, ảnh hưởng tới doanh thu của nhà vườn. Anh Nguyễn Hoàng Em bày tỏ: “Trước đây, chúng tôi đạt doanh thu khoảng 3-4 tỷ đồng/năm; từ năm ngoái tới giờ, kinh doanh gặp nhiều khó khăn, doanh thu giảm gần một nửa. Chúng tôi hy vọng với những giống lan này, cùng sự hướng dẫn tận tình của cán bộ khuyến nông, sắp tới nhà vườn sẽ cho ra những sản phẩm đẹp, đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng, nâng cao hiệu quả, thu nhập cho gia đình”.

Ở huyện Củ Chi, ngoài trồng lan, nghề nuôi cá cảnh cũng được nông dân phát triển mạnh, đem lại giá trị kinh tế cao. Gia đình anh Lê Trọng Thức (ấp Tiền, xã Tân Thông Hội) là một trong những hộ nuôi cá cảnh khá thành công. Anh Thức chia sẻ: Năm 2018, khi bắt đầu nuôi cá cảnh, gia đình anh gặp rất nhiều khó khăn: kinh nghiệm chưa có, nguồn vốn ít ỏi, đầu ra hạn chế. Thời gian gần đây, anh Thức được Trạm Khuyến nông của huyện hỗ trợ về giống, kỹ thuật và kết nối với các khách hàng cho nên việc nuôi cá của anh Thức thuận lợi hơn rất nhiều. Gia đình anh Thức hiện có khoảng 600 hồ nuôi, với 15 loại cá khác nhau, chủ lực là cá đĩa khoảng 60 nghìn con. Khi thấy hiệu quả kinh tế cao, anh Thức đã chia sẻ với bà con chung quanh để cùng làm giàu ngay trên mảnh đất quê hương mình.

“Nuôi cá đĩa đòi hỏi phải kỹ lưỡng, như chăm trẻ con vậy. Hiện nay, rất nhiều hộ gia đình ở đây đã thành công với mô hình nuôi cá này, thu nhập hàng tỷ đồng mỗi năm. Đây là loại cá được thị trường Mỹ và các nước châu Âu ưa chuộng, nhưng không phải nước nào cũng sản xuất được”, anh Thức cho biết.

Tăng cường chuyển giao tiến bộ kỹ thuật

Ông Lê Đình Chức, phụ trách Trạm Khuyến nông huyện Củ Chi cho biết: Trong thời gian qua, đơn vị đã thực hiện nhiều hoạt động khuyến nông, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân, đặc biệt là công tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật. “Chúng tôi đã tập trung đẩy mạnh việc chuyển giao các mô hình sản xuất tiên tiến, áp dụng công nghệ cao, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, kết hợp mô hình du lịch sinh thái trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản”, ông Chức chia sẻ.

Ngoài những mô hình sản xuất nêu trên, huyện Củ Chi đã triển khai thành công và nhân rộng một số mô hình điển hình khác như: trồng rau hữu cơ VietGAP, chăn nuôi heo bằng đệm lót sinh học, nuôi cá tuần hoàn RAS… Các lớp tập huấn, hội thảo đầu bờ, trình diễn mô hình được tổ chức thường xuyên, giúp nông dân tiếp cận kỹ thuật mới một cách trực quan, dễ hiểu. Đồng thời, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong khuyến nông cũng được chú trọng. Người nông dân đã biết sử dụng mạng xã hội như Zalo, Facebook, hoặc các ứng dụng hỗ trợ kỹ thuật. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai còn gặp một số khó khăn. Trình độ tiếp nhận công nghệ của một bộ phận nông dân còn hạn chế, nhất là nông dân lớn tuổi; một số tiến bộ kỹ thuật cần vốn đầu tư ban đầu lớn, khiến nông dân còn e dè trong việc áp dụng. Ngoài ra, nguồn nhân lực khuyến nông mỏng, kiêm nhiệm nhiều công việc, do đó việc theo dõi, hỗ trợ bà con nông dân sau khi chuyển giao chưa được sâu sát…

Trong thời gian tới, huyện Củ Chi sẽ đẩy mạnh chuyển giao tiến bộ kỹ thuật gắn với nhu cầu thực tế; đồng thời, phối hợp với các viện, các trường đại học, các doanh nghiệp để xây dựng các mô hình điểm. Huyện sẽ chú trọng đào tạo kỹ năng mềm, tư duy sản xuất theo chuỗi giá trị cho nông dân; tăng cường ứng dụng chuyển đổi số trong khuyến nông như: xây dựng hệ thống tư vấn trực tuyến, thư viện kỹ thuật số… nhằm nâng cao hiệu quả và tính bền vững trong chuyển giao. Nhờ phát triển nông nghiệp đúng hướng, đời sống người dân Củ Chi ngày càng được nâng cao. Hiện nay, trên địa bàn huyện không còn hộ nghèo theo chuẩn nghèo của Thành phố.

VƯƠNG LÊ

 

Gieo giá trị, gặt niềm tin giữa đại ngàn Tây Bắc

Cây chia bén rễ trên đất Than Uyên, mở hướng phát triển nông nghiệp bền vững vùng Tây Bắc, gắn chuỗi giá trị và đồng hành cùng doanh nghiệp.

Bắt đầu từ một giống cây lạ…

Câu chuyện cây chia ở Than Uyên, Lai Châu không phải là một hiện tượng nhất thời, đằng sau đó là cả một quá trình hoạch định chiến lược, sự cam kết đồng hành lâu dài của chính quyền địa phương, doanh nghiệp và người nông dân.

Cây chia là loài thực vật thuộc họ bạc hà, có nguồn gốc từ vùng Nam Mỹ, nổi tiếng với khả năng chịu hạn tốt, thích nghi với đất đai khô cằn và khí hậu nhiệt đới gió mùa. Lá cây nhỏ, thuôn dài, mọc đối xứng; hoa màu tím nhạt, kết thành bông mảnh. Điều kỳ diệu nằm ở hạt chia, loại hạt nhỏ li ti nhưng nổi bật với hàm lượng dinh dưỡng cao, giàu chất xơ, protein thực vật, omega-3 và các khoáng chất. Trong bối cảnh người tiêu dùng hiện đại ngày càng ưa chuộng thực phẩm tốt cho sức khỏe, hạt chia nhanh chóng trở thành “siêu thực phẩm” toàn cầu.

Từ tháng 5/2024, mô hình trồng chia hữu cơ được chính thức triển khai tại huyện Than Uyên, với sự phối hợp của UBND huyện, Trung tâm Chuyển giao công nghệ và Hợp tác xã Nhà Xanh Toàn Cầu. Theo đó, HTX đảm nhận toàn bộ quy trình, từ khâu cung cấp giống, chuyển giao kỹ thuật canh tác đến bao tiêu sản phẩm với mức giá ổn định.

Từ tháng 5/2024, mô hình trồng chia hữu cơ được chính thức triển khai tại huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu. Ảnh: Ngọc Hoa

Trao đổi với Báo Công Thương, bà Vũ Thị Thanh Huyên, Đại diện HTX Nhà Xanh Toàn Cầu cho biết, HTX không đơn thuần chỉ thu mua sản phẩm, mà đầu tư ngay từ gốc, từ khâu chọn giống đến kiểm soát chất lượng, đảm bảo đầu ra và quan trọng nhất là hỗ trợ bà con xây dựng thương hiệu riêng cho từng sản phẩm bản địa.

“Chúng tôi không làm thay bà con, chúng tôi đồng hành để bà con làm chủ. Khi và chỉ khi người dân tộc thiểu số sở hữu thương hiệu của chính mình, họ mới giữ được giá trị bền vững cho nông sản vùng cao”, đại diện HTX Nhà Xanh Toàn Cầu chia sẻ.

…đến hành trình hình thành thương hiệu bản địa

Nếu coi thương hiệu là phần “hồn” của sản phẩm, thì mô hình trồng chia ở Than Uyên là minh chứng rõ nét cho tư duy phát triển nông nghiệp theo chiều sâu. Theo đó, HTX Nhà Xanh Toàn Cầu đang đầu tư đúng trọng tâm: làm cho sản phẩm không chỉ có giá, mà có giá trị. Và thương hiệu ChicoChia chính là sự kết tinh của một chuỗi giá trị đã được chuẩn hóa.

Sau 12 năm nghiên cứu, các nhà khoa học của Hợp tác xã Nhà Xanh Toàn Cầu đã chọn lọc thành công giống cây chia thuần chủng, phù hợp với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng Việt Nam. Từ giống cây ấy, HTX phát triển thành chuỗi sản phẩm mang thương hiệu ChicoChia như Omega3, bột dinh dưỡng từ hạt chia, bột dinh dưỡng từ lá non, trà túi lọc,….phục vụ nhu cầu tiêu dùng hiện đại. Mỗi sản phẩm đều được đầu tư từ bao bì, mã QR truy xuất nguồn gốc đến chiến dịch truyền thông số, tạo cầu nối trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu dùng.

Không chỉ phục vụ thị trường trong nước, HTX Nhà Xanh Toàn Cầu đặt mục tiêu xuất khẩu sản phẩm chia sang các thị trường cao cấp như Singapore, Hàn Quốc và châu Âu. Tuy nhiên, để làm được điều này, vấn đề kiểm định chất lượng, xây dựng thương hiệu quốc tế, đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm của châu Âu, Hoa Kỳ là điều bắt buộc”, bà Vũ Thị Thanh Huyên cho biết thêm.

Bà Vũ Thị Thanh Huyên, Đại diện HTX Nhà Xanh Toàn Cầu. Ảnh: Ngọc Hoa

Phát triển vùng bắt đầu từ tư duy thị trường

Ông Nguyễn Văn Thăng, Chủ tịch UBND huyện Than Uyên cho biết, huyện xác định cây chia là bước đi mới trong chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp vùng cao. “Cây chia là cơ hội thay thế các cây trồng kém hiệu quả, giúp người dân chuyển dịch cơ cấu cây trồng, nâng cao thu nhập, góp phần xây dựng nông thôn mới và phát triển nền nông nghiệp theo hướng hữu cơ, sinh thái và bền vững”, ông Nguyễn Văn Thăng nhấn mạnh.

Thay vì tiếp cận theo hướng “trợ giúp” hay “hỗ trợ thoát nghèo”, mô hình cây chia là một cách tiếp cận thị trường rất rõ ràng. Có sản phẩm, có tiêu chuẩn, có đơn vị bao tiêu, có thương hiệu và đặc biệt, có nhu cầu thật từ thị trường trong nước và quốc tế.

Tỉnh Lai Châu đã vào cuộc tích cực, hỗ trợ HTX đưa sản phẩm tham gia hội chợ, kết nối với hệ thống thương mại điện tử, truyền thông sản phẩm OCOP… Đây chính là cách tiếp cận thực tế, định hướng đúng và đi thẳng vào trọng tâm. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đang xây dựng các nền tảng số cho sản phẩm nông nghiệp đặc sản, với mục tiêu không để sản vật vùng cao đứng ngoài làn sóng chuyển đổi số.

Câu chuyện cây chia ở Than Uyên không chỉ là câu chuyện về một loại cây mới. Đó là hình mẫu cho mô hình phát triển nông nghiệp bền vững, có thiết kế chuỗi giá trị, có sự đồng hành từ doanh nghiệp đến địa phương, và đặc biệt có thị trường đón đợi.

Từ Than Uyên, một tư duy mới về phát triển vùng đã khởi sắc. Và từ một hạt giống nhỏ bé, cây chia đang gieo mầm cho một tư duy về phát triển bền vững, nơi sản vật bản địa không chỉ được giữ gìn, mà còn được nâng tầm và lan tỏa bằng chính giá trị nội tại.

Điều kỳ diệu nằm ở hạt chia, loại hạt nhỏ li ti nhưng nổi bật với hàm lượng dinh dưỡng cao, giàu chất xơ, protein thực vật, omega-3 và các khoáng chất. Trong bối cảnh người tiêu dùng hiện đại ngày càng ưa chuộng thực phẩm tốt cho sức khỏe, hạt chia nhanh chóng trở thành “siêu thực phẩm” toàn cầu.

Thiên Kim

 

Khởi nghiệp từ cây rau má: Hành trình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao của thanh niên Hà Nam

Tại xã Thanh Phong, huyện Thanh Liêm (Hà Nam), một mô hình nông nghiệp trồng rau công nghệ cao đang thu hút sự quan tâm của cộng đồng địa phương. Với lựa chọn cây rau má làm điểm bắt đầu cho hành trình khởi nghiệp, mô hình này đã đặt nền tảng từ công nghệ, sự sáng tạo và bản lĩnh dám nghĩ, dám làm của người trẻ.

Từ kỹ sư đến nông dân thời 4.0

Anh Cao Thành Công (sinh năm 1995) theo học ngành kỹ thuật nhiệt lạnh, đã từng có công việc ổn định tại Hà Nội. Tuy nhiên, biến cố về sức khỏe khiến anh quyết định trở về quê hương, bắt đầu lại từ con số không với một lĩnh vực hoàn toàn mới - nông nghiệp.

Tình cờ tiếp cận với mô hình thủy canh từ một chương trình khuyến nông, anh Công bắt đầu mày mò từ những cây trồng đơn giản nhất. Anh đã lựa chọn cây rau má - loại cây tưởng chừng dân dã, phổ biến làm “đối tượng” thử nghiệm, với hy vọng sẽ tạo nên một mô hình sản xuất nông sản sạch, ổn định và dễ nhân rộng.

Mô hình rau má thủy canh tại nhà màng công nghệ cao của anh Cao Thành Công.

Điểm đặc biệt của mô hình không nằm ở quy mô, mà ở cách tổ chức. Năm 2023, gia đình anh Công quyết định đầu tư khoảng 500 triệu đồng, xây dựng hệ thống nhà màng công nghệ cao với tổng diện tích hơn 300m2, lắp đặt hơn 10.000 rọ nhựa trên 6 kệ chữ A và 1 kệ bán chữ A. Mô hình được thiết kế bài bản, toàn bộ cây rau má được trồng trong nhà màng theo hình thức thủy canh hồi lưu, sử dụng phân bón dinh dưỡng hữu cơ thay cho đất.

Với phương thức canh tác truyền thống, người nông dân thường phải đối diện với nhiều yếu tố ngoài tầm kiểm soát như thời tiết khắc nghiệt, chất lượng đất và nguy cơ sâu bệnh, mô hình thủy canh rau má của anh Cao Thành Công đã khắc phục được những vấn đề này nhờ ứng dụng công nghệ hiện đại.

Anh Cao Thành Công thu hoạch rau má thủy canh.

Mô hình được xây dựng với hệ thống kiểm soát nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng và lượng nước tự động qua các thiết bị cảm biến, đảm bảo điều kiện sinh trưởng ổn định cho cây rau má. Các chỉ số pH, nồng độ PPM được kiểm tra định kỳ để đảm bảo rau má sinh trưởng khỏe mạnh và đạt chất lượng cao. Đặc biệt, mô hình không sử dụng thuốc trừ sâu hay phân bón hóa học, đáp ứng tiêu chuẩn sản phẩm sạch.

“Mô hình thủy canh giúp tôi giảm phụ thuộc vào đất và thời tiết. Có thể canh tác quanh năm và dễ dàng mở rộng”, anh Công chia sẻ.

Tuy nhiên, theo anh Công, một trong những khó khăn lớn nhất không nằm ở kỹ thuật hay chi phí đầu tư ban đầu, mà chính là việc duy trì sự ổn định nguồn nước đầu vào và môi trường dinh dưỡng cho cây. Rau má là loại cây thân bò, dễ nhiễm khuẩn nếu nguồn nước không đảm bảo hoặc các chỉ số pH, PPM dao động thất thường.

“Mỗi đợt thời tiết thay đổi thất thường, tôi phải điều chỉnh lại toàn bộ hệ thống dinh dưỡng để cây không bị vàng lá hay chết rễ. Nếu không giám sát sát sao, chỉ sau một thời gian ngắn có thể mất trắng cả mẻ rau”, anh Công bộc bạch.

Chu kỳ trồng ngắn, sản lượng ổn định, mang lại thu nhập cao. Đây là những yếu tố giúp nông nghiệp công nghệ cao dần chứng minh lợi thế so với phương thức truyền thống.

Rau má - từ loại cây hoang thành nông sản hàng hóa

Không dừng lại ở khâu trồng trọt, anh Công còn xây dựng một chuỗi tiêu thụ khép kín. Anh bắt đầu đưa sản phẩm rau má sạch đến tay người tiêu dùng thông qua quán nước ép đặt tại đường Đinh Tiên Hoàng, thành phố Phủ Lý.

Đây không chỉ là điểm bán hàng, mà còn là mắt xích đầu tiên trong chuỗi liên kết tiêu thụ nông sản theo hướng trực tiếp, minh bạch và gắn với câu chuyện sản phẩm. Trước tín hiệu tích cực từ thị trường, thời gian gần đây, anh tiếp tục mở thêm một cơ sở mới ngay tại trung tâm thị trấn Tân Thanh (Thanh Liêm), mở rộng quy mô phục vụ, đồng thời từng bước xây dựng thương hiệu nước ép rau má gắn liền với quy trình canh tác sạch và chế biến tại chỗ. Mỗi ly nước ép là kết quả của quá trình canh tác sạch, chế biến tươi, không hương liệu.

Hiện nay, trên thị trường, rau má được bán với giá dao động từ 25.000 - 30.000 đồng/kg tùy loại. Đối với nước ép rau má thông thường, giá thành mỗi ly dao động trong khoảng 15.000 - 20.000 đồng.

Tuy nhiên, sản phẩm từ mô hình rau má thủy canh của anh Cao Thành Công có giá trị cao hơn nhiều lần, bởi được canh tác hoàn toàn sạch, kiểm soát dinh dưỡng nghiêm ngặt, không hóa chất, không thuốc bảo vệ thực vật. Mỗi bó rau má không chỉ là nông sản đơn thuần, mà là sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và được sơ chế ngay tại chỗ để giữ trọn dưỡng chất. Nhờ vậy, giá trị gia tăng của sản phẩm đã qua chế biến được nâng lên rõ rệt, tạo cơ hội lớn trong việc mở rộng thị trường và xây dựng thương hiệu riêng.

Bên cạnh đó, việc chế biến ngay tại nguồn giúp sản phẩm giữ được giá trị dinh dưỡng, đồng thời giải quyết bài toán đầu ra, điều mà không ít hộ sản xuất nhỏ gặp phải. Mỗi bó rau má đều trở thành nguyên liệu cho các sản phẩm giá trị gia tăng: nước ép, sinh tố, thạch rau má, bột rau má…

Hiện tại, vợ chồng anh tích cực xây dựng các kênh bán hàng qua mạng xã hội, đưa sản phẩm tiếp cận đông đảo người tiêu dùng, đặc biệt là nhóm khách hàng quan tâm đến sức khỏe và thực phẩm sạch. Nhờ vậy, mô hình không chỉ tăng thu nhập cho gia đình, mà còn tạo việc làm cho lao động địa phương với mức thu nhập ổn định.

Dù mới bắt đầu chưa lâu, mô hình của anh Công đã thu hút sự quan tâm của nhiều thanh niên và hộ dân quanh vùng. Trong lúc nhiều người vẫn còn ngại ngần khi nhắc đến “nông nghiệp công nghệ cao”, mô hình này là minh chứng rõ nét cho việc: công nghệ không nhất thiết phải lớn, chỉ cần hiệu quả, phù hợp và tạo ra giá trị bền vững.

Trong bối cảnh tỉnh Hà Nam đang định hướng mở rộng các vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, mô hình của anh Công cho thấy tiềm năng lan tỏa mạnh mẽ. Không cần diện tích lớn, chỉ cần cách làm sáng tạo, phù hợp thực tiễn có thể tạo ra sinh kế ổn định và bền vững. Chính quyền địa phương cũng bước đầu ghi nhận mô hình này là điểm sáng trong phong trào thanh niên khởi nghiệp.

Từ cây rau má mở rộng tầm nhìn mới

Câu chuyện của anh Cao Thành Công không chỉ dừng ở cây rau má, mà còn là “lát cắt” rõ ràng cho một xu thế: khi người trẻ biết tìm đường, nông thôn không còn là nơi “lùi về”, mà là điểm khởi hành cho những mô hình sống - làm việc - sản xuất đầy tự chủ.

Từ một thanh niên kỹ thuật, đến người làm nông và chủ cơ sở chế biến, anh Công đang định nghĩa lại khái niệm “làm nông” theo cách riêng của thế hệ mới: kết hợp tri thức, công nghệ và thị trường.

Chia sẻ với chúng tôi, anh Cao Thành Công cho biết, mục tiêu trước mắt là duy trì ổn định sản lượng, nâng cao chất lượng rau má thủy canh và hoàn thiện quy trình chế biến sản phẩm theo hướng đạt chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Về lâu dài, anh dự định mở rộng diện tích trồng, đầu tư thêm máy móc, thiết bị sơ chế - chế biến, đồng thời xây dựng thương hiệu nước ép rau má riêng, tiến tới đăng ký tham gia chương trình OCOP của địa phương.

Rau má là nguyên liệu tiềm năng, nếu biết cách chế biến sản phẩm thì hoàn toàn có thể phát triển thành chuỗi giá trị bền vững.

“Tôi mong muốn xây dựng vùng chuyên canh rau má sạch, nếu có thời gian, tôi sẽ xây dựng mô hình gắn với du lịch trải nghiệm và dạy nghề miễn phí, đưa nông sản quê hương tiếp cận thị trường rộng lớn hơn”, anh Công chia sẻ.

Giữa vùng quê yên bình ở Hà Nam, mô hình rau má thủy canh không ồn ào, không rầm rộ. Nhưng lặng lẽ khẳng định một điều: nông nghiệp, nếu được làm bằng tư duy mới, công nghệ mới, hoàn toàn có thể trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đưa thanh niên đi lên từ chính mảnh đất quê hương.

Khi người trẻ dấn thân với tinh thần chủ động, chịu khó học hỏi, biết nhìn vào nhu cầu thị trường và hành xử có trách nhiệm với môi trường, nông nghiệp không chỉ là “cần cù”, mà còn là “tri thức”. Câu chuyện rau má của anh Cao Thành Công vì thế không chỉ là một mô hình, mà là minh chứng cho một xu thế chuyển mình: nông nghiệp tử tế từ bàn tay người trẻ.

Lê Vân

 

Xây dựng và nhân rộng mô hình phát triển nông nghiệp sinh thái gắn với du lịch trải nghiệm nông nghiệp

Ngày 8/5, tại xã Chiềng Cọ, thành phố Sơn La, Hội Nông dân tỉnh Sơn La tổ chức Hội nghị tổng kết Dự án 'Xây dựng và nhân rộng mô hình phát triển nông nghiệp sinh thái gắn với du lịch trải nghiệm nông nghiệp'.

Quang cảnh hội nghị.

Dự án được thực hiện tại bản Hùn, xã Chiềng Cọ, thành phố, với 3 hộ tham gia. Trong thời gian triển khai mô hình, các hộ được hỗ trợ biển tên trưng bày khu trải nghiệm du lịch; biển tên khu "check in"; tạo hình các vật dụng bằng tre, nứa để "check in" chụp ảnh; 15 cột đèn năng lượng mặt trời chiếu sáng; 9 thùng đựng rác thải; giá để hàng; cổng điểm du lịch nông nghiệp và biển chỉ dẫn vào điểm du lịch; biển tuyên truyền về du lịch nông nghiệp, ngoài ra, các hộ còn được hỗ trợ 3.000 con cá trắm cỏ giống; 500 cây quýt giống; 850 con vịt giống bầu đen…

Sau 3 năm triển khai dự án, bước đầu đã mang lại hiệu quả, các điểm du lịch đã thu hút nhiều du khách đến tham quan trải nghiệm và được du khách đánh giá cao. Bình quân các hộ đón từ 100 đến 150 lượt/tuần. Đặc biệt, ngày nghỉ, ngày lễ lên đến hơn 100 lượt/ngày. Mô hình tạo điều kiện cho 6 lao động là hội viên nông dân có việc làm ổn định, thu nhập từ 4,5 - 5 triệu đồng/người/ tháng.

Du khách đến trải nghiệm mô hình du lịch trải nghiệm nông nghiệp của gia đình chị Tòng Thị Hướng, bản Hùn, xã Chiềng Cọ.

Trong thời gian tới, các hộ tiếp tục duy trì và mở rộng diện tích mô hình; phối hợp với các hộ dân trong bản tiếp tục nghiên cứu sản xuất các sản phẩm nông nghiệp có chất lượng, có thương hiệu để gắn với du lịch trải nghiệm, quảng bá và tiêu thụ; hướng dẫn, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm cho các hộ nông dân trong và ngoài xã đến thăm quan, học tập để nhân rộng mô hình.

Lam Giang

 

TP.HCM chuẩn bị Festival Hoa lan lần 3: Tôn vinh sắc hoa, kết nối văn hóa, du lịch và nông nghiệp

TP.HCM chuẩn bị Festival Hoa lan lần 3 với chủ đề 'Chuyến tàu đa sắc', tổ chức tại Công viên Tao Đàn. Sự kiện tôn vinh sắc hoa lan, kết nối văn hóa, du lịch và nông nghiệp đô thị, hứa hẹn thu hút đông đảo du khách.

Đại diện Sở Công thương TP.HCM, ông Phạm Quang Hợi, Giám đốc Trung tâm Tư vấn và Hỗ trợ Nông nghiệp Thành phố, cho biết công tác chuẩn bị cho Festival Hoa lan TP.HCM lần thứ 3 đang được khẩn trương hoàn thiện, hướng đến một sự kiện nông nghiệp – văn hóa đặc sắc, diễn ra từ ngày 16 đến 20/5/2025 tại Công viên Tao Đàn, Quận 1.

Đột phá về số lượng, đa dạng về thành phần

Festival năm nay dự kiến thu hút khoảng 200 nghệ nhân và nhà vườn đến từ các hợp tác xã trên cả nước, với tổng số sản phẩm trưng bày lên đến 39.000 sản phẩm, con số vượt trội so với các kỳ trước.

Đặc biệt, khoảng 34.000 sản phẩm (67%) đến từ TP.HCM và các tỉnh có truyền thống hoa lan mạnh như Vinh, Hà Tĩnh. Ngoài ra, sự kiện còn ghi nhận sự góp mặt của một số nghệ nhân quốc tế đến từ Vương quốc Anh và các quốc gia khác, góp phần nâng tầm lễ hội, tạo cầu nối giao lưu quốc tế trong lĩnh vực hoa kiểng.

Kết hợp giữa hình ảnh đoàn tàu Bắc – Nam và tuyến Metro hiện đại, Festival sẽ mở ra một hành trình trải nghiệm sinh động qua 6 “ga hoa”

Ông Phạm Quang Hợi, Giám đốc Trung tâm Tư vấn và Hỗ trợ Nông nghiệp Thành phố, tại buổi họp báo kinh tế, xã hội TP.HCM ngày 8/5. Ảnh: Hà Sang

Không gian triển lãm năm nay được thiết kế độc đáo theo chủ đề “Chuyến tàu đa sắc”, lấy cảm hứng từ hai chuyến tàu Thống Nhất xuất phát đồng thời từ ga Hà Nội và ga Sài Gòn ngày 31/12/1976, biểu tượng của khát vọng hòa bình, hàn gắn và thống nhất đất nước.

Kết hợp giữa hình ảnh đoàn tàu Bắc – Nam và tuyến Metro hiện đại, Festival sẽ mở ra một hành trình trải nghiệm sinh động qua 6 “ga hoa”: Ga Non xanh nước biếc: thể hiện vùng phía Bắc; Ga Vẻ đẹp nên thơ: thể hiện Duyên hải Trung Bộ; Ga Hơi thở đại ngàn: đại diện cho Tây Nguyên; Ga Thành phố 50 mùa hoa: tôn vinh Đông Nam Bộ; Ga Sông nước hữu tình: đặc trưng cho Tây Nam Bộ; Ga Thành phố xanh, Thành phố tương lai: mang hình ảnh TP.HCM phát triển bền vững; Hoạt động phong phú: Triển lãm, trải nghiệm, tôn vinh

Lễ hội không chỉ là nơi trưng bày hoa lan, mà còn là không gian hội tụ văn hóa, nghệ thuật và ẩm thực. Các hoạt động chính bao gồm: Triển lãm sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nông sản đặc sắc; Biểu diễn nghệ thuật dân gian, trò chơi dân gian, giao lưu với nghệ nhân; Chương trình ẩm thực với sự góp mặt của các đầu bếp, chuyên gia ẩm thực uy tín.

Hội thi hoa lan Thành phố với 500 mẫu hoa lan dự thi, chia thành 7 nhóm chính: Lan Dendrobium chớp, Dendrobium thường, Cattleya nhỏ và đại, Lan Hài, Lan rừng và Lan tổng hợp

Theo ông Phạm Quang Hợi, Ban tổ chức đã chủ động phối hợp với các cơ quan báo chí, đài truyền hình, đồng thời triển khai chiến dịch truyền thông sâu rộng đến người dân TP.HCM cũng như các khu vực lân cận như Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Thông tin chi tiết về Lễ hội, bao gồm mã QR code, sẽ được cung cấp để người dân dễ dàng theo dõi và tham gia.

Festival Hoa lan TP.HCM không chỉ là một lễ hội ngành nghề, mà còn là hoạt động trọng điểm hướng đến kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2025). Với sự đầu tư bài bản và sự tham gia đông đảo trong – ngoài nước, sự kiện được kỳ vọng sẽ tôn vinh thương hiệu hoa lan – sản phẩm nông nghiệp chủ lực của TP.HCM, đồng thời góp phần quảng bá du lịch, thương mại và văn hóa Thành phố.

Là sự kiện được tổ chức định kỳ 2 năm một lần, Festival Hoa lan lần thứ 3 đánh dấu sự trở lại mạnh mẽ sau kỳ thứ hai năm 2023, vốn đã thu hút hơn 29.000 sản phẩm, trong đó riêng TP.HCM cung cấp đến 91%. Việc tiếp nối truyền thống này thể hiện nỗ lực không ngừng của Thành phố trong việc kết nối nông nghiệp đô thị với phát triển văn hóa – du lịch, mở ra cơ hội thúc đẩy kinh tế xanh, bền vững và đầy bản sắc.

Hà Sang

 

Sản xuất nông nghiệp hữu cơ: Còn lắm những gian nan

Xu hướng sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ đã và đang được áp dụng tại Công ty cổ phần Nấm Tốt Nameco. Tuy nhiên, hành trình đó còn nhiều gian nan.

Đa dạng các sản phẩm hữu cơ từ nấm

Sản xuất, chế biến hữu cơ hiện nay là xu hướng tất yếu với nền nông nghiệp. Song con đường để hiện thực hóa xu hướng đó còn không ít gập ghềnh, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Thực tế, như tại Công ty cổ phần Nấm Tốt Nameco (nhãn hiệu Nấm Tốt) hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, mua bán, chế biến các sản phẩm nấm ăn, dược liệu, để sản phẩm hữu cơ ra tới thị trường, doanh nghiệp còn gặp khó khăn nhất định.

Anh Mai Văn Hưng - Tổng giám đốc Nấm Tốt Nameco giới thiệu về quy trình làm nấm. Ảnh: Duy Khánh

Khởi nghiệp với mô hình trang trại nấm đầu tiên tại Yên Bài, Ba Vì (Hà Nội), hiện nay Nấm Tốt đã có các cơ sở tại Phú Thọ và Bắc Ninh. Sản phẩm chính của Nấm Tốt là nấm hương, nấm sò hương, nấm sò nâu thái.

Anh Mai Văn Hưng, Tổng giám đốc của Nấm Tốt cho biết, trong những năm đầu thành lập, doanh nghiệp đã thành công trong việc nghiên cứu tự sản xuất, phân lập hơn 10 loại giống nấm. Từ đó chủ động được khâu sản xuất hơn 10 chủng giống nấm.

Trong giai đoạn hình thành và phát triển, Nấm Tốt đã áp dụng các công nghệ trồng nấm của các quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng như đầu tư dây chuyền máy móc, chiết xuất dịch nấm.

Không chỉ có các sản phẩm là nấm tươi cung cấp ra thị trường, Nấm Tốt còn có các sản phẩm độc đáo như nấm khô, nấm chế biến , nước cốt lẩu nấm...

Sau 11 năm từ ngày bắt tay vào làm bạn với nấm, anh Hưng cho biết hiện doanh nghiệp có 15 dòng sản phẩm nấm tươi, khô và chế biến sâu.

Một số sản phẩm nấm của Nấm Tốt Nameco. Ảnh: Duy Khánh

Kết quả kinh doanh của công ty cũng rất khích lệ khi từ mốc 300 triệu đồng năm 2014 đã vọt lên 15 tỷ đồng vào năm 2024.

Sản phẩm của Nấm Tốt hiện đã vào các nhà hàng nổi tiếng, các siêu thị và cơ sở Phật Giáo. Có thể kể tới như: Dalat Mart, Trâu Vàng, Linh Mart, Đức Thành Mart, Clever Food, Kyo Food, Vita market, Làng Việt Mart, 365 Mart... và hệ thống các nhà hàng chay; chùa Khai Nguyên, chùa Yên Đức...

Được biết, công ty đã được cấp chứng nhận nuôi trồng và phân phối các sản phẩm nấm hữu cơ theo quy trình hữu cơ Việt Nam vào năm 2020. Trước đó, doanh nghiệp sản xuất theo hướng VIETGAP.

TSKH. Hà Phúc Mịch – Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam (phải) với sản phẩm nấm của Nấm Tốt Nameco. Ảnh: Duy Khánh

Vẫn còn đó những gian nan

Dẫu đã đạt được những kết quả tích cực, tuy nhiên theo chia sẻ của Tổng giám đốc Mai Văn Hưng, doanh nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất sản phẩm hữu cơ cũng như phát triển nông nghiệp sạch, kinh tế tuần hoàn.

Giới thiệu với phóng viên về quy trình sản xuất nấm hữu cơ, anh Mai Văn Hưng cho biết, lợi thế của Nấm Tốt là nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương Hương Cần (Thanh Sơn, Phú Thọ). Đây là khu vực trồng nhiều keo bồ đề, là đầu vào cho nguyên liệu làm nấm. Nguồn nguyên liệu dồi dào, giá thành rẻ với chất lượng tốt là cơ sở để công ty có thể sản xuất mà không lo về nguồn cung.

Anh Mai Văn Hưng với sản phẩm nấm hữu cơ. Ảnh: Duy Khánh

Cạnh đó, thị trường nấm của Việt Nam cũng còn rất rộng. Đặc biệt, với các sản phẩm hữu cơ, nhu cầu tiêu dùng hiện nay của người dân là rất cao do lợi ích mang lại cho sức khỏe cũng như hương vị thơm ngon.

Dẫu vậy, việc sản xuất nông nghiệp hữu cơ nói chung và sản phẩm nấm hữu cơ nói riêng vẫn còn rất nhiều khó khăn.

Cơ hội là vậy, nhưng theo anh Hưng, cái khó của doanh nghiệp nhỏ như Nấm Tốt là nguồn vốn. Hiện nay, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại đã có nhiều chính sách, gói vay ưu đã dành cho nông nghiệp xanh, sạch và bền vững. Tuy nhiên, để tiếp cận được các gói vay này là điều còn tương đối khó đối với các doanh nghiệp như Nấm Tốt Nameco.

Nguyên nhân là do tài sản bảo đảm - rào cản lớn đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nông nghiệp thường không có tài sản hữu hình, chỉ tạo ra dòng tiền tương lai nên khó được chấp nhận làm tài sản thế chấp theo tiêu chuẩn tín dụng truyền thống.

Ngoài ra, đối với vấn đề chủ quan, cơ sở vật chất chưa đồng bộ hiện đại, chi phi năng lượng còn cao cũng là thách thức với doanh nghiệp.

Một vấn đề khác với những doanh nghiệp sản xuất hữu cơ như Nameco, đó là giá thành. Sản phẩm hữu cơ thì chắc chắn giá thành sẽ phải cao hơn so với các sản phẩm thông thường. Đặc biệt, với nấm thời gian bảo quản lại ngắn so với các sản phẩm nấm nhập khẩu và kiến thức về nấm sạch của người dân và các nhà tiêu thụ sản phẩm còn yếu và thiếu dẫn tới khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm.

Trong khi đó, mặc dù hệ thống chính sách về phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam bước đầu được hình thành để từng bước chuyển đổi nhận thức và điều chỉnh tổ chức sản xuất nhưng còn phân tán ở nhiều văn bản khác nhau và chưa đồng bộ từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Các cơ chế hỗ trợ chưa đủ mạnh và thiếu các cơ chế đặc thù để hiện thực hóa chính sách nhằm khuyến khích đầu tư và phát triển sản xuất hữu cơ.

Theo các chuyên gia, để các sản phẩm hữu cơ như Nấm Tốt chiếm lĩnh thị trường, mang lại giá trị cao hơn cho sản phẩm ngoài việc doanh nghiệp chủ động nguồn nguyên liệu, đầu tư công nghệ và chế biến sâu, còn cần hoàn thiện chuỗi nông sản hữu cơ; hoàn thiện chính sách liên quan đến khuyến nông cộng đồng, mô hình, thị trường. Như vậy, việc sản xuất nông sản hữu cơ ở Việt Nam mới bền vững, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cả trong và ngoài nước.

Bài và ảnh: Duy Khánh

 

Nông nghiệp Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ nhờ sự bắt tay chiến lược giữa 5 nhà

Sáng 8/5 tại Hà Nội đã diễn ra Diễn đàn Doanh nghiệp đồng hành cùng nhà nông và phát triển bền vững năm 2025.

Diễn đàn Doanh nghiệp đồng hành cùng nhà nông và phát triển bền vững năm 2025 với chủ đề “Phát triển nông nghiệp theo hướng xanh, bền vững và phát huy vai trò của 5 nhà: Nhà nước, nhà băng, nhà khoa học, nhà Doanh nghiệp và nhà nông”. Ảnh: Anh Nguyễn

Không còn cảnh nông dân “được mùa mất giá”, doanh nghiệp thì thiếu nguyên liệu chuẩn hóa

Diễn đàn Doanh nghiệp đồng hành cùng nhà nông và phát triển bền vững năm 2025 với chủ đề “Phát triển nông nghiệp theo hướng xanh, bền vững và phát huy vai trò của 5 nhà: Nhà nước, nhà băng, nhà khoa học, nhà Doanh nghiệp và nhà nông” do Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và một số cơ quan tổ chức với sự tham gia của nhiều đại biểu quan trọng từ các cơ quan Chính phủ, bộ, ban, ngành và một số tổ chức xã hội nghề nghiệp, một số ngân hàng, doanh nghiệp và nông dân.

Phát biểu khai mạc Diễn đàn, ông Hồ Xuân Hùng - Chủ tịch Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam cho biết: thực hiện Nghị quyết 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 28/1/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050,… Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đã tổ chức thường niên Diễn đàn Doanh nghiệp đồng hành cùng nhà nông và phát triển bền vững, chương trình đã mạng lại nhiều giá tri cho cộng đồng doanh nghiệp và người nông dân. Năm 2025, Diễn đàn được tổ chức với chủ đề “Phát triển nông nghiệp theo hướng xanh, bền vững và hành động của 5 nhà: Nhà nước, Nhà băng, Nhà Doanh nghiệp, Nhà khoa học và Nhà nông” cùng thời điểm Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân của Bộ Chính trị vừa được ban hành ngày 4/5/2025 sẽ là cơ hội tốt để chúng ta đối thoại, giao lưu và qua đó đề xuất, kiến nghị, hiến kế… đến các cơ quan chức năng để kịp thời điều chỉnh cơ chế, chính sách phù hợp với thực tiễn hiện nay, cùng nhau chung tay xây dựng một nền nông nghiệp phát triển xanh, bền vững.

Thực tế cho thấy, 90% nông dân Việt Nam canh tác trên quy mô dưới 1 ha, trong khi chỉ có khoảng 20% sản lượng nông sản có hợp đồng bao tiêu. Rất nhiều trường hợp, nông dân “được mùa mất giá”, doanh nghiệp thì thiếu nguyên liệu chuẩn hóa, còn ngân hàng và nhà khoa học chưa thực sự tiếp cận được với người sản xuất. Sự thiếu liên kết này khiến cả chuỗi giá trị dễ bị đứt gãy, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu và cạnh tranh thương mại ngày càng gay gắt.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, mô hình liên kết 5 nhà đã dần được tái định hình, với những điểm sáng khẳng định hiệu quả rõ rệt. Từ một nền sản xuất manh mún, thiếu đầu ra ổn định, thiếu vốn và công nghệ, ngành nông nghiệp Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ – nhờ sự bắt tay chiến lược giữa 5 nhà: Nhà nước ban hành chính sách hỗ trợ và điều tiết, ngân hàng cung cấp tín dụng xanh, nhà khoa học chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp đầu tư vùng nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm và nông dân - chủ thể trung tâm, sẵn sàng thay đổi để tiếp cận nông nghiệp hiện đại.

Thời gian gần đây, ngành Ngân hàng đã thúc đẩy phát triển tín dụng “tam nông” như một mục tiêu cốt lõi trong chương trình hành động của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nhằm thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước, các chỉ đạo của Chính phủ liên quan đến tái cơ cấu ngành nông nghiệp và phát triển nông nghiệp - nông thôn một cách bền vững. Ngành Ngân hàng luôn xác định nông nghiệp, nông thôn là một trong các lĩnh vực ưu tiên cần tập trung vốn tín dụng, theo đó, ngành Ngân hàng thường xuyên rà soát, hoàn thiện khung khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng, đặc biệt là các quy định về hoạt động cấp tín dụng; điều hành chính sách tiền tệ góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; kịp thời ban hành hướng dẫn, chỉ đạo tổ chức triển khai các chương trình, chính sách tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp; chỉ đạo thực hiện giải pháp khơi thông, hướng dòng vốn tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; rà soát, đơn giản hóa quy trình, thủ tục, rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận vốn tín dụng; tăng cường phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội đẩy mạnh tuyên truyền, thông tin về chủ trương, chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn... Tiêu biểu như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Agribank, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh - HDbank, Ngân hàng thương mại Cổ phần Nam Á, Ngân hàng thương mại Cổ phần Bắc Á - Bắc Á Bank là 4 ngân hàng có chiến lược phát triển bền vững, luôn tiên phong trong thúc đẩy tín dụng xanh, ưu tiên nguồn lực cho phát triển nông nghiệp, nông thôn với danh mục sản phẩm, dịch vụ phong phú, lợi ích tối ưu. Cùng với việc thường xuyên triển khai các chương trình tín dụng ưu đãi và linh hoạt, Agribank, HDBank, Nam Á Bank, Bắc Á Bank là người bạn tin cậy, luôn song hành hỗ trợ các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, nông dân tiếp cận kịp thời nguồn vốn và các giải pháp tài chính phù hợp cho nhu cầu thúc đẩy sản xuất, kinh doanh hiệu quả và phát triển kinh tế nông nghiệp xanh bền vững.

Liên kết 5 nhà phải trở thành một chiến lược dài hạn

Năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đã đạt mức cao kỷ lục 62,5 tỷ USD, tăng 18,7% so với năm 2023, xuất siêu tiếp tục đạt mức kỷ lục mới 17,9 tỷ USD , tăng 46,8% . Trong đó xuất khẩu nông sản chính 32,8 tỷ USD, tăng 22,4%; chăn nuôi 533,6 triệu USD, tăng 6,5%; lâm sản chính 17,28 tỷ USD, tăng 19,4%; thủy sản 10,07 tỷ USD, tăng 12,2%. Có 07 hàng/nhóm mặt hàng xuất khẩu trên 3 tỷ USD (tăng 01 sản phẩm so với năm 2023). Các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ nông sản ngày càng phát triển, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả. Cả nước có 2.938 dự án, kế hoạch liên kết theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, trong đó 1.968 dự án và 970 kế hoạch liên kết được các địa phương phê duyệt. Tham gia các dự án, kế hoạch liên kết đã được phê duyệt có 2.412 HTX, 538 Tổ hợp tác, 1.305 doanh nghiệp và 211.545 hộ nông dân.

Mục tiêu chính của Diễn đàn đó là: kết nối và thúc đẩy hợp tác giữa các chủ thể trong chuỗi giá trị nông nghiệp, đặc biệt là 5 nhà: Nhà nước – nhà băng – nhà doanh nghiệp – nhà khoa học – và nhà nông; đề xuất các giải pháp thiết thực, khả thi để chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng sinh thái, tuần hoàn và thân thiện với môi trường; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp không chỉ bằng vốn, mà bằng công nghệ, quản trị và thị trường; tạo điều kiện để nông dân tiếp cận tri thức mới, vốn tín dụng ưu đãi và thị trường tiêu thụ ổn định.

Tốc độ tăng trưởng và tỷ trọng của ngành Nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực, đúng hướng, phát triển vững chắc, dần đi vào chiều sâu theo hướng sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao, gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ. Góp phần không nhỏ trong phát triển kinh tế đất nước nói chung, ngành Nông nghiệp nói riêng, từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là giúp người nông dân chủ động - mạnh dạn nắm bắt cơ hội để vượt qua chính mình trong giai đoạn hội nhập phát triển kinh tế.

Thế giới đang bước vào kỷ nguyên phát triển xanh và bền vững. Việt Nam cũng không thể đứng ngoài cuộc. Liên kết 5 nhà không chỉ là một mô hình – mà phải trở thành một chiến lược dài hạn, thực chất, bền vững và hiệu quả. Chỉ khi ấy, nông nghiệp Việt Nam mới thực sự hiện đại hóa, tăng trưởng xanh, và đồng hành cùng khát vọng vươn mình hùng cường của dân tộc trong thế kỷ 21.

Thái Phương

 

Động lực thúc đẩy sản xuất, kinh doanh

Với sự đồng hành, hỗ trợ của Hội Nông dân, phong trào 'Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững' huyện Mường La đã tạo sức lan tỏa, trở thành động lực để hội viên phát huy tính năng động, sáng tạo trong phát triển kinh tế nông nghiệp.

Nông dân xã Mường Bú, huyện Mường La chăm sóc cây vải.

Thăm mô hình kinh tế trồng nhãn và vải của gia đình anh Lò Văn Thâng, xã Mường Bú, là điển hình trong phong trào thi đua nông dân sản xuất, kinh doanh (SXKD) giỏi của xã Mường Bú. Anh Thâng chia sẻ: Gia đình tôi đang trồng hơn 3 ha nhãn và vải. Trong quá trình trồng, chăm sóc, tôi được Hội Nông dân xã tạo điều kiện tham gia các lớp tập huấn ghép cành, chăm sóc đúng quy trình, theo dõi sâu bệnh, bón phân cân đối, nhất là chăm sóc cây giai đoạn ra hoa, kết trái. Ngoài ra, tôi còn trồng thêm 2 ha táo đại và mít; kết hợp chăn nuôi để tận dụng phụ phẩm nông nghiệp, giảm chi phí. Tổng thu nhập gia đình đạt 400 triệu đồng/năm.

Còn anh Vì Văn Tiên, bản Pi Tạy, xã Pi Toong, là một trong những hộ SXKD giỏi tiêu biểu với mô hình nuôi lợn sinh sản. Nhờ mạnh dạn áp dụng kỹ thuật mới, đầu tư chuồng trại, chọn giống chất lượng, mỗi năm gia đình anh thu về trên 300 triệu đồng. Anh Tiên cho biết: Trước kia, tôi chăn nuôi nhỏ lẻ, hiệu quả thấp, đầu ra bấp bênh. Nhưng từ khi được Hội Nông dân hỗ trợ vay vốn, tôi mở rộng quy mô, đầu tư xây dựng chuồng trại kiên cố, chọn giống tốt. Nuôi lợn quan trọng là kỹ thuật chăm sóc, phòng bệnh đúng cách và phải theo dõi sát từng giai đoạn phát triển.

Ngoài những mô hình hộ gia đình, nhiều hội viên nông dân còn thành lập HTX nông nghiệp sản xuất các sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu thị trường. Tiêu biểu, HTX Hoa an toàn ở xã Ngọc Chiến, HTX Mật ong đá Chiềng Lao, HTX Hưng Thịnh tại Mường Bú hay HTX Thành Công với sản phẩm gạo nếp tan đạt chuẩn OCOP... Không chỉ nâng cao thu nhập thành viên, các hợp tác xã tạo thêm việc làm ổn định cho lao động nông thôn, góp phần định hình hướng đi bền vững trong phát triển kinh tế tập thể, từng bước xây dựng chuỗi giá trị cho nông sản địa phương.

Hội Nông dân huyện Mường La hiện có trên 14.700 hội viên, sinh hoạt tại 195 chi hội. Năm 2024, có 213 hộ đạt danh hiệu hộ nông dân SXKD giỏi cấp tỉnh. Ông Nguyễn Văn Tuấn, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Mường La, cho biết: Phong trào thi đua đã khích lệ tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong hội viên. Nhiều hộ hội viên đã chủ động chia sẻ nguồn lực, kinh nghiệm và hỗ trợ trực tiếp các hộ khó khăn bằng nhiều hình thức như hỗ trợ vay vốn không lãi, tặng cây giống, con giống, hướng dẫn kỹ thuật canh tác hiệu quả..., giúp các hộ nghèo vượt qua khó khăn, vươn lên ổn định cuộc sống.

Hội Nông dân huyện đã tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật; hỗ trợ nguồn vốn để nông dân phát triển kinh tế. Đến nay, Hội đã nhận ủy thác với Phòng giao dịch Ngân hàng CSXH huyện cho hơn 3.000 hội viên vay vốn phát triển sản xuất, với tổng dư nợ trên 144 tỷ đồng. Đồng thời, nhân rộng những mô hình điển hình tiên tiến phù hợp với từng hội cơ sở; tổ chức học tập, nhân rộng các điển hình sản xuất, kinh doanh giỏi và hỗ trợ có hiệu quả đối với các hộ nghèo...

Các mô hình sản xuất, kinh doanh của nông dân huyện Mường La đã thể hiện tinh thần vượt khó, vươn lên làm giàu, trở thành động lực thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn ở địa phương. Đồng thời, từng bước hình thành, phát triển các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với các cây trồng chủ lực, có năng suất chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển.

Bài, ảnh: Yến Vi (CTV)

 

Hộ sản xuất nông nghiệp tiêu biểu

Bằng sự quyết tâm, dám nghĩ, dám làm trong phát triển kinh tế, ông Lê Văn Toàn, bản Văn Tân, xã Mường Cơi, huyện Phù Yên, đã thành công với mô hình trồng cây ăn quả trên đất dốc, đem lại thu nhập hơn 1 tỷ đồng/năm.

Ông Lê Văn Toàn chăm sóc vườn cam.

Đưa chúng tôi thăm khu vườn cam xanh tốt, đang trong thời kỳ bói quả, ông Lê Văn Toàn chia sẻ: Trước đây khu đất này chủ yếu trồng ngô, sắn, hiệu quả kinh tế không cao. Sau nhiều lần học hỏi mô hình trồng cây ăn quả ở một số địa phương khác trong tỉnh, nhận thấy cây cam rất phù hợp, năm 2010, ông tôi đã cải tạo hơn 2 ha đất đồi, đầu tư 300 gốc cam đường canh. Những năm đầu gặp nhiều khó khăn do thiếu kỹ thuật chăm sóc và chi phí phân bón cao, cây phát triển kém. Nhờ được huyện, xã cho tham gia các hợp tập huấn, áp dụng vào thực tế, tôi đã dần tích lũy được kinh nghiệm, nhờ đó cây cam phát triển tốt.

Chú trong sản xuất bền vững và an toàn sản phẩm, ông Toàn đã chọn phương pháp chăm sóc cây cam theo hướng hữu cơ, sử dụng phân chuồng hoai mục, kết hợp ủ men vi sinh, bổ sung phân hữu cơ vi sinh thay cho hóa học. Việc phòng trừ sâu bệnh cho cây cam cũng chủ yếu dùng chế phẩm sinh học, thuốc thảo mộc được chế từ tỏi, gừng, ớt. Nhờ phương pháp này, vườn cam của ông ít bị sâu bệnh, đất màu mỡ hơn, chất lượng quả đồng đều, mẫu mã đẹp, được thương lái và khách hàng tin tưởng, nhiều thương lái còn đặt mua cả vườn từ khi quả còn xanh. Đến nay, vườn cam của ông Toàn đã phát triển lên 600 gốc, sản lượng mỗi năm từ 40 - 50 tấn quả, bán với giá từ 25.000 - 30.000 đồng/kg.

Không chỉ dừng lại ở cây cam, ông Toàn còn trồng 1 ha trồng bí xanh, mỗi năm cho thu hoạch 2 vụ, tổng sản lượng hơn 20 tấn, được thương lái đến thu mua tận vườn, với giá từ 5.000 - 14.000 đồng/kg, cho thu nhập gần 200 triệu đồng.

Bà Nguyễn Thị Thu Giang, Chủ tịch Hội Nông dân xã Mường Cơi, nhận xét: Ông Toàn là một trong những điển hình về phát triển kinh tế tại địa phương. Bên cạnh đó, ông còn sẵn sàng hướng dẫn, chia sẻ kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất cho bà con trong bản; tạo việc làm cho 6 lao động, với thu nhập từ 6 - 7 triệu đồng/tháng. Năm 2017, ông Lê Văn Toàn vinh dự được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng chứng nhận “Hộ gia đình sản xuất nông nghiệp tiêu biểu”.

Tuấn Hiển (CTV)

 

Đông Anh có hơn 40 mô hình sản xuất nông nghiệp theo chuỗi

Ngày 8-5, Trung tâm Khuyến nông Hà Nội (Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội) phối hợp với Hội Làm vườn thành phố Hà Nội tổ chức Diễn đàn khuyến nông @ Nhịp cầu nhà nông. Hơn 120 đại biểu là chủ trang trại, gia trại, nông dân tiêu biểu trên địa bàn xã Đông Hội (huyện Đông Anh) tham dự.

Trong nhiều năm qua, huyện Đông Anh luôn phát huy lợi thế vùng bãi, hình thành nhiều mô hình trồng cây ăn quả gắn với du lịch sinh thái. Đặc biệt, trên địa bàn huyện đã hình thành vùng trồng hoa, cây cảnh với diện tích 150ha, chủ yếu là hoa đào, quất cảnh, hoa hồng, hoa ly, chậu hoa cảnh các loại.

Vùng cây ăn quả được Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất quả an toàn, diện tích khoảng 50ha. Ngoài ra, huyện có hơn 40 mô hình sản xuất nông nghiệp theo chuỗi, cho hiệu quả kinh tế cao. Các mô hình đã đạt tiêu chí xanh, sạch, tạo không gian xanh, điều hòa cho vùng ven Thủ đô.

Quang cảnh diễn đàn. Ảnh: Thiện Tâm

Thời gian qua, Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội phối hợp với các đơn vị liên quan mở lớp tập huấn về cải tạo vườn tạp, chiết, ghép cây, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP…; đồng thời hỗ trợ các địa phương thành lập tổ hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp để liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm.

Hiện tại, nhiều địa phương phát triển trồng cây ăn quả kết hợp du lịch sinh thái trải nghiệm, cho hiệu quả kinh tế cao, mở ra hướng đi mới cho nông nghiệp Thủ đô. Do đó, Đông Anh đã thành công trong việc khai thác tiềm năng, lợi thế vùng đất bãi ven sông, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, tạo diện mạo mới cho nông nghiệp, nông thôn Thủ đô.

Mô hình trồng nho hạ đen gắn với phát triển du lịch tại xã Vĩnh Ngọc (huyện Đông Anh) cho hiệu quả kinh tế cao. Ảnh: Lệ Giang

Chủ tịch Hội Nông dân xã Đông Hội (huyện Đông Anh) Phạm Tiến Dũng cho biết, Hội Nông dân xã rất tích cực trong công tác tuyên truyền, vận động nông dân ứng dụng kỹ thuật vào sản xuất để giảm chi phí sản xuất, tăng hiệu quả, giá trị kinh tế.

Hiện trên địa bàn xã xuất hiện nhiều mô hình sản xuất hiệu quả trong các lĩnh vực: Trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, kinh tế VAC, các mô hình liên kết… Các tổ hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp liên kết chuỗi giá trị, nâng cao thu nhập cho hội viên; xây dựng các tổ hội theo ngành nghề (trồng rau an toàn, chăn nuôi, trồng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, nuôi thủy sản, sản phẩm truyền thống…); huy động, vận động hội viên hỗ trợ vốn, ngày công, con giống, vật tư sản xuất... trị giá hàng trăm triệu đồng, góp phần giảm tỷ lệ hộ cận nghèo hằng năm.

Các nhà khoa học, nhà quản lý giải đáp những thắc mắc của người dân tại diễn đàn. Ảnh: Thiện Tâm

Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Hà Nội Đoàn Đức Dân cho rằng, diễn đàn giúp người dân được trao đổi kiến thức khoa học trong các lĩnh vực trồng trọt, bảo vệ thực vật, chăn nuôi, thú y; được nghe giải đáp vướng mắc, chủ trương, chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp. Qua đó, giúp nông dân ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, giảm chi phí, tăng lợi nhuận, tổ chức lại sản xuất quy mô lớn, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế hộ, hướng tới phát triển nông nghiệp bền vững.

Tại diễn đàn, các hộ nông dân đưa ra nhiều câu hỏi, vướng mắc trong quá trình sản xuất thuộc lĩnh vực trồng trọt, bảo vệ thực vật, chăn nuôi, thú y và chính sách liên quan được các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý trực tiếp giải đáp.

Ngọc Quỳnh

 

Bàn phương án hợp nhất ngành Nông nghiệp và Môi trường

Ngày 8-5, Sở Nông nghiệp và Môi trường hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang tổ chức Hội nghị bàn về phương án hợp nhất sau khi sáp nhập tỉnh.

Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường Tuyên Quang báo cáo phương án hợp nhất 2 ngành Nông nghiệp và Môi tường Tuyên Quang và Hà Giang sau khi hợp nhất tỉnh.

Cuộc họp có sự tham gia của các lãnh đạo chủ chốt từ Sở Nông nghiệp và Môi trường của cả hai tỉnh, cùng đại diện các đơn vị liên quan.

Theo phương án được xây dựng, có 3 đơn vị được tiếp tục giữ nguyên chức năng nhiệm vụ gồm: Trung tâm Điều tra, Quy hoạch và Thiết kế nông lâm nghiệp tỉnh Tuyên Quang; Trung tâm Thủy sản tỉnh Tuyên Quang; Trung tâm Khoa học Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Hà Giang; 18 đơn vị tương đồng gồm các phòng, đơn vị chuyên môn sẽ được sắp xếp bố trí phù hợp và hiệu quả theo đúng chức năng, nhiệm vụ. Riêng với Chi cục Kiểm lâm, 2 tỉnh thống nhất phương án hợp nhất tuy nhiên vẫn phải bố trí lực lượng ở các đầu mối tại cơ sở để đảm nhận công tác bảo vệ, phát triển rừng.

Cũng tại hội nghị, lãnh đạo ngành Nông nghiệp và Môi trường 2 tỉnh cũng đã báo cáo nhu cầu đi, ở, công tác tiếp đón, sắp xếp, bố trí nhân sự, cơ sở vật chất đảm bảo không gian làm việc và nhà công vụ cho đội ngũ cán bộ phải di chuyển công tác.

Kết thúc hội nghị, 2 bên đã đạt được những thống nhất quan trọng về các nguyên tắc và định hướng cơ bản cho việc hợp nhất ngành Nông nghiệp và Môi trường của 2 tỉnh. Thời gian tới, ngành Nông nghiệp và Môi trường 2 tỉnh sẽ tiếp tục triển khai các bước cụ thể, chi tiết, đảm bảo quá trình hợp nhất diễn ra suôn sẻ và hiệu quả.

Tin, ảnh: Đoàn Thư

 

Hiếu Giang tổng hợp

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop